Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thơ ca dân gian mông từ góc nhìn văn hóa...

Tài liệu Thơ ca dân gian mông từ góc nhìn văn hóa

.PDF
25
358
56

Mô tả:

Thơ ca dân gian Mông từ góc nhìn văn hóa
1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Nghiên cứu Văn học trong mối quan hệ với văn hoá là một hướng tiếp cận từng diễn ra ở các nước phương Tây như Anh, Pháp, Đức với nhiều trường phái khác nhau từ những thập niên 50 của thế kỉ trước trở đi như Birmingham (R.Williams, R.Hoggart), Frankfurt (D. Kellner), R. Barthes và hơn hai mươi năm qua nghiên cứu văn hóa học đã phát triển mạnh sang các nước châu Mĩ và các quốc gia châu Á. Cho đến nay, phương pháp nghiên cứu văn hóa học đang được giới nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm, vì nó khắc phục được “tính chủ quan, bó hẹp và kinh viện” của phương pháp nghiên cứu cũ, đặc biệt là di sản văn học dân gian có quan hệ mật thiết với môi trường xã hội, lịch sử. Hoạt động nghiên cứu có phương hướng thích hợp sẽ đem lại nhiều kết quả thiết thực. 1.2. Thơ ca dân gian Mông là một trong những di sản tinh thần độc đáo của nền văn nghệ dân tộc, là bộ phận tiêu biểu trong văn hóa dân tộc Mông chứa đựng nhiều giá trị nghệ thuật đặc sắc, nhưng kết quả sưu tầm chưa tương xứng với tiềm năng vốn có; hoạt động nghiên cứu chưa toàn diện và hệ thống. Thậm chí một thời gian dài nhiều nhà nghiên cứu còn loại bỏ phần thơ ca về lễ nghi phong tục phản ánh những quan niệm về tín ngưỡng có chiều sâu nhân bản và nhiều giá trị nghệ thuật độc đáo của đồng bào, chưa đáp ứng nhu cầu tiếp nhận đa chiều rộng mở trong trào lưu học thuật hiện nay. 1.3. Hiện nay Đảng và Nhà nước ta đang chú ý tới vấn đề phát triển kinh tế văn hoá miền núi đặc biệt là khu vực các dân tộc thiểu số vùng cao. Trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta đã chỉ rõ: “Tiếp tục xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”. Do đó, việc sưu tầm, khai thác di sản thơ ca dân gian của đồng bào Mông sẽ góp phần thúc đẩy các hoạt động văn hoá giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Mặt khác các sinh hoạt văn hóa lễ hội đang đặt ra những yêu cầu bức thiết trong việc quảng bá di sản văn hoá của đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa phận công viên đá Đồng Văn, nơi được UNESSCO công nhận là Công viên địa chất toàn cầu. 1.4. Là người con của dân tộc Mông, được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Hà Giang – địa đầu cực Bắc của Tổ quốc, nơi tập trung đông nhất đồng bào Mông ở Việt Nam, “nơi còn lưu giữ được những yếu tố văn hoá cổ truyền nhất xứng đáng được coi là trung tâm văn hoá truyền thống của người Mông ở Việt Nam và Đông Nam Á”, bản thân từng tham gia trực tiếp vào công tác sưu tầm, nghiên cứu thơ ca dân gian Mông từ nhiều năm nay, tôi muốn góp thêm một phần sức lực vào hoạt động nghiên cứu văn hóa Mông trong cả nước, và sự phát triển văn hoá, giáo dục, kinh tế, du lịch của đồng bào trên quê hương Hà Giang. 2 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án của chúng tôi tập trung khảo sát các văn bản thơ ca dân gian Mông đã được công bố trên các loại sách báo và các văn bản chúng tôi trực tiếp sưu tầm được ở địa phương (bao gồm những tác phẩm thơ ca nguyên bản tiếng Mông có sự đối chiếu với bản dịch tiếng Việt), trên cả hai phương diện nội dung và hình thức. 2.2. Phạm vi nghiên cứu Chúng tôi chủ trương tìm hiểu toàn bộ các di sản thơ ca dân gian Mông trên phạm vi cả nước, bao gồm các tài liệu về các chủ đề lao động sản xuất, sinh hoạt cộng đồng, tín ngưỡng tâm linh, lễ nghi phong tục ma chay, cưới xin, cầu cúng theo quan niệm “vạn vật hữu linh” mà trước đây hoạt động nghiên cứu chưa quan tâm toàn diện; đồng thời khảo sát các công trình nghiên cứu về lịch sử, văn hóa xã hội của đồng bào Mông ở trong và ngoài nước; tìm mối tương đồng và khác biệt giữa thơ ca dân gian Mông với thơ ca dân gian các dân tộc khác. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu - Khảo sát hệ thống thơ ca dân gian Mông ở cả hai bình diện nội dung và hình thức (có sự đối chiếu giữa nguyên bản tiếng Mông với bản dịch tiếng Việt), nhằm khám phá từ quan niệm nghệ thuật đến quan niệm nhân sinh, cơ sở hình thành sáng tác và những đặc trưng nghệ thuật độc đáo của thơ ca dân gian Mông. - So sánh, đối chiếu thơ ca dân gian Mông với thơ ca của dân tộc Kinh và một số dân tộc thiểu số khác để thấy được những nét tương đồng và những đặc điểm riêng mang bản sắc của thơ ca dân gian Mông. - Tiếp thu có chọn lọc kết quả của những người đi trước, đồng thời bao quát toàn diện hơn về đối tượng nghiên cứu và đưa ra những nhận định riêng về giá trị tư tưởng và nghệ thuật của thơ ca dân gian Mông trong nền văn hoá Mông. 4. Phương pháp nghiên cứu Dựa trên những yêu cầu của đối tượng, chúng tôi chủ trương nghiên cứu thơ ca dân gian Mông từ góc nhìn văn hóa trên cơ sở vận dụng phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu Phương pháp phê bình văn hóa; phương pháp nghiên cứu loại hình; phương pháp nghiên cứu hệ thống - cấu trúc; phương pháp thống kê, phân loại; phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu dưới ánh sáng của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng; kết hợp lí thuyết về thi pháp học để làm nổi rõ các phương thức, phương tiện biểu đạt của nghệ thuật thơ ca dân gian Mông. Ngoài ra chúng tôi còn tiến hành điền dã sưu tầm, điều tra các di sản văn hoá dân gian, khảo sát phong tục và môi trường sinh thái liên quan với thơ ca dân gian của đồng bào Mông để đạt mục tiêu nghiên cứu. 3 5. Đóng góp mới của luận án 5.1. Luận án Thơ ca dân gian Mông từ góc nhìn văn hóa là công trình đầu tiên nghiên cứu theo hướng toàn diện, quy mô và hệ thống các di sản thơ ca dân gian của đồng bào Mông từ góc nhìn văn hoá nhằm làm rõ thêm những nhân tố về tộc danh, lịch sử, văn hoá và những giá trị tư tưởng, đặc điểm kết cấu nghệ thuật đã làm nên bản sắc độc đáo của thơ ca dân gian Mông không trộn lẫn với thơ ca dân gian các dân tộc khác. 5.2. Luận án của chúng tôi đã mở rộng phạm vi khảo sát tới các di sản thơ ca dân gian Mông ở các bình diện phong tục tập quán từ hôn lễ cho đến tang ma, tín ngưỡng bản địa mang tính đặc thù của người Mông, như các bài khèn, bài ca trong đám tang, bài cúng vong hồn người chết; các bài ca tế lễ theo quan niệm “vạn vật hữu linh” như cúng thổ công; cúng tổ tiên, cúng ma v.v… 5.3. Từ việc xác định vai trò đặc biệt của thơ ca dân gian trong đời sống đồng bào Mông và vị trí của nó trong nền văn nghệ dân gian Việt Nam, chúng tôi đề xuất những giải pháp bảo tồn và phát huy bản sắc, tinh hoa văn hóa truyền thống dân tộc Mông trong bối cảnh hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ hiện nay. 5.4. Kết quả của công trình nghiên cứu sẽ phục vụ kịp thời cho công tác giảng dạy văn học trong nhà trường đặc biệt là các trường dân tộc nội trú và các hoạt động tham quan du lịch trên cao nguyên đá Đồng Văn đã được UNESCO vinh danh là Công viên địa chất toàn cầu. 6. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án của chúng tôi được triển khai thành 4 chương: - Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu thơ ca dân gian Mông và văn hóa Mông - Chương 2. Quan niệm nghệ thuật, vũ trụ, nhân sinh trong thơ ca dân gian Mông - Chương 3. Bức tranh hiện thực muôn màu trong thơ ca dân gian Mông - Chương 4. Các phương diện nghệ thuật trong thơ ca dân gian Mông CHƯƠNG I TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THƠ CA DÂN GIAN MÔNG VÀ VĂN HÓA MÔNG 1.1. Khái quát về thơ ca dân gian Mông và văn hoá Mông 1.1.1. Khái niệm về thơ ca dân gian và thơ ca dân gian Mông Từ việc điểm qua các khái niệm thơ ca dân gian của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, xác định khái niệm để đưa ra một cách hiểu cơ bản thống nhất về thơ ca dân gian và thơ ca dân gian Mông là mục đích chính của chúng tôi trong phần này. Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu ý kiến của các nhà nghiên cứu, đồng thời căn cứ vào ba yếu tố: hình thức biểu đạt, vị trí và chức năng thể loại cùng với thực tế khảo sát, chúng 4 tôi đi đến khái niệm thơ ca dân gian Mông như sau: Thơ ca dân gian Mông là một loại hình nghệ thuật dân gian của dân tộc Mông hình thành và phát triển trong môi trường diễn xướng dân gian, phản ánh hiện thực muôn màu của đời sống bằng ngôn ngữ và cảm quan nghệ thuật của đồng bào Mông. Thơ ca dân gian Mông có nhiều phương thức biểu hiện phong phú trong sinh hoạt khi nói, khi đọc thành lời, kết hợp với âm nhạc trở thành những làn điệu dân ca. Như vậy, đối tượng quan tâm của công trình này là các văn bản nghệ thuật thơ ca dân gian Mông bao gồm cả nội dung và hình thức, thể hiện trực tiếp ở phần lời các bài ca, truyện thơ, kể cả một số câu đố, tục ngữ có nội dung kèm vần điệu. 1.1.2. Khái niệm văn hóa và văn hóa Mông Các định nghĩa về văn hóa trên thế giới và trong nước rất đa dạng (S.Pfendorf, W. Thomas, E.B. Tylor, F. Boas, Hồ Chí Minh UNESCO...) . Mỗi định nghĩa đề cập đến những dạng thức, bình diện hoặc những lĩnh vực khác nhau trong văn hóa. Tuy nhiên, dù nhấn mạnh về khía cạnh tinh thần hay nhấn mạnh cả hai khía cạnh vật chật và tinh thần thì cũng có những điểm chung khi nhận định văn hóa là tất cả những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, được chi phối bởi môi trường (tự nhiên và xã hội) xung quanh và tính cách của từng tộc người. Từ những khái niệm văn hóa của các nhà khoa học trong và ngoài nước, kết hợp với thực tiễn khảo sát và nghiên cứu các di sản văn hóa của dân tộc mình, chúng tôi đi đến nhận định về khái niệm văn hóa Mông: Văn hóa Mông là một nền văn hóa có truyền thống lâu đời được kết tinh bởi những giá trị vật chất và tinh thần của người Mông trong mối quan hệ gắn bó với thiên nhiên, xã hội, phong tục tập quán, hình thành trong quá trình lịch sử cư trú, đấu tranh sinh tồn, lao động sản xuất và sáng tạo mang tính đặc thù dân tộc, là một phần tinh hoa và bản sắc văn hóa Việt Nam. Theo hướng tiếp cận lấy hoàn cảnh văn hóa – xã hội, lịch sử như “ngọn nguồn” của sáng tạo văn học, luận án Thơ ca dân gian Mông từ góc nhìn văn hóa của chúng tôi tập trung đi sâu khai thác thơ ca dân gian với tư cách là một di sản văn hóa phi vật thể và đặt nó trong mối quan hệ với đời sống hiện thực phong phú của đồng bào gắn bó mật thiết với lao động sản xuất, phong tục tập quán, tôn giáo tín ngưỡng, lễ hội... của người Mông. Văn hóa chính là cơ sở quan trọng cho việc tiếp cận và lí giải những đặc trưng mang tính bản sắc của thơ ca dân gian dân tộc Mông. 1.2. Vấn đề tộc danh và lịch sử dân tộc Mông 1.2.1.Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài Qua các công trình, khảo sát dân tộc học của các học giả nước ngoài cho thấy, về nguồn gốc lịch sử người Mông đều có điểm chung: Đây là một cộng đồng dân tộc thiểu số cư trú lâu đời ở vùng núi cao thuộc các nước Đông Nam Á, có ngôn ngữ riêng và tập quán du cư, nhưng vấn đề tộc danh vẫn chưa có sự thống nhất trong cách phiên âm theo hệ thống chữ cái la tinh. 5 1.2.2.Tình hình nghiên cứu ở trong nước Sang đầu thế kỉ XX, lịch sử đất nước có nhiều thay đổi, trên một số tờ báo và cuốn sách đã đề cập tới dân tộc Mông nhưng chỉ là những thông tin ít ỏi. Lâm Tuyền Khách (Lan Khai) là cây bút đầu tiên có bài khảo cứu về nguồn gốc dân tộc Mông nhan đề “Mán Mèo” đăng trên báo Đông Pháp số 3043 năm 1935, tác giả cho biết nguồn gốc tên gọi và gốc tích dân tộc Mông có từ Trung Hoa di cư sang Việt Nam dựa vào những căn cứ lịch sử, ngôn ngữ và văn hóa. Những năm gần đây đã có một số công trình nghiên cứu về văn học dân gian và văn hóa Mông, tìm hiểu nguồn gốc quá trình phát triển của dân tộc. Mông Là một cộng đồng dân tộc thiểu số có tên gọi riêng, người Mông có ý thức về tộc danh của mình với cách phát âm của đồng bào “H’Mông”, nhưng cách gọi tên và phiên âm trong Tiếng Việt hơn nửa thế kỉ qua không thống nhất (Mán Mèo, Mèo, H’Mông, Mongz). Vấn đề xác định tộc danh và vị trí dân tộc của đồng bào Mông đã được đặt ra từ trước 1945, nhưng chưa đầy đủ và sát thực. 1.2.3. Kết luận về tộc danh Dựa trên cơ cấu về ngữ âm học lịch sử, truyền thống văn hóa và ý thức của người Mông về tộc danh cùng với các văn bản mang tính pháp quy đã ban hành, chúng tôi đề nghị dùng tên gọi dân tộc Mông là tộc danh chính thức cho dân tộc mình. 1.3. Hoạt động sưu tầm, dịch thuật, nghiên cứu thơ ca dân gian và văn hóa Mông 1.3.1. Thời kỳ trước 1945 Trước 1945 khi nước ta còn là thuộc địa của thực dân Pháp, trong nước chưa có phong trào sưu tầm, dịch thuật và nghiên cứu thơ ca dân gian các dân tộc thiểu số một cách hệ thống. Năm 1932, Lan Khai là nhà văn đầu tiên ở Việt Nam đã sưu tầm, dịch thuật và giới thiệu một số bài ca dân gian và truyện cổ dân gian Mông ở các tỉnh miền núi phía Bắc dùng làm thành phần xen cho tiểu thuyết “Lô HNồ”. Trong đó có bài ca Xứ Mông nói về nguồn gốc người Mông cùng các Bài ca trồng Ngô (Oa tê páo cư) và Bài ca trồng lúa (Crông oa là) nói về lịch biểu gieo trồng ngô lúa của người Mông. Năm 1936, Lan Khai sưu tầm và dịch thần thoại Chử Lầu từ tiếng Mông sang tiếng Việt, xen trong tiểu thuyết Bóng cờ trắng trong sương mù đăng trên Tiểu thuyết Thứ Bảy 1.3.2. Thời kỳ sau 1945 trở đi Qua việc khảo sát lịch sử vấn đề sưu tầm, nghiên cứu thơ ca dân gian Mông, chúng tôi đưa ra một số nhận xét sau: Thứ nhất, về tình hình sưu tầm thơ ca dân gian từ sau 1960 trở đi đã từng bước phát triển, đặc biệt là các di sản văn học dân gian các dân tộc thiểu số nói chung và dân tộc Mông nói riêng, nhưng kết quả sưu tầm, dịch thuật và nghiên cứu Thơ ca dân gian Mông vẫn chưa toàn diện, chủ yếu ở bề nổi mà bỏ qua “bề chìm” của lễ nghi phong tục. Thậm chí thời gian trước đây do quan điểm văn hóa còn phiến diện và cực đoan, nên những di sản văn hóa tâm linh bị qui vào phạm trù mê tín dị đoan không được nghiên 6 cứu tới. Nhiều nhà sưu tầm đã bỏ qua các di sản thơ ca liên quan tới tín ngưỡng bản địa và đặc thù phong tục tập quán của người Mông. Đó là các bài cúng tế của các thày mo, những bài ca trong cưới xin, tang lễ, trong cầu mùa, cầu an, giải hạn, các tài liệu về lí số, các tục kiêng kị theo tín ngưỡng dân gian lưu truyền trong sinh hoạt của đồng bào. Mặt khác, hoạt động sưu tầm văn hóa Mông trong đó có thơ ca dân gian trên 40 năm qua diễn ra chưa đồng đều trong cả nước, chủ yếu tập trung ở Hà Giang và một số tỉnh Lao Cai, Sơn La, do vậy còn nhiều di sản hay của đồng bào ở các vùng như Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Sơn La, Lai Châu, Nghệ an vẫn chưa được khám phá đầy đủ. Thứ hai, về tình hình nghiên cứu thơ ca dân gian Mông, cho đến nay chưa có công trình nào khảo sát toàn diện những giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của thơ ca dân gian Mông với tính đặc thù nghệ thuật từ góc nhìn văn hóa; chưa kết hợp một cách hài hòa giữa nghiên cứu văn hóa học với nghiên cứu chuyên ngành và liên ngành, sưu tầm điền dã, khảo sát môi trường sinh thái văn hóa của đồng bào Mông. Do đó, có công trình khái quát về văn hóa, nhưng chưa bao quát được trung tâm văn hóa người Mông; có công trình đi vào một số nét về loại hình nghệ thuật nhưng chưa sâu, có công trình nhắc đến truyền thống thơ ca dân gian nhưng còn sơ lược; một số bài viết có nói đến đặc điểm phong tục nhưng chưa làm nổi bật được bức tranh toàn cảnh thơ ca dân gian muôn màu sắc của đồng bào. Thứ ba, thao tác cần thiết của người nghiên cứu không thể chỉ căn cứ qua bản dịch mà phải đối chiếu bản dịch với nguyên tác, hoặc phải được tiếp cận với văn bản ngôn ngữ của chính dân tộc ấy. Ngoài các công trình của tác giả Hùng Đình Quí chuyển dịch từ nguyên bản, còn phần lớn các công trình trên đều bỏ qua nguyên tác mà cảm thụ nghệ thuật thơ ca dân gian Mông chỉ qua bản dịch. Việc nghiên cứu về thơ ca dân gian Mông một cách toàn diện, quy mô, hệ thống từ góc nhìn văn hóa chưa được giới nghiên cứu quan tâm đúng mức đã khiến cho việc nhìn nhận, đánh giá chưa đầy đủ về vị trí, vai trò của thơ ca dân gian trong đời sống đồng bào. Do vậy, việc triển khai thực hiện luận án Thơ ca dân gian Mông từ góc nhìn văn hóa là một công việc cần thiết cho nghiên cứu văn học, đặc biệt là văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. CHƯƠNG 2 QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT, VŨ TRỤ, NHÂN SINH TRONG THƠ CA DÂN GIAN MÔNG 2.1. Thơ ca dân gian Mông trong đời sống dân tộc Mông Trong đại gia đình 54 dân tộc Việt Nam, dân tộc Mông đứng hàng thứ 8 về dân số (trên 80 vạn người), chiếm tỷ lệ gần 1% dân số cả nước. Đây là một dân tộc có bề dày lịch sử và nền văn hóa dân gian độc đáo. 2.1.1. Vị trí thơ ca dân gian Mông Tồn tại dưới dạng các làn điệu dân ca và những câu nói có vần nhịp, thơ ca dân gian Mông trở thành phương tiện sinh hoạt, kinh nghiệm sống, lưu giữ nếp sống cộng 7 đồng, gắn liền với nhịp sống của đồng bào. Thơ ca dân gian Mông được dùng trong mọi sinh hoạt sống thác của người Mông. 2.1.2. Đời sống thơ ca của người Mông Trong kho tàng văn học dân gian Mông, thơ ca chiếm một dung lượng lớn và gắn liền với mọi sinh hoạt con người từ khi lọt lòng đến lúc về với tổ tiên. Thơ ca dân gian Mông là hình ảnh của nền văn hóa Mông, trong lao động, sinh hoạt, cư trú, vui chơi, ẩm thực, trang phục, hội hè, tang lễ, cưới xin... Thơ ca dân gian tồn tại trong sinh hoạt gắn liền với các làn điệu (khơưr cxiêx, fiêx phangz, hu gâux, hu plì, heil jangz yôngz, xưr mê nhuôv). Sinh hoạt dân ca là hình thức thường trực, phổ biến trong cuộc sống người Mông, nơi đâu có hoạt động sống của người Mông nơi đó có thơ ca dân gian Mông. 2.1.3. Hình thức diễn xướng Các bài dân ca được hát với 2 hình thức: hát theo nghi lễ và hát tự do. Hát nghi lễ là hát trong đám cưới, đám ma, cúng lễ các thần linh... Hát tự do là hát trong bất kỳ môi trường diễn xướng nào. 2.2. Các quan niệm trong thơ ca dân gian Mông 2.2.1. Quan niệm nghệ thuật Thơ ca dân gian Mông phản ánh và sáng tạo cái đẹp, nâng cao nhận thức của con người và là bức tranh chân thực về con người và hoạt động; là hình ảnh ước mơ và hạnh phúc; là trò chơi hồn nhiên và trí tuệ. 2.2.2. Quan niệm về vũ trụ, thời gian, không gian 2.2.2.1. Quan niệm về vũ trụ Quan niệm về thế giới một cách hồn nhiên, trong thơ ca dân gian, vũ trụ không phải được tạo ra bởi một đấng độc tôn, mà được tạo ra bằng những hành động lao động cụ thể của con người. Nếu các dân tộc khác giải thích nguồn gốc loài người bằng hình ảnh “quả bầu”, “bọc trăm trứng”... thì ở thơ ca dân gian Mông xuất hiện hình tượng “bọc thịt”. Hình tượng “bọc thịt” ăn sâu vào tiềm thức của đồng bào Mông từ bao đời nay và góp phần không nhỏ vào việc xây dựng ý thức gắn kết cộng đồng. Thơ ca dân gian Mông còn phản ánh những quan niệm rất riêng về trời, đất, thiên nhiên, nương rẫy... Nét độc đáo trong thế giới quan của người Mông ở chỗ là tất cả những lý giải về nguồn gốc vũ trụ, nguồn gốc con người và muôn loài, ý thức cộng đồng... mang đậm chất thần thoại được kết cấu chặt chẽ trong áng văn chương mang tính sử thi: "Bài ca chỉ đường". Bài ca thần thoại ấy, cho đến nay vẫn tồn tại sống động trong cộng đồng, và chính vì thế nó vẫn tiếp tục được lưu truyền và bảo lưu bền vững trở thành một lệ tục “linh thiêng” không thay đổi trong suốt quá trình lịch sử. 8 2.2.2.2. Quan niệm thời gian và không gian nghệ thuật Không gian nghệ thuật trong thơ ca dân gian Mông rất đa dạng, có lúc là thiên nhiên đa sắc màu, không gian sinh hoạt hàng ngày, có lúc lại là không gian siêu nhiên huyền bí biểu hiện quan niệm tâm linh của con người. Do cư trú ở vùng núi cao, heo hút, nơi thưà đá nhưng thiếu đất và nước nên trong thơ ca dân gian Mông hình ảnh núi cao, suối lũ, thung lũng, hang sâu, hốc đá, nương rẫy, phiên chợ, con đường gập ghềnh... luôn hiện lên tràn ngập trong các bài ca Không gian hẹn hò đặc biệt: “Mình có lòng thương ta/ Xin hẹn phiên chợ tới ta gặp nhau một ngày”. Không gian ấy khi cần lại diễn tả thật sâu sắc nỗi khổ đau bất hạnh của con người :“Đường làm dâu con đường như ống đũa/ Đường làm dâu đường nước mắt giàn giụa”. Khác với thơ ca dân gian các dân tộc, thơ ca dân gian Mông rất ít sử dụng từ chỉ địa danh, có lẽ do tập quán du cư. Thời gian nghệ thuật trong thơ ca dân gian Mông không chỉ thể hiện quan niệm của người Mông về thời gian mà còn là một hình tượng thời gian sinh động, là sự cảm thụ, là ý thức về thời gian được dùng làm phương tiện nghệ thuật để tổ chức mạch cảm xúc và kết cấu lời ca. Thời gian nghệ thuật trong thơ ca dân gian Mông chủ yếu là thời gian hiện tại, tương lai. Nhưng trong các bài ca nghi lễ tang ma là thời gian đồng hiện, từ hiện tại trở về quá khứ rồi hướng đến tương lai nhằm bộc lộ tình cảm, cảm xúc và phản ánh quan niệm sống của đồng bào. Thơ ca dân gian Mông thể hiện sự chảy trôi của thời gian bằng những hình ảnh rất riêng, thời gian ấy không thể tính bằng giây, bằng phút một cách đơn giản, mà được đo đếm một cách độc đáo: “Gầu Mông giấu hình dạng ngón tay đrâu Mông/ Đem ngắm hàng chợ hàng tháng không xong…”. Người Mông không sử dụng trong câu hát của mình các đơn vị thời gian như giây, phút, giờ, tuần mà chỉ tập trung vào các đơn vị ngày, tháng, năm, đêm. 2.2.3. Quan niệm nhân sinh Hình tượng thơ ca và phương thức biểu hiện của người Mông có quan hệ đến tín ngưỡng, cảm quan thẩm mĩ của dân tộc. Người Mông có cả một hệ thống quan niệm về sống chết, đẹp xấu, yêu ghét, bạn thù v.v. Quan niệm sống của người Mông, xuất hiện trong các sinh hoạt phong tục và lao động cụ thể. Ngay trong tiếng khóc ngày tang lễ cũng nói nhiều đến sự sống. Xuất phát từ cảm nhận “Tuổi xuân ngắn tũn tựa ống bương/ Tuổi già dằng dặc như chân trời cùng” và cái ý thức “Sống là khổ đấy/ Chết là nát tan” đã hình thành một quan niệm sống rất cụ thể: “Ít khóc, ít than mà nghĩ nhiều đến công việc làm ăn”. Xuất phát từ quan niệm về vòng đời, người Mông cho rằng, con người dù chỉ sống ba buổi sáng cũng là một đời; khi ai đó trút hơi thở cuối cùng, có nghĩa là đã hoàn thành 9 phận sự ở thế giới mặt đất; chết chưa phải là hết mà là được đi đầu thai kiếp khác nên khi bế tắc, người ta đặt niềm tin vào cuộc sống ở kiếp khác. Lòng tin là thước đo là quy ước sống của đồng bào Mông. Mất niềm tin với nhau là mất đi tất cả những giá trị sống ở đời. Điều đó nằm trong “cái lí” của người Mông hình thành lâu đời trong lịch sử; thứ lý lẽ “độc nhất vô nhị” tạo nên một nguyên tắc ứng xử rất riêng. Quan hệ họ hàng, “sự ràng buộc và liên kết người “cùng ma” rất chặt chẽ”: Sống là người của dòng họ, chết là ma của dòng họ. Sống phải bảo vệ nhau, chết phải chôn cất cho nhau. Đồng bào Mông rất coi trọng và đề cao mối quan hệ gia đình và có quan niệm rất rõ ràng: “Một tay cầm không chắc, một chân đứng không vững, ở một mình không thể gọi là một gia đình”. Trong gia đình người Mông, nam giới là nhân tố được quan tâm hàng đầu trong xã hội, là cốt lõi của gia đình, là “hình bóng” của cha mẹ, là niềm tin của thế hệ đi trước. Thân phận của người phụ nữ được thể hiện rõ qua mối quan hệ “nam tôn nữ ti” giữa các thành viên của gia đình: “Nuôi con lợn béo còn được ăn mỡ/ Nuôi con gái lớn không được cái gì”. Với những người phụ nữ Mông phục tùng chồng và chăm sóc chồng được coi là nghĩa vụ tất yếu. Mối quan hệ một vợ một chồng tồn tại vững chắc và là hạt nhân của quan hệ gia đình người Mông. CHƯƠNG 3 BỨC TRANH HIỆN THỰC MUÔN MÀU TRONG THƠ CA DÂN GIAN MÔNG 3.1. Thơ ca dân gian Mông với môi trường sinh thái và quan hệ cộng đồng 3.1.1. Bức tranh thiên nhiên trong thơ ca dân gian Mông 3.1.1.1. Thế giới thiên nhiên muôn màu muôn vẻ Trong thơ ca dân gian Mông mọi biểu hiện tình cảm của con người đều liên quan mật thiết với thiên nhiên. Thiên nhiên trở thành bối cảnh, duyên cớ dẫn dắt cảm xúc để cho tâm trạng con người bộc lộ. Tình cảm con người luôn được so sánh, ví von với các hình tượng tự nhiên. Thiên nhiên trong thơ ca dân gian Mông không chỉ là nỗi khiếp sợ: "Núi đá đè hang núi sắp sập"... mà còn là những bức tranh đẹp, sinh động và gần gũi như cỏ cây, hoa lá chim muông. Nói đúng hơn, tất cả những gì thân thuộc gắn bó với cuộc sống của người Mông đều in bóng trong thơ ca. 3.1.1.2. Mối quan hệ con người với thế giới thiên nhiên Thơ ca dân gian Mông mô tả thiên nhiên trong mối quan hệ mật thiết với con người, thiên nhiên luôn là phương tiện đắc lực, giúp đôi lứa thổ lộ tâm tình, là “cái cớ” để đôi lứa tìm đến với nhau. Thiên nhiên trở thành chuẩn mực để diễn tả vẻ đẹp con người. Thiên nhiên là hoàn cảnh sáng tác... hoàn cảnh nảy sinh và hình thành thi hứng dân gian và là một trong 10 những yếu tố cấu tứ của bài hát; hơn tất cả “thiên nhiên là cái nôi tuyệt vời chắp cánh cho tâm hồn con người”. 3.1.2. Bức tranh về lao động sản xuất, quan hệ xã hội trong thơ ca dân gian Mông 3.1.2.1.Môi trường lao động sản xuất Quan niệm “Mặt trời mọc thì làm, mặt trời lặn thì nghỉ” đã gắn chặt cuộc đời người Mông với núi rừng, với nương rẫy nên người ta hiểu và trân trọng giá trị của lao động: "Có được miếng ăn/ Chẳng biết phải bao nhiêu nước mắt rơi xuống các ngọn đồi/ Làm ra miếng mặc/ Chẳng hiểu bao nhiêu nước mắt rụng xuống các thung lũng" . Cũng vì thế nên thơ ca dân gian Mông rất ít bài nói riêng về lao động sản xuất nhưng vẫn chứa chan tình yêu lao động, lao động luôn đi liền với đạo lý làm người. 3.1.2.2. Quan hệ con người với con người Thơ ca dân gian Mông phản ánh sâu sắc các mối quan hệ gia đình và cộng đồng. Truyền thống cần cù lao động, trung thực thẳng thắn, hiếu khách là đặc điểm nổi bật trong lối sống của người Mông. Với quan niệm: “nói ít làm nhiều, không làm dứt khoát không nói trước”, người Mông rất coi trọng tín nghĩa, danh dự, niềm tin luật tục bản làng và tình cảm cộng đồng. Người Mông đã có những câu nói cửa miệng như: “Người Mông ta” (Pêz Hmôngz) hay như cách nói: “Chúng ta cùng một hạt lanh gieo xuống đất” (pêz sơưr đơưl iz luz nôngz max kril têz). Dù ở bất cứ nơi đâu, quốc gia nào, dù mới lần đầu gặp nhau nhưng khi đã nhận ra người cùng dân tộc, đặc biệt cùng dòng họ thì người Mông coi như anh em ruột thịt, sống chết cùng nhau. Trong thơ ca dân gian Mông, tình cảm gia đình được nói bằng hình ảnh rất cụ thể: “Mẹ sinh ra các ngươi còn bé tẹo/ Ngón chân bằng quả lanh/ Các người còn ăn ở trên cánh tay cha/ Mẹ lấy đầu gối làm ghế cho ngồi…/ Các người còn ăn ở hai bên ngực mẹ/ Mẹ lấy đầu gối làm ghế cho đứng/ Mẹ lấy lưng địu mình nằm…”. Vì thế, cho dù: “Củi cong khó đun – Người già khó chiều” nhưng phụng dưỡng và kính yêu cha mẹ là đạo lý muôn đời. Dưới mái nhà Mông, mối quan hệ anh em cũng chiếm một vị trí quan trọng. Anh em trưởng thành, dù sống gần hay xa nhau, khác nhau về quan điểm, lẽ sống, thậm chí có thể đối lập nhau về ý thức chính trị, khác xa nhau về vị trí trong xã hội... nhưng chẳng ai có thể quên cái gốc “cùng ma” của gia đình và dòng họ. Thành tố quan trọng được đề cao trong xã hội truyền thống của đồng bào Mông là sự thương yêu và lòng chung thủy. Biểu trưng cho hạnh phúc đơn sơ của vợ chồng người Mông còn được thể hiện qua hình ảnh cụ thể chiếc giường hẹp với ý nghĩa “Vợ chồng cãi nhau không bỏ giường”, và hình ảnh“ Anh sẽ cho em đi trước suốt đời” 3.1.3. Tình yêu đôi lứa trong thơ ca dân gian Mông Những bài thơ tình yêu chiếm vị trí quan trọng và nhiều giá trị nhất. Chúng tôi thống kê trong 335 bài ca đã được sưu tầm và xuất bản có tới hơn 296 bài nói đến đề tài tình yêu (chiếm 88%). Đã có những ý kiến cho rằng “có sự phân chia và có thể phân biệt rõ về đối tượng và phạm vi sử dụng của từng bài” trong tiếng hát tình yêu của người 11 Mông. Tuy nhiên, trên cơ sở khảo sát văn bản và kết quả điền dã thực tế việc căn cứ vào nội dung các bài hát để xác định đối tượng sử dụng chỉ là tương đối. Trong thơ ca dân gian Mông mọi cung bậc và trạng thái tâm hồn con người từ lúc bắt đầu làm quen, ướm hỏi cho đến khi kết tóc xe tơ hay những nghịch cảnh éo le gây nên bao đau thương uất hận... đều được diễn tả một cách sống động. Tâm lý, thị hiếu và điều kiện sống không phải bao giờ cũng đồng nhất giữa các dân tộc cho nên bên cạnh những nét chung, thơ ca dân gian Mông vẫn nổi rõ sắc thái biểu hiện riêng trong cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh không trộn lẫn với các dân tộc khác. Nghệ sĩ dân gian đưa vào thơ hình ảnh sinh hoạt đời thường. Dân gian chỉ nói sàng gạo, sàng bột nhưng ở đây lại “Sàng tốt sợi chỉ tình”. Coi trọng hạnh phúc gia đình, đề cao tình yêu chân chính, nhưng ước mơ lại thật giản dị: “ Giá thân em là sợi lanh sợi tơ/ Anh quấn vào người để sợi cùng anh đi” “cái kim, sợi chỉ cài vạt áo” Trong dân ca Mông, nỗi nhớ được nói đến thật đặc biệt: “Ta lê bước về nhà/ Mà hồn còn ngủ ở thắt lưng em”. Không bàn nhiều về nỗi nhớ, nhưng chỉ riêng hình ảnh xa nhau mà “hồn còn ngủ ở thắt lưng em”, đã nói hết được cái chân thành thắm thiết của tâm trạng con người đang yêu. Muốn hiểu thơ ca của mỗi dân tộc, trước hết hãy hiểu chính con người và đời sống sinh hoạt của họ. Có như vậy, mới thấy sự sâu sắc về tình yêu, sự chân thật trong khát vọng sống của đồng bào: Anh mà lấy được em/ Anh sẽ cho em đi trước vui mừng...”. Trong tư thế đi sau, chàng trai Mông muốn khẳng định vị trí: sẽ là người bảo vệ, che chở cho người thân yêu của mình. Cách chứng minh tình yêu của nam nữ thanh niên Mông cũng thật độc đáo, hình ảnh giàu sức cảm hoá:“cắt máu ăn thề”. Thơ ca dân gian Mông phản ánh tín ngưỡng và cảm quan thẩm mỹ của người Mông. Đồng bào xưa tin rằng: con người chết chưa phải đã hết, cho nên khi mối tình tuyệt vọng trai gái Mông vẫn hy vọng vào cuộc sống tương lai khác. Vì thế, họ thề nguyền lòng chung thuỷ cả khi chết ; xuất phát từ thú vui trảy chợ, họ quan niệm nếu không lấy được nhau trên cõi trần thì bước vào kiếp khác: “Chúng ta chết đi nắm tay nhau trảy chợ thong dong”. Dù không nhiều, song ta cũng gặp trong thơ ca dân gian Mông những đoạn kết dang dở nhưng vẫn chan chứa tình: “Tình yêu lứa đôi đến giờ này/ Hai đứa để làm ngoại nội mà thăm nhau”. Câu thơ như một lời tự an ủi mình, nhưng lại sáng lên niềm tin vào tương lai. Mỗi bài thơ là một cuộc đời, họ hát lên là để kể lại chính cuộc đời mình với những hạnh phúc, khổ đau, bất hạnh. Tiếng hát tình yêu, vì thế, có thể vang đến mọi nơi, mọi nhà, trên nương và trong các ngày hội ngày chợ... 3.1.4. Tiếng hát than thân, phản kháng trong thơ ca dân gian Mông 3.1.4.1. Tiếng hát làm dâu Tiếng hát làm dâu là một mảng đề tài lớn của thơ ca dân gian Mông, đó “là tiếng hát yêu thương, tiếng hát căm hờn, ngàn đời của phụ nữ Mèo” phản ánh sâu sắc bi kịch thân phận và 12 quyền sống của con người. Chế độ “hôn nhân mua bán” từ lâu ăn sâu vào tiềm thức của người Mông trở thành một luật tục truyền đời khiến cho lời than thân trách phận bao trùm trong thơ ca. Khát vọng tình yêu, những cảnh đời éo le, những uất ức đau khổ kết đọng lại trong người phụ nữ thành những bài ca cháy bỏng tự do. 3.1.4.2. Tiếng hát mồ côi Trong xã hội người Mông xưa bất công và hủ tục lạc hậu đè nặng lên cuộc đời mỗi con người. Vì thế, bên cạnh tiếng hát than thân phản kháng trong tình yêu, hôn nhân là tiếng hát than thân phản kháng của những kẻ mồ côi sống bơ vơ, khốn khổ. Sống ở những vùng núi cao hiểm trở lạnh giá quanh năm, cuộc sống nghèo nàn lạc hậu nên kẻ mồ côi được ví như con chim lôi, que đuổi gà. Đằng sau tất cả những lời than vãn, phê phán là khát khao cháy bỏng về tình yêu tự do, về cuộc sống bình đẳng, đầy đủ cả vật chất lẫn tinh thần và cao hơn hết là khát vọng một xã hội công bằng. 3.1.5. Phê phán những thói hư, tật xấu trong xã hội Cùng với tiếng hát than thân phản kháng của nam nữ trong tình yêu, tiếng nói phê phán thói hư tật xấu cái ác trong xã hội người Mông cũng thật mạnh mẽ. Nó có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với sự rèn luyện phát triển nhân cách của mỗi người. Đó là những kinh nghiệm trong cuộc sống để nâng cao nhận thức và hành động về đạo lý, nếp sống thuần phong mỹ tục, cách xử thế có tình có lý để sống và hành động theo đạo đức truyền thống của dân tộc. Từ sự phê phán cái xấu để hướng con người tới cái đẹp, sự chuẩn mực trong cuộc sống của con người. 3.2. Thơ ca dân gian Mông với lễ nghi phong tục 3.2.1. Thơ ca dân gian với lễ hội Tác giả Hồng Thao trong cuốn “Âm nhạc dân tộc Hmông” đã nhận định: "Tiếng hát điệu khèn của người Hmông như những bát "miền miến" mỗi ngày hai bữa", thơ ca có mặt ở bất cứ nơi đâu và bất cứ lúc nào, có thể nói "ở đâu có sự sống" ở đó có tiếng hát. Điều này cũng được thơ ca dân gian phản ánh: “Người Mông lấy đàn hát ca múa làm vui quanh năm” Tết Nguyên Đán được coi là ngày lễ lớn mang tính cộng đồng. Trong những ngày tết, ngoài việc đi thăm hỏi chúc tụng, bà con người Mông còn tổ chức nhiều hội vui xuân như đánh yến, đánh quay, chơi quay người đập bóng, hội vỗ mông... và đặc biệt là hội hát giao duyên với hình thức hát đối trực tiếp hoặc cũng có thể hát ống. Người ta có thể hát đối đáp thâu đêm suốt sáng, hát ca ngợi cuộc sống, trao đổi tâm tình, song cũng có khi họ hát để kể về chính cuộc đời của mình... Có khi cuộc hát kéo dài mấy ngày liền, lời hát cứ trải dài bất tận: " Đôi ta không biết hát thì thôi/ Biết hát, ta hát như cây tre cây bương đua nhau mọc" và:"Bài hát sắp hết lại không hết/ Hết như bầy trẻ trai ". Lời hát cứ vang lên cho đến khi "trâu đất biết đi lại húc nhau giữa bàn" mà vẫn còn bịn rịn, lưu luyến “chỉ lo ngày kể chuyện khổ chẳng được bao nhiêu/ ngày kể chuyện khổ chẳng được là mấy”. 13 Một sinh hoạt mang sắc thái miền núi rõ nét phải kể đến văn hóa chợ. Chợ tiếng Mông là kiê hoặc khư. Với người Mông, chợ không chỉ là nơi giao lưu hàng hóa, mà còn là nơi gặp gỡ, giao lưu tình cảm, vì vậy người Mông quan niệm:“ Lòng dạ có tốt thì ra chợ mới biết...”. Sống ở vùng núi cao, giao thông khó khăn, thiên nhiên khắc nghiệt, cuộc sống lao động vất vả thì mỗi phiên chợ là niềm vui sống và hy vọng. Thơ ca dân gian không miêu tả khung cảnh chợ mà đã đề cập đến chợ phiên như một nét sinh hoạt tự nhiên của đồng bào. Hình ảnh chợ và chợ phiên vì thế đi vào lời ăn tiếng nói hàng ngày và trở thành cách tính thời gian thông dụng của đồng bào: "Mình có lòng yêu ta/ Xin hẹn phiên chợ này ta gặp nhau một buổi/ ... Mình có lòng thương ta/ Xin hẹn phiên chợ tới ta gặp nhau một ngày” và tạo linh hồn cho lời ca: "Chết đi được nắm tay nhau trảy chợ thong dong". Lễ hội đặc sắc nhất của người Mông là hội Gầu tào (Guôv taox). Lễ hội Gầu tào được tổ chức vào dịp tết hàng năm, là thời điểm kết thúc vụ mùa năm trước, chuẩn bị cho vụ mùa năm sau. Đây là một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng thể hiện rõ bản sắc văn hóa dân tộc, có sức hấp dẫn, lôi cuốn các lứa tuổi tham gia. Hội Gầu tào được tổ chức vào một ngày được ấn định sẵn với mục đích cúng tạ ơn trời đất đã ban cho con người sức khỏe, no ấm; bài ca trong lễ hội là lời cầu phúc, cầu lộc. Hội gồm hai phần chính: phần lễ và phần hội. Thày cúng sẽ thực hiện bài cúng với những bài ca có tính chất nghi lễ ôn lại truyền thống, thể hiện những quan niệm về vũ trụ nhân sinh, tín ngưỡng, nguồn gốc cây nêu, nguồn gốc lễ hội...: Phần hội được bắt đầu với nhiều trò chơi dân gian, nhưng lôi cuốn nhiều đối tượng tham gia nhất chính là hát đối đáp với nhiều chủ đề: hát gặp gỡ làm quen, bạn bè, hát cầu nguyện sức khỏe, may mắn, hát giao duyên... hết đôi này đến đôi khác, tốp này đến tốp khác, cuộc hát kéo dài ba, bốn ngày trong không khí vui mừng, với nhiều cung bậc sôi nổi, yêu thương, tha thiết, hờn giận, buồn tủi, lưu luyến... Không phân biệt tuổi tác, mọi người đều có thể tham gia hát. Người đã có vợ, có chồng rồi cũng hát về những niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống của mình. Cái hay cái đẹp của câu hát không chỉ thể hiện tâm hồn phóng khoáng, mà còn diễn tả tâm trạng của người hát. Lễ hội Gầu tào vừa mang tính hiện thực, vừa có tính lãng mạn, là tổng hòa của tín ngưỡng và văn hóa nghệ thuật, tinh thần và vật chất, linh thiêng và dân dã; là nơi nuôi dưỡng, bảo lưu và phát triển nền văn học nghệ thuật Mông. 3.2.2. Thơ ca dân gian trong hôn lễ Tiếng hát trong lễ cưới của người Mông được chia làm hai loại nhỏ là hát nghi thức và hát vui chơi. Hát nghi thức do nam giới, chủ yếu là các ông mối của nhà trai, nhà gái thực hiện. Các ông mối dùng lời hát để trao đổi với nhau về các vấn đề cưới hỏi bằng những bài hát theo trình tự các nghi thức bắt buộc: "Từ nhà trai", “Nhận lễ đem đi”, "Tới nhà gái", “Xin mở cửa”, “Hát giấu chìa khóa”, “Xin ghế ngồi”, “Kê chân bàn”, “Giao thịt rượu”, “Xin mâm giao tiền”, “Giao tiền”, “Cám ơn chè thuốc”, “Lật bàn”, “Phép cơm”, “Xin ô”, “Trao ô”... Cách hát đố tế nhị có hình ảnh, câu trả lời cũng khéo léo không chỉ làm không khí đám cưới thêm vui vẻ, mà còn là cách thức để tạo sự gắn 14 bó giữa hai bên, đồng thời qua câu hát, nhà trai cũng tự khẳng định trách nhiệm của mình trước hạnh phúc của đôi trẻ. Lễ cưới người Mông diễn ra rất độc đáo như một trò diễn có nhân vật, kịch tính, có cái thực và có cái ước lệ. Về cơ bản lời bài hát vẫn mang tính nghi thức, nhiều ngôn từ mang tính hoa mỹ nhưng đã thể hiện được những tình cảm riêng tư. Có thể nói tính tự sự và trữ tình đã hòa quyện đan xen với nhau và điều rõ nhất toát lên từ các bài ca cưới xin đó là ngôn ngữ, hình ảnh mộc mạc, bình dị và gần gũi với thiên nhiên tạo nên một nét đẹp trong văn hóa truyền thống dân tộc Mông. Sự tồn tại hình thức sinh hoạt như hát đối đáp trong đám cưới mang tính chuyên dùng là một hiện tượng quý song đã và đang mai một dần cùng với thời gian trong hoàn cảnh văn hóa hôm nay. 3.2.3. Thơ ca dân gian trong tang lễ Cùng chung quan niệm “sống gửi thác về” như các dân tộc khác, tang lễ không chỉ là một nghi lễ lớn trong đời sống gia đình và xã hội người Mông gắn với ý thức tâm linh, mà còn là một hiện tượng văn hóa bao gồm nhiều nghi lễ khác nhau, phản ánh các quan niệm về lịch sử xã hội của một cộng đồng dân tộc. Tang lễ được tổ chức chu đáo và trọng thể, ứng với mỗi nghi lễ có bài hát và bài khèn, gồm bài hát chỉ đường và các bài hát làm đám. Trong đó Bài ca Chỉ đường (Khúa kê – kuôz cê) vừa là tác phẩm nghệ thuật vừa là nghi thức phong tục độc đáo của người Mông. Bài ca Chỉ đường trước hết thể hiện đầy đủ các nghi thức mà thầy cúng sẽ tiến hành trong lễ Chỉ đường. Cũng là những bài ca tiễn biệt người đã khuất, văn tế của đồng bào Kinh có thể đem đọc cho nhau nghe mà không hề cấm kỵ. Song bài ca Chỉ đường của người Mông chỉ được hát lên trong những giây phút đặc biệt linh thiêng, theo tập quán của đồng bào đây là biệt loại ca, không bao giờ được phép hát hay đọc ngoài đám ma. Sự nghiêm ngặt này cho thấy ý nghĩa thiêng liêng của bài ca. Không chỉ là bài ca nghi lễ, “Chỉ đường” còn là một áng thần thoại phản ánh lịch sử, thế giới quan, nhân sinh quan của người Mông thời xa xưa. Xuyên suốt những bài ca nghi lễ tang ma là một hệ thống những lời dặn dò, lo lắng cho cuộc sống của người thân, mở ra hướng đi cho những người ở lại: “Thầy hãy về giúp ta bảo con cháu/ Ít khóc than mà nghĩ nhiều đến công việc làm ăn”. Xuất phát từ nhận thức về vòng đời, người Mông cho rằng, con người chỉ sống ba buổi sáng cũng là trọn một đời; chết chính là đi đầu thai kiếp khác. Và sự chết chẳng qua mở đầu cho một kiếp sống mới. Vì thế khi bước vào kiếp mới người chết cần được chỉ đường dẫn lối. Cũng từ quan niệm ấy, bài ca Chỉ đường còn có lời dặn dò người chết chọn kiếp để đầu thai: "Ông chết đi xuống âm phủ/ Ông đừng đầu thai bò cho người cày/ Ông đừng đi đầu thai ngựa cho người cưỡi…". Có thể thấy, quan niệm về sự sống, cái chết chi phối mạnh mẽ hành động và suy nghĩ của đồng bào Mông. Quan niệm ấy tuy thuần phác nhưng chứa đựng chiều sâu nhân bản. 15 Qua khảo sát 13 bài ca, 42 bài khèn tang lễ và 1 bài giới thiệu về lễ ma bò trong cuốn “Những bài khèn của người Mông ở Hà Giang” của tác giả Hùng Đình Quý cho thấy mỗi nghi lễ trong đám ma tươi, ma khô, ma bò lại có một bài khèn, bài ca riêng. Nét đặc sắc của thơ ca nghi lễ trong nghi lễ tang ma của người Mông là nội dung rất phong phú, người chết là nam hay nữ, già hay trẻ; nguyên nhân chết (ốm đau, tai nạn), cách chết (treo cổ, ăn lá ngón,... )... đều có bài khèn riêng. Trong tang lễ, lời đối đáp giữa tổng quản và khách viếng được lặp đi lặp lại nhiều lần nhấn mạnh tinh thần gắn bó trách nhiệm, tính cộng đồng sâu đậm của người Mông: “Anh em tới là có ơn/ Họ hàng đến là có nghĩa…/ Nghĩa của họ hàng ta xin báo đền trọn vẹn”, chỉ có “Tang chủ không biết làm người/ Thì mới đem ơn nghĩa ấy vứt vào rừng, bỏ vào núi… ”. Không giống với nghi lễ của dân tộc Kinh khi tổ chức đám tang, sau đó cúng tưởng nhớ người thác mệnh, người Mông khi có người thân qua đời phải tổ chức hai đám: đám ma tươi và đám ma khô. Đám ma khô có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống tâm linh của đồng bào Mông, là lễ cuối cùng của người sống cúng cho người chết, tiễn hồn người chết vĩnh viễn về với tổ tiên. Qua các bài ca trong đám tang, người đọc không chỉ hiểu đầy đủ các nghi lễ mà còn hiểu thêm những điều mà người Mông kiêng kỵ như: kiêng úp bát, úp chén hoặc gác đũa trên miệng bát trong khi ăn; đồng thời hiểu được vị thế "nhạc cụ thiêng" của cây khèn trong đời sống đồng bào. Ngoài các bài ca gắn với lễ hội, đám cưới, đám tang, còn một số bài ca được sử dụng trong các nghi thức gọi hồn. Đặc biệt là lễ gọi hồn chung cho tất cả các thành viên trong gia đình vào thời khắc giao thừa thiêng liêng và lời cầu mong năm mới thật đặc biệt: Trừ rắn rết, trừ đá lăn, trừ cây đè,/ Trừ lời xấu, lời gở, lời bịa đặt, lời vu khống/ Trừ ngựa vằn, ngựa đốm,/ Trừ gấm đỏ, máng rách;/ Trừ giấy goá, giấy bụa… hình ảnh “gấm đỏ, máng rách, giấy goá giấy bụa” lặp đi lặp lại đều chung mong ước tránh được bệnh tật, chết chóc, li tán…; đến cả trong câu hát người Mông cũng rất kiêng kỵ việc dùng những lời nói làm đau nhau, vì thế người ta“Trừ lời xấu, lời gở, lời bịa đặt, lời vu khống”. Có sống ở nơi đầy khó khăn với núi cao, vực sâu, giữa trùng trùng đá, luôn phải đương đầu với lũ quét, đá lở, có hiểu sâu sắc cuộc sống và khát vọng mang đậm nét văn hóa của người Mông, mới hiểu ý nghĩa của những hình ảnh trong thơ ca dân gian của họ. Tuy phần diễn xướng còn đơn giản, tính chất nhạc chưa nhiều song phần lời ca trong bài hát nghi lễ của dân tộc Mông lại chứa đựng những nội dung sâu sắc và phong phú. 16 CHƯƠNG 4 CÁC PHƯƠNG DIỆN CẤU TRÚC NGHỆ THUẬT TRONG THƠ CA DÂN GIAN MÔNG 4.1. Đặc điểm ngôn ngữ, thể thơ, giọng điệu 4.1.1. Ngôn ngữ Tiếng Mông nằm trong họ ngôn ngữ Miao – Yao (Mông – Miến), loại hình ngôn ngữ đơn lập âm tiết tính, với đặc điểm nổi bật là phụ âm đầu có số lượng lớn (55 âm vị), nhiều thanh điệu (8 thanh điệu); do chỉ có 8 nguyên âm và 4 âm cuối, lại không có âm đệm nên hệ thống vần rất ít (20 vần). Một đặc điểm quan trọng của tiếng Mông khi sử dụng láy từ là cả hai cách láy (cách láy vị từ và láy danh từ) đều là láy toàn bộ (vỏ ngữ âm của từ không biến đổi ). Về mặt ngữ pháp, trật tự câu đơn giản trong tiếng Mông cũng theo mô hình: Chủ ngữ - Vị ngữ - Bổ ngữ. Nhưng trật tự cú pháp trong cụm danh từ chỉ sở hữu thì có sự khác biệt, từ xác định sở hữu bao giờ cũng đứng trước từ được xác định, ví dụ: cur luz mov – tôi cái mũ (cái mũ của tôi. Tiếng Mông xưa kia không có chữ viết, điều này cũng được phản ánh trong thơ ca dân gian. Năm 1961, phương án chữ Mông được Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phê chuẩn theo Nghị định 206/CP ngày 27/11/1961 “về việc phê chuẩn phương án chữ Thái, Tày, Nùng, Mèo” và đưa vào sử dụng thống nhất trong cả nước. Tính chất đa thanh cùng với sự phối hợp các âm vực cao thấp trong ngôn ngữ thơ tạo cho thơ ca dân gian Mông sự cân đối, hài hòa. Sự cân đối của các câu thơ không chỉ ở số lượng câu chữ mà ở cả sự cân đối về thanh điệu. 4.1.2. Thể thơ Có thể khẳng định, việc tìm kiếm và xác định các thể thơ truyền thống như kiểu lục bát của người Kinh hay theo lối 7 chữ của người Cao Lan, thơ năm chữ của người Lô Lô... thì rất khó. Trên cơ sở kết quả khảo sát và đi sâu nghiên cứu số âm tiết, số dòng thơ, khổ thơ, bài thơ chúng tôi đưa ra một số nhận xét sau: Thứ nhất, đặc trưng của thơ ca dân gian Mông là thể thơ biến đổi linh hoạt. Nếu thơ ca một số dân tộc khác thường theo thể duy nhất (5 chữ là thể thơ duy nhất trong dân ca Lô Lô kể cả bài Lôx mi pho 200 câu; hình thức sử dụng chung trong thơ ca Dao là 7 chữ); theo các mô hình thể thơ phổ biến (thể lục bát, song thất lục bát trong ca dao Kinh ) thì thơ ca dân gian Mông không bị gò ép bởi luật thơ, không quy định số âm tiết trong một câu thơ, có thể dài, ngắn khác nhau, miễn là trọn vẹn chủ đề. Có những câu chỉ 2 - 4 âm tiết, nhưng có những câu dài tới 17 âm tiết. Nếu nhận định hình thức nghệ thuật và giá trị biểu hiện của mỗi thể thơ khác nhau nên tác động của chúng đối với giai điệu và hình thức diễn xướng dân ca cũng khác nhau 17 (ví dụ: trong ca dao dân tộc Kinh, thể 6-8 thường được vận dụng trong những bài ca có nội dung trữ tình hoặc giao duyên; thể song thất lục bát thường dùng trong những bài hát có âm điệu “nói lối” và ca xướng do sắc thái giãi bày nội tâm của nhịp điệu thơ; thể hỗn hợp 4, 5 chữ, kết hợp với thể lục bát và song thất lục bát được sử dụng nhiều trong những loại hát nghi lễ phong tục, những bài hát sinh hoạt, những bài hát giao duyên) thì hoàn toàn không đúng với thơ ca dân gian Mông. Thứ hai, thơ dân gian Mông không quy định số câu, dòng, khổ thơ trong một bài. Có bài rất ngắn chỉ 4 dòng, có những bài dài trên 400 dòng. Thứ ba, đặc điểm nổi bật trong thơ ca dân gian Mông là mỗi bài gồm nhiều khổ thơ, mỗi khổ thơ gồm 2 vế, vế sau lặp lại hoàn toàn vế trước chỉ khác ở từ để gieo vần, ví dụ: Vế (1) Lưỡi đồng gậy lưỡi sắt/ Lưỡi sắt gẫy vụn nát/ Không gắn được thành hình/ Nói bao nhiêu nữa chắc hai ta cũng không thành gia đình, Vế (2) Lưỡi đồng gậy lưỡi sắt/ Lưỡi sắt gẫy vụn nát/ Không gắn lại thành miếng/ Nói bao nhiêu nữa chắc hai mình cũng không thành gia quyến.) Vần trong thơ ca dân gian Mông là yếu tố được quy định khá chặt chẽ, vần chỉ gieo trong cùng một vế (vần chân), thông thường tiếng cuối cùng của câu đầu vế vần với tiếng cuối cùng của câu cuối vế nhưng tách câu. Cũng có lúc vần nằm ở hai tiếng cuối vế (tiếng cuối câu trên được lặp lại trong tiếng cuối câu dưới) Đặc điểm trên ngoài việc tạo ra sự cân đối về nhịp điệu trong mỗi khổ thơ còn giúp người hát dễ nhớ, dễ thuộc, dễ ứng tác lời trong mỗi cuộc hát. 4.1.3. Giọng điệu Thơ ca dân gian Mông thể hiện ở một số giọng điệu chính như sau: giọng điệu kể, giọng tâm sự giãi bày, giọng than vãn, oán hận hoặc có sự đan xen nhiều giọng điệu trong một bài ca. Thơ ca dân gian Mông không mượt mà mà có tính chất gãy khúc, nhấp nhô do đặc thù ngôn ngữ và thể thơ. Lời thơ mang nhiều chất văn xuôi, đồng điệu với mạch tư duy của người Mông, không gò ép trong phạm vi câu thơ, không giới hạn số lượng chữ trong câu. Cái “ngổn ngang” của đời sống đi vào câu ca rất tự nhiên; cái thô mộc, mạnh mẽ với những biến đổi bất thường có sức chinh phục người nghe trước những bài ca của đồng bào. 4.2. Đặc điểm kết cấu nghệ thuật 4.2.1. Kết cấu thể thơ độc đáo Tồn tại trong cuộc sống dưới hình thức sinh hoạt diễn xướng, thơ ca dân gian Mông mang đậm lối đối đáp, dù bài thơ còn giữ nguyên kết cấu hai vế hay chỉ còn lưu lại hình thức một vế thì dấu ấn của lối đối đáp vẫn in khá rõ trong cách thể hiện. Kết quả khảo sát văn bản cho thấy hình thức đối đáp là đặc trưng cơ bản, chiếm số lượng lớn trong thơ ca dân gian Mông: tỷ lệ 235/272 bài. Các bài ca tồn tại trong hai hình thức: độc thoại và đối thoại. Sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và trữ tình thể hiện rõ qua các bài ca nghi lễ cúng ma của người Mông. Với lời ca chan chứa tình yêu thương “Khúa kê” còn là một lễ thức 18 quan trọng dẫn dắt linh hồn người chết về được với tổ tiên. Với “mô hình cấu trúc vòng tròn khép kín, bắt đầu là cái chết, sự hủy diệt và kết thúc là sự sống”, tính chất tự sự đậm đà, lời kể tuy dàn trải, nhưng có sức lôi cuốn riêng, người đọc bài ca này trong đám tang đã hóa thân thành người dẫn đường đầy linh thiêng như đưa người nghe (cả người sống và người chết) thâm nhập vào cõi ấy. Chính yếu tố cốt truyện làm cho những câu thơ, khúc hát trong bài liên kết chặt chẽ hơn, tình tiết truyện theo những khúc hát cứ liên tiếp nhau, khiến cho người nghe có cảm giác như nghe một câu chuyện trong đời. Thơ ca dân gian Mông đều tuân theo một mô hình cấu trúc chung: ban đầu là bức tranh thiên nhiên, sinh hoạt ở phần trước bài ca làm duyên cớ dẫn dắt cảm xúc sau đó mới là bức tranh tâm hồn của con người. Với kiểu cấu trúc này, giữa hai bức tranh có sự giao nhau, cái này làm sáng tỏ cái kia tạo nên bức tranh tâm trạng của con người. Có thể nói, sức sống mãnh liệt của thơ ca dân gian Mông trong đời sống thường nhật không chỉ bởi nội dung phong phú, mà còn bởi nghệ thuật liên kết các hình tượng trong một bài thơ; bao nhiêu lời ca bấy nhiêu tâm trạng, bấy nhiêu cuộc đời. Sự hài hòa giữa tự sự với trữ tình tạo nên vẻ đẹp hồn nhiên chân thành và sự đồng cảm với người đọc. 4.2.2. Một số dạng kết cấu tiêu biểu 4.2.2.1. Thủ pháp đối ngẫu Kết cấu đối ngẫu tạo nên sự rung cảm lớn của chất thơ và giàu sức thuyết phục. Các hình ảnh đối ngẫu được sử dụng không phải là sự đồng nhất cuộc sống của con người với tự nhiên; cũng không phải là sự so sánh các nhận thức khác nhau về đối tượng so sánh mà là sự đối chiếu theo dấu hiệu chuyển động của thực tế khách quan: “Con ạ, măng non bẻ măng ăn / Măng già chặt đan cót /Là thân con gái phải đi làm dâu. Phép đối ngẫu trong thơ ca dân gian Mông còn thể hiện sự quan sát thiên nhiên một cách tinh tế. Thủ pháp đối ngẫu đã len lỏi trong từng ý, từng câu tạo ra một nội dung diễn đạt vừa hoàn chỉnh vừa sâu sắc. 4.2.2.2. Kết cấu trùng điệp Trong thơ ca dân gian Mông, trùng điệp là kết cấu nghệ thuật rất đặc trưng, phổ biến. Nếu thơ ca các dân tộc khác có ưu thế lặp một dòng thơ, hai dòng thơ thì ưu thế của thơ ca dân gian Mông là thủ pháp trùng điệp cả khổ thơ. Đây là nét nổi trội không thể trộn lẫn. Thủ pháp trùng điệp tạo nên sự tràn đầy trong mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình, tăng sức thuyết phục của lý lẽ và tính nhất quán của hình tượng thơ. Sự có mặt của các cụm từ, các ngữ được lặp đi lặp lại nhiều lần và mỗi lần lặp lại đều có sự biến đổi đôi chút theo quy luật phù hợp với âm, vần khiến việc lặp lại không bị nhàm chán, đơn điệu, vừa sinh động, vừa khắc hoạ rõ ý đồ nghệ thuật tạo nên sắc thái biểu đạt riêng cho bài ca Bản thân một khổ thơ đã mang đến cho người đọc, người nghe sự rung cảm đặc biệt bởi cách giãi bày tình cảm bộc trực, thẳng thắn, cách so sánh, ví von giàu hình ảnh… khi dùng thủ pháp trùng điệp cả khổ thơ thì hiệu quả càng tăng lên rõ rệt. Về cơ bản, điêp khổ 19 thơ đã bao hàm cả thủ pháp điệp từ, điệp câu. Việc lặp lại không hề gây nhàm chán, đơn điệu bởi một số từ ngữ đã được thay đổi, thêm bớt, đảo trật tự, để tạo ra nhịp điệu khi diễn xướng. Cũng chính nhờ kết cấu trùng điệp mà bài ca dân gian Mông tuy dài nhưng không tạo cảm giác nhàm chán, trái lại vẫn hấp dẫn, thú vị. Thủ pháp trùng điệp góp phần tạo nên nhịp điệu, tiết tấu cho khúc hát, tạo lập mối liên kết giữa các câu thơ liền mạch cảm xúc nhất định phù hợp với hoàn cảnh diễn xướng cụ thể. 4.3. Các phương thức so sánh, ẩn dụ, nhân hóa trong thơ ca dân gian Mông Một nét đặc trưng trong cách tư duy, diễn đạt của người Mông là cách nói bằng hình ảnh, hình tượng. Để biểu đạt tư duy và bộc lộ suy nghĩ, tình cảm, thơ ca dân gian sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật như so sánh, ẩn dụ, nhân hóa... 4.3.1. So sánh Đặc điểm nổi bật của thơ ca dân gian Mông là các hình ảnh, chất liệu để xây dựng hình tượng nghệ thuật luôn gắn với thiên nhiên, với hoàn cảnh sống và điều kiện sinh hoạt gần gũi của đồng bào. Thơ ca dân gian Mông sử dụng nghệ thuật so sánh chủ yếu trên hai phương diện: về ngoại hình và nội tâm nhân vật. Về ngoại hình cô gái Mông luôn được ví với hình ảnh hoa dưa., hoa bí, hạt đậu non, bó củi trên nương, hoa hồng trên đá... Về nội tâm, thế giới riêng tư thầm kín được thể hiện sinh động và độc đáo: “Buồn như chiếc nỏ lên dây không được bắn/ Lòng thảm như chiếc nỏ lắp tên không được bật”. Cách so sánh, ví von dùng cái cụ thể, gần gũi nhất để nói về cái trừu tượng xa xôi: "Lứa tuổi đôi ta/ Tuổi xuân ngắn tũn tựa sào phơi/ Tuổi già dài dằng dặc như chân trời rơi/ Tuổi xuân ngắn tũn như ống bương/ Tuổi già dài dằng dặc như chân trời cùng" khiến người đọc, người nghe dễ dàng hình dung, cảm nhận được cảm xúc tỏa ra từ chiều sâu của tứ thơ, hồn thơ 4.3.2. Ẩn dụ Trong thơ ca dân gian Mông ẩn dụ được dùng khá phổ biến thông qua hình ảnh: lanh, đôi bồ giáo, tổ ong bầu, ong khoái... Nhờ đó, thơ ca dân gian Mông đã diễn tả những cung bậc tình cảm khác nhau, những khái niệm trừu tượng, khó đong đếm và tạo khả năng làm xích lại gần nhau những sự vật hiện tượng khác nhau.; đồng thơi đưa đến nhận thức mới: “Hai mình đem tuổi xuân lăn xuống hang”. Ẩn dụ thơ ca dân gian góp phần tăng tính chất trữ tình của lời ca: “Sao em nỡ cầm dao cắt đứt sợi dây lưng trước đây ta tặng/ Khiến ta đành ra về không thể trở lại đây”. Ẩn dụ phản ánh một cách kín đáo, cho dù hình tượng bên ngoài là trời đất, cỏ cây, chim muông... thì bên trong vẫn là con người:“Trời không ba ngày sáng /Đất không ba thước bằng”. Ẩn sau hình ảnh trời, đất là cuộc đời, là số phận của con người: đời người vui, buồn, sướng, khổ vốn là lẽ thường. Câu thơ hướng người đọc về phía trước, cho con người niềm tin vào tương lai. 4.3.3. Nhân hóa Trong thơ ca dân Mông, thế giới quan thần thoại và quan niệm “vạn vật hữu linh” đã thổi vào thế giới tự nhiên linh hồn, sự sống của con người. Thơ ca dân gian thường sử dụng hai cách 20 cấu tạo nhân hóa: Thứ nhất, dùng những từ chỉ tính chất, hành động của con người để biểu thị tính cách, hành động của sự vật, hiện tượng không phải là người; thứ hai, coi sự vật như con người để trao gửi, tâm sự. 4.4. Một số biểu tượng trong thơ ca dân gian Mông: Thế giới hình ảnh và biểu tượng trong thơ ca dân gian Mông phong phú và đa dạng, từ những vật vô tri vô giác cho đến thiên nhiên muôn màu. Từ sự quan sát tự nhiên và cuộc sống hàng ngày, biểu tượng hình thành trong kí ức và chuyển thành nghệ thuật, giúp người đọc có thể hiểu thêm về đời sống phong tục và tâm lí cộng đồng của một dân tộc. Thế giới biểu tượng trong thơ ca và tiềm thức dân gian đã cộng hưởng với nhau tạo nên rung động thẩm mỹ, màu sắc riêng của thơ ca dân gian Mông. Hành trình khám phá biểu tượng trong văn học là hành trình trở về cội nguồn văn hóa với những giá trị chân, thiện, mỹ của mỗi dân tộc. Một số biểu tượng phổ biến trong thơ ca dân gian Mông: Biểu tượng cây lanh, biểu tượng cây khèn, biểu tượng con đường, biểu tượng nước, biểu tượng hoa, biểu tượng con số, biểu tượng bồ giáo, thắt lưng, xà cạp, khăn đội đầu, biểu tượng lá ngón, cuộn dây, biểu tượng chiếc ô, biểu tượng con ngựa 4.5. Những tương đồng và khác biệt về phương thức biểu hiện của thơ ca dân gian Mông với thơ ca dân gian các dân tộc khác Đặc điểm chung của thơ ca dân gian các dân tộc là ra đời bởi nhu cầu của đời sống, tồn tại trong môi trường diễn xướng dân gian, vì thế nội dung các bài ca đều tập trung phản ánh hiện thực đời sống, thế giới quan, nhân sinh quan, những cảm nhận về thiên nhiên – con người, những ước mơ, khát vọng của quần chúng nhân dân lao động. Tuy nhiên, mỗi dân tộc có một phương thức biểu hiện riêng có quan hệ với môi trường, tín ngưỡng và cảm quan thẩm mỹ của dân tộc. Vì thế, trong thơ ca dân gian Mông, hình tượng thơ ca gắn bó mật thiết với môi trường và tâm lý đồng bào, ví dụ: người con gái Mông đẹp phải có “mặt mũi mỏng manh như lá dong/ Lưng thắt đáy như ong kiến... lưng thắt đáy như ong bầu”, có tấm váy “Xếp ngay ngắn như vành nấm đa” và biết “quấn xà cạp đẹp như trôn ốc xoáy”. Nói về số phận hẩm hiu, cảnh đời tủi cực của mình trong xã hội xưa, cô gái Mông tự ví mình như “bó củi trên nương...”, như “loài dơi sống treo chân…” “con đường ống đũa, ống tre”, “như hoa trân châu không nở nổi”, “như dao ở trong bao”… Nói đến nỗi đau mất người yêu: “tim gan anh - Rung động khác nào hang đá sập...”; nỗi đau khi bị gả bán, ép duyên: “Nhà Mông lạ đem gầu Lía mổ ăn/ moi gan lấy lòng/ Đem ấu canh húp/ Đãi cả nhà Mông kia một đám khứa/ Ai cũng khen vừa ý vừa lòng”; nỗi bất hạnh của cảnh mồ côi cũng được diễn tả lên bằng hình ảnh cụ thể “Bố mẹ giang tay luôn trên đá” “Sợ sẽ như xa quay xa đòi con thoi… Sợ sẽ như xa quay xa đòi quàng ách…”. Cha mẹ mất đi “để cho cái cuốc, cái cày bị mọc rêu…Để cho cái cuốc, cái cày bị mọc rễ…”. Đến như cái chết đi vào thơ ca dân gian Mông cũng được thể hiện bằng những hình ảnh rất riêng như: “Quay lưng em chống đất/ Quay ngực em chống trời” hay “chân bám thung tay bám núi/… chân bám núi tay bám thung”. Có hiểu được tính chất của sự vật, sự việc, hiện tượng thì mới hiểu
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất