Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thơ bằng việt từ góc nhìn tư duy nghệ thuật...

Tài liệu Thơ bằng việt từ góc nhìn tư duy nghệ thuật

.PDF
121
65
130

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 ----------------------- NGUYỄN THỊ VUI THƠ BẰNG VIỆT TỪ GÓC NHÌN TƢ DUY NGHỆ THUẬT Chuyên ngành: Lí luận văn học Mã số: 60 22 01 20 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM Ngƣời hƣớng dẫn khoa học PGS, TS LÝ HOÀI THU HÀ NỘI - 2017 LỜI CẢM ƠN Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới cô giáo PGS. TS Lý Hoài Thu, ngƣời đã luôn động viên, giúp đỡ, tận tình hƣớng dẫn, chỉ bảo để em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Kính chúc cô luôn mạnh khỏe để có nhiều cống hiến cho nhà trƣờng và xã hội. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong trƣờng và nhất là các thầy cô trong khoa Ngữ Văn – trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện cho chúng em hoàn thành khóa học này. Em xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp và các bạn học viên K19Lí luận văn học đã luôn động viên, khích lệ, giúp đỡ em trong suốt quá trình viết luận văn. Mặc dù đã có những cố gắng nhất định song luận văn của em vẫn còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận đƣợc những ý kiến đóng góp để công trình đƣợc hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Học viên Nguyễn Thị Vui LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng kết quả nghiên cứu trong luận văn Thơ Bằng Việt từ góc nhìn tư duy nghệ thuật là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã đƣợc cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã đƣợc ghi rõ nguồn gốc. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Học viên Nguyễn Thị Vui MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ...................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu............................................................. 4 4. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 5 5. Phƣơng pháp nghiên cứu........................................................................... 5 6. Đóng góp của luận văn.............................................................................. 5 7. Bố cục của luận văn .................................................................................. 6 NỘI DUNG ....................................................................................................... 7 CHƢƠNG 1. KHÁI LƢỢC VỀ TƢ DUY THƠ VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC THƠ BẰNG VIỆT ....................................................................... 7 1.1. Khái niệm về tƣ duy nghệ thuật và tƣ duy thơ....................................... 7 1.1.1. Tƣ duy nghệ thuật ........................................................................... 8 1.1.2. Tƣ duy thơ..................................................................................... 11 1.2. Hành trình sáng tác thơ của Bằng Việt ................................................ 13 1.2.1. Những chặng đƣờng và thành tựu chính ...................................... 13 1.2.2. Bằng Việt và những nhà thơ cùng thời ........................................ 18 1.2.3. Quan niệm về thơ của Bằng Việt.................................................. 23 CHƢƠNG 2. NHỮNG NGUỒN CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO VÀ HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT TRỮ TÌNH TRONG THƠ BẰNG VIỆT .................. 26 2.1. Những nguồn cảm hứng chủ đạo trong thơ Bằng Việt ........................ 26 2.1.1 Cảm hứng về đất nƣớc ................................................................... 27 2.1.1.1 Cảm hứng về đất nƣớc trong chiến tranh ............................... 27 2.1.1.2. Cảm hứng về đất nƣớc trong hoà bình .................................. 38 2.1.2. Cảm hứng thế sự - đời tƣ .............................................................. 42 2.1.2.1. Vẻ đẹp của con ngƣời và nhân loại trong thế kỉ XX .............. 42 2.1.2.2. Những suy tƣ chiêm nghiệm về một thế giới đầy biến động ................................................................................................................. 45 2.1.3. Cảm hứng về tình yêu.................................................................... 49 2.1.3.1. Tình yêu và báo động ............................................................. 49 2.1.3.2 Gợi dậy tâm hồn và thức dậy tình yêu .................................... 52 2.2. Hình tƣợng nhân vật trữ tình trong thơ Bằng Việt............................... 56 2.2.1. Hình tƣợng cái tôi trữ tình ............................................................ 58 2.2.2. Hệ thống các nhân vật trữ tình khác............................................. 62 2.2.2.1. Hình tƣợng ngƣời bà, ngƣời mẹ ............................................ 62 2.2.2.2. Hình tƣợng ngƣời lính và những cô gái thanh niên xung phong ............................................................................................................... 67 CHƢƠNG 3. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM THUỘC PHƢƠNG THỨC NGHỆ THUẬT ........................................................................................................... 70 3.1. Nghệ thuật xây dựng hình ảnh và biểu tƣợng. ..................................... 70 3.2. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ .............................................................. 83 3.3. Giọng điệu và thể thơ ........................................................................... 89 3.3.1. Giọng điệu ..................................................................................... 89 3.3.1.1. Giọng trữ tình sâu lắng .......................................................... 90 3.3.1.2. Giọng suy tƣ triết lí ................................................................ 93 3.3.2. Thể thơ .......................................................................................... 96 3.3.2.1. Thể thơ tự do .......................................................................... 97 3.3.2.2. Các thể thơ khác .................................................................. 102 KẾT LUẬN ................................................................................................... 111 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 114 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1 Bằng Việt là một trong những nhà thơ trƣởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, cùng với nhiều cây bút tiêu biểu khác nhƣ: Nguyễn Khoa Điềm, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Lê Anh Xuân, Hoàng Nhuận Cầm,… Sau chiến tranh, Bằng Việt là một trong số những nhà thơ còn giữ đƣợc ngọn lửa trong sự nghiệp cầm bút và sức sáng tạo dồi dào. Xuất hiện từ khoảng những năm 60 của thế kỉ XX, thơ Bằng Việt nhanh chóng khẳng định đƣợc vị thế trên thi đàn với tập thơ Hƣơng cây – Bếp lửa (in chung với Lƣu Quang Vũ). Hơn bốn thập kỉ qua, Bằng Việt vẫn không ngừng sáng tạo. Hàng loạt các tập thơ đã ra đời: Những gƣơng mặt, những khoảng trời (1973); Đất sau mƣa (1977), Khoảng cách giữa lời (1983), Phía nửa mặt trăng chìm (1995), Ném câu thơ vào gió (2001), Nheo mắt nhìn thế giới (2008)… Thơ Bằng Việt trong thời kì kháng chiến chống Mỹ đƣợc nhiều ngƣời chú ý. Tuy nhiên, mảng sáng tác của ông về sau, nhất là sau đổi mới lại chƣa đƣợc quan tâm một cách xứng đáng. Với hàng loạt các tập thơ về sau, Bằng Việt đã dành nhiều tâm huyết để xây dựng cho mình một giọng thơ riêng, một phong cách nghệ thuật độc đáo. Chính vì vậy, việc đọc thơ, yêu thơ, nghiên cứu thơ Bằng Việt vẫn luôn có sức hấp dẫn với bao thế hệ độc giả và ngƣời nghiên cứu văn học. 1.2 Trên phƣơng diện lí luận, vấn đề nghiên cứu, khám phá thơ Bằng Việt từ góc độ tƣ duy nghệ thuật sẽ giúp chúng tôi có điều kiện để tìm hiểu, soi chiếu thơ Bằng Việt ở chiều sâu sáng tạo, để từ đó có thêm hiểu biết về phong cách cũng nhƣ thi pháp trong thơ. Từ đó khẳng định Bằng Việt đã mang đến thơ ca một hệ thống thi pháp, một giọng điệu riêng, làm phong phú thêm diện mạo thơ ca chống Mỹ và đƣơng đại. 2 1.3 Trong thực tiễn văn học và giảng dạy, Bằng Việt là một trong số những nhà thơ tiêu biểu đƣợc đƣa vào giảng dạy trong nhà trƣờng. Nhiều bài thơ nổi tiếng của ông trong đó có bài Bếp lửa còn mãi đƣợc các thế hệ độc giả đón nhận và tôn vinh. Những bài thơ bồi đắp cho con ngƣời tình cảm thiêng liêng về gia đình, đất nƣớc; nhắc nhở mỗi chúng ta không đƣợc lãng quên quá khứ mà phải lấy quá khứ làm động lực để vƣơn tới tƣơng lai. Với những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: Thơ Bằng Việt từ góc nhìn tƣ duy nghệ thuật để nghiên cứu. Thông qua đề tài này, chúng tôi mong muốn đóng góp tiếng nói khẳng định giá trị thơ Bằng Việt và đóng góp vào lĩnh vực giảng dạy và khám phá thơ Bằng Việt. 2. Lịch sử vấn đề Ngay từ những ngày đầu cầm bút, Bằng Việt đã nhận đƣợc sự quan tâm của đông đảo bạn đọc ở nhiều tầng lớp, lứa tuổi và cả giới nghiên cứu, phê bình văn học. Các tài liệu nghiên cứu về thơ Bằng Việt khá đa dạng, trong đó có nhiều công trình nghiên cứu của những ngƣời có uy tín. Lê Đình Kỵ trong Hƣơng cây – Bếp lửa, đất nƣớc và đời ta có viết: Một tâm hồn nhiều suy nghĩ và rung động tinh tế, một chủ nghĩa trữ tình xao động, bồi hồi, khi đậm đà duyên dáng, khi âm vang sâu thẳm… Ngay từ bài đầu (Qua Trƣờng Sa), Bằng Việt đã tỏ ra không giống ai, rao rực mà tƣơi mát, giản dị hồn nhiên mà không dễ dãi. Mỗi bài thơ Bằng Việt đều có nét bút riêng… Nguyễn Xuân Nam khi đánh giá về thơ Bằng Việt cũng dành nhiều lời khen cho thơ ông: Bằng Việt có tiếng nói sâu lắng và trong sáng của lớp thanh niên trí thức mới… Đọc thơ anh, có lúc nhƣ gặp lại một ngƣời bạn thân, một ngƣời anh em trong gia đình, hay gặp lại một thời hoa niên của chính mình. Cảm giác gần gũi, thân thiết ấy là một nét hấp dẫn trong thơ Bằng Việt (Trích: Nhà văn hiện đại Việt Nam). 3 Nhà thơ Anh Ngọc trong bình luận thơ Hồn thơ thế kỉ có nhận xét: Bằng Việt xuất hiện vào khoảng giữa những năm 60, gần nhƣ cùng lúc với Lƣu Quang Vũ và tập thơ in chung của hai ngƣời “Hƣơng cây – Bếp lửa” có một vị trí quan trọng trong nền thơ chống Mỹ. Riêng với Bằng Việt, giọng thơ “có học” sang trọng của anh đã nhanh chóng thu hút đƣợc sự chú ý của đông đảo công chúng yêu thơ vốn đã thấm nhuần nền học vấn do chế độ mới mang lại. Nhà thơ Nguyễn Thanh Kim viết: Thơ Bằng Việt đậm chất hào hoa phong nhã, có giọng điệu tinh tế, giàu tƣ duy trí tuệ… Bằng Việt mở rộng lòng anh với mọi ngƣời, đồng thời thu lại trong một cá thể sáng tạo với bao biến thể của tâm trạng. Anh vừa là nhân chứng của lịch sử vừa là kẻ tình nhân mê đắm, vừa là kẻ đồng hành, đồng cảm vui buồn với bạn đọc yêu thơ, vừa là kẻ phiêu du trong trời đất và hồn ngƣời… Nhƣng trƣớc hết, nhà thơ – anh là anh trong chứng nghiệm (Tạp chí giáo dục và Thời đại, số 48). Nhà phê bình văn học Nguyễn Hoàng Sơn trong Lời tựa cho tuyển thơ Thơ với tuổi thơ của Bằng Việt đánh giá: “Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ/ Nhƣ đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu”. Nghe nói nhờ bài thơ này và nhiều bài thơ dịch của ông Ônga Bécgôn mà Bằng Việt trở thành thần tƣợng của cánh sinh viên khoa văn các trƣờng đại học một thời. Những câu thơ chấm phá rất sƣơng khói, sự hiểu biết và đồng cảm về một chân trời văn học đƣơng có sức hấp dẫn lớn, giọng thơ lạ và mới vào thời điểm ấy (1969) là những nguyên nhân khiến bài thơ neo đƣợc vào tâm trí bạn đọc. Năm 2005, Bằng Việt đoạt giải thành tựu trọn đời của Hội Nhà văn Hà Nội cho Thơ trữ tình thế giới thế kỉ XX, với nhận xét: Nhiều bài thơ đã trở nên quen thuộc với các thế hệ ngƣời yêu thơ trong suốt bốn thập kỉ qua, mang dấu ấn tâm hồn và nét sang trọng, tinh tế của ngƣời chuyển ngữ. Nhà thơ Anh Chi viết trong Tập san Nhà văn: Vào mùa thu này, Bằng Việt cho ra mắt bạn đọc tập thơ “Ném câu thơ vào gió”, gồm 45 bài, chính là 4 sản phẩm của chặng đƣờng thơ anh vừa đi qua. Và tập thơ lại đƣợc bạn đọc và giới quan tâm chú ý. Một giọng thơ mềm mại, những tứ thơ sắc sảo, sức suy tƣởng dồi dào của một Bằng Việt quen thuộc từ ba mƣơi năm trƣớc. Trịnh Thanh Sơn khi đọc tập thơ Ném câu thơ vào gió có viết: Đọc tập thơ “Ném câu thơ vào gió” bạn đọc sẽ gặp lại một thi sĩ Bằng Việt của ngày xƣa, của hôm nào, nhƣng là Bằng Việt của hôm nay, thâm trầm hơn rất nhiều chiêm nghiệm và từng trải (Say đắm vẫn còn khi Ném câu thơ vào gió – Tạp chí Văn nghệ, số 52). Ngoài ra còn rất nhiều bài nghiên cứu, phê bình văn học, tiểu luận, luận án, luận văn… viết về Bằng Việt và thơ của ông, nhƣ các tác giả: Nguyễn Trọng Hoàn, Hà Minh Đức, Mai Thị Thanh Hƣơng, Trần Quang Quý, Nguyễn Xuân Nam… Qua việc tìm hiểu các tài liệu, chúng tôi thấy từng bài thơ, tập thơ và từng khía cạnh trong nội dung và nghệ thuật thơ Bằng Việt đều đƣợc các tác giả nhận định xác đáng. Tuy nhiên chƣa có công trình nghiên cứu nào đi sâu, khái quát thơ Bằng Việt từ góc độ tƣ duy nghệ thuật, nhất là trong các tập thơ sau đổi mới của ông. Từ thực tế đó, chúng tôi thực hiện đề tài Thơ Bằng Việt từ góc nhìn tư duy nghệ thuật với mong muốn đóng góp công sức nhỏ bé của mình trong việc khám phá thơ Bằng Việt. Đồng thời, góp phần vào việc tìm hểu và làm sáng tỏ những đóng góp của Bằng Việt đối với tiến trình thơ hiện đại Việt Nam. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là tƣ duy thơ Bằng Việt. Để làm rõ đối tƣợng nghiên cứu, chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu những thành tố quan trọng tạo nên tƣ duy nghệ thuật trong thơ Bằng Việt. Trong đó tập trung khảo sát ở một số phƣơng diện chủ yếu: hành trình sáng tác và quan niệm về thơ; 5 cảm hứng chủ đạo và nhân vật trữ tình; một số đặc điểm thuộc phƣơng thức nghệ thuật. 3.2 Phạm vi nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tiến hành khảo sát toàn bộ những tác phẩm đã xuất bản, trong đó tập trung vào các tập thơ: Bếp lửa; Những gƣơng mặt, những khoảng trời; Đất sau mƣa; Khoảng cách giữa lời; Ném câu thơ vào gió; Nheo mắt nhìn thế giới. Bên cạnh đó, để làm nổi bật đề tài, chúng tôi cũng sử dụng những sáng tác của các nhà thơ cùng thời với tác giả Bằng Việt để đối chiếu, so sánh, soi sáng cho đề tài. 4. Mục đích nghiên cứu Thông qua đề tài này, chúng tôi hy vọng góp thêm tiếng nói khẳng định những đóng góp của Bằng Việt ở chiều sâu tƣ duy nghệ thuật để từ đó thấy rõ hơn vẻ đẹp của một phong cách thơ độc đáo. Đồng thời đem đến cái nhìn khái quát và đầy đủ, xuyên suốt chặng đƣờng thơ trên 40 năm của tác giả một cách có hệ thống. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để hoàn thành đề tài Thơ Bằng Việt từ góc nhìn tƣ duy nghệ thuật, chúng tôi đã sử dụng đồng thời các phƣơng pháp nghiên cứu sau: - Phƣơng pháp phân tích tổng hợp - Phƣơng pháp tiếp cận thi pháp học - Phƣơng pháp so sánh - Phƣơng pháp tiểu sử tác giả - Phƣơng pháp loại hình 6. Đóng góp của luận văn Luận văn có thể đóng góp ở hai phƣơng diện: Thứ nhất: hệ thống hoá một số phƣơng diện tƣ duy tiêu biểu trong hệ hình tƣ duy của thơ để nghiên cứu trƣờng hợp tác giả cụ thể. 6 Thứ hai: Thông qua việc tiếp cận thơ Bằng Việt, chỉ ra đƣợc đặc điểm tƣ duy thơ Bằng Việt từ đó khẳng định những đóng góp của ông trong tiến trình thơ Việt Nam hiện đại. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và mục tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc triển khai thành ba chƣơng: Chƣơng 1: Khái lƣợc về tƣ duy thơ và hành trình sáng tác thơ Bằng Việt Chƣơng 2: Những nguồn cảm hứng chủ đạo và hình tƣợng nhân vật trữ tình trong thơ Bằng Việt Chƣơng 3: Một số đặc điểm thuộc phƣơng thức nghệ thuật 7 NỘI DUNG Chƣơng 1 KHÁI LƢỢC VỀ TƢ DUY THƠ VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC THƠ BẰNG VIỆT 1.1. Khái niệm về tƣ duy nghệ thuật và tƣ duy thơ Tƣ duy là quá trình tâm lí phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ và quan hệ bên trong có quy luật của sự vật, hiện tƣợng trong hiện thực khách quan mà trƣớc đó ta chƣa biết. Theo Từ điển triết học của M. Roodentan; P. Iudin thì: Tƣ duy là một hoạt động nhận thức lí tính của con ngƣời. Khí quan của tƣ duy chính là bộ óc ngƣời với hệ thống tinh vi của gần 16 tỉ tế bào thần kinh [26; 676]. Theo triết học duy vật biện chứng, tƣ duy xuất hiện trong quá trình hoạt động của con ngƣời. Trong quá trình đó, con ngƣời so sánh các thông tin, dữ liệu thu đƣợc từ nhận thức cảm tính hoặc các ý nghĩ với nhau. Trải qua các quá trình khái quát hoá, trừu tƣợng hoá, phân tích và tổng hợp để rút ra các khái niệm, phán đoán, giả thuyết… Kết quả của quá trình tƣ duy bao giờ cũng là sự phản ánh khái quát các thuộc tính, các mối liên hệ phổ biến, các quy luật không chỉ ở một sự vật riêng lẻ mà còn ở một nhóm sự vật nhất định. Tƣ duy chỉ nảy sinh khi con ngƣời nhận thức đƣợc tình huống. Tuy nhiên không phải tình huống nào cũng nảy sinh tƣ duy mà chỉ những tình huống “có vấn đề” khiến con ngƣời phải giải quyết để thoả mãn nhu cầu thì mới nảy sinh tƣ duy. Đặc trƣng của tƣ duy là phản ánh các mối quan hệ giữa con ngƣời đối với thế giới khách quan. Phƣơng tiện của tƣ duy chính là ngôn ngữ và chỉ có ở ngôn ngữ, tƣ duy mới đƣợc biểu hiện một cách rõ rệt và thể hiện đƣợc hết tính chất của nó. 8 1.1.1. Tư duy nghệ thuật Tƣ duy nghệ thuật là tƣ duy đƣợc thể hiện và thực hiện trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Sáng tạo nghệ thuật là hình thái đặc trƣng và là hình thái cao nhất của hoạt động thẩm mĩ. Theo Từ điển thuật ngữ văn học: Tƣ duy nghệ thuật là dạng hoạt động trí tuệ của con ngƣời hƣớng tới sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật. Tƣ duy nghệ thuật là một bộ phận của hoạt động nghệ thuật nhằm khái quát hoá hiện thực và giải quyết nhiệm vụ thẩm mĩ. Phƣơng tiện của nó là các biểu tƣợng, tƣợng trƣng có thể trực quan đƣợc. Cơ sở của nó là tình cảm. Dấu hiệu bản chất của tƣ duy nghệ thuật là ngoài tính giả định, ƣớc lệ, nó hƣớng tới việc nắm bắt những sự thật đời sống cụ thể, cảm tính mang nội dung khả nhiên (cái có thể) [7; 381].Tác giả Nguyễn Bá Thành cũng bàn khá nhiều về tƣ duy nghệ thuật. Trong cuốn Tƣ duy thơ và tƣ duy thơ hiện đại Việt Nam ông nhận định: Tƣ duy nghệ thuật là sự khôi phục sáng tạo của các biểu tƣợng trực quan, là sự hình tƣợng hoá hiện thực khách quan theo nhận thức chủ quan […] Tƣ duy nghệ thuật chịu sự chi phối mạnh mẽ của thế giới quan và nhân sinh quan của ngƣời sáng tạo [35; 54]. Cũng cần phân biệt giữa tƣ duy khoa học và tƣ duy nghệ thuật. Khả năng tƣởng tƣợng của tƣ duy khoa học là ở chỗ trừu tƣợng hoá, vô hình hoá các sự vật, hiện tƣợng. Còn nhà thơ thì cụ thể hoá, hình tƣợng hoá hiện thực khách quan theo một đƣờng dây liên tƣởng [35; 59]. Nghệ thuật là tôi, khoa học là chúng ta [35; 54]. Là hình thái kết tinh của tƣ duy thẩm mĩ, tƣ duy nghệ thuật có những đặc trƣng riêng biệt, biểu hiện trên các phƣơng diện sau: Thứ nhất: Tƣ duy nghệ thuật là tƣ duy tái hiện, tái tạo. Nếu tƣ duy khoa học hƣớng đến việc phát hiện bản chất, các quy luật của đối tƣợng, sự vật và thể hiện kết quả dƣới dạng khái niệm trừu tƣợng thì tƣ duy nghệ thuật là tái hiện, tái tạo hiện thực cuộc sống dƣới những hình tƣợng cụ thể, sinh động. 9 Trong tƣ duy nghệ thuật, công cụ tƣ duy không phải là các khái niệm mà bản chất, các quy luật của hiện thực đƣợc biểu hiện qua hình tƣợng cụ thể, sinh động. Hình tƣợng nghệ thuật là sáng tạo của chủ thể tƣ duy. Xét về phƣơng diện nhận thức luận, hình tƣợng nghệ thuật về bản chất, cũng là sự phản ánh hiện thực, tuy nhiên sự phản ánh này không phải là trực tiếp mà là gián tiếp và đƣợc thực hiện thông qua sự sáng tạo mang tính cá nhân, in đậm dấu ấn chủ thể. Vì thế, tƣ duy nghệ thuật không chấp nhận sự giống nhau, sự lặp lại hay sao chép. Nó luôn giả định tính cá biệt, điển hình và độc đáo. Thứ hai: chất liệu của tƣ duy nghệ thuật đƣợc lấy từ hiện thực nhƣng kết quả của nó (tức là hình tƣợng nghệ thuật) không phải là sự sao chép y nguyên hiện thực mà có sự hƣ cấu, sáng tạo của ngƣời nghệ sĩ. Tƣ duy nghệ thuật đích thực luôn là tƣ duy sáng tạo. Mỗi hình tƣợng nghệ thuật, mỗi tác phẩm nghệ thuật đều khai mở những cách cảm, cách nghĩ, cách nhìn nhận con ngƣời độc đáo, sáng tạo. Tính sáng tạo trong tƣ duy nghệ thuật đƣợc thực hiện một cách đặc biệt thông qua các năng lực: cảm nhận, đánh giá và những liên tƣởng đa chiều. Những năng lực này là biểu hiện của năng lực sáng tạo trong tƣ duy nghệ thuật; bởi cùng chứng kiến một sự vật, hiện tƣợng nhƣng ngƣời nghệ sĩ nhìn thấy những điều nguời khác không thấy. Thứ ba: Tƣ duy nghệ thuật bao hàm cả tình cảm, cảm xúc của ngƣời nghệ sĩ. Ngƣời nghệ sĩ cảm xúc trƣớc các cảnh đời, số phận con ngƣời, các hiện tƣợng của cuộc sống, từ đó mà sáng tạo nên các tác phẩm, những hình tƣợng nghệ thuật. Thậm chí những vật vô tri của thế giới tự nhiên thông qua cảm xúc và sự tái tạo của ngƣời nghệ sĩ cũng trở nên sinh động, có tình cảm, tâm hồn. Ngƣời xƣa hay dùng từ cảm tác (nhân cảm xúc mà sáng tác) trong tiêu đề một bài thơ hoặc đề từ một bức tranh là có ý nhƣ vậy. Nghệ thuật không phải là sự cắt nghĩa, lí giải tƣờng tận mà là sự giãi bày tình cảm, tâm tƣ, gửi gắm những xúc cảm sâu kín nhất của tâm hồn. Các tác phẩm nghệ thuật là sự kết tinh của tâm tƣ, tình cảm, nguyện vọng của ngƣời nghệ sĩ. 10 Thứ tƣ: Tƣ duy nghệ thuật không chỉ có yếu tố tình cảm, cảm xúc mà còn có yếu tố trí tuệ, tri thức. Hình tƣợng nghệ thuật không chỉ là biểu hiện mà còn phản ánh, do vậy tƣ duy nghệ thuật là quá trình khám phá, phát hiện thông qua cảm xúc. Nghệ thuật không khám phá những quy luật, lí giải những chân lí cuộc sống mà khám phá bên trong con ngƣời, hƣớng con ngƣời đến những giá trị nhân đạo. Cũng nhƣ tƣ duy nói chung, tƣ duy nghệ thuật có chức năng cung cấp cho con ngƣời những tri thức nhất định. Đó là những tri thức đa dạng, phức tạp về đời sống, nhất là đời sống tâm hồn con ngƣời. Những tri thức này không dễ dàng gì để khái quát trong các công thức, định luật; hơn nữa xã hội và bản thân mỗi con ngƣời luôn luôn biến đổi. Cho nên không có sự chính xác tuyệt đối trong tƣ duy nghệ thuật mà chỉ là những sự phản ánh mang tính chất tƣơng đối. Để khái quát đƣợc những thay đổi sinh động ấy, ngƣời nghệ sĩ đã xây dựng những hình tƣợng nghệ thuật. Các hình tƣợng nghệ thuật ngày càng đa dạng, phức tạp, đa trị để biểu hiện tối đa nhất những nội dung mà ngƣời nghệ sĩ muốn gửi gắm. Cùng với đó là tính chất dự báo trong văn học. Chính vì có khả năng dự báo nên một số nhà văn tài năng đã cho thấy cái nhìn vƣợt thời đại của tƣ duy nghệ thuật. Thƣ năm: Trong tƣ duy nghệ thuật, phƣơng diện tình cảm, cảm xúc và phƣơng diện trí tuệ, tri thức không tồn tại độc lập, tách rời nhau. Tri thức trong nghệ thuật là tri thức đƣợc bộc lộ thông qua cảm xúc. Ngƣời nghệ sĩ trong trạng thái cảm xúc mà nhận diện cuộc sống, khái quát và thể hiện cuộc sống. Cũng giống nhƣ vậy, những cảm xúc trong sáng tạo nghệ thuật, cảm thụ nghệ thuật không phải là những cảm xúc thuần tuý mà là những cảm xúc mang trí tuệ, đƣợc nảy sinh trên cơ sở vốn tri thức, phông văn hoá của ngƣời nghệ sĩ và công chúng đón nhận. Do vậy, cùng một tác phẩm nghệ thuật nhƣng đối tƣợng tiếp nhận khác nhau thì cách hiểu về tác phẩm ấy cũng khác nhau. Là sự thống nhất giữa phƣơng diện tình cảm, cảm xúc và phƣơng diện lí 11 trí, trí tuệ, tƣ duy nghệ thuật góp phần tạo nên sự cân bằng trong lối sống, khắc phục sự thiên lệch trong đời sống con ngƣời. Thứ sáu: Hình tƣợng nghệ thuật là sự thống nhất giữa cái hiện thực và cái lí tƣởng, ƣớc mơ. Ngƣời nghệ sĩ xuất phát từ hiện thực nhƣng nhìn nhận hiện thực thông qua lí tƣởng thẩm mĩ của mình. Lí tƣởng thẩm mĩ chính là hình ảnh mơ ƣớc của ngƣời nghệ sĩ về con ngƣời và xã hội, đặc biệt là những giá trị về nhân cách con ngƣời. Nó đƣợc hình thành trong tƣ duy nghệ thuật, đồng thời là phƣơng thức để tƣ duy nghệ thuật quán triệt hiện thực, nhìn nhận hiện thực cuộc sống một cách tích cực, lạc quan. Theo nghĩa này, tƣ duy nghệ thuật góp phần tạo ra niềm tin, động lực cho cuộc sống, làm cho con ngƣời hƣớng đến những giá trị nhân văn. Sau cùng, với tƣ cách là tổng hoà tất cả các đặc trƣng trên, tƣ duy nghệ thuật là tƣ duy hƣớng tới cái đẹp, tƣ duy về cái đẹp, cổ vũ cho cái đẹp. Hình tƣợng nghệ thuật chính diện là sự phản ánh, kết tinh, thăng hoa và tôn vinh cái đẹp trong đời sống hiện thực. Hình tƣợng nghệ thuật phản diện cũng gián tiếp thực hiện chức năng này; vì khi sáng tạo nó, ngƣời nghệ sĩ dựa trên cơ sở khẳng định cái đẹp để phê phán cái xấu. Do vậy, dù là hình tƣợng nghệ thuật chính diện hay phản diện đều nêu cao tình cảm, thái độ khẳng định cái đẹp, phê phán cái xấu. Cái đẹp là trung tâm của quan hệ thẩm mĩ, quan hệ nghệ thuật giữa con ngƣời và hiện thực. 1.1.2. Tư duy thơ Theo tác giả Nguyễn Bá Thành trong cuốn Tƣ duy thơ và tƣ duy thơ hiện đại Việt Nam thì Tƣ duy thơ là một phƣơng thức biểu hiện của tƣ duy nghệ thuật, nhƣng nó mang trong mình khả năng biểu hiện phong phú nhờ ngôn ngữ thơ [35; 54]. So với các loại hình nghệ thuật khác, khả năng biểu hiện của tƣ duy thơ phong phú và đa dạng hơn. Phƣơng tiện biểu hiện là ngôn ngữ với tất cả hệ thống kí hiệu, dấu câu, biện pháp tu từ… phong phú của nó. 12 Ngôn ngữ thơ cũng là phƣơng tiện tƣ duy cao nhất, ở đó con ngƣời nhìn nhận thế giới và chuyển hoá những tri thức vào não bộ của mình. Nói đến tƣ duy thơ ta không thể không nói đến chủ thể trữ tình bởi sự thể hiện cái tôi trữ tình, cái tôi đang cảm xúc, cái tôi đang tƣ duy chính là điều quan trọng nhất trong tƣ duy thơ. Đọc thơ ta luôn bắt gặp bóng dáng con ngƣời đang nhìn ngắm, đang rung động, suy tƣ về cuộc sống. Con ngƣời ấy đƣợc gọi là chủ thể trữ tình. Nói cách khác, chủ thể trữ tình là con ngƣời đang cảm xúc, suy tƣ trong tác phẩm thơ. Cần phân biệt chủ thể trữ tình với nhân vật trữ tình. Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học xác định: Nhân vật trữ tình là hình tƣợng nhà thơ trong thơ trữ tình, phƣơng thức bộc lộ ý thức của tác giả [7; 234]. Tuy nhiên mọi ranh giới đều mang tính chất tƣơng đối. Có tác phẩm cả chủ thể trữ tình và nhân vật trữ tình đồng nhất với nhau và đồng nhất với con ngƣời tác giả, cũng có những tác phẩm ngƣời đọc có thể nhìn thấy chủ thể trữ tình có sự khác biệt với nhân vật trữ tình. Chủ thể trữ tình trong thơ đƣợc biểu hiện chủ yếu dƣới hai dạng thức là chủ thể trữ tình trực tiếp và chủ thể trữ tình gián tiếp. Ở dạng trực tiếp đó là tình cảm, cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ… của tác giả đƣợc giãi bày trực tiếp và làm thành nội dung chủ yếu của tác phẩm. Ở đây nhà thơ có thể biểu hiện cảm xúc cá nhân của mình mà không cần làm theo bất cứ một sự miêu tả biến cố, sự kiện nào. Ngƣời đọc cảm nhận trƣớc hết là thế giới nội tâm, thái độ, cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình đối với con ngƣời, thiên nhiên. Nhà thơ không cần phải miêu tả kĩ về con ngƣời và những nguyên nhân cụ thể dẫn tới những tình cảm đó. Điều này chứng tỏ sự biểu hiện trực tiếp của thế giới chủ quan của tác giả là đặc điểm tiêu biểu nhất của tƣ duy thơ. Bên cạnh đó, chủ thể trữ tình còn đƣợc xác lập trong mối quan hệ giữa con ngƣời và thực tại khách quan bởi vì mọi cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ của con ngƣời bao giờ cũng là cảm xúc về cái gì, tâm trạng trƣớc vấn đề nào đó. Do đó, hiện tƣợng cuộc sống vẫn đƣợc 13 thể hiện trong tác phẩm trữ tình. Dù thể hiện qua thế giới chủ quan của con ngƣời, tác phẩm trữ tình vẫn coi trọng việc miêu tả các sự vật, hiện tƣợng trong đời sống khách quan bằng chi tiết chân thật, sinh động. Nhƣ vậy, tƣ duy thơ cũng phản ánh thế giới khách quan, nhƣng chức năng chủ yếu của nó là nhằm biểu hiện những tâm trạng, cảm xúc, suy nghĩ của con ngƣời. Nhƣ vậy, tƣ duy thơ không chỉ hƣớng nội mà còn có khả năng hƣớng ngoại. Nếu hƣớng nội là bộc lộ suy nghĩ, cảm xúc,… của nhà thơ thì hƣớng ngoại là bộc lộ những suy nghĩ, cảm xúc về hiện thực khách quan và biểu hiện nó dƣới lăng kính thẩm mĩ của nhà thơ. Tìm hiểu về thơ chính là quá trình đi tìm hiểu về sự vận động của chủ thể trữ tình trong cả hƣớng nội và hƣớng ngoại. 1.2. Hành trình sáng tác thơ của Bằng Việt 1.2.1. Những chặng đường và thành tựu chính Giữa những năm 60 của thế kỉ trƣớc, công chúng văn học đã đƣợc chứng kiến sự xuất hiện của một loạt cây bút trẻ mà chỉ ít lâu sau đã trở thành chủ lực của thi đàn. Đó là Lƣu Quang Vũ, Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật, Vũ Quần Phƣơng, Phan Thị Thanh Nhàn,… và không lâu sau đó là sự xuất hiện của Nguyễn Duy, Nguyễn Đức Mậu, Lâm Thị Mỹ Dạ, Hoàng Nhuận Cầm, Anh Ngọc, Hữu Thỉnh,… Trong đội ngũ sáng tác đông đảo này, Bằng Việt là một gƣơng mặt riêng, có giọng điệu riêng không bị khuất lấp, nhầm lẫn trong dàn đồng ca hùng mạnh ấy. Dù viết về những năm tháng chiến tranh, cuộc sống hoà bình hay thời hiện đại, thơ Bằng Việt đều mang tính trí tuệ, suy tƣởng mà vẫn sinh động, gần gũi với cuộc sống. Đó chính là sự riêng biệt mà nhà thơ đã tạo ra bằng chính tài năng của mình. Bằng Việt sinh ngày 15 tháng 6 năm 1941, nguyên quán xã Chàng Sơn, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội, nhƣng ông sinh tại phƣờng Phú Cát, thành phố Huế. Tri thức, kiến văn và tâm hồn thơ trữ tình giàu tƣởng tƣợng cùng với truyền thống gia đình đã góp phần làm nên tƣ chất và phẩm cách thơ 14 Bằng Việt. Sinh ra vào đúng thời kì lịch sử oai hùng của dân tộc, tuổi thơ tác giả sống trong những sự kiện vang động của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Giã từ chiếc khăn quàng đỏ thời niên thiếu, Bằng Việt học xong trung học tại Hà Nội và đƣợc cử đi học Đại học Luật ở Liên Xô. Chính trong thời gian này, việc tiếp xúc với một nền văn hoá lớn cùng nhiều tên tuổi văn học lớn của thế giới đã tác động không nhỏ đến phong cách sáng tác và con đƣờng dịch thuật của Bằng Việt. Sau khi tốt nghiệp khoa Pháp lí, Đại học Tổng hợp Kiev vào năm 1965, ông trở về Việt Nam công tác tại Viện Luật học. Đến năm 1970, ông tham gia công tác tại chiến trƣờng Bình Trị Thiên với tƣ cách là một phóng viên chiến trƣờng, lúc này ông đã chuyển sang công tác ở Hội Nhà văn Việt Nam. Chính những trải nghiệm ở chiến trƣờng đã mang đến cho ngòi bút Bằng Việt những vần thơ đầy chân thực về chiến tranh và những con ngƣời anh hùng. Sau hoà bình, Bằng Việt tiếp tục tham gia công tác văn hoá văn nghệ và giữ nhiều cƣơng vị quan trọng. Những tiếp xúc trực tiếp với cuộc sống đời thƣờng đã đem đến cho thơ ông những suy tƣ, trải nghiệm tạo nên độ sâu lắng nhất định cho thơ. Bằng Việt làm thơ từ năm 13 tuổi nhƣng bài thơ đầu tiên đƣợc công bố là bài Qua Trƣờng Sa viết năm 1961. Ông đã thể nghiệm nhiều loại thơ: không vần, xuống thang rồi bắc thang… những hình thức đã có trong thơ Việt Nam và thơ thế giới. Tập thơ đầu tay của ông (in chung với Lƣu Quang Vũ) Hƣơng cây – Bếp lửa xuất bản năm 1968 đã để lại dấu ấn đậm nét trên thi đàn. Đồng hành với tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, nhìn một cách khái quát có thể chia thơ Bằng Việt thành hai chặng lớn: Chặng thứ nhất: Những vần thơ ông viết trƣớc thời kì đổi mới. Ở chặng đƣờng này, thơ Bằng Việt chủ yếu hƣớng về đất nƣớc và con ngƣời trong chiến tranh, thể hiện niềm tin tất thắng của cả dân tộc. Những tập thơ tiêu biểu đã xuất bản nhƣ: Hƣơng cây – Bếp lửa (in chung với Lƣu Quang Vũ – 15 1968); Những gƣơng mặt, những khoảng trời (1973); Đất sau mƣa (1977); Khoảng cách giữa lời (1984). Viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của nền văn học nói chung và thơ ca nói riêng thời kì kháng chiến chống Mỹ. Nó là đòi hỏi của dân tộc và thời đại, đồng thời cũng là đòi hỏi của chính nền thơ ca kháng chiến. Nhiều nhà thơ thuộc nhiều thế hệ đã viết về chiến tranh bằng cái nhìn riêng, in đậm cá tính sáng tạo. Những vần thơ của những ngƣời cầm súng, những vần thơ nhƣ còn vƣơng bụi đất chiến trƣờng và khét lẹt mùi bom đạn luôn đƣợc bạn đọc chờ đợi, đón nhận. Bằng Việt là một trong những nhà thơ trực tiếp tham gia vào chiến trƣờng và đem đến cho thơ hiện thực khốc liệt đó cùng những suy tƣ mang chiều sâu triết lí. Thơ Bằng Việt thời chống Mỹ đƣa ngƣời đọc đi vào thế giới hiện thực của chiến tranh, đến những nơi gian khổ nhất, nóng bỏng nhất, ác liệt nhất của Trƣờng Sơn khói lửa. Thơ ông phản ánh đƣợc một phần không khí khẩn trƣơng, ác liệt mà hào hùng của những năm tháng “xẻ dọc Trƣờng Sơn đi cứu nƣớc”. Tiếng thơ Bằng Việt lay động lòng ngƣời bởi cái nhìn chân thực về cuộc chiến của một ngƣời trong cuộc. Nhà thơ đã chứng kiến và tái hiện: Một đêm thức dậy năm lần/ Toạ độ xa, toạ độ gần – bom rơi/ Cầm canh pháo kích liên hồi/ Dƣới trăng suông, thấy cây đồi sém đen… Những cảnh tƣợng “đại bác địch nổ trên đầu toé lửa”, “hoả châu nhấp nhoáng”, “xe xích khuya nghiến lạo xạo trên đƣờng”,… đã không còn xa lạ trong thơ. Một Trƣờng Sơn với không biết bao nhiêu vết thƣơng do bom đạn gây ra. Những con ngƣời dù gian khổ đến đâu vẫn quyết tâm chiến đấu: Tôi đi dọc rừng già, đất nƣớc đau thƣơng Những em bé gầy đen băng rừng tìm bộ đội Những cụ già quắt khô nhìn không còn biết tuổi Lẳng lặng đào hầm, canh thú, tra nƣơng (Bản cũ giữa rừng Lào)
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng