Luận văn tốt nghiệp
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN SƯ PHẠM NGỮ VĂN
TRẦN THỊ ANH THƯ
THIẾT KẾ BÀI TẬP THẢO LUẬN CHO MỘT SỐ BÀI TRONG
SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 11 (BỘ CƠ BẢN)
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành sư phạm Ngữ văn
Cán bộ hướng dẫn: TRẦN NGUYÊN HƯƠNG THẢO
Cần Thơ, 5 – 2010
CBHD: Trần Nguyên Hương Thảo
1
SVTH: Trần Thị Anh Thư
Luận văn tốt nghiệp
ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ CỦA THẢO LUẬN NHÓM
1. Những vấn đề chung về dạy học theo hình thức thảo luận nhóm
1.1 Khái niệm về học hợp tác
1.2. Những lý do của dạy học hợp tác
2. Các loại hình nhóm thảo luận
2.1 Nhóm cố định
2.2 Nhóm không cố định
2.2.1 Nhóm 2HS
2.2.2 Nhóm từ 3 HS trở lên
2.2.3 Nhóm ghép
2.2.4 Nhóm kim tự tháp
2.2.5 Hoạt động trà trộn
3. Các bước tổ chức thảo luận nhóm
CBHD: Trần Nguyên Hương Thảo
2
SVTH: Trần Thị Anh Thư
Luận văn tốt nghiệp
4. Các dạng tổ chức thảo luận nhóm
4.1 Bài tập định hướng
4.2 Bài tập khám phá kiến thức
4.3 Bài tập củng cố
5. Các bước thiết kế bài tập thảo luận nhóm
5.1 Các yêu cầu đối với bài tập thảo luận nhóm
5.1.1 Về mặt nội dung
5.1.2 Về mặt hình thức
5.2 Các bước thiết kế bài tập thảo luận nhóm
5.3 Những điểm cần lưu ý khi thiết kế bài tập thảo luận nhóm
6. Vai trò và nhiệm vụ của giáo viên trong thảo luận nhóm
7. Tác dụng của thảo luận nhóm
7.1 Đối với giáo viên
7.2 Đối với học sinh
8. Những khó khăn và biện pháp khắc phục
8.1. Khó khăn
8.2. Biện pháp khắc phục
Chương 2: THIẾT KẾ BÀI TẬP THẢO LUẬN NHÓM CHO MỘT SỐ BÀI TRONG
SGK NGỮ VĂN 11 (BỘ CƠ BẢN)
1. Phân môn đọc văn
1.1. Bài “Đây thôn Vĩ Dạ”
1.2. Bài “Người trong bao”
CBHD: Trần Nguyên Hương Thảo
3
SVTH: Trần Thị Anh Thư
Luận văn tốt nghiệp
1.3. Bài “Người cầm quyền khôi phục uy quyền”
1.4. Bài “Chiều tối” (Mộ)
1.5. Bài “Ôn tập phần Văn học”
2. Phân môn làm văn
2.1. Bài “Thao tác lập luận bình luận”
2.2. Bài “Thao tác lập luận bác bỏ”
3.Phân môn Tiếng Việt
3.1. Bài “Ngữ cảnh”
3.2. Bài “Phong cách ngôn ngữ báo chí”
3.3 Bài “Ôn tập phần Tiếng Việt”
PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
MỤC LỤC
CBHD: Trần Nguyên Hương Thảo
4
SVTH: Trần Thị Anh Thư
Luận văn tốt nghiệp
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đổi mới giáo dục và việc vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào trong quá
trình dạy học, không riêng gì ở Việt Nam mà đã được phát huy ở rất nhiều quốc gia
trên thế giới. Chiến lược phát triển giáo dục là mục tiêu và nhiệm vụ hàng đầu cho
phát triển kinh tế xã hội. Chính vì vậy, đổi mới giáo dục là một trong những tiêu chí
hàng đầu để thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Trong đổi mới giáo dục, ngoài sự đổi mới về nội dung thì đổi mới về phương
pháp dạy học để phù hợp với nội dung là một vấn đề thiết yếu và cấp bách. Một trong
những phương pháp dạy học theo phương pháp đổi mới là thảo luận nhóm hay còn gọi
là dạy học hợp tác. Đây là phương pháp dạy học tích cực có khả năng phát huy cao
tính tự giác, độc lập, sáng tạo và khả năng khám phá kiến thức của học sinh. Với hình
thức dạy học này, người học giữ vai trò trung tâm, người dạy giữ vai trò hướng dẫn.
Học theo hình thức thảo luận nhóm, giờ học văn sẽ sôi động hơn, việc giáo viên
(GV) truyền thụ kiến thức – học sinh (HS) tiếp nhận (một chiều) sẽ không còn nữa mà
sẽ có sự tác động qua lại giữa thầy – trò (hai chiều). Và quan trọng hơn là người học sẽ
tự khám phá, tự tìm kiến thức cho mình. Học như vậy giúp các em hào hứng hơn và
hiệu quả học tập cao hơn. Muốn có một tiết học thành công như vậy đòi hỏi ở giáo
viên một phương pháp dạy, giáo viên phải xây dựng và thiết kế các bài tập thảo luận
nhóm thật tốt. Đây là khâu quan trọng trong truyền đạt kiến thức ở dạng mới. Điều này
đòi hỏi rất nhiều ở năng lực của GV, GV phải thiết kế câu hỏi, bài tập nhóm làm sao
cho thật sự có vấn đề, phải đi vào trọng tâm bài học và phải khơi gợi ở HS mong muốn
tìm hiểu kiến thức, kích thích sự sáng tạo của HS. Học thảo luận nhóm sẽ làm tăng khả
năng tự học hỏi, tư duy, từ đó HS sẽ tự khám phá kiến thức và tự mình thu nhận kiến
thức. Như vậy, phương pháp dạy học tích cực khác cách dạy truyền thống là ở chổ
người học phải thực sự làm việc. Phương pháp này cũng sẽ làm thay đổi nhiệm vụ của
thầy và trò theo hướng tích cực. Vì vậy đổi mới phương pháp dạy học có ý nghĩa thúc
đẩy phát triển giáo dục. Và một trong những phương pháp dạy học tích cực là học theo
hình thức thảo luận nhóm. Để phương pháp này phát huy tốt hiệu quả thì một việc vô
cùng quan trọng là phải chuẩn bị bài tập thảo luận nhóm. Nhưng thiết kế bài tập thảo
CBHD: Trần Nguyên Hương Thảo
5
SVTH: Trần Thị Anh Thư
Luận văn tốt nghiệp
luận nhóm không phải là công việc dễ dàng mà đòi hỏi có sự chuẩn bị chu đáo cũng
như năng lực và kiến thức của GV.
Chọn đề tài “ Thiết kế bài tập thảo luận cho một số bài trong SGK Ngữ văn 11
(bộ cơ bản)” để làm luận văn tốt nghiệp, tôi hy vọng mình có thể tìm ra hướng mới
trong việc chọn vấn đề thảo luận và thiết kế các bài tập thảo luận, cũng như tìm ra các
vấn đề cần khắc phục trong thảo luận nhóm để có thể phục vụ tốt hơn cho công tác
giảng dạy. Đây cũng là cơ hội thử thách khả năng bản thân và cũng giúp tôi có thêm
kinh nghiệm cũng như trang bị kiến thức cho đợt thực tập sư phạm và trong công tác
sau này.
2. Lịch sử vấn đề
Việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm (dạy học hợp tác) vào dạy học cũng
như thiết kế các bài tập thảo luận nhóm là một vấn đề tương đối mới. Nhưng từ khi đổi
mới sách giáo khoa (SGK) trong nhà trường ở các bậc học thì đây cũng là một vấn đề
được các nhà nghiên cứu biên soạn SGK đặc biệt quan tâm. Hiện cũng đã có nhiều
công trình nghiên cứu cũng như những bài viết thảo luận về vấn đề này. Các giáo trình
giảng dạy trong chương trình dạy đại học cũng như các sách thiết kế bài giảng cho
SGK phổ thông cũng đã đề cập đến rất nhiều. Do phạm vi nghiên cứu của đề tài và do
hạn chế của người viết nên chúng tôi chỉ đưa ra được một ít công trình nghiên cứu
cũng như tài liệu có liên quan ít nhiều đến đề tài.
Một trong những tài liệu được đánh giá cao là công trình Đổi mới phương pháp
dạy học chương trình và sách giáo khoa, nhà xuất bản Quốc gia Hà Nội xuất bản năm
2001 do Trần Bá Hoành chủ biên đã đề cập nhiều về phương pháp dạy học tích cực
này. Bên cạnh các vấn đề về chương trình về SGK, các tác giả cũng đã trình bày khá
nhiều về đổi mới phương pháp, như: phương pháp tích cực, phương pháp hợp tác, ...
trên cơ sở “phương pháp dạy học lấy HS làm trung tâm”[4; tr.9]. Trên cơ sở trình bày
những phương pháp dạy học tích cực các tác giả cũng đã đưa ra "Mấy hướng cải tiến
vấn đề thiết kế bài học theo phương pháp tích cực" [4; tr.69]. Trong Văn học thế kỉ 21,
Phan Trọng Luận cũng nêu lên những vấn đề nhận thức cũng như lý luận về phương
pháp dạy học trong nhà trường hiện nay: phương pháp gợi mở, phương pháp nghiên
cứu, phương pháp đọc sáng tạo, phương pháp tái tạo và phương pháp nêu vấn đề.
CBHD: Trần Nguyên Hương Thảo
6
SVTH: Trần Thị Anh Thư
Luận văn tốt nghiệp
Năm 2004, nhà xuất bản Quốc gia Hà Nội xuất bản Phương pháp dạy học văn
do Phan Trọng Luận chủ biên đã đưa ra một số phương pháp dạy học theo lối truyền
thống và trên cơ sở đó tác giả cũng đã đưa ra một số phương pháp dạy học mới như:
phương pháp đọc diễn cảm, phương pháp phân tích nêu vấn đề, phương pháp gợi
mở,… Cũng tác giả Phan Trọng Luận trong quyển Văn học nghệ thuật – nhận diện –
tiếp cận – đổi mới, nhà xuất bản Đại học sư phạm, 2008 cũng đã đưa ra nhiều quan
niệm đổi mới về phương pháp giảng dạy trong văn học nhà trường “đổi mới thiết kế
giờ học tác phẩm văn chương” [8; tr271]. Trong vấn đề này tác giả cũng đã khẳng định
vai trò đối thoại (thảo luận) của HS trong giờ học văn “Giáo viên biết nắm bắt được
những câu hỏi, tình huống có vấn đề từ tác phẩm, từ tầm đón nhận của học sinh theo
sự báo, theo sự điều tra của giáo viên,… đẻ học sinh trao đổi” [8; tr278]. Tác giả cũng
khẳng định rằng việc học như vậy sẽ giúp HS phát huy được khả năng tự học cũng như
khả năng cảm thụ văn học.
Tác giả Trịnh Xuân Vũ trong Văn chương và phương pháp giảng dạy văn
chương, nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP.HCM cũng trên cơ sở so sánh giữa
phương pháp dạy truyền thống và phương pháp dạy đổi mới cũng đã cho thấy đổi mới
phương pháp dạy là cần thiết. Và một trong những hình thức dạy theo phương pháp
đổi mới là phải có sự hợp tác từ phía HS. Tác giả khẳng định “không thể sử dụng cách
dạy độc thoại của thầy mà phải sử dụng hình thức giao tiếp đối thoại tranh luận của
trò” [21; tr121].
Các giáo trình giảng dạy như Lý luận dạy học của Lê Phước Lộc – trường Đại
học Cần Thơ (ĐHCT) cũng đưa ra hệ thống các cơ sở lý luận trong dạy học Ngữ văn
và các xu hướng dạy học tích cực: HS làm trung tâm. Trong giáo trình này, tác giả
cũng đã trình bày khái quát về phương pháp dạy học hợp tác. Giáo trình Lý luận dạy
học Ngữ văn do nhóm tác giả Nguyễn Minh Chính, Nguyễn Thị Hồng Nam, Trần
Đình Thích, Hà Hồng Vân (ĐHCT) biên soạn cũng đã nhấn mạnh phương pháp dạy
học tích cực tiến bộ với hình thức tổ chức dạy học nâng cao vai trò chủ động tích cực
của người học. Trong giáo trình Tổ chức học hợp tác trong dạy học Ngữ văn, Nguyễn
Thị Hồng Nam – giảng viên khoa sư phạm trường ĐHCT đã đưa ra nhiều mô hình
cũng như hình thức thảo luận nhóm (học hợp tác). Tác giả đã giới thiệu khá hoàn
CBHD: Trần Nguyên Hương Thảo
7
SVTH: Trần Thị Anh Thư
Luận văn tốt nghiệp
chỉnh về vấn đề học hợp tác. Trong đó, có những vấn đề chung về học hợp tác trong
dạy học hợp tác, cách tổ chức dạy học hợp tác trong dạy học Ngữ văn và các hình thức
đánh giá hiệu quả học hợp tác.
Trong các kỷ yếu hội nghị khoa học cũng được đề cập khá nhiều, như Kỷ yếu Hội
nghị khoa học, chuyên đề: Thiết kế và sử dụng câu hỏi trong dạy học, ĐHCT, năm
2005. Trong kỷ yếu này, tác giả Nguyễn Thị Hồng Nam có bài Thiết kế câu hỏi dạy
học văn – một thử thách đối với giáo viên. Bài viết đã đưa ra những trường hợp cụ thể
cũng như những lưu ý khi thiết kế các câu hỏi giúp HS tìm hiểu bài và lĩnh hội kiến
thức. Trong bài viết tác giả đã đưa ra “Những điểm cần lưu ý khi thiết kế câu hỏi thảo
luận”[14; tr.53]: câu hỏi thảo luận phải bám vào trọng tâm, độ khó câu hỏi của các
nhóm là như nhau, trình tự câu hỏi phải phù hợp (từ dễ đến khó). Trong bài viết này
tác giả đã giúp người đọc nắm được điểm quan trọng của việc thiết kế câu hỏi, thiết kế
câu hỏi cho bài tập thảo luận nhóm.
Tác giả Lê Phước Lộc trong Hội thảo tập huấn nâng cao năng lực cho giáo viên
cốt cán trường THPT về đổi mới phương pháp dạy học theo chương trình SGK lớp 10
mới đã đưa ra “Những cơ sở để thiết kế các nhiệm vụ thảo luận trong phương pháp
dạy học hợp tác”.
Bên cạnh đó cũng có rất nhiều bài báo thảo luận về vấn đề dạy học hợp tác. Bài
Hoạt động nhóm trong dạy học Ngữ văn ở trung học cơ sở của Hoàng Thị Mai, Tạp
chí Giáo dục số 114, năm 2005. Một số trao đổi về học hợp tác ở trường phổ thông
của Trần Thị Bích Trà, tạp chí Giáo dục số 146, năm 2006. Tính ưu việt của phương
pháp dạy học mới của Hồ Quý Nghĩa, tạp chí Giáo dục và thời đại số Chủ nhật 37,
năm 2009...Những bài báo này cũng đưa ra nhiều ý kiến đóng góp cũng như nhận định
về việc đổi mới phương pháp dạy học là cần thiết và việc thảo luận nhóm phải được
đầu tư kĩ ngay từ khâu chuẩn bị là thiết kế câu hỏi thảo luận.
Gần đây nhất có thể kể đến đề tài luận văn tốt nghiệp của sinh viên Lê Tú Ly
(sinh viên sư phạm Ngữ văn khoá 31) với đề tài "Vận dụng thảo luận nhóm vào thiết
kế bài tập thảo luận cho các bài Tiếng Việt lớp 11 (bộ cơ bản)", đã đưa ra nhiều bài
tập thảo luận nhóm cho các bài trong SGK.
CBHD: Trần Nguyên Hương Thảo
8
SVTH: Trần Thị Anh Thư
Luận văn tốt nghiệp
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích đặt ra cho đề tài nghiên cứu là tìm hiểu phương pháp dạy học hợp tác
(thảo luận nhóm), tìm hiểu chương trình SGK Ngữ văn 11 (bộ cơ bản) và vận dụng lí
thuyết phương pháp dạy học hợp tác để thiết kế một số bài tập thảo luận nhóm cho một
số bài trong SGK Ngữ văn 11. Để từ đó phát huy tối đa hiệu quả dạy học theo phương
pháp mới, kiến thức mới.
4. Phạm vi nghiên cứu
Do giới hạn của đề tài, yêu cầu thiết kế một số bài tập nhóm cho một số bài trong
SGK Ngữ văn 11 nên phạm vi nghiên cứu là SGK Ngữ văn 11 bộ cơ bản, mà chủ yếu
là các bài chọn thiết kế .
Các bài thiết kế bài tập nhóm:
- Phân môn Đọc văn:
+ Đây thôn Vĩ Dạ.
+ Người trong bao.
+ Người cầm quyền khôi phục uy quyền.
+ Chiều tối (Mộ).
+ Ôn tập phần Văn học.
- Phân môn Tiếng Việt:
+ Ngữ cảnh.
+ Phong cách ngôn ngữ báo chí.
+ Ôn tập phần tiếng Việt.
- Phân môn Làm văn:
+ Thao tác lập luận bác bỏ.
+ Thao tác lập luận bình luận.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài nghiên cứu này, chúng tôi đã sử dụng nhiều phương pháp
như:
- Phương pháp xây dựng cơ sở lí luận.
- Phương pháp phân tích.
CBHD: Trần Nguyên Hương Thảo
9
SVTH: Trần Thị Anh Thư
Luận văn tốt nghiệp
- Phương pháp nghiên cứu, tổng hợp tài liệu.
- Vận dụng lý thuyết của dạy học hợp tác.
- Đối chiếu, so sánh, chứng minh (vận dụng ở phần tập giảng và đợt thực tập sư
phạm).
CBHD: Trần Nguyên Hương Thảo
10
SVTH: Trần Thị Anh Thư
Luận văn tốt nghiệp
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ CỦA THẢO LUẬN NHÓM
1. Những vấn đề chung về dạy học theo hình thức thảo luận nhóm
1.1 Khái niệm về học hợp tác
Việc chọn lựa một phương pháp thích hợp cho các bài giảng không phải là công
việc dễ dàng, nhất là hiện nay khi phương pháp dạy học đang ngày càng được chú
trọng và đổi mới để ngày càng nâng cao hơn hiệu quả giáo dục thì việc chọn một
phương pháp dạy phù hợp là cần thiết.
Dạy học theo hình thức thảo luận nhóm hay còn gọi là dạy học hợp tác, là một
trong những hình thức dạy học theo hướng tích cực nhằm hướng người học đến việc tự
tìm tòi khám phá kiến thức chứ không phải tiếp thu kiến thức sẵn có từ GV. Vậy học
hợp tác là học thế nào?
Hiện tại có rất nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều định nghĩa về cách học này,
“Dạy học hợp tác là cách sử dụng những nhóm nhỏ học sinh, các nhóm này sẽ làm
việc cùng nhau để phát triển tối đa năng lực học của bản thân và của mỗi thành viên
trong nhóm", đây là định nghĩa của David W.Johson và Roger T.Johson, những
chuyên gia về dạy học hợp tác. Trong giáo trình “Dạy học hợp tác” tiến sĩ Nguyễn
Thị Hồng Nam định nghĩa “Học hợp tác là một hình thức tổ chức dạy học trong đó các
nhóm học sinh cùng nhau giải quyết các nhiệm vụ học tập do giáo viên nêu ra, từ đó
rút ra bài học dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Hình thức học tập này đòi hỏi sự tham
gia đóng góp trực tiếp và tích cực của mỗi học sinh vào quá trình học tập”.
1.2. Những lý do của dạy học hợp tác
CBHD: Trần Nguyên Hương Thảo
11
SVTH: Trần Thị Anh Thư
Luận văn tốt nghiệp
Hiện nay học hợp tác trở thành cách học phổ biến ở nhiều nước trên thế giới vì
dạy học hợp tác đem lại nhiều lợi ích cho học sinh:
- Học hợp tác học sinh có nhiều cơ hội phát huy sở trường bản thân cũng như có
nhiều điều kiện khám phá hơn. So với cách học truyền thống, GV truyền đạt kiến thức
cho HS theo hướng một chiều thì ở cách học này kiến thức sẽ được HS tự thu nhận
trong quá trình cùng làm việc với nhau. Bên cạnh những kiến thức căn bản của bài học
các em còn khám phá thêm từ các thành viên trong lớp trong quá trình thảo luận. Và
khi thảo luận nhóm, các em phải trực tiếp tham gia, đánh giá tổng hợp cũng như cần
chọn lọc những kiến thức bổ sung cho bản thân.
- Học hợp tác giúp HS tự đánh giá đúng bản thân cũng như tạo cho các em thói
quen hình thành kiến thức mới. Trong cách học hợp tác người học không tiếp nhận
kiến thức dưới dạng sẵn có mà phải sử dụng những kinh nghiệm, những hiểu biết của
mình vào việc giải quyết những vấn đề do GV đưa ra. Điều này đòi hỏi ở từng cá nhân
người học phải có sự tự đánh giá cũng như sự tự điều chỉnh những kiến thức mình đưa
ra. Nhờ vậy trong quá trình học HS sẽ nhớ và hiểu kiến thức sâu hơn, rộng hơn, lượng
kiến thức được tiếp nhận cũng nhiều hơn.
Bên cạnh đó học hợp tác còn giúp người học tự nhận định cũng như điều chỉnh
kiến thức cho bản thân.
2. Các loại hình nhóm thảo luận
Theo giáo trình dạy học hợp tác của Nguyễn Thị Hồng Nam thì có hai loại nhóm
cơ bản, đó là nhóm cố định và nhóm không cố định.
2.1. Nhóm cố định
Đây là loại hình nhóm hoạt động cùng nhau trong một thời gian dài từ một tuần
đến vài tuần thậm chí kéo dài đến cả một học kì. Loại hình nhóm này có nhiệm vụ
cùng nhau giải quyết một bài tập có tính phức tạp hay một công trình nghiên cứu.
Khi chia nhóm cố định, GV cần lưu ý đến một số đặc điểm của nhóm để phân
nhóm và nhiệm vụ phù hợp:
- Nhiệm vụ của nhóm có phần phức tạp hơn nên các thành viên phụ thuộc nhiều
hơn vào nhóm, đòi hỏi các thành viên phải có sự gắn kết nhiều hơn.
- Cũng do nhiệm vụ phức tạp hơn nên công việc của các thành viên trong nhóm
cũng nhiều hơn, nên khi phân công công việc, các thành viên có thể được giao những
CBHD: Trần Nguyên Hương Thảo
12
SVTH: Trần Thị Anh Thư
Luận văn tốt nghiệp
nhiệm vụ khác nhau dựa vào những kĩ năng cá nhân, từ đó đóng góp cho đề án của
nhóm.
- Các thành viên nhóm phải có những kĩ năng như chia sẻ, thu nhận thông tin
phản hồi cũng như tìm kiếm phát triển thông tin và kĩ năng phê phán, nhận xét tiến
trình hoạt động của nhóm.
- GV đóng vai trò như người bạn có kinh nghiệm giúp điều chỉnh hoạt động của
nhóm đi đúng hướng và cung cấp những nguồn tài liệu để giúp nhóm hoàn thành công
việc.
2.2. Nhóm không cố định
Đây là loại hình nhóm gồm những HS cùng làm việc với nhau trong một thời
gian ngắn, từ vài phút đến hết một tiết học. Nhóm không cố định có thể được thành lập
nhiều lần trong một tiết học và lượng thành viên trong nhóm cũng thay đổi tùy theo độ
khó của câu hỏi và số HS trong lớp.
Có nhiều loại hình nhóm: nhóm 2 HS, nhóm từ 3 HS trở lên (3 -10 HS), nhóm
ghép, nhóm kim tự tháp, nhóm trà trộn.
2.2.1. Nhóm 2 HS
Đây là hình thức 2 HS ngồi cạnh nhau, trao đổi giải quyết tình huống do GV đưa
ra, trong quá trình làm việc HS sẽ tiếp nhận kiến thức một cách tích cực. Khi cho HS
thảo luận theo mô hình nhóm này GV cần chú cách đưa ra tình huống vấn đề cho HS
giải quyết, tức là bài tập tình huống phải phù hợp, GV cũng cần chú ý đến kiến thức
mà các em đưa ra cũng như vấn đề thời gian thảo luận.
2.2.2. Nhóm từ 3 HS trở lên
Lớp được chia thành nhiều nhóm, mỗi nhóm có từ 3 HS trở lên (4, 5 hoặc có thể
đến 10 HS) cùng thảo luận các bài tập, tình huống, câu hỏi do GV đưa ra. Nhóm dao
động tùy vào số HS trong lớp học và tùy vào độ khó của câu hỏi. Bài tập cho loại hình
nhóm này thường có 2 loại: bài tập dạng hoạt động trao đổi và bài tập dạng hoạt động
so sánh. Trong hoạt động trao đổi mỗi nhóm phải giải quyết một vấn đề khác nhau
(nhưng cùng nằm trong chủ đề bài học), sau đó trao đổi vấn đề và cách giải quyết vấn
đề của nhóm mình với các nhóm khác. Trong hoạt động so sánh, tất cả các nhóm cùng
giải quyết một vấn đề, sau đó so sánh cách giải quyết khác nhau giữa các nhóm.
CBHD: Trần Nguyên Hương Thảo
13
SVTH: Trần Thị Anh Thư
Luận văn tốt nghiệp
Loại hoạt động trao đổi thường được sử dụng trong những bài học có dung lượng
kiến thức lớn mà thời gian trên lớp lại hạn hẹp. Có thể sử dụng dạng bài tập này trong
giờ đọc hiểu văn bản, thể loại tự sự hoặc văn nghị luận. Loại hoạt động so sánh thường
sử dụng trong những bài học có dung lượng kiến thức không lớn, GV có thể cho tất cả
các nhóm cùng thảo luận về một vấn đề: nội dung, nghệ thuật của một đoạn văn, thơ,
phân tích cấu trúc ngữ pháp của câu, hoặc xây dựng dàn ý cho một đề văn.
2.2.3. Nhóm ghép
Đây là kiểu tổ chức nhóm có tính luân chuyển. Đầu tiên, GV chia lớp thành
nhiều nhóm, giả sử là 5 nhóm, mỗi nhóm 5 thành viên là: nhóm 1: 11111, nhóm 2:
22222,…Mỗi nhóm có nhiệm vụ giải quyết một vấn đề của bài học. Sau đó trao đổi
thành viên với nhau bằng cách lấy mỗi nhóm một thành viên thành lập 5 nhóm mới
gồm các thành viên: nhóm 1: 12345, nhóm 2: 12345,…Các thành viên này trở thành
những đại diện cho nhóm cũ và có nhiệm vụ báo cáo nhiệm vụ và những kết quả đạt
được của nhóm cũ cho nhóm mới. Như vậy các thành viên trong lớp lần lượt sẽ cùng
được tìm hiểu hết các vấn đề trong bài học.
Hình thức nhóm này khó sử dụng ở những lớp đông HS nhưng có ưu điểm là
lượng kiến thức và công việc được san sẻ điều cho các thành viên trong lớp chứ không
chỉ chú trọng đến các HS khá giỏi. Mỗi HS nắm một mảng thông tin khác nhau và
cùng trao đổi sẻ chia kiến thức cho nhau và không một HS nào đứng ngoài hoạt động
của lớp. Nếu trong các loại nhóm khác ưu thế thường về các thành viên khá, giỏi thì
trong lọai nhóm ghép mỗi thành viên đều có vai trò ngang nhau. Cách học này làm
tăng sự tự tin cho các thành viên trong lớp.
2.2.4. Nhóm kim tự tháp
Đây là loại ghép nhóm theo mô hình kim tự tháp. Đầu tiên GV nêu vấn đề cho
mỗi HS làm việc độc lập, sau đó ghép 2 HS thành một nhóm để các em trao đổi ý kiến
với nhau, kế đến sẽ kết hợp các nhóm 2 HS thành nhóm 4 HS, các nhóm 4 HS sẽ kết
hợp thành các nhóm 8, nhóm 16,…Cuối cùng cả lớp sẽ có một bảng tổng kết các ý
kiến hoặc một giải pháp tốt nhất cho các vấn đề. Như vậy bất kì ý kiến cá nhân nào
cũng đều dựa trên ý kiến của số đông. Hoạt động theo nhóm kiểu kim tự tháp là cách
tổng hợp ý kiến của tập thể lớp về một vấn đề của bài học.
CBHD: Trần Nguyên Hương Thảo
14
SVTH: Trần Thị Anh Thư
Luận văn tốt nghiệp
Việc tổ chức lớp học theo mô hình kim tự tháp rất phù hợp với các giờ ôn tập khi
HS cần phải nhớ các định nghĩa, khái niệm, công thức,…đã học trong một chương.
2.2.5. Hoạt động trà trộn
Đây thực chất là loại hình nhóm do HS tự thành lập. Trong hình thức này HS
phải di chuyển và thu thập thông tin từ các thành viên khác trong lớp. Sự di chuyển
khỏi chổ ngồi cố định làm cho HS thấy thích thú và năng động hơn. Đối với những HS
trung bình hoặc kém thì đây là cơ hội để học hỏi mà không cảm thấy xấu hổ và tham
gia một cách năng động hơn. Cũng bằng cách học này, HS sẽ có nhiều sự trao đổi, lựa
chọn kiến thức hơn. Cùng một câu hỏi, một nội dung nhưng sẽ có nhiều ý kiến khác
nhau vì vậy HS sẽ phải chọn lọc nhưng cái hay, cái đúng của các thành viên trong lớp.
Điều này giúp HS có thêm nhiều tri thức mới nhưng bên cạnh đó cũng đòi hỏi ở HS
một năng lực tốt để tinh chọn kiến thức đúng cho riêng mình.
Hoạt động này thích hợp với giờ ôn tập. Mỗi HS có thể đem những vấn đề mình
còn thắc mắc, những câu hỏi mình chưa trả lời được hay những vấn đề mình gặp khó
khăn để cùng trao đổi, hỏi ý kiến các thành viên khác trong lớp.
SƠ ĐỒ CÁC LOẠI HÌNH NHÓM KHÔNG CỐ ĐỊNH:
a) Mô hình nhóm kim tự tháp
b) Mô hình nhóm 2 HS
c) Mô hình nhóm 4, 5 HS
11
111
22
222
CBHD: Trần Nguyên
Hương Thảo4 4
33
333
444
55
12
345
15
12
345
Thư
1 2 SVTH: Trần Thị1Anh
2
345
345
12
Luận văn tốt nghiệp
d) Mô hình nhóm ghép
3. Các bước tổ chức thảo luận nhóm
Việc tổ chức thảo luận nhóm muốn đạt hiệu quả cao thì không thể được tổ chức
một cách bừa bãi mà phải có sự chuẩn bị mang tính khoa học khách quan. Một trong
những điều góp phần vào thành công của thảo luận nhóm chính là tổ chức thảo luận.
- Bước một: Xác định số HS/nhóm, số lượng nhóm (tùy thuộc vào số HS trong
lớp và nội dung thảo luận) và chia nhóm. Tùy thuộc vào nội dung yêu cầu thảo luận,
đối với nội dung thảo luận khác nhau, cần loại bài tập thảo luận khác nhau thì có
những cách chia nhóm khác nhau. Phải xác định cách chia nhóm thảo luận phù hợp
nhất để đạt hiệu quả cao nhất trong thảo luận.
- Bước hai: Khi phân công công việc cho mỗi nhóm, GV cần lưu ý phải giao
nhiệm vụ đều nhau và có sự luân phiên. Không nên chỉ ưu ái cho các HS khá, giỏi vì
như thế sẽ gây ra tâm lý không tốt ở các em và cũng sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả thảo
luận (những HS ít được GV chú ý sẽ không thực sự hợp tác với các thành viên khác
trong nhóm).
- Bước ba: Giao nhiệm vụ, đề tài cho nhóm, quy định thời gian. Ở bước này, GV
cần đưa ra các câu hỏi hoặc nhiệm vụ giữa các nhóm ngang nhau, tránh sự so sánh
nhóm này nhiệm vụ dễ, nhóm kia khó. Lưu ý nếu nhiệm vụ giữa các nhóm không đều
nhau thì GV cũng nên nói rõ trước cho HS và khi chia nhóm GV nên chia nhóm có
nhiều thành viên hơn hoặc nên hạ yêu cầu nhiệm vụ xuống. Thời gian thảo luận cũng
tuỳ thuộc vào mức độ khó dễ của câu hỏi.
CBHD: Trần Nguyên Hương Thảo
16
SVTH: Trần Thị Anh Thư
Luận văn tốt nghiệp
- Bước bốn: Các nhóm tiến hành thảo luận, GV quan sát, đánh giá. Khi HS thảo
luận GV nên chú ý quan sát thái độ làm việc của HS để có thái độ đánh giá thật chính
xác, khách quan.
- Bước năm: Trình bày. Khi cho các nhóm HS trình bày kết quả thảo luận, GV
nên chọn ngẫu nhiên để có sự công bằng , khách quan và tránh trường hợp ỷ lại của
HS.
- Bước sáu: Đánh giá, nhận xét. Sau khi báo cáo kết quả thảo luận, cho HS tự
đánh giá, nhận xét lẫn nhau sau đó GV mới nhận xét, đánh giá chung.
4. Các dạng bài tập thảo luận nhóm
Có nhiều dạng bài tập thảo luận được sử dụng tùy theo loại giờ học: Đọc hiểu
văn bản, Tiếng Việt, Làm văn và tùy theo yêu cầu, mục đích sử dụng mà ta sẽ có các
loại bài tập khác nhau.
4.1. Bài tập định hướng
Đây là loại bài tập GV hướng HS đến mục tiêu cần đạt đến của bài học. Đối với
loại bài tập này, để chuẩn bị cho bài học mới GV có thể cho HS các dạng bài tập sau:
- Hỏi đáp: Đối với bài tập này, HS cần chuẩn bị bài trước, GV yêu cầu HS đọc
bài sắp học và ghi những câu hỏi về nội dung bài đó. Những câu hỏi này sẽ được thảo
luận trong nhóm khi học bài mới hoặc vào đầu tiết học, GV chỉ định ngẫu nhiên 2 HS,
một em hỏi , một em trả lời.
- Thuyết trình: Cho mỗi nhóm chuẩn bị một vấn đề trong bài sắp học và thuyết
trình trên lớp. Để làm tốt bài tập này, GV nêu vấn đề ở tiết học trước đó để HS về
chuẩn bị. Khi thuyết trình trên lớp cần tránh người thuyết trình do nhóm đề cử mà nên
chỉ ngẫu nhiên hoặc bốc thăm. Điều này sẽ giúp mỗi HS đều có sự chuẩn bị chứ
không dồn hết trách nhiệm cho những HS khá, giỏi trong lớp.
- Sưu tầm: Bài tập này cũng giao cho HS ở tiết học trước đó. Yêu cầu nhóm tìm
các tài liệu tranh ảnh trên báo, tạp chí, sách tham khảo, internet,…hoặc thu thập thông
tin từ những người có hiểu biết về những vấn đề liên quan đến bài học.
4.2. Bài tập khám phá kiến thức
Bài tập này, GV sử dụng trong quá trình dạy học với một số dạng sau:
CBHD: Trần Nguyên Hương Thảo
17
SVTH: Trần Thị Anh Thư
Luận văn tốt nghiệp
- So sánh: yêu cầu HS so sánh, rút ra những điểm giống và khác nhau giữa hai sự
kiện, hai vấn đề…
- Phân tích : yêu cầu học sinh phân tích kết cấu ngữ pháp của một câu, cấu trúc
một văn bản, phân tích ý nghĩa một chi tiết, biện pháp nghệ thuật, hoặc phân tích tính
cách một nhân vật, nội dung một đoạn văn, một khổ thơ.
- Tổng hợp: yêu cầu các nhóm khái quát một vấn đề của bài học. Ví dụ: thảo luận
về một chủ đề tác phẩm, tóm tắt một văn bản ...
- Phân loại: yêu cầu học sinh phân chia, sắp xếp các yếu tố theo từng loại.
- Lựa chọn: yêu cầu học sinh chọn lựa các chi tiết, hiện tượng, sự kiện phù hợp
với tiêu chí đã đề ra.
- Sắp xếp theo thứ tự: sau khi đọc xong tác phẩm, giáo viên cho học sinh bản sắp
xếp lộn xộn các sự kiện trong tác phẩm, hoặc các bước thực hiện một công việc, yêu
cầu học sinh sắp xếp lại cho đúng.
- Lập kế hoạch: yêu cầu học sinh xác định các bước trình bày một vấn đề, các
bước phân tích một vấn đề, các thao tác tóm tắt một văn bản.
- Viết: cho mỗi nhóm (nhóm 2 hoặc nhóm 4, 5 học sinh) một đề tài, các nhóm
thảo luận xây dựng dàn ý cho bài viết. Sau đó, cả nhóm cùng viết bài.
- Biên tập: yêu cầu mỗi học sinh viết bài, sau đó, trao đổi bài viết của mình cho
các bạn trong nhóm nhận xét, đánh giá theo tiêu chí chung.
- Sửa sai: giáo viên cho một bài tập sai (ví dụ: một đoạn văn viết sai chính tả, ngữ
pháp) yêu cầu các nhóm phát hiện lỗi và đề xuất cách sửa.
4.3. Bài tập củng cố
Để giúp HS củng cố lại kiến thức vào cuối buổi học, hoặc ôn lại những kiến thức
trong những giờ ôn tập, GV có thể sử dụng một số dạng bài tập:
- Tóm tắt bài học: yêu cầu nhóm hai hoặc ba HS nhớ lại và tóm tát những vấn đề
chính của bài học,chương đã học bằng các hình thức viết, vẽ sơ đồ. Hoặc cho các
nhóm các dạng biểu đồ, sơ đồ không hoàn chỉnh (biểu đồ, sơ đồ khuyết) để HS tìm
những thông tin thích hợp điền vào những chỗ khuyết đó.
- Hỏi- đáp: chia nhóm hai HS, một HS hỏi một HS trả lời sau đó đỏi vị trí cho
nhau. Hoặc chia lớp thành nhiều nhóm, nhóm này hỏi các nhóm khác trả lời sau đó
thay vòng với nhau.
CBHD: Trần Nguyên Hương Thảo
18
SVTH: Trần Thị Anh Thư
Luận văn tốt nghiệp
- Viết bài: nhóm 2 HS hợp tác viết một bài thu hoạch trong một khoảng thời gian
ngắn (3 đến 5 phút) về những điểm quan trọng của bài học và những điều nhóm chưa
rõ.
- Ghép đôi: cho hai cột thông tin A và B, yêu cầu HS nối kết lại cho đúng, tương
tự hình thức trắc nghiệm ghép đôi.
- Phiếu học tập: cuối học kì hoặc cuối năm học, giáo viên cho những câu hỏi về
những kiến thức trọng tâm mà học sinh đã học. Các câu hỏi này được viết lên các tấm
thẻ và được xếp thành từng bộ, các câu hỏi trong mỗi bộ câu hỏi hoàn toàn giống
nhau. Số lượng câu hỏi trong mỗi bộ phụ thuộc vào số thành viên trong nhóm. Sau đó,
phát cho các nhóm, thành viên thứ nhất rút một câu hỏi bất kỳ, trả lời xong câu hỏi này
đến thành viên thứ hai rút câu hỏi thứ hai, thành viên thứ ba... nếu giáo viên sử dụng
10 câu hỏi thì chia nhóm 5 học sinh, mỗi học sinh có trách nhiệm trả lời một câu hỏi,
nếu sử dụng 12 câu thi chia nhóm 6 học sinh ...
Sự phân chia các dạng bài tập này chỉ mang tính tương đối. GV phải linh hoạt
trong sử dụng để phát huy cao nhất hiệu quả của nó.
5. Các bước thiết kế bài tập thảo luận nhóm
5.1. Các yêu cầu đối với bài tập thảo luận nhóm
5.1.1. Về mặt nội dung
Xây dựng bài tập thảo luận là đưa ra một tình huống có vấn đề trong học tập,
được giao cho các nhóm. Để hoàn thành bài tập này, đòi hỏi phải có sự hợp tác của các
thành viên trong nhóm cùng tìm ra câu trả lời.Cần tránh những câu hỏi mà HS không
cần tư duy hoặc câu trả lời đã có sẵn trong sách giáo khoa, như loại câu hỏi "tìm hình
ảnh, chi tiết miêu tả...". Nếu vấn đề đưa ra đã có sẵn trong sách giáo khoa, hoặc vấn
đềthảo luận quá dễ thì việc thảo luận nhóm thất bại vì HS không cần thảo luận vẫn có
thể tìm ra câu trả lời.
Các vấn đề thảo luận phải xoay quanh trọng tâm của bài học, sao cho qua quá
trình thảo luận HS tự tìm ra được nội dung bài học. Nói cách khác GV không trực tiếp
trình bài mà qua thảo luận HS tự tìm ra kiến thức cho mình. GV không trình bày như
cách đọc cho HS chép hay truyền đạt kiến thức một chiều mà GV phải thiết kế các câu
hỏi tình huống sao cho sau khi HS tự giải quyết các tình huống đó HS sẽ rút ra kiến
thức cho mình.
CBHD: Trần Nguyên Hương Thảo
19
SVTH: Trần Thị Anh Thư
Luận văn tốt nghiệp
Qua việc trả lời các câu hỏi, HS sẽ khám phá kiến thức của bài học. Với những
bài học khác nhau, GV có những dạng bài tập khác nhau, làm sao để cho vận dụng
dược hết các ưu điểm và hạn chế khuyết điểm của thảo luận.
Khi thiết kế bài tập thảo luận, GV cần lưu ý độ khó tương đương giữa các câu
hỏi, tránh tình trạng nhóm này khó, nhóm kia dễ. Trong một bài học có thể sử dụng
nhiều dạng bài tập để tránh sự trùng lặp và tạo sự hứng thú nơi HS.
Yêu cầu của bài tập rõ ràng, dễ hiểu để đảm bảo HS nắm đựoc yêu cầu câu hỏi
trước khi thảo luận.
5.1.2. Về mặt hình thức
Bài tập phải đa dạng. Nhiệm vụ bài tập khám phá có thể là là câu hỏi, giải thích
một sơ đồ, mô hình, tìm kiếm thông tin, điền khuyết...
Cách giao bài tập cũng phải linh hoạt. Tuỳ theo điều kiện có được như thời gian,
bài học mà GV có những cách giao bài tập khác nhau
5.2. Các bước thiết kế bài tập thảo luận nhóm
Việc HS có thảo luận, hợp tác hay không, quá trình thảo luận có giúp HS khám
phá kiến thức hay không một phần phụ thuộc vào bài tập thảo luận. Để thiết kế các bài
tập thảo luận, GV phải thực hiện các bước sau:
Bước một: Phân tích kĩ nội dung bài học, xác định rõ kiến thức nào là trọng tâm,
kiến thức nào cần thảo luận. Đối với các bài Tiếng Việt và Làm văn, các kiến thức
được thể hiện trong phần Ghi nhớ, do vậy, cần phân tích kĩ các phần này để nắm các ý
chính của bài học.
Bước hai: Xây dựng bài tập thảo luận dựa trên các kiến thức đó.
Bước ba: Xác định loại hình nhóm, Thời gian thảo luận (căn cứ vào độ khó của
câu hỏi, thời gian cho phép và trình độ của người học).
5.3. Những điểm cần lưu ý khi thiết kế bài tập thảo luận nhóm
Khi thiết kế bài tập thảo luận nhóm, GV cần chú ý một số điểm sau:
- Các câu hỏi thảo luận phải có tính hệ thống.
- Các câu hỏi phải xoay quanh vấn đề trọng tâm của bài học.
CBHD: Trần Nguyên Hương Thảo
20
SVTH: Trần Thị Anh Thư
- Xem thêm -