Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thơ chế lan viên từ sau cách mạng tháng tám 1945 đến năm 1975...

Tài liệu Thơ chế lan viên từ sau cách mạng tháng tám 1945 đến năm 1975

.DOCX
74
1501
74

Mô tả:

MỤC LỤC Mục lục ..........................................................................................................................1 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG................................................................3 1.1. Giới thiệu nhà thơ Chế Lan Viên....................................................................3 1.1.1 Cuộc đời và sự nghiệp............................................................................3 1.1.2 Quan điểm và phong cách sáng tác........................................................6 1.1.2.1 Quan niệm về thơ của Chế Lan Viên.........................................6 1.1.2.2 Phong cách sáng tác của Chế Lan Viên.....................................7 1.1.3 Bối cảnh lịch sử, xã hội..........................................................................7 1.2. Khái niệm thơ trí tuệ và thơ chính luận .....................................................10 1.2.1 Khái niệm thơ trí tuệ............................................................................10 1.2.2 Khái niệm thơ chính luận.....................................................................10 CHƯƠNG 2: CHẤT TRÍ TUỆ TRONG THƠ CHẾ LAN VIÊN TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 ĐẾN NĂM 1975.................................................11 2.1.Nội dung thể hiện chất trí tuệ trong thơ Chế Lan Viên.................................11 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển chất trí tuệ trong thơ Chế Lan Viên .....................................................................................................................11 2.1.2 Ảnh hưởng chất trí tuệ trong sáng tác của Chế Lan Viên................19 2.1.3 Sức mạnh trí tuệ biểu hiện trong khuynh hướng thơ suy tưởng, triết lý .....................................................................................................................23 3.1.4 Trí tuệ thông qua cảm xúc, tình cảm của nhà thơ..............................29 2.2. Nghệ thuật thể hiện chất trí tuệ trong thơ Chế Lan Viên.............................36 2.2.1 Khai thác triệt để các tương quan đối lập..........................................36 2.2.2 Sáng tạo phong phú về giọng điệu và hình ảnh.................................37 1 CHƯƠNG 3: CHẤT CHÍNH LUẬN TRONG THƠ CHẾ LAN VIÊN TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 ĐẾN NĂM 1975......................................40 3.1 Nội dung thể hiện chất chính luận trong thơ Chế Lan Viên..........................40 3.1.1 Sự hình thành và vận động của yếu tố chính luận trong thơ Chế Lan Viên ......................................................................................................................... 40 3.1.2 Chính luận như yếu tố cốt lõi tạo nên phong cách Chế Lan Viên.......47 3.1.3 Cái tôi trữ tình......................................................................................52 3.1.3.1 Cái tôi cô đơn...........................................................................53 3.1.3.2 Cái tôi hòa nhập........................................................................54 3.2 Nghệ thuật thể hiện chất chính luận trong thơ Chế Lan Viên.......................59 3.2.1 Thể thơ..................................................................................................59 3.2.2 Ngôn từ.................................................................................................63 3.3.3 Hình ảnh...............................................................................................69 TỔNG KẾT .................................................................................................................. 72 TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................73 2 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG 1.1 Giới thiệu nhà thơ Chế Lan Viên 1.1.1 Cuộc đời và sự nghiệp Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1920 (tức ngày 9 tháng 9 năm Canh Thân) tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, đỗ bằng Thành chung (THCS hay cấp II hiện nay) thì thôi học, đi dạy tư kiếm sống. Có thể xem Quy Nhơn, Bình Định là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, nơi đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ. Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi. Năm 17 tuổi, với bút danh Chế Lan Viên, ông xuất bản tập thơ đầu tay nhan đề Điêu tàn, có lời tựa đồng thời là lời tuyên ngôn nghệ thuật của "Trường Thơ Loạn". Từ đây, cái tên Chế Lan Viên trở nên nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam. Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn được người đương thời gọi là "Bàn thành tứ hữu" của Bình Định. Sinh ra ở vùng đất Hoan Châu nên được cha mẹ đặt tên là Phan Ngọc Hoan. Nhưng vùng đất gắn bó với nhà thơ nhất lại là Bình Định. Thành Đồ Bàn xưa được Chế Lan Viên xem là quê hương thứ hai của mình. Bởi ngay từ khi 7 tuổi, cậu bé Hoan đã theo gia đình vào Bình Định và từ đó đã gắn bó với vùng đất ấy suốt cả thời gian cấp sách đến trường. Bình Định cũng là nơi mà Chế Lan Viên bắt đầu làm thơ và bắt đầu tham gia Cách mạng tháng Tám. Có lẽ vì vậy mà trong một lần trả lời phỏng vấn của một người bạn Đức, Chế Lan Viên nói rằng: “Quê tôi là nơi có nhiều tháp Chàm, gần bể.” Năm 1939, ông ra học tại Hà Nội. Sau đó Chế Lan Viên vào Sài Gòn làm báo rồi ra Thanh Hóa dạy học. Năm 1942, ông cho ra đời tập văn Vàng sao, tập thơ triết luận về đời với màu sắc siêu hình, huyền bí. Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông tham gia phong trào Việt Minh tại Quy Nhơn, rồi ra Huế tham gia Đoàn xây dựng cùng với Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Đào Duy Anh. Thời kỳ này, Chế Lan Viên viết bài và làm biên tập cho các báo Quyết thắng, Cứu quốc, Kháng chiến. Phong cách thơ của ông giai đoạn này cũng chuyển dần về trường phái hiện thực. Tháng 7 3 năm 1949, trong chiến dịch Tà Cơn-đường 9 (Quảng Trị), Chế Lan Viên gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1954, Chế Lan Viên tập kết ra Bắc làm biên tập viên báo Văn học. Từ năm 1956 đến năm 1958, ông công tác ở phòng văn nghệ, Ban tuyên huấn trung ương và đến cuối năm 1958 trở lại làm biên tập tuần báo Văn học (sau là báo Văn nghệ). Từ năm 1963 ông là ủy viên thường vụ Hội nhà văn Việt Nam, ủy viên ban thư kí Hội nhà văn Việt Nam. Ông cũng là đại biểu Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa các khóa IV, V và VI, ủy viên Ban văn hóa - giáo dục của quốc hội. Từ năm 1959 đến năm 1963, trong thời gian làm biên tập báo Văn học, phụ trách chuyên mục Nói chuyện văn thơ, trả lời bạn đọc, ông ký bút danh Chàng Văn. Năm 1961, Nhà xuất bản Văn học đã cho xuất bản hai tập Vào nghề và Nói chuyện văn thơ của tác giả Chàng Văn. Trong mục Nụ cười xuân trên báo Văn học, Chế Lan Viên có hai bài viết ngắn là Ngô bói Kiều và Lý luận Đờ Gôn ký tên Oanh (tức Hoan). Cái bút danh Chế Lan Viên gắn bó với đời thơ của thi sĩ có vẻ như một sự ngẫu nhiên. Họ Chế được Hàn Mặc Tử đặt khi viết bài Thi sĩ Chàm tặng Chế Bồng Hoan, chữ Lan Viên là lấy tên người bạn xưa của Yến Lan và ấn tượng vườn lan nhiều hoa nhà bạn (có thể hiểu tác giả tự nhận mình là bông hoa lan trong khu vườn nhà họ Chế - dòng họ vua chúa của dân tộc Chàm ở nước Chiêm Thành xưa). Bút danh Chế Lan Viên đã theo nhà thơ suốt sự nghiệp sáng tác của mình, làm nên tên tuổi của nhà thơ ở cả hai thời đại: nổi tiếng trước cách mạng và sau cách mạng càng trưởng thành hơn. Ngoài ra, trong bài giới thiệu tập tiểu luận Những bước đường tư tưởng của tôi của Xuân Diệu, đăng trên báo Văn học tháng 9 năm 1958, ông ký bút danh Thạch Hãn (tên một con sông tỉnh Quảng Trị quê ông). Nhiều bài báo in trên báo Thống Nhất, xuất bản ở Hà Nội trước tháng 5 năm 1975, ông cũng ký bằng bút danh này. Sau 1975, ông vào sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông mất ngày 19 tháng 6 năm 1989 (tức ngày 16 tháng 5 năm Kỷ Tỵ) tại Bệnh viện Thống Nhất, thành phố Hồ Chí Minh vì bệnh phổi nặng, thọ 69 tuổi. Ấy thế mà, con đường thơ của ông vẫn được tiếp tục. Người bạn đời của ông – nhà văn Vũ Thị Thường và con gái thứ hai của ông – nhà văn Phan Thị Vàng Anh đã tập hợp những bài thơ chưa công bố của nhà thơ làm thành ba tập Di cảo và cho xuất bản trong các năm 1992, 1993,1994. Những băn khoan, day dứt về cái “tôi” thi 4 sĩ, về nghề thơ, về bản ngã trong Di cảo thơ càng cho phép chúng ta nhìn nhận rõ hơn chân dung một con người đã suốt đời “trận mạc với thơ ca” như cách nói của Trúc Thông. Ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996). Ông có người con gái là bà Phan Thị Vàng Anh, cũng là một nhà văn nổi tiếng.  Tác phẩm chính  Thơ  Điêu tàn (1937)  Gửi các anh (1954)  Ánh sáng và phù sa (1960)  Hoa ngày thường - Chim báo bão (1967)  Những bài thơ đánh giặc (1972)  Đối thoại mới (1973)  Ngày vĩ đại (1976)  Hoa trước lăng Người (1976)  Dải đất vùng trời (1976)  Hái theo mùa (1977)  Hoa trên đá (1984)  Tuyển tập thơ Chế Lan Viên (tập I, 1985; tập II, 1990)  Ta gửi cho mình (1986)  Di cảo thơ I, II, III (1992, 1993, 1995)  Tuyển tập thơ chọn lọc  Văn  Vàng sao (1942)  Thăm Trung Quốc (bút ký, 1963) 5  Những ngày nổi giận (bút ký, 1966)  Bác về quê ta (tạp văn, 1972)  Giờ của đô thành (bút ký, 1977)  Nàng tiên trên mặt đất (1985)  Tiểu luận phê bình  Kinh nghiệm tổ chức sáng tác (1952)  Nói chuyện thơ văn (1960)  Vào nghề (1962)  Phê bình văn học (1962)  Suy nghĩ và bình luận (1971)  Bay theo đường bay dân tộc đang bay (1976)  Nghĩ cạnh dòng thơ (1981)  Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân (1981)  Ngoại vi thơ (1987)  Nàng và tôi (1992) 1.1.2 Quan niệm thơ và phong cách sáng tác của Chế Lan Viên 1.1.2.1 Quan niệm về thơ của Chế Lan Viên Quan niệm về thơ của Chế Lan Viên được thể hiện ở các bài viết, bài nói chuyện, đặc biệt là trong rất nhiều bài thơ. Ông là nhà thơ luôn có sự tìm tòi, khám phá và sáng tạo. Ông luôn biết kế thừa, phát huy những tinh hoa của nền văn chương và nhân loại để mang lại cho tác phẩm của mình một vẻ đẹp riêng. Ông có sự nhận thức sâu sắc về chức năng của văn chương và sứ mệnh thiêng liêng của người nghệ sĩ đối với cuộc sống. Ông quan niệm sáng tạo thơ là một nghề cao quý trong xã hội, nhà thơ phải có vị trí, sứ mệnh cao cả đối với đời. Nghề thơ không phải ai cũng làm được, bởi nhà thơ phải có hồn thi sĩ. Nhà thơ không chỉ biết tin yêu cuộc đời, có khát vọng vươn tới cái chân, thiện, mỹ của 6 cuộc sống mà còn phải thật sự khổ luyện để vượt lên tất cả. Nhà thơ cần phải nhìn, nghe và suy ngẫm để góp phần lý giải, khám phá những vấn đề trong đời sống. Nghề thơ đòi hỏi nhà thơ phải có tài năng thơ mới có thể cảm nhận, khám phá, thể hiện cuộc sống một cách tinh tế, nhạy bén. Ông đòi hỏi thợ thơ phải nắm bắt được một số kỉ thuật và phương pháp cần thiết cho việc sáng tạo thơ. Ông cho rằng: Làm thơ là tạo ra một hành tinh thứ hai bằng ngôn ngữ, và ngôn ngữ trong thơ có lúc mộc mạc, hồn nhiên, nhưng lại có lúc mang vẻ đẹp kì diệu lạ thường. Nói như Lê Thành Nghị, Chủ tịch HĐ Lý luận Hội Nhà văn VN tại buổi lễ Kỷ niệm 90 năm sinh nhà thơ lớn Chế Lan Viên: “Sức sáng tạo của Chế Lan Viên có thể nói là phi thường và dấu ấn thơ ông để lại trong đời sống tinh thần của thời đại ông sống quả là hết sức sâu sắc. Có thể nói Chế Lan Viên đã làm phong phú thêm tâm hồn của mỗi người dân Việt bằng những câu thơ xuất phát từ tâm hồn đặc biệt của ông... Và cũng có thể nói, đến Chế Lan Viên, thơ Việt Nam đã phát lộ hết chiều kích, đã trở nên hết sức sang trọng, với những vẻ đẹp hiện đại có thể sánh với bất cứ nền thơ hiện đại nào của thế giới”. 1.1.2.2 Phong cách sáng tác thơ của Chế Lan Viên Phong cách thơ Chế Lan Viên trải qua nhiều biến động, nhiều bước ngoặt với những trăn trở, tìm tòi không ngừng của nhà thơ, thậm chí, có một thời gian dài dường như im lặng (1945 – 1958). Trước cách mạng tháng Tám đề tài ông hướng đến đó là trường thơ loạn, thơ Chế Lan Viên là một thế giới đúng nghĩa “trường thơ loạn”: kinh dị, thần bí, bế tắc của thời Điêu tàn với xương, máu, sọ người, với những cảnh đổ nát, với tháp Chàm. Sau này, thơ ông đã đến với cuộc sống và đất nước, thấm nhuần ánh sáng của cách mạng, và có những đổi thay rõ rệt. Trong thời kì 1960 – 1975, thơ Chế Lan Viên vươn tới khuynh hướng sử thi hào hùng, chất chính luận, đậm tính thời sự. Sau chiến tranh, thơ Chế Lan Viên dần trở về đời sống thế sự và những trăn trở của cái “tôi” trong sự phức tạp, đa diện và vĩnh hằng của đời sống. 1.1.3 Bối cảnh lịch sử - xã hội Xã hội Việt Nam 1945 – 1975 có nhiều biến động ảnh hưởng đến sự phát triển của nền văn học dân tộc. Điều đầu tiên cần phải nhắc đến là nền văn học được sự lãnh đạo của Đảng với đường lối văn nghệ nhất quán, xuyên suốt. Có thể nói, Đảng lãnh đạo toàn diện trên mọi 7 mặt trận, và cụ thể với văn nghệ là bằng tổ chức (từ Nhóm văn hóa cứu quốc trước 1945 đến các hội như: Liên hiệp văn học nghệ thuật, Hội nhà văn, Hội sân khấu, Hội âm nhạc… sau này) và bằng đường lối. Đường lối này được thể hiện trong các văn kiện của Đảng về văn hóa nghệ thuật và các bài phát biểu của các lãnh tụ tại các đại hội, Hội nghị về văn hóa, văn nghệ. Đó là Đề cương văn hóa Việt Nam (1943, Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hóa mới Việt Nam hiện nay (1944), Phấn đấu cho một nền văn nghệ dân tộc phong phú dưới ngọn cờ của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội (1957), Tăng cường tính Đảng, đi sâu vào cuộc sống mới để phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng tốt hơn nữa (1962) của Trường Chinh. Nội dung cơ bản của đường lối ấy là coi văn hóa như một mặt trận, người nghệ sĩ là người chiến sĩ trên mặt trận ấy. Văn nghệ mang tính dân tộc, khoa học và đại chúng. Phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa yêu cầu phải phản ánh chân thật, hùng hồn cuộc sống mới, con người mới và phản ánh cuộc sống trong quá trình cách mạng. Nguyên tắc tính Đảng yêu cầu nhà văn trong sáng tác của mình phải công khai đứng trên lập trường của giai cấp vô sản và quần chúng lao động, bảo vệ những tư tưởng của Đảng, những đường lối, chính sách của nhà nước, tư tưởng chủ đề của tác phẩm phải rõ ràng, không được phép mập mờ, bóng gió, đa nghĩa. Văn nghệ phải phục vụ chính trị, còn chính trị thì lãnh đạo văn nghệ. Những nội dung trên là nhất quán, xuyên suốt trong quá trình tiến hành cách mạng dân tộc, dân chủ và chi phối trực tiếp hoạt động văn hóa, văn nghệ. Từ đường lối văn nghệ của Đảng dẫn đến tính thống nhất về tư tưởng của của văn học sau 1945, chấm dứt sự phân hóa phức tạp của văn học Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nghĩa là chấm dứt hai bộ phận phân biệt về ý thức hệ, thái độ chính trị của nhà văn đối với cuộc đấu tranh dân tộc: văn học công khai và văn học không công khai; chấm dứt ba xu hướng văn học chính cùng tồn tại, phát triển vừa đấu tranh vừa bổ sung cho nhau: văn học lãng mạn, văn học hiện thực phê phán và văn học cách mạng. Nhưng đến đây, tư tưởng của văn học thống nhất với tư tưởng chính trị yêu nước, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng ấy tạo nên một nền văn học sáng tác theo khuynh hướng sử thi và tràn đầy cảm hứng lãng mạn. Diện mạo văn học dân tộc không còn phân hóa phức tạp, lắm hướng nhiều dòng như trước cách mạng tháng Tám 1945. Về cơ bản chỉ còn một dòng văn học duy nhất có tư tưởng thống nhất với tư tưởng chính trị nói trên. Điều thứ hai không thể bỏ qua trong giai đoạn này, nước ta phải hứng chịu cuộc xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ suốt 30 năm. Chiến tranh là hoàn cảnh không bình 8 thường trong đời sống của một dân tộc, một đất nước. Tính chất ác liệt của hai cuộc chiến, nhất là cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ là cuộc đụng độ lịch sử mang tầm vóc của thời đại càng trở nên bất bình thường trong đời sống dân tộc ta nói chung và mỗi gia đình, mỗi cá nhân nói riêng. Chiến tranh đã ảnh hưởng đến toàn diện nền kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục, đến nếp sống, sinh hoạt của mỗi người và của cả cộng đồng, đòi hỏi cả dân tộc và mỗi người muốn tồn tại phải tổ chức đời sống thích ứng với hoàn cảnh ấy. Chiến tranh cũng ảnh hưởng sâu sắc, toàn diện đến đời sống tinh thần nói chung và đời sống văn học nói riêng. Trong hoàn cảnh đó, giá trị sống cao nhất là độc lập tự do cho cả dân tộc và cho mỗi con người. Do vậy, nó là sự lựa chọn duy nhất của dân tộc và của mỗi người Việt Nam, nó trở thành mục tiêu, lý tưởng của thời đại và quy tụ được lòng người. Ai cũng thấy sống và hành động cho lý tưởng đó là một lẽ đương nhiên, tự nhiên. Mọi thứ thuộc về cá nhân, riêng tư đều phải gác lại và tập trung ưu tiên cho sự lựa chọn giá trị nói trên. Hơn nữa, ở giai đoạn này, nền kinh tế nước ta chậm phát triển, điều kiện giao lưu văn hóa bị hạn chế. Nguyên nhân làm chậm phát triển kinh tế là do cơ chế tập trung quan liêu bao cấp kéo dài. Cơ chế này không giải phóng được sức sản xuất, không tạo động lực khuyến khích người lao động sáng tạo, tăng năng xuất lao động, thậm chí còn dẫn đến tình trạng “cha chung không ai khóc” và tham quyền, tham nhũng trong bộ máy quan liêu. Điều đó làm cho kinh tế chậm phát triển, ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống nhân dân. Điều đáng nói hơn nữa, cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn ở cả các lĩnh vực khác như văn hóa, xã hội, trong đó có văn học. Bao cấp về tư tưởng. Nói về điều kiện giao lưu văn hóa lúc bấy giờ. Do quan điểm giai cấp, do chiến tranh mà giao lưu văn hóa bị hạn chế rất nhiều. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, cục diện thế giới chia làm hai phe rõ rệt, một phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu, một phe tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu. Hai phe đối lập, xung đột nhau về ý thức hệ. Lại còn quan điểm giai cấp máy móc dẫn đến nhận thức giản đơn, ấu trĩ, hễ cái gì của phe tư bản đều là xấu, cái gì của phe xã hội chủ nghĩa thì là đều tốt. Trong hoàn cảnh chính trị thế giới, tâm lý xã hội trong nước như thế và điều kiện chiến tranh ác liệt, liên tục 30 năm, việc giao lưu văn hóa với bên ngoài, nhất là phương Tây tư bản bị hạn chế là điều không tránh khỏi. Hồi ấy, việc giao lưu văn hóa với nước ngoài hầu như chỉ diễn ra trong phe XHCN mà chủ yếu là với Liên Xô, Trung Quốc. Sự giao lưu hạn hẹp đó đã ảnh hưởng đến văn học Việt Nam cả trên bình diện lý luận, cả trên bình diện sáng tác. 9 Tóm lại, ba nhân tố trên đây đã tác động trực tiếp và ảnh hưởng quyết định đến đời sống văn học dân tộc giai đoạn 1945 - 1975. 1.2 Khái niệm thơ trí tuệ và thơ chính luận 1.2.1 Khái niệm thơ trí tuệ Thuật ngữ tính trí tuệ hay tính triết lý xuất hiện từ rất sớm. Theo Từ điển tiếng Việt thì trí tuệ là khả năng nhận thức lý tính đạt đến một trình độ nhất định, chỉ khả năng lý tính để nhận thức đối tượng. Khái niệm "thơ trữ tình triết học" gắn liền với tên tuổi các nhà thơ lớn trên thế giới như: Block, Schiller, Bretch, Rilke, Baudelaire, Valéry, Claudel..., đến thời của chủ nghĩa lãng mạn, Arnaudov cho biết cũng có một số nhà thơ sáng tác theo khuynh hướng này mà người Đức gọi là "trữ tình trí tuệ", thơ ca gắn với cuộc sống và có sự thâm nhập lẫn nhau giữa một bên là nghệ thuật, một bên là khoa học, triết học. Và Arnauđốp thêm: “Vào thời cận đại, chúng ta ngày càng bắt gặp nhiều hơn trong trữ tình những mô tip dắt dẫn ta vào vương quốc của các tư tưởng. Như Ghugô nói, ở những chỗ lý tính thường không được thỏa mãn thì cảm xúc ngày càng khó khăn hơn trong việc tìm kiếm sự thỏa mãn, để tìm ra được khoái cảm trong một điều gì đó chúng ta nhất thiết phải suy nghĩ tạo ra một trong những nguyên nhân của tiến bộ đạo đức và thẩm mỹ”. Như vậy, tính triết lý trong văn chương không phải là những gì khô khan; vì nếu thế, các lĩnh vực khác như triết học, tư tưởng sẽ đắc địa hơn nhiều. Tính triết lý ở đây được thăng hoa từ cảm xúc và suy nghĩ trên cái nền hiện thực cụ thể mà chủ thể sống qua. Thơ ca từ xưa đến nay đều vươn lên thể hiện sự hài hòa này. Không phải chỉ câu thơ, bài thơ mà ngay cả những gì trong đầu óc nhà thơ đã bao hàm một ẩn tàng triết lý. Và khi đươc thể hiện ra, lập tức nó làm giàu, nâng cao hiệu quả thơ. Nhà thơ nào có vốn văn hóa, vốn triết học cao và biết vận dụng chúng trong sáng tạo để hình thành kiểu tư duy độc đáo, đậm đặc mang cá tính, giọng điệu riêng khi bình giá cuộc sống thì được xem như nhà thơ trí tuệ, nhà thơ triết lý. 1.3.2 Khái niệm chất chính luận trong thơ 10 “Khái niê êm chính luâ ên hiê ên có nhiều nghĩa. Theo Từ điển Bách khoa Văn học giản yếu của Nga năm 1987 (tiếng La Tinh là publicus, nghĩa là xã hô êi), chính luâ ên là một loại hình văn học và báo chí, viết về các vấn đề nóng bỏng của xã hội, chính trị, kinh tế, văn học, triết học, tôn giáo và các vấn đề khác. Theo lý luâ ên phong cách học, chính luâ ên là một phong cách chức năng, bên cạnh các phong cách sinh hoạt, khoa học, báo chí, nghê ê thuâ êt, hành chính công vụ... Về lôgic, hai nghĩa này có mối liên hê ê nô êi tại với nhau, bởi phong cách chính luâ ên chủ yếu là phong cách của các loại văn chính luâ ên, cũng như phong cách văn chương là thuô êc tính của loại hình văn bản văn học, phong cách khoa học là thuô êc tính của văn bản khoa học”. Chính luâ nâ là bàn luâ nâ có tính chất tư biê nâ về phương diê nâ triết học, chính trị, đạo đức...thông qua sự luâ nâ bàn này mà người viết thể hiê nâ quan điểm, được cách sống của mình. Trong Văn học Viê ât Nam “chính luâ ên được dùng như một phương pháp tư duy”, đây là mô tâ đă âc điểm mang tính truyền thống. Trong Văn học Viê ât Nam, thơ Nguyễn Du, Đông Kinh nghĩa thục đều mang những yếu tố chính luâ nâ . Thơ chính luâ nâ là mô tâ loại thơ thiên về bàn luâ nâ , thiên về các lâ pâ luâ nâ , về các lẽ đời, triết lý, chính trị, xã hội, đạo đức. CHƯƠNG 2: CHẤT TRÍ TUỆ TRONG THƠ CHẾ LAN VIÊN TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 ĐẾN 1975 2.1 Nội dung thể hiện chất trí tuệ trong thơ Chế Lan Viên 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của chất trí tuệ trong thơ Chế Lan Viên Cách mạng tháng Tám 1945 là một cột mốc quan trọng của lịch sử dân tộc, và nó cũng trở thành dấu mốc để đánh dấu chặng đường cho một đường thơ Chế Lan Viên. Thơ trí tuệ của ông trước cách mạng mang đậm dấu ấn và nó phát triển dần đến sau này. Đến với thơ của Chế Lan Viên trước cách mạng, người đọc dễ dàng nhận thấy, thơ ông in rõ những dấu ấn của thực tại cuộc sống và chất chứa bao niềm suy tưởng về quá khứ đau thương của một dân tộc. Trước những chứng tích của một nền văn minh bị mai một theo thời gian còn lại như: ngọn tháp, đền đài, tượng Chàm…, đã gợi lên cho tâm hồn thơ Chế Lan 11 Viên biết bao sự liên tưởng mạnh mẽ và để rồi, nhà thơ lặng lẽ “quay về xem non nước giống dân Hời”. Khám phá những giá trị của thơ Chế Lan Viên trước cách mạng, một trong những điều khiến chúng ta phải ngẫm nghĩ đó là cái thế giới đầy kinh dị, là nỗi đau xót được tạo nên bởi tâm hồn thơ tuổi trẻ có trí tưởng tượng phong phú. Ở ông trào dậy bao điều suy nghĩ và bao nỗi xót xa, buồn tủi về những gì đang diễn ra trong cuộc sống hiện tại. Ông cay đắng khi nhận ra cái thế giới xung quanh mình đầy rẫy những trò gian trá, bịp bợm, thâm hiểm và xảo quyệt, ông ngậm ngùi cho những kiếp Sống mòn, Đời thừa, Bước đường cùng,… Chế Lan Viên tìm đến thơ để gửi gắm và giãi bày sự suy ngẫm của mình về cuộc sống. Ông nói đến nỗi đau của dân tộc Chàm cũng là để bộc lộ nỗi đau của chính mình trước cảnh đời hiện tại. Chính từ những nhận thức đó nhà thơ Chế Lan Viên cảm nhận sâu sắc về sự vô nghĩa, “cái u buồn”, “u tối”, “cái sầu vô hạn” giữa cuộc đời hiện tại và ông đã thốt lên : “Với tôi tất cả đều vô nghĩa Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau !” ( Xuân – Tập thơ Điêu tàn ) Có lẽ trong sự sâu thẳm ở cõi lòng Chế Lan Viên, hình ảnh của “những tháp gầy mòn vì mong đợi”, “những đền xưa đổ nát dưới Thời gian”, “những tượng Chàm lở lói rỉ rên than”…, không chỉ là hình ảnh của một nước Chàm đã mất, mà còn là sự dự cảm về số phận của dân tộc Việt trong cảnh nô lệ lầm than. Cuộc sống hiện tại được Chế Lan Viên cảm nhận với niềm uất hận, đau thương, nên dẫu có “xuân về trong nắng sớm” nhưng trong lòng ông vẫn “đông lạnh giá băng thôi”. Chế Lan Viên phủ nhận thực tại xã hội đương thời và thất vọng, chán nản trước “những sắc màu, hình ảnh của trần gian” để hướng đến “một tinh cầu giá lạnh”, “một vì sao trơ trọi cuối trời xa”.… Ông đã đi tìm mình, tìm Cõi Ta trong sự cô đơn và bơ vơ giữa cái mênh mông xa vắng của cuộc đời để rồi xót xa, buồi tủi nhận ra mình chỉ là “một cánh chim thu lạc cuối ngàn”, ông thốt lên : “Đường về thu trước xa lắm lắm Mà kẻ đi về chỉ một tôi !” 12 Trước thực tại của xã hội đó, nhà thơ Chế Lan Viên đã tìm được cách nói độc đáo để thể hiện một cách thấm thía, sâu sắc những nỗi đau đời của ông. Thơ ông thấm đẫm những triết lí suy tư sâu sắc, những bề chìm của sự vật, những ý nghĩa ẩn giấu sâu xa đằng sau những bề mặt đơn giản. Tất cả đều là những chiêm nghiệm bản thân của riêng nhà thơ. Ông trăn trở, suy tư để rồi bật ra những vần thơ, những câu từ chứa đựng chất trí tuệ thâm thúy nhất. Có thể nói, Chế Lan Viên “tìm về quá khứ của một dân tộc khác là một cách nói, mà cũng là một cách tránh nói về hiện thực mất nước của dân tộc mình”( Vũ Tuấn Anh). Cách mạng tháng Tám thành công, lịch sử dân tộc đã sang trang. Cùng với những thay đổi lớn lao và mạnh mẽ của đời sống dân tộc, cuộc đời và thơ Chế Lan Viên đã thoát khỏi “thung lũng đau thương” và sự cô đơn, bế tắc để “tìm ra ánh sáng”, “hòa hợp với người”. Chế Lan Viên hạnh phúc đón chào cách mạng, nhiệt thành tham gia kháng chiến, nhưng con người nghệ sĩ trong ông không ít những nỗi băn khoăn, trăn trở về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cách mạng, để rồi ngày một nhận thức thấm thía hơn về ý nghĩa thiêng liêng của nghệ thuật khi gắn liền với cuộc sống cách mạng của dân tộc. Chế Lan Viên sống gắn bó với đời sống kháng chiến, hiểu hơn về Tổ quốc và nhân dân. Trong thời gian kháng chiến, sự sáng tạo thơ của Chế Lan Viên chỉ dừng lại ở tập thơ Gửi các anh gồm 14 bài. Những tháng năm đó, con người nghệ sĩ ở Chế Lan Viên chủ yếu nghiền ngẫm, tìm tòi về phương thức thể thiện để phù hợp với nhu cầu thẩm mĩ của cuộc đời mới. Ông đã trải qua những gian truân vất vả và cảm nhận được không khí hào hùng, sôi động của dân tộc trong kháng chiến. Ông xúc động mãnh liệt trước bao nhiêu tấm gương hi sinh anh dũng của những con người bình thường giản dị để làm nên chiến thắng. Giờ đây cái trí tuệ mà nhà thơ nung nấu ấy là tình cảm yêu đất nước, yêu nhân dân và lên án tội ác của thực dân Pháp xâm lược. Những tình cảm sâu sắc mà ông luôn trân trọng trao cho những người chiến sĩ cách mạng, được cất lên đầy tự hào, như những gì thiêng liêng nhất. Đó là lòng yêu thương mẹ của đứa con “nghĩ đến mẹ nhiều nước mắt rưng rưng”. Nghĩ về mẹ, nhà thơ đã cảm nhận tình thương của mẹ “là gió dịu đưa hương”, và “mẹ thương con như sữa nồng, như nước mắt”… Chế Lan Viên còn ghi lại những niềm vui bình dị của đời sống kháng chiến ở Một bữa cơm thường trong bản nhỏ. Nhà thơ xúc động, viết về sự ngã xuống của các anh bộ đội ở nơi biên giới Việt – Lào, bên bờ suối Vạn Mai, hay “dưới một gốc cây sung 13 chín đỏ mùa hè”. Hình ảnh của những người dân công “gánh bom gập người, đường dài đứt hơi ” mà vẫn luôn yêu đời cũng đã đi vào thơ Chế Lan Viên trong niềm tự hào trân trọng. Ông xót xa đau đớn trước cảnh quê hương chìm trong khói lửa chiến tranh, “máu đã hòa nước mắt”, “ngút trời đồng bốc lửa”,và “đồi sim lầy máu tươi”.Chế Lan Viên những mong mọi người hãy luôn Nhớ lấy để trả thù cho quê hương, Tổ quốc. Những tưởng trong thơ ông chỉ thấy ông ca ngợi những con người phi thường, nhưng thật ra ẩn giấu đằng sau ấy là sự lên án giặc ngoại xâm sâu sắc. Có thể có, cũng có thể không, nhà thơ trực tiếp lên án tội ác của bọn cướp nước, những hình ảnh người mẹ, những đứa con cầm súng đâu chỉ đơn thuần là phác họa mà họ là nhân chứng cho sự tàn bạo mà giặc gây ra. Những người con của tổ quốc vì đâu ngã xuống, những bà mẹ anh hùng vì đâu mất con, nhà cửa vì đâu điêu tàn, ruộng vườn vì đâu xơ xác? Sự thật ấy chỉ có thể là do chiến tranh mà ra. Có thể nói, sống chân thành, sâu sắc với hiện thực đời sống kháng chiến chống Pháp của dân tộc, Chế Lan Viên đã đưa thơ ông thoát khỏi dĩ vãng buồn thương để trở về với cuộc đời hiện tại trong niềm tin yêu. Cuộc sống cách mạng và kháng chiến đã tạo điều kiện thuận lợi, chắp cánh cho tâm hồn thơ Chế Lan Viên vươn tới những đỉnh cao nghệ thuật và Bay theo đường dân tộc đang bay dù gặp biết bao khó khăn, đau đớn và nhiều mất mát. Cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, Tổ quốc và dân tộc kiêu hãnh tiến bước trên một chặng đường lịch sử mới. Chế Lan Viên hòa mình với cuộc sống xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong niềm vui và hạnh phúc. Trong hoàn cảnh cuộc đời mới, hơn lúc nào hết, Chế Lan Viên càng nhận rõ hơn ý nghĩa lớn lao mà ông đã có được ở những tháng năm ông sống gắn bó với cuộc sống kháng chiến của dân tộc. Ông đã khẳng định : “Ôi kháng chiến mười năm qua như ngọn lửa Nghìn năm sau vẫn đủ sức soi đường.” ( Tiếng hát con tàu – Tập thơ Ánh sáng và phù sa) Nỗi đau về cuộc sống quá khứ đã qua và niềm vui giữa cuộc sống hiện tại ngày một dâng đầy, tâm hồn thơ của Chế Lan Viên giờ đây như ngập tràn niềm vui trước cuộc đời rực rỡ phù sa. Nhà thơ quan niệm “lấy cái vui của đời đánh bạt mọi thương đau”. Càng gắn bó với cuộc đời, nhà thơ càng thấm thía hơn bao niềm hạnh phúc đang đến với mình. Nhà thơ đã cảm nhận “hạnh phúc như đào ngon chín tới”, “hạnh phúc nào không hạnh phúc đầu tiên” và 14 “mỗi bước đời ta ghép một vần thương”. Niềm vui càng trở nên rạo rực và càng nhân lên khi Chế Lan Viên nhận thức về cuộc sống ngày càng sâu sắc hơn. Vì thế, những vần thơ của nhà thơ viết về cuộc đời mới rất đỗi đằm thắm ngọt ngào. Nhà thơ cảm nhận: “Cái sống ngọt ngào trong từng sợi cỏ Một cành hoa cũng muốn giục môi hôn.” ( Tàu đến – Tập thơ Ánh sáng và phù sa ) Sống giữa niềm vui của cuộc đời mới, Chế Lan Viên đã có quan niệm mới mẻ về quê hương. Quê hương không chỉ là nơi chôn nhau, cắt rốn, mà quê hương còn là nơi ta gắn bó và biết sống hết mình vì nó. Trong bài thơ Tiếng hát con tàu, nhà thơ viết : “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn”. Hay là : “Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.” ( Tiếng hát con tàu – Tập thơ Ánh sáng và phù sa) Nghĩ về cuộc sống hiện tại trong sự so sánh với quá khứ đau thương của dân tộc, Chế Lan Viên càng tự hào khi hiểu rằng cuộc đời ngày thêm rực rỡ phù sa, ngày một thêm ý nghĩa, và ông thốt lên trong niềm hạnh phúc : “Những ngày tôi sống đây là những ngày đẹp hơn tất cả Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn” và: “Dẫu có bay giữa trăng sao cũng tiếc không được sống phút bây giờ .” (Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? – Tập thơ Hoa ngày thường, chim báo bão) Chế Lan Viên đã đi “từ chân trời của một người, đến chân trời của mọi người”. Cuộc đời mới là nguồn sức mạnh tinh thần giúp nhà thơ Đi thực tế, gặp lại nhân dân và hiểu “cuộc sống bao la rung cả những lòng đang riêng lẻ”, nhà thơ khát vọng: 15 “Tôi muốn đến chỗ nước trời lẫn sắc Nơi bốn mùa đã hóa thành thu Nơi đáy bể những rừng san hô vờ thức ngủ Những rừng rong tóc xõa lược trăng cài Nơi những đàn mây trắng xóa cá bay đi …” ( Cành phong lan bể – Tập thơ Ánh sáng và phù sa ) Cuộc sống mới chứa chan Ánh sáng và phù sa đã thực sự giúp Chế Lan Viên “lấn từng nỗi đau như mùa chiêm lấn vành đai trắng” và “nay trở về ta lấy lại vàng ta”. Khi đã có hướng rồi, nhà thơ không ngần ngại “Đi ra với sông, đi ra với trời, đi ra với đời” để cảm nhận được : “Tôi yêu quá cuộc đời như con đẻ Như đêm xuân người vợ trẻ yêu chồng Tôi nối với bạn bè như với bể Cả lòng tôi là một giải sông Hồng.” ( Chim lượn trăm vòng – Tập thơ Ánh sáng và phù sa ) Càng đến với cuộc sống , những vần thơ của Chế Lan Viên càng chan chứa niềm tin yêu cuộc sống và có quan niệm đúng đắn về con người công dân trong cuộc đời mới. Trước đây nhà thơ trăn trở về cái Ta, Cõi ta, thì giờ đây nhà thơ đã nhận thức sâu sắc về trách nhiệm của mình trước cuộc đời mới : “Ta là ai ? Như ngọn gió siêu hình Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt Ta vì ai ? Khẽ xoay chiều ngọn bấc Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh.” ( Hai câu hỏi – Tập thơ Ánh sáng và phù sa ) Chế Lan Viên có khát vọng làm một cánh chim “lượn trăm vòng trên Tổ quốc mênh mông” để được “trở lại giữa rừng sâu Việt Bắc”, “đến trước đồi Điện Biên rực lửa”, “đến cả 16 những vùng xưa chẳng đến”, “về giữa miền Nam trời của mẹ”, “ra bể cá nồng hơi gió bể”, “nối với bạn bè như với bể”, được ngắm nhìn “ngàn núi trăm sông diễm lệ” và mở rộng tâm hồn mình đón nhận bao niềm vui và hạnh phúc giữa cuộc đời. Với khát vọng đó, nhà thơ lòng tự dặn lòng : “Ở đâu chưa đi thì lòng sẽ đến Lúc trở về, lòng ngậm những cành thơ.” ( Qua Hạ Long – Tập thơ Ánh sáng và phù sa) Cuộc sống mới được nhà thơ cảm nhận với niềm tin yêu chân thành và đó chính là nguồn thi hứng lớn lao, mạnh mẽ, luôn trỗi dậy trong tâm hồn nhà thơ. Những đổi thay kì diệu của cuộc sống đã tạo tâm hồn thơ Chế Lan Viên càng thêm dạt dào cảm xúc. Nhiều bài thơ của Chế Lan Viên trong thời kì này thể hiện sự nhận thức sâu sắc về vẻ đẹp của Tổ quốc và dân tộc, về vai trò của Đảng và Bác Hồ, tiêu biểu là : Tiếng hát con tàu, Cành phong lan bể, Tàu đến, Tàu đi, Kết nạp Đảng trên quê mẹ, Người đi tìm hình của nước … Được tắm mình giữa đời sống của nhân dân, được ánh sáng của Đảng soi rọi và phù sa của cuộc đời vun đắp, Chế Lan Viên đã vượt khỏi nỗi đau riêng đến với niềm vui chung của dân tộc bằng tấm lòng chân thành và sự tài hoa nghệ thuật để dâng hiến cho đời nhiều vần thơ hay. Đó là những vần thơ thể hiện sự trãi nghiệm suy tư của tác giả về cuộc đời, về lẽ sống, về một đất nước hòa bình lập lại. Cho nên, những vần thơ giờ đây của ông luôn tràn đầy niềm vui, niềm tin yêu cho đời. Nhà thơ vui nhưng không quên nhiệm vụ của mình là giữ gìn mãi nền hòa bình tự do ấy. Trong những năm kháng chiến chống Mĩ , Tổ quốc tươi đẹp và dân tộc anh hùng là cảm hứng chủ đạo của Chế Lan Viên, nhà thơ những muốn: “ Khi ta muốn thơ ta thành hầm chông giết giặc Thành một nhành hoa mát mắt cho đời” Với Chế Lan Viên, chưa bao giờ Tổ quốc lại cao đẹp như những tháng năm kháng chiến chống Mĩ. Nhà thơ không ngần ngại khẳng định đó là “những ngày đẹp hơn tất cả”, “ngày vĩ đại”. Trong hoàn cảnh đó, vẻ đẹp tâm hồn và tính cách của dân tộc Việt Nam càng ngời sáng hơn. Nhà thơ tự hào, kiêu hãnh viết: 17 “Ta đội triệu tấn bom mà hái mặt trời hồng Ta mọc dậy trước mắt nghìn nhân loại Hai tiếng Việt Nam đồng nghĩa với anh hùng.” ( Thời sự hè 72, bình luận – Tập thơ Những bài thơ đánh giặc) Hiện thực đời sống thời kì kháng chiến chống Mĩ đã tỏa nắng cho thơ Chế Lan Viên để nhà thơ có thêm nhiều vần thơ tràn đầy sức sống và sức hấp dẫn. Tâm hồn thơ Chế Lan Viên rộng mở hướng tới khắp mọi miền của Tổ quốc để nhạy bén thu nhận chất thơ của đời sống và hòa nhịp sống của mình với nhịp sống của dân tộc. Nhà thơ viết về những cuộc tiễn đưa ra trận với kỉ niệm của cái hôn “cân vạn ngày lửa đạn” và “ trầm tích trong bể sâu của nhớ”, là “chút thương nhớ giắt bên mình cùng súng đạn”. Hình ảnh của cuộc sống chiến đấu gian khổ mà hào hùng đi vào thơ Chế Lan Viên ngày càng thêm đậm đà, sâu sắc. Nhà thơ tự hào viết những tên làng, tên núi, tên đường, tên sông gắn liền với những chiến công hiển hách như: Trường Sơn, đường Chín, ngã ba Đồng Lộc, Cồn Cỏ, Quảng Bình, Vĩnh Linh … Nhà thơ cảm nhận cuộc sống hôm nay “mỗi tấc núi sông thành thơ và hóa sử” và “các thế hệ nhìn chỗ ta đứng lúc này như những hải đăng”. Tất cả những điều đó chính là chất vàng, chất ngọc của cuộc đời đã góp phần tạo cho Chế Lan Viên có được nhiều tứ thơ hay. Trước hiện thực đời sống đó, nhà thơ nhận thức sâu sắc hơn về vẻ đẹp của Tổ quốc và sự gắn bó rất đỗi đằm thắm, thiết tha với Tổ quốc “như máu thịt, như mẹ cha ta như vợ như chồng” của con người Việt Nam: “Ta yêu Việt Nam đẹp, Việt Nam thơ, bát ngát câu Kiều, bờ tre mái rạ … Mái đình cong cong như bàn tay em gái vẫy giữa đêm chèo Cánh cò Việt Nam trong hơi mát xẩm xoan, cò lả, Cái đôn hậu nhân tình trong nét chạm chùa Keo …” (Thời sự hè 72, bình luận – Tập thơ Những bài thơ đánh giặc) Hình ảnh của những bà mẹ, người chị, người vợ, “những chàng áo vải, những binh nhất, binh nhì mười tám tuổi”… , đã đi vào thơ Chế Lan Viên với vẻ đẹp chân chất, bình dị 18 và thật đáng tự hào. Cũng chính trong những năm tháng nước sôi lửa bỏng này, nhà thơ cảm nhận trọn vẹn hơn về vai trò to lớn của nhân dân: “Nhân dân không có một thanh gươm vung một cái đến trời mây Nhưng họ gánh lịch sử đến nghìn lần lớn hơn đời họ.” (Thơ bổ sung – Tập thơ Hái theo mùa) Càng yêu Tổ quốc, càng nhận thức sâu sắc bản chất của kẻ thù và những nỗi đau thương dân tộc phải trải qua, những khát khao về cuộc sống yên bình hạnh phúc, Chế Lan Viên đã sáng tạo nên những “nhành hoa mát mắt cho đời”. Đó là những hình ảnh “bắt lòng ta nhớ mãi” ở các bài thơ : Sông Cầu, Hoa ngày thường, Đi trong chùa Hương, Mây của em, Lau mùa thu, Kỉ niệm có gì …Cuộc sống không chỉ đòi hỏi Chế Lan Viên suy ngẫm, triết lí, mà còn giúp cho nhà thơ có được sự cảm xúc sâu lắng trước vẻ đẹp giản dị của đời sống hàng ngày qua những vần thơ viết về các loài hoa, về tình yêu đằm thắm thiết tha và sự ngọt ngào của cuộc sống hạnh phúc gia đình qua các bài: Hoa thảo hoa vàng, Rét đầu mùa nhớ người đi phía bể, Chia, Cảm ơn, Con đi sơ tán, Đặt tên con… Với tình cảm nồng nàn, trí tuệ sắc sảo và sự gắn bó sâu sắc với hiên thực đời sống chiến tranh, Chế Lan Viên đã sáng tạo được nhiều vần thơ xúc động đậm đà chất trữ tình, hùng ca về vẻ đẹp tâm hồn, tính cách của dân tộc Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ. 2.1.2 Ảnh hưởng chất trí tuệ trong sáng tác của Chế Lan Viên Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, nếu không gian và thời gian được tác giả sử dụng như một quan niệm riêng để thể hiện mối quan hệ cụ thể giữa con người và hoàn cảnh thì chất thơ và phương thức biểu hiện được coi như là mặt triển khai của mối quan hệ tương hỗ đó giữa nội dung và hình thức. Nội dung bao giờ cũng được tỏ lộ qua một hình thức thích hợp để tạo ra chất thơ riêng, làm thành nét độc đáo của tác giả. Chế Lan Viên là nhà thơ luôn chú trọng mối quan hệ này và không ngừng sáng tạo mới, trên cơ sở có kế thừa, cách tân từ thành quả trước đó, và bám sâu vào nguồn mạch của cuộc sống để tạo thành chất thơ riêng: “Anh nghe cái mặn của đời đang độ kết tinh - Nó chưa thành hình, anh cho nó có hình”. Sau Điêu tàn viết trước 1945 với một quan niệm khác và Gửi các Anh - tập thơ bản lề sau 1945 có tính dò tìm, thể nghiệm chất thơ mới, đến Ánh sáng và phù sa và những tập thơ sau trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Chế Lan Viên thật sự đã nắm bắt được quy luật thơ 19 ca và thể hiện nó một cách nhất quán, sâu sắc: “Nội dung bể phải đâu muôn đời vẫn thế Thay hình thức của thuyền đi sẽ hiểu bể thêm mà”. Ông kết hợp được việc tổng hợp giữa chất sống thời đại với cảm xúc cá nhân, nâng nó lên thành những quy luật, những khái quát mới, bất ngờ. Chất triết lý, suy tưởng của ông trở thành phương thức biểu hiện đặc sắc cả về nội dung lẫn hình thức. Mỗi hình tượng thơ trong từng thời kỳ chính là sự vận động của kết quả suy nghĩ và tình cảm của ông rút ra từ sự đối chiếu với hiện thực khách quan thông qua ngôn ngữ. Điều này mỗi nhà thơ đều có sáng tạo riêng. Nếu ngôn ngữ thơ Tố Hữu là ngôn ngữ “trữ tình điệu nói” (Trần Đình Sử) thì ngôn ngữ thơ Chế Lan Viên lại nghiêng về ngôn ngữ trữ tình triết lý, chính luận. Trong những năm cả nước có chiến tranh, loại ngôn ngữ này của Chế Lan Viên phù hợp với việc bình luận, phân tích, lý luận, xoáy sâu vào các hiện tượng, sự kiện. Kiểu ngôn ngữ này đến lượt mình, nó quy định cấu trúc, ngữ pháp, chất thơ, giọng điệu thơ... thể hiện sự vươn lên chiếm lĩnh cuộc sống bằng hình tượng thơ riêng của Chế Lan Viên. Ông luôn quan tâm đến việc “rút ra cái gì như tuyết băng” từ các hiện tượng, sự vật hơn là chính bản thân sự vật, hiện tượng. Vì vậy mà chất biểu tượng, tượng trưng do ông thổi vào chúng những nội hàm nghĩa mới và chúng đã trở thành sự sáng tạo mới mẻ. Những biểu tượng, tượng trưng nhiều khi không còn ý nghĩa tự thân ban đầu của chúng mà được tồn tại qua ẩn dụ, hoán dụ, đối lập... tạo ra ngữ nghĩa mới để nâng tầm nhận thức cao hơn, sâu hơn. Những đối tượng thẩm mỹ của thơ từ nhỏ nhất đến lớn lao nhất cũng đều được Chế Lan Viên khai thác theo hướng trên. Hình ảnh bầu trời xanh, các loài hoa tượng trưng cho cái đẹp, cái phóng khoáng, tự do của hồn thơ. Ông có “trời xanh nắng lộng”,“trời xanh theo ta”,“trời xanh quyến luyến” rồi “thơ ta áo nắng mặc màu trời xanh”, “sóng như hàng nghìn trưa xanh”... Với hoa, ông cũng thổi vào chúng những ngôn ngữ riêng để trở thành những sứ điệp. Ông có “cái mùi hương biệt phái”, “hương hoa nhài chịu lỗi”, “hoa như cây dậy thì”, “những hoa hồng chói tỏa mặt vinh quang”, “hoa lại cười trong đợt phản công”, rồi “cái hít hoa vàng - thơm mùi tình ái”... “Xanh biết mấy là trời xanh Tổ quốc Khi tự do về chói ở trên đầu” Hoặc: “Đứng ngã ba đường hoa gạo son Người tình nhân đỏ chói môi hôn 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất