GVHD: TS Trần Văn Hiếu
1
Luận văn tốt nghiệp
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Xây dựng và phát triển thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN là một
trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Để nền kinh tế thị trường có thể
vận hành tốt, chúng ta phải có đầy đủ và đồng bộ tất cả các loại thị trường, trong đó thị
trường khoa học công nghệ (TTKHCN) là một thị trường quan trọng. Vì thế mà Nghị
quyết Đại hội lần thứ X của Đảng chủ trương: “Phát triển thị trường khoa học và công
nghệ trên cơ sở đổi mới cơ chế, chính sách để phần lớn các sản phẩm khoa học công
nghệ (trừ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu phục vụ cơ bản xây dựng đường lối, chiến
lược, chính sách phát triển) trở thành hàng hóa. Thông tin rộng rãi và tạo môi trường
cạnh tranh để các sản phẩm khoa học công nghệ được mua bán thuận lợi trên thị
trường... Phát triển TTKHCN còn là hệ quả của phát triển kinh tế, phát triển của bản
thân khoa học công nghệ và mối quan hệ cung - cầu giữa khoa học công nghệ và sản
xuất; phát triển của nhận thức xã hội đối với lực lượng khoa học công nghệ là một lực
lượng sản xuất, đối với thành tựu khoa học công nghệ là một sản phẩm hàng hoá”
[24].
Trong thời gian qua TTKHCN ở nước ta đã đạt được những thành tựu đáng
khích lệ góp phần tích cực vào việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tuy nhiên hiện nay
vẫn còn một số yếu kém và hạn chế cần được khắc phục. Để nhận thức rõ hơn về tầm
quan trọng của TTKHCN đối với sự phát triển kinh tế nước ta hiện nay. Đó cũng là lý
do tôi chọn đề tài “Thị trường khoa học công nghệ và sự phát triển thị trường khoa
học công nghệ ở Việt Nam” để làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
Mục đích nghiên cứu: Tìm hiểu về TTKHCN và sự phát triển của TTKHCN
ở Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tìm hiểu về vai trò của TTKHCN đối với sự phát triển của nền kinh tế.
SVTH: Cao Bích Liên
Trang
1
GVHD: TS Trần Văn Hiếu
2
Luận văn tốt nghiệp
- Đánh giá đúng những thành tựu và hạn chế TTKHCN của nước ta trong
thời gian qua, và nguyên nhân của những hạn chế đó.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển TTKHCN của nước ta
trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Đối tượng nghiên cứu: của đề tài này chính TTKHCN và sự phát triển
TTKHCN ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài này tôi chỉ nêu một cách khái quát về TTKHCN và
đi sâu phân tích về sự phát triển của TTKHCN ở Việt Nam cũng như những giải pháp
mà Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhằm phát triển TTKHCN trong giai đoạn hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài.
Đề tài này tôi sử dụng rất nhiều phương pháp trong đó phương pháp logic và
lịch sử là chủ yếu. Ngoài ra tôi còn sử dụng phương pháp thu thập số liệu, phương
pháp tổng hợp và phân tích các tài liệu nghiên cứu về đề tài này.
5. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm 3
chương, 10 tiết.
Chương I: Thị trường khoa học và công nghệ.
Chương II: Sự phát triển thị trường khoa học và công nghệ ở Việt Nam.
Chương III: Các giải pháp để phát triển TTKHCN Việt Nam thời gian tới.
SVTH: Cao Bích Liên
Trang
2
GVHD: TS Trần Văn Hiếu
3
Luận văn tốt nghiệp
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
THỊ TRƯỜNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
1.1. Khái niệm thị trường khoa học và công nghệ (The scientific and
technological market).
Thị trường khoa học và công nghệ (TTKHCN) là một thuật ngữ chung để chỉ
một bộ phận của thị trường liên quan đến hoạt động mua - bán, trao đổi một loại hàng
hóa đặc biệt là sản phẩm của hoạt động khoa học và công nghệ vì sản phẩm khoa học
và công nghệ là hàng hóa công toàn cầu.
Cho đến nay, trong các tài liệu khoa học có liên quan, chưa có một định nghĩa
cụ thể và rõ ràng về loại thị trường có tính đặc thù này. Vả lại, so với các thị trường
hàng hóa thông thường khác như: thị trường hàng tiêu dùng, thị trường vật tư, thị
trường chứng khoán,… Thì TTKHCN còn ít được nghiên cứu, tổng kết và phổ biến.
Điều này xuất phát từ các lý do sau:
Một là, hoạt động khoa học và công nghệ là loại hoạt động có tính đặc thù riêng
vì liên quan tới hoạt động trí óc của con người. Mà trong kinh tế chính trị học loại lao
động này được gọi là lao động trừu tượng với công cụ lao động chủ yếu là bộ não con
người với khả năng tư duy của nhà khoa học và công nghệ. Bộ não con người cho đến
nay vẫn còn tiềm ẩn rất nhiều bí mật để có thể xác định không chỉ công năng của nó
mà còn cả giá trị thực tế của công cụ lao động này. Các quy luật của hoạt động khoa
học công nghệ hiện nay vẫn chưa được khám phá đầy đủ để làm cơ sở cho việc hình
thành khung pháp lý và tạo lập “sân chơi” cho TTKHCN phát triển như thị trường
chứng khoán, thị trường hàng tiêu dùng …
Hai là, sản phẩm khoa học công nghệ cũng có những đặc thù khác biệt so với
các hàng hóa thông thường khác. Các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ thường được thể hiện dưới dạng kiến thức, tri thức kết tinh thành công thức, quy
luật, định luật, nguyên lý, quy trình công nghệ,… nghĩa là không ở dạng hữu hình,
SVTH: Cao Bích Liên
Trang
3
GVHD: TS Trần Văn Hiếu
4
Luận văn tốt nghiệp
hiện vật như các hàng hóa thông thường khác. Các hao phí cho việc sản xuất ra sản
phẩm khoa học công nghệ cũng khó đo lường một cách trực tiếp, cụ thể và đầy đủ để
xác định giá cả sản phẩm như một yếu tố cơ bản của TTKHCN.
Ba là, các sản phẩm khoa học và công nghệ mang nhiều tính chất hàng hóa
công cộng. Nghĩa là, hầu hết các sản phẩm khoa học công nghệ đều có ba đặc tính
công cộng: tính không kình địch trong tiêu dùng, tính không ngăn cản và tính không
thể vứt bỏ. Chính những đặc thù này đã làm phức tạp thêm cho việc quản lý cũng như
việc tạo lập “sân chơi” cho sự tham gia của người mua và người cung cấp hàng hóa
trên TTKHCN[15, tr 49- 50].
Tuy nhiên, trong khái niệm TTKHCN, chúng ta cần mở rộng phạm vi, nghĩa là
không chỉ bao hàm việc mua – bán, chuyển giao các sản phẩm công nghệ hữu hình
như trên, mà còn bao gồm cả việc mua - bán, chuyển giao các hàng hóa công cộng “vô
hình”, trong đó phổ biến nhất là các sản phẩm trí tuệ đã được “vật hóa”, “giá trị hóa”,
thương mại hóa dưới dạng các bằng chứng nhận quyền sở hữu như Licences (giấy
phép), Patent (bằng phát minh, sáng chế), Know- how (bí quyết)… hay ở các dạng quy
trình, chương trình vận hành, điều hành đã sẳn sàng cho việc sử dụng[2, tr 63].
TTKHCN là loại thị trường đặc biệt. Tính đặc biệt này được tạo ra là do đặc
tính của “hàng hoá” khoa học và công nghệ khác với các hàng hóa khác. Hàng hóa
khoa học và công nghệ có những đặc tính đặc biệt sau:
+ Hàng hóa của khoa học và công nghệ thực chất là kiến thức được thể hiện
dưới một dạng vật chất hữu hình như bằng sáng chế nhưng cũng có thể nó là dạng vô
hình dưới dạng các ý tưởng công nghệ.
+ Việc xác định giá trị của hàng hóa rất khó khăn vì do lao động được kết
tinh trong hàng hóa là lao động trí óc và tồn tại với sự bất đối xứng thông tin giữa
người bán và người mua. Trong đó, thông thường trong trường hợp này, người bán
(nhà phát minh, sáng chế) luôn ở vị thế mặc cả kém hơn người mua.
+ Hàng hóa khoa học và công nghệ còn mang tính chất tác động ngoại lai
tích cực mà ở đó lợi ích xã hội do hàng hóa đem lại lớn hơn lợi ích cá nhân.
SVTH: Cao Bích Liên
Trang
4
GVHD: TS Trần Văn Hiếu
5
Luận văn tốt nghiệp
+ So với các hàng hóa vật thể thông thường khác thì hàng hóa khoa học và
công nghệ được sản xuất và phát triển muộn hơn. Xuất phát từ những đặc thù đó mà
TTKHCN hình thành và phát triển muộn hơn các thị trường hàng hoá thông thường
khác, đồng thời cho thấy sự cần thiết về vai trò của Nhà nước trong việc hình thành và
phát triển TTKHCN[24].
Thị trường khoa học và công nghệ cũng giống như các loại thị trường khác được
hình thành và phát triển trên cơ sở ba điều kiện sau:
+ Phải có hàng hoá, đây được coi là điều kiện thiết yếu nhất để cho thị
trường khoa học và công nghệ hình thành và phát triển.
+ Phân công lao động xã hội phải phát triển tương ứng sao cho tồn tại quan
hệ cung - cầu giữa các thành viên trong xã hội và giữa các loại hình sản xuất trong xã
hội, tức là phải có người, có nhu cầu đối với hàng hóa khoa học và công nghệ và người
có khả năng cung ứng những hàng hóa này.
+ Phải có những phương tiện thanh toán hữu hiệu nhằm đáp ứng nhu cầu
của người bán và người mua.
Mặc dù TTKHCN hiện nay cũng được coi là một dạng thị trường hàng hoá
nhưng các chuyên gia Việt Nam đều thống nhất cho rằng TTKHCN là một loại thị
trường đặc biệt[16, tr 15].
Tuy nhiên hiện nay ở nước ta đang có tranh luận về thị trường khoa học và
công nghệ hay thị trường công nghệ không chỉ giới thuật mà cả trong các văn bản
chính thức cũng có sự khác nhau. Trong khi Luật khoa học và công nghệ được Quốc
hội khóa X thông qua ngày 08/06/2000 tại kỳ họp lần thứ VII dùng thuật ngữ “thị
trường công nghệ” tại điều 33, còn trong các văn kiện của Đảng vẫn có thuật ngữ “thị
trường khoa học và công nghệ”.
Xoay quanh những tranh luận về thị trường khoa học và công nghệ hay thị
trường công nghệ có ba ý kiến sau:
+ Ý kiến thứ nhất cho rằng chỉ có thị trường công nghệ bởi khoa học không
thể trở thành hàng hóa.
SVTH: Cao Bích Liên
Trang
5
GVHD: TS Trần Văn Hiếu
6
Luận văn tốt nghiệp
+ Ý kiến thứ hai cho rằng đây là quy ước nên gọi thế nào cũng được. Vì
TTKHCN hay thị trường công nghệ điều mang ý nghĩa như nhau.
+ Ý kiến thứ ba lại khẳng định sự tồn tại của TTKHCN vì các sản phẩm
khoa học và công nghệ cũng có thể trao đổi mua bán trên thị trường như một loại hàng
hóa thông thường khác.
1.2. Các yếu tố cấu thành thị trường khoa học và công nghệ.
Là một bộ phận của thị trường chung, TTKHCN cũng bao gồm các yếu tố cơ
bản của thị trường. Đó là: người mua, người bán, người môi giới, dịch vụ, các hàng
hóa giá cả và luật lệ tham gia đó là các chính sách, cơ chế quản lý Nhà nước quy định
quyền lợi và nghĩa vụ tham gia. Các hoạt động của TTKHCN cũng phải tuân thủ các
quy luật, các quan hệ thị trường như cung cầu, quy luật giá trị, quy luật lợi nhuận…
Đồng thời, bản thân các yếu tố cấu thành cũng như các quy luật, các quan hệ thị
trường lại có những đặc thù riêng tạo nên một “sân chơi” đặc thù cho hoạt động
TTKHCN[2, tr 63].
1.2.1. Hàng hóa.
Đặc thù của hàng hóa trong TTKHCN là chúng xuất hiện dưới hình thức các văn
bằng hoặc bí quyết khoa học và công nghệ được chuyển giao có trả tiền cho việc khai
thác, sử dụng các tri thức khoa học công nghệ “ẩn mình” đằng sau các văn bằng ấy
(các phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích,…). Các văn bằng là hình thức công nhận,
chứng nhận về quyền sở hữu trí tuệ, hay trực tiếp hơn là sở hữu công nghệ. Quyền sở
hữu ấy chính là cơ sở và là nền tảng cho việc chuyển giao có trả tiền từ người đang sở
hữu cho người có nhu cầu mua và có khả năng chi trả[15, tr 50].
Đồng thời tính chất hàng hóa và thị trường thể hiện ở những khía cạnh, quan hệ
và giới hạn mức độ cụ thể. Cũng như hàng hóa và thị trường nói chung, sản phẩm
nghiên cứu khoa học trở thành hàng hóa và xuất hiện trên TTKHCN là hiện tượng
khách quan. Tuy nhiên vẫn cần xác định rõ tác dụng và khuyết tật của hàng hóa sản
phẩm nghiên cứu khoa học để có phương thức quản lý. Vấn đề sản phẩm nghiên cứu
SVTH: Cao Bích Liên
Trang
6
GVHD: TS Trần Văn Hiếu
7
Luận văn tốt nghiệp
khoa học và công nghệ không chỉ có ý nghĩa học thuật thuần túy, mà còn có ý nghĩa
thực tiễn rất quan trọng.
1.2.2. Cung – cầu.
Nói đến thị trường cơ bản phải bàn đến cung - cầu, môi trường pháp lý và xã hội
để cung và cầu có thể quan hệ, giao tiếp, trao đổi với nhau. Giai đoạn ban đầu, đặc
trưng của TTKHCN là sự tự nguyện giải quyết những vấn đề sản xuất đặt ra. Các cá
nhân, tổ chức khoa học và công nghệ bắt đầu tham gia vào các dịch vụ tư vấn kỹ thuật,
hỗ trợ các doanh nhân, doanh nghiệp trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế trong sản
xuất chuyển giao thành quả khoa học và công nghệ cho sản xuất khi nhận thức của xã
hội về vai trò không thể thiếu được của khoa học và công nghệ đối với xây dựng kinh
tế ngày càng một nâng cao, thì TTKHCN sẽ được chỉ đạo, định hướng và tổ chức để
hình thành một thị trường thực sự đối với các thành quả khoa học và công nghệ.
Khi thành quả khoa học và công nghệ được thừa nhận là hàng hóa, được
thương mại hóa thực sự, lúc đó TTKHCN mới khẳng định được vị trí và vai trò của
nó. Như vậy sự phát triển TTKHCN là hệ quả của phát triển kinh tế, phát triển của
khoa học và công nghệ và mối quan hệ cung - cầu giữa khoa học công nghệ và sản
xuất. Sự phát triển nhận thức của xã hội đối với lực lượng khoa học và công nghệ là
một lực lượng sản xuất, đối với thành tựu khoa học và công nghệ là một sản phẩm
hàng hóa[9, tr 21].
1.2.3. Giá cả.
Giá cả thị trường thường tỷ lệ thuận với giá trị thị trường của hàng hóa và tỷ lệ
nghịch với giá trị hay sức mua của tiền. Bởi vậy ngay cả giá trị thị trường của hàng
hóa không đổi thì giá cả hàng hóa vẫn có thể biến đổi do giá trị tiền tăng lên hay giảm
xuống. Sự chênh lệch giữa giá cả thị trường và giá trị thị trường là hiện tượng đương
nhiên, là “vẻ đẹp” của cơ chế thị trường, còn sự phù hợp giữa chúng chỉ là ngẫu nhiên.
Giá cả thị trường được hình thành trong quan hệ mua – bán, do đó giá cả thể hiện mối
quan hệ trực tiếp giữa người mua và người bán.
SVTH: Cao Bích Liên
Trang
7
GVHD: TS Trần Văn Hiếu
8
Luận văn tốt nghiệp
+ Đối với người mua: giá cả là căn cứ trực tiếp để đánh giá được và mất nếu
người mua muốn sử dụng hoặc sở hữu sản phẩm.
+ Đối đối người bán: giá cả trực tiếp tạo ra và tác động đến doanh thu và lợi
nhuận mà họ có thể nhận được thông qua việc tiêu thụ những khối lượng sản phẩm
nhất định ở những mức giá có thể có.
Trong nền kinh thế thị trường giá cả được coi là “bàn tay vô hình”, điều phối
các quan hệ thị trường, điều chỉnh hành vi của người bán và người mua nhằm tối đa lợi
ích của mỗi bên tham gia trao đổi[3, tr 30].
Giá cả hàng hóa, dịch vụ trong TTKHCN có những đặc thù, đặc điểm riêng do
chính những đặc thù của hoạt động khoa học và công nghệ sản sinh ra chúng cũng như
hình thức tồn tại mua – bán của chúng quy định.
Về lý thuyết giá cả hàng hóa, dịch vụ khoa học công nghệ được xác định bởi
các chi phí đã bỏ ra, đã làm ra chúng (giá thành) và lợi nhuận cho người sản xuất. Tuy
vậy, đối với loại hàng hóa dịch vụ khoa học công nghệ như đã nói ở trên khó xác định
chính xác giá thành của chúng. Vì cho đến nay chưa có công cụ, phương pháp định
lượng hao phí lao động khoa học và công nghệ dùng để chỉ đo lường các đầu vào cho
cổ máy cực kỳ phức tạp là trí óc con người mà quy trình hoạt động của nó vẫn còn là
điều bí ẩn.
Trên thế giới hiện nay giá cả hàng hóa dịch vụ khoa học công nghệ được xác
định một cách tương đối dựa trên cơ sở thị trường, cụ thể là quan hệ cung - cầu hoặc
dựa theo loại hàng hóa tương tự.
Với cách xác định giá cả dựa theo quan hệ cung – cầu thì ban đầu giá cả hàng
hóa khoa học và công nghệ mang nhiều tính chất độc quyền với lợi nhuận siêu ngạch.
Sau đó quy luật cung - cầu hướng tới điểm cân bằng sẽ làm cho giá cả giảm dần. Các
phần mềm tin học được cài đặt cho các thiết bị công nghệ thông tin là một ví dụ điển
hình.
Luật chuyển giao công nghệ 2006 cũng quy định giá và phương thức thanh toán
chuyển giao công nghệ.
SVTH: Cao Bích Liên
Trang
8
GVHD: TS Trần Văn Hiếu
9
Luận văn tốt nghiệp
1. Giá thanh toán trong hợp đồng chuyển giao công nghệ do các bên thỏa
thuận.
2. Việc thanh toán được thực hiện bằng một hoặc một số phương thức sau đây:
a) Trả một lần hoặc nhiều lần bằng tiền hoặc hàng hoá;
b) Chuyển giá trị công nghệ thành vốn góp vào dự án đầu tư hoặc vào vốn
của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật;
c) Phương thức thanh toán khác do các bên thỏa thuận[10, tr 12, điều 22].
Trong bối cảnh hoạt động khoa học và công nghệ ở Việt Nam hiện nay thì việc
xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ khoa học công nghệ rất dễ bị méo mó vì những lý do
sau:
+ Việc hành chính hóa tổ chức hoạt động khoa học công nghệ làm méo mó
các quan hệ thị trường đối với các sản phẩm khoa học và công nghệ.
+ Quyền sở hữu sản phẩm khoa học công nghệ không được rõ ràng, tạo nên
những rào cản cho việc mua – bán sản phẩm.
+ Tính độc quyền trong cung cấp các sản phẩm khoa học và công nghệ làm
méo mó các quan hệ giá cả đối với các sản phẩm này.
+ Việc thiếu thông tin khoa học công nghệ nhiều khi làm mất định hướng
không chỉ cho bản thân hoạt động khoa học công nghệ mà còn cho cả việc so sánh kết
quả khoa học công nghệ với loại hàng hóa khoa học công nghệ tương tự[20].
1.2.4. Nhà nước và cơ chế quản lý.
Nhà nước là một chủ thể quan trọng tham gia thị trường với tư cách là người
quản lý, “người nhạc trưởng” đối với các hoạt động thị trường. Vai trò này thể hiện
chủ yếu là tạo cơ sở pháp lý, cơ chế quản lý cho các hoạt động thị trường. Đối với
TTKHCN với những đặc thù như đã trình bày, thì vai trò quản lý của Nhà nước lại
càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Các quy định pháp lý tạo thành một yếu tố quan trọng cho sự hình thành và
phát triển TTKHCN. Các quy định này điều chỉnh hành vi của các bên tham gia vào
SVTH: Cao Bích Liên
Trang
9
GVHD: TS Trần Văn Hiếu
10
Luận văn tốt nghiệp
các hoạt động mua – bán trên TTKHCN. Luật chuyển giao công nghệ 2006 quy định
chính sách thuế để thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ.
1. Miễn thuế thu nhập cho tổ chức, cá nhân góp vốn bằng Bằng sáng chế,
công nghệ.
2. Miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để sử dụng trực tiếp vào
hoạt động nghiên cứu phát triển công nghệ, đổi mới công nghệ, bao gồm máy móc,
thiết bị, phụ tùng, vật tư, phương tiện vận tải trong nước chưa sản xuất được, công
nghệ trong nước chưa tạo ra được; tài liệu, sách báo khoa học.
3. Máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải chuyên dùng thuộc loại trong nước
chưa sản xuất được phục vụ cho việc thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ
không chịu thuế giá trị gia tăng.
4. Cơ sở sản xuất, kinh doanh đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất mới, mở
rộng quy mô, đổi mới công nghệ, cải thiện môi trường sinh thái, nâng cao năng lực sản
xuất được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho phần thu nhập tăng thêm trong bốn
năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong bảy năm tiếp theo.
5. Doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ có tiếp nhận công nghệ thuộc
Danh mục công nghệ khuyến khích chuyển giao được miễn thuế thu nhập trong bốn
năm với điều kiện tổng giá trị miễn thuế không vượt quá 50% tổng kinh phí đầu tư cho
đổi mới công nghệ.
6. Doanh nghiệp ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn khi thực hiện dự án đầu tư có tiếp nhận
công nghệ được hưởng ưu đãi như sau:
a) Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp bốn năm, kể từ khi có thu nhập chịu
thuế và giảm 50% số thuế phải nộp trong chín năm tiếp theo với điều kiện tổng giá trị
miễn thuế không vượt quá tổng kinh phí đầu tư cho đổi mới công nghệ;
b) Miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hoá phục vụ việc thay thế, đổi mới
công nghệ và nguyên liệu, vật tư, linh kiện dùng để sản xuất trong thời hạn năm năm,
kể từ khi bắt đầu sản xuất theo công nghệ mới.
SVTH: Cao Bích Liên
Trang
10
GVHD: TS Trần Văn Hiếu
11
Luận văn tốt nghiệp
7. Tổ chức, cá nhân chuyển giao công nghệ thuộc lĩnh vực ưu tiên chuyển
giao vào vùng nông thôn, miền núi, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa
bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được giảm 50% thuế thu nhập đối
với thu nhập từ việc chuyển giao công nghệ, cung cấp giống cây trồng, giống vật nuôi.
8. Cơ sở ươm tạo công nghệ, cơ sở ươm tạo doanh nghiệp công nghệ được
miễn thuế thu nhập trong bốn năm, được giảm 50% thuế thu nhập phải nộp trong chín
năm tiếp theo và được miễn thuế sử dụng đất[10, tr 21, điều 44].
Trong nhiều năm qua, các quy định pháp lý này ở Việt Nam đã và đang được
đổi mới và hoàn thiện nhằm tạo một “sân chơi” thuận lợi cho các hoạt động khoa học
công nghệ theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên theo đánh giá chính thức thì các quy định
pháp lý cho hoạt động khoa học và công nghệ hiện nay vẫn còn thiếu nhiều, quản lý
khoa học công nghệ chậm đổi mới, lúng túng trong chuyển sang cơ chế thị trường[2, tr
64].
Vai trò quản lý của Nhà nước còn thể hiện ở chỗ hỗ trợ cho hoạt động khoa học
và công nghệ. Hoạt động hỗ trợ khoa học công nghệ có vai trò tạo điều kiện thúc đẩy
các hoạt động mua – bán trên TTKHCN. Thị trường càng phát triển thì càng cần đến
hoạt động hỗ trợ.
Cũng như các thị trường khác, các hoạt động hỗ trợ TTKHCN bao gồm các
dịch vụ như: môi giới, quảng cáo, tiếp thị, cung cấp tài chính….
Luật chuyển giao công nghệ 2006 quy định dịch vụ chuyển giao công nghệ
1. Dịch vụ chuyển giao công nghệ bao gồm:
a) Môi giới chuyển giao công nghệ;
b) Tư vấn chuyển giao công nghệ;
c) Đánh giá công nghệ;
d) Định giá công nghệ;
đ) Giám định công nghệ;
e) Xúc tiến chuyển giao công nghệ.
SVTH: Cao Bích Liên
Trang
11
GVHD: TS Trần Văn Hiếu
12
Luận văn tốt nghiệp
2. Tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ chuyển giao công nghệ phải có Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh dịch vụ chuyển giao công nghệ[10, tr 15, điều 28].
Bên cạnh còn quy định về dịch vụ giám định công nghệ.
1. Dịch vụ giám định công nghệ là hoạt động kinh doanh hoặc không kinh
doanh thông qua giám định công nghệ để xác định tình trạng thực tế của công nghệ
được chuyển giao và những nội dung khác liên quan đến việc chuyển giao công nghệ
theo yêu cầu của một hoặc các bên tham gia ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ
hoặc của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền.
2. Tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ giám định công nghệ, bên yêu cầu giám
định công nghệ phải tuân theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp
luật có liên quan[10, tr 16, điều 33].
Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay các tổ chức cá nhân hoạt động hỗ trợ thị trường
khoa học và công nghệ rất ít về số lượng và yếu về năng lực hoạt động, bởi lý do:
Một là, bản thân TTKHCN còn rất sơ khai, chưa có nhu cầu nhiều đối với sự
hỗ trợ, mặc dù ở phía ngược lại, hoạt động hỗ trợ có tác dụng thúc đẩy TTKHCN phát
triển. Tuy vậy xét về vai trò chủ động của cầu đối với cung thì sự yếu kém, thiếu hụt
của cầu không làm cho cung phát huy tác dụng.
Hai là, về phía quản lý Nhà nước vẫn chưa có những quy định pháp lý cho
việc mở rộng và phát huy các hoạt động hỗ trợ khoa học công nghệ.
Ba là, sự hạn chế, ít ỏi về số lượng các tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học
công nghệ cũng như sự ít quan tâm từ phía các doanh nghiệp tới hoạt động khoa học
công nghệ, cộng thêm tính chất khép kín theo chiều dọc trong quản lý Nhà nước đối
với hoạt động khoa học công nghệ, làm cho không chỉ dòng thông tin về kết quả hoạt
động khoa học công nghệ ít vượt ra khỏi khuôn khổ hành chính của các cơ quan khoa
học công nghệ Nhà nước và là nơi sản sinh phần lớn các kết quả khoa học công nghệ
Việt Nam hiện nay[15, tr 53 – 54].
SVTH: Cao Bích Liên
Trang
12
GVHD: TS Trần Văn Hiếu
13
Luận văn tốt nghiệp
1.3. Vai trò và sự cần thiết để phát triển TTKHCN trong nền kinh tế.
1.3.1. Vai trò của TTKHCN trong nền kinh tế.
Trong thời đại ngày nay có lẽ không còn ai không nhận thức được rằng khoa
học và công nghệ có vai trò rất quan trọng về nhiều mặt đối với sự phát triển của nền
kinh tế, khoa học và công nghệ là cái không thể thiếu được trong đời sống kinh tế - xã
hội của một Quốc gia. Vai trò này của khoa học và công nghệ càng trở nên đặc biệt
quan trọng đối với nước ta đang trên con đường rút ngắn giai đoạn phát triển để sớm
trở thành một xã hội hiện đại.
Ngay từ khi bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới đất nước Đảng ta đã xác định
khoa học và công nghệ là cái giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển lực lượng sản
xuất và nâng cao trình độ quản lý, bảo đảm chất lượng và tốc độ phát triển của nền
kinh tế công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã
hội công bằng, văn minh, khoa học và công nghệ trở thành quốc sách hàng đầu. Vai
trò đó thể hiện:
- Thị trường là một trong những nhân tố quyết định tới sản lượng sản xuất hàng
năm của doanh nghiệp. Đầu tiên doanh nghiệp muốn sản xuất thì phải nắm bắt được
thông tin và nhu cầu khoa học và công nghệ. Do đó cần phải có được TTKHCN. Vì
TTKHCN cũng có ảnh hưởng lớn đến việc tạo ra thị trường và phát triển thị trường
của doanh nghiệp. Với những tiến bộ khoa học và công nghệ thuộc vào dạng phát
minh, sáng chế thì nó có thể mở ra một thị trường hoàn toàn mới đối với doanh nghiệp
cũng như đối với nền kinh tế. Như vậy, TTKHCN có nhiệm vụ tạo cầu để kích thích
khả năng cung ứng. Thị trường có bên mua - bên bán, và cũng phải có hàng hóa có giá
trị để trao đổi. Hàng hóa của TTKHCN và cách thức trao đổi trên thị trường này cũng
có những đặc thù nhất định.
- TTKHCN có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình công nghiệp hóa hiện đại hóa
đất nước, nhằm hoạch định và xây dựng trên cơ sở khoa học trong tư thế đủ mạnh để
các nền kinh tế “tùy thuộc lẫn nhau” mà không “lệ thuộc” hoặc “lép vế” đối với các
nền kinh tế tiên tiến trong vùng, đặc biệt là trong hiệp hội ASEAN.
SVTH: Cao Bích Liên
Trang
13
GVHD: TS Trần Văn Hiếu
14
Luận văn tốt nghiệp
TTKHCN đã và đang có ảnh hưởng rất lớn đến các thành tựu và cơ cấu kinh tế.
TTKHCN cung cấp phương tiện phổ biến công nghệ đã được cấp bản quyền. Ngoài ra,
nó còn cho phép các doanh nghiệp tập trung nguồn lực nghiên cứu và phát triển vào
những lĩnh vực mà doanh nghiệp có lợi thế vượt trội và tìm kiếm được từ các doanh
nghiệp khác những công nghệ mà mình không có. Điều này cũng giúp nâng cao được
hiệu quả nghiên cứu, phát triển và sở hữu công nghiệp.
- TTKHCN cũng là nơi mà ở đó các doanh nghiệp bán và chuyển nhượng công
nghệ, mà một doanh nghiệp nào đó không thể tự khai thác. Như vậy, TTKHCN đã
thúc đẩy đầu tư cần thiết để có được các phát minh - sáng chế. Ngày càng có nhiều
doanh nghiệp có được những khoản thu lớn từ chuyển nhượng công nghệ, nhưng
không có ý định triển khai sản xuất thương mại hóa[21].
- TTKHCN cũng có những ảnh hưởng đến cơ cấu của ngành công nghiệp và thị
trường nói chung. TTKHCN tạo ra “sân chơi” cho các loại hình doanh nghiệp mới
như: doanh nghiệp trung gian (đàm phán liên kết người mua với người bán công
nghệ), doanh nghiệp nhận bảo hiểm các dịch vụ nghiên cứu và phát triển. Số lượng các
doanh nghiệp mới này đã tăng trong vài năm qua.
- TTKHCN là nơi lựa chọn, tiếp thu và ứng dụng những tiến bộ khoa học và
công nghệ mới của thế giới vào phát triển các lĩnh vực, các ngành kinh tế quốc dân,
nhất là các ngành tạo cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế, các ngành mũi
nhọn như công nghệ thông tin, vi điện tử, sinh học, vật liệu mới, nguồn năng lượng
mới... Nghiên cứu, khảo nghiệm và ứng dụng các quy trình công nghệ mới, các thiết
bị, công cụ mới, các vật liệu, giống cây, con giống mới vào sản xuất. Cải tiến và hiện
đại hóa công nghệ truyền thống, nâng cao trình độ công nghệ trong tất cả các ngành,
các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, tạo sự chuyển biến mới về năng suất, chất lượng, hiệu
quả của sản xuất, đặc biệt là chất lượng, hiệu quả của sản xuất, đặc biệt là chất lượng
các sản phẩm xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế nước ta.
- TTKHCN còn là nơi tuyên truyền, phổ biến rộng rãi tri thức khoa học, kiến
thức công nghệ vào sản xuất tiên tiến, qua đó góp phần nâng cao trình độ hiểu biết về
SVTH: Cao Bích Liên
Trang
14
GVHD: TS Trần Văn Hiếu
15
Luận văn tốt nghiệp
khoa học công nghệ và kỹ thuật sản xuất, nâng cao năng lực hoạt động sản xuất của
công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.
- TTKHCN làm tăng số lượng, chất lượng, sự đa dạng của các dịch vụ mang lại
lợi ích cho các bên tham gia thị trường và cho toàn xã hội, theo hướng "nâng cao chất
lượng và khả năng thương mại của các sản phẩm khoa học và công nghệ; đẩy mạnh
việc đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp..." mà Dự thảo Báo cáo Chính trị tại
Ðại hội X của Ðảng đã đề ra[14, tr 8].
Hiện nay khoa học và công nghệ đã thực sự được coi là lực lượng sản xuất
hàng đầu. Vì sự gắn kết mật thiết giữa khoa học công nghệ với phát triển kinh tế. Hầu
hết các chương trình khoa học và công nghệ đều nhằm mục đích định hướng tập trung
vào phục vụ phát triển kinh tế thông qua việc đẩy mạnh thương mại hoá các kết quả
nghiên cứu. Vì thế, TTKHCN là mảng công việc được đặc biệt chú trọng, theo hướng
nâng cao chất lượng và khả năng thương mại hóa các sản phẩm khoa học và công
nghệ, phát triển các tổ chức trung gian và môi giới công nghệ, nhanh chóng hoàn thiện
và nâng cao hiệu lực của pháp luật về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ.
Sản phẩm khoa học và công nghệ cung cấp cho TTKHCN là các sản phẩm có
trình độ khoa học và công nghệ cao, đảm bảo về chất lượng và có uy tín.Vì thế mà
trong thời gian qua nhiều thành tựu khoa học và công nghệ đã được đưa vào áp dụng
trong thực tế, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội rõ rệt, đặc biệt trong một số lĩnh vực
như nông nghiệp, bưu chính viễn thông, y tế,… đã góp phần đưa nền kinh tế nước ta
phát triển và tạo ra những tiền đề cần thiết để bước vào thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Đặc thù của các hàng hóa trên thị trường
khoa học và công nghệ là chúng thường ở dạng các văn bản bằng phát minh, sáng chế,
các giấy phép chuyển nhượng, các bí quyết sẵn sàng chuyển giao, các bản quyền tác
giả, giải pháp hữu ích… Nhìn chung các loại văn bằng, giấy phép này đều là sự chứng
nhận, xác nhận về sở hữu trí tuệ, chúng là cơ sở là đối tượng chuyển giao, mua bán
phục vụ cho sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội[2, tr 64].
- TTKHCN còn là nơi đánh giá những đóng góp thiết thực của hoạt động khoa
học và công nghệ vào kinh tế xã hội nước ta trên các phương diện khoa học xã hội và
SVTH: Cao Bích Liên
Trang
15
GVHD: TS Trần Văn Hiếu
16
Luận văn tốt nghiệp
nhân văn, đổi mới công nghệ, tăng cường các tiềm lực khoa học và công nghệ ở Việt
Nam cũng như khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới và khu vực.
1.3.2. Sự cần thiết để phát triển TTKHCN ở Việt Nam.
Nước ta hiện nay còn ở tình trạng lạc hậu về mặt kinh tế, khoa học và công
nghệ, nông nghiệp và công nghiệp chưa kết hợp thành một cơ cấu thống nhất và sự
mất cân đối trong các ngành kinh tế quốc dân trở nên trầm trọng. Vì vậy việc đẩy
mạnh phát triển TTKHCN đối với nước ta không chỉ bắt nguồn từ đòi hỏi bức xúc của
quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa và quá trình phát triển kinh tế thị
trường mà còn bắt nguồn từ yêu cầu phát triển đất nước theo hướng xã hội chủ nghĩa.
Về trình độ khoa học và công nghệ so với các nước tiên tiến nhất thế giới,
chúng ta bị lạc hậu từ 50 đến 100 năm, so với các nước tiên tiến ở mức trung bình
chúng ta lạc hậu từ một đến hai thế hệ. Vì thế việc tiến hành phát triển TTKHCN ở
nước ta hiện nay không chỉ được coi là tất yếu khách quan mà còn là một đòi hỏi bức
xúc để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Mục tiêu
của công nghiệp hóa – hiện đại hóa là đến năm 2020 về cơ bản nước ta trở thành một
nước công nghiệp. Khác với các nước đi đầu công nghiệp hóa nước ta đòi hỏi phải
thực hiện rút ngắn, chỉ có như thế chúng ta mới có thể rút ngắn được khoảng cách và
tiến tới đuổi kịp các nước phát triển, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa.
Cùng với yêu cầu đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường cũng đòi hỏi chúng ta
phải phát triển TTKHCN. Để chuyển sang nền kinh tế thị trường hiện đại từ điểm xuất
phát thấp, nước ta không thể đi theo các bước tuần tự như các nước đi trước đã làm mà
phải rút ngắn theo kiểu “nhảy vọt” “rút ngắn”. Đây vừa là cơ hội để tận dụng lợi thế
của nước phát triển sau và vừa là thách thức đòi hỏi phải vượt qua, muốn phát triển
kinh tế thị trường theo cách thức như vậy, nhất thiết phải đẩy mạnh phát triển
TTKHCN để tận dụng những thành tựu mới nhất về khoa học và công nghệ[19].
Đảng và Nhà nước đã ban hành Luật và nhiều văn bản dưới Luật nhằm thúc đẩy
khoa học và công nghệ cũng như nguồn lực khoa học và công nghệ phát triển. Ngay
trong thời kỳ nền kinh tế bao cấp cũng đã có những đơn đặt hàng rất lớn về nghiên cứu
SVTH: Cao Bích Liên
Trang
16
GVHD: TS Trần Văn Hiếu
17
Luận văn tốt nghiệp
- triển khai nghiên cứu và phát triển cho các Viện nghiên cứu, Trường, Liên hiệp sản
xuất khoa học kỹ thuật,… Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, các chủ trương,
chính sách, phát triển TTKHCN của Nhà nước đã có các bước đi cụ thể để thúc đẩy
mạnh mẽ quá trình, đổi mới cơ chế vận hành.
Nghị quyết TW 2 khóa VIII đã vạch định hướng cho sự phát triển TTKHCN và
coi đây là một trong tám giải pháp cơ bản để thúc đẩy nhanh hơn sự phát triển khoa
học và công nghệ nước nhà, tạo môi trường để khoa học và công nghệ gắn với sản
xuất, kinh doanh, với phát triển kinh tế. Kết luận về khoa học và công nghệ của Hội
nghị Trung ương 6 (khóa IX) chỉ rõ, “cần tạo lập và phát triển TTKHCN. Rà soát các
cơ chế, chính sách hiện có và xây dựng cơ chế, chính sách mới để hỗ trợ và thúc đẩy
các doanh nghiệp nghiên cứu khoa học và thường xuyên đổi mới công nghệ, thúc đẩy
các hoạt động TTKHCN. Hoàn thiện cơ sở pháp lý và nâng cao hiệu lực thực thi pháp
luật về sở hữu trí tuệ”[4].
Hội nghị Trung ương VI khóa IX, Nghị quyết Đại hội X đã nêu vấn đề đổi mới
quản lý và tổ chức hoạt động khoa học công nghệ gắn với đổi mới quản lý và tổ chức
hoạt động kinh tế, đảm bảo sự gắn kết lợi ích của người sáng tạo và lợi ích của các
thành phần kinh tế- xã hội.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X đã ban hành chủ trương và các giải pháp
quan trọng liên quan đến phát triển TTKHCN. Các giải pháp đó là: Chuyển các tổ
chức khoa học và công nghệ thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng và phát triển
công nghệ sang cơ chế tự trang trải kinh phí và hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp.
Chính nhờ chủ trương trên mà đến tháng 3 năm 2008 cả nước có 504 tổ chức khoa học
và công nghệ công lập đã chuyển đổi. Nghị định 115 khuyến khích các doanh nghiệp
đầu tư cho nghiên cứu ứng dụng, đổi mới công nghệ và thu hút vốn đầu tư nước ngoài
cho phát triển khoa học và công nghệ[21].
Ngoài ra Nghị quyết Đại hội lần X của Đảng chủ trương: “Phát triển TTKHCN
trên cơ sở đổi mới cơ chế, chính sách để phần lớn sản phẩm khoa học công nghệ (trừ
nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu phục vụ cơ bản xây dựng đường lối, chiến lược, chính
sách phát triển) trở thành hàng hóa. Thông tin rộng rãi và tạo môi trường cạnh tranh để
SVTH: Cao Bích Liên
Trang
17
GVHD: TS Trần Văn Hiếu
18
Luận văn tốt nghiệp
các sản phẩm khoa học và công nghệ được mua bán thuận lợi trên thị trường... phát
triển thị trường khoa học và công nghệ là hệ quả của phát triển kinh tế, phát triển của
bản thân khoa học và công nghệ và mối cung cầu giữa khoa học và công nghệ và sản
xuất; phát triển của nhận thực xã hội đối với lực lượng khoa học và công nghệ là một
lực lượng sản xuất, đối với thành tựu khoa học và công nghệ là một sản phẩm hàng
hóa”[24].
Từ chủ trương của Đảng, Chính phủ cũng đã cụ thể hóa bằng nhiều văn bản, chỉ
thị phát triển TTKHCN: Quyết định số 175/CP ngày 29-4-1981 cho phép ký hợp đồng
kinh tế trong nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; Pháp lệnh Bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp ngày 11-2-1989; Pháp lệnh chuyển giao công nghệ ngày 10-2-1989
cho phép tất cả các thể nhân, pháp nhân đều được phép ký kết các hợp đồng chuyển
giao khoa học công nghệ với đối tác Nhà nước; Nghị định số 35/HĐBT ngày 28-11992 về công tác quản lý khoa học và công nghệ đã ghi nhận quyền của các cơ quan
Nhà nước, các tổ chức và công dân được bình đẳng trong hoạt động khoa học và công
nghệ, được thành lập các tổ chức khoa học và công nghệ; Nghị định số 45/1998/NĐCP ngày 1-7-1998 của Chính phủ quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ; Luật
Khoa học và Công nghệ năm 2000 quy định quyền sở hữu, quyền tác giả đối với kết
quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ…
Những văn bản pháp quy trên không chỉ tạo ra một hành lang pháp lý tương
đối ổn định để các tổ chức, cá nhân có thể hoạt động được bình đẳng, lành mạnh trong
thị trường khoa học và công nghệ mà nó còn thể hiện đường lối, chủ trương, chính
sách đúng đắn của Đảng và Chính phủ trong việc phát triển TTKHCN. Qua thực tiễn,
nó đã đi vào cuộc sống và bắt đầu đặt những nền móng đầu tiên cho việc phát triển
TTKHCN[16, tr 16].
Bên cạnh đó, chúng ta cũng đang thực hiện việc chuyển các tổ chức khoa học
và công nghệ, thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng và phát triển khoa học công
nghệ sang chế độ tự trang trải kinh phí và được hoạt động theo cơ chế của doanh
nghiệp. Đây là một giải pháp quan trọng có tính đột phá, tạo ra môi trường hoạt động
khoa học và công nghệ năng động, gắn với nhu cầu phát triển của sản xuất kinh doanh.
SVTH: Cao Bích Liên
Trang
18
GVHD: TS Trần Văn Hiếu
19
Luận văn tốt nghiệp
Trong thời gian qua, một số tổ chức khoa học và công nghệ đã chuyển sang
hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp và đã phát huy được nội lực, chuyển giao mạnh
mẽ công nghệ cho sản xuất, điển hình là Viện nghiên cứu thiết kế máy công cụ đã
được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định cho phép đổi thành doanh nghiệp hoạt động
khoa học và công nghệ… Chính phủ cũng đã ban hành nhiều chính sách nhằm khuyến
khích các tổ chức, doanh nghiệp nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ vào
sản xuất, kinh doanh, như Nghị định số 119/NĐ-CP ngày 18-9-1999 của Chính phủ về
một số chính sách và cơ chế tài chính khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào hoạt
động khoa học và công nghệ[22].
Đặc biệt, tới đây Bộ sẽ đẩy mạnh việc hình thành và phát triển bộ phận doanh
nghiệp khoa học công nghệ cao, chuyển các tổ chức nghiên cứu ứng dụng và phát triển
công nghệ sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp. Nguồn vốn đầu tư cho khoa học
và công nghệ cũng sẽ được tính toán theo hướng đa dạng hóa. Cơ chế phân bổ ngân
sách Nhà nước cho hoạt động khoa học và công nghệ cũng sẽ được cải thiện mạnh.
TTKHCN là mảng công việc được đặc biệt chú trọng, theo hướng nâng cao chất lượng
và khả năng thương mại hóa các sản phẩm khoa học và công nghệ, phát triển các tổ
chức trung gian và môi giới công nghệ, nhanh chóng hoàn thiện và nâng cao hiệu lực
của pháp luật về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ[18].
Việt Nam đã thông qua được những văn bản Luật rất quan trọng, tạo nền tảng
pháp lý cho việc phát triển TTKHCN. Đó là Luật Sở hữu Trí tuệ, Luật thứ hai là Luật
Chuyển giao công nghệ.v.v… Đó là những văn bản Luật đảm bảo cơ sở pháp lý cho
TTKHCN hoạt động và phù hợp với các cam kết Quốc tế khi Việt Nam tham gia hội
nhập.
Như vậy, việc hình thành và phát triển TTKHCN ở Việt Nam là quá trình gia
tăng các giao dịch liên quan đến công nghệ giữa các chủ thể tiềm năng (giao dịch giữa
doanh nghiệp với viện nghiên cứu, giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa trong
nước và ngoài nước, v.v.). Nhằm tăng cường sự đóng góp của khoa học và công nghệ
vào mục tiêu phát triển kinh tế và xã hội. Trọng tâm của việc phát triển TTKHCN ở
Việt Nam là thiết lập "môi trường" cần thiết để các chủ thể có thể giao dịch trên thị
SVTH: Cao Bích Liên
Trang
19
GVHD: TS Trần Văn Hiếu
20
Luận văn tốt nghiệp
trường, khuyến khích lượng cầu trên thị trường thông qua đổi mới và nâng cao năng
lực công nghệ của doanh nghiệp, tăng nguồn cung hàng hoá thông qua thúc đẩy quá
trình thương mại hoá các kết quả nghiên cứu và gia tăng tính định hướng thị trường
của hoạt động nghiên cứu, khuyến khích phát triển hệ thống các dịch vụ trung gian
như môi giới, tư vấn công nghệ, cung cấp thông tin, v.v.
Tóm lại, có thể nói TTKHCN là một hiện tượng toàn cầu, hiện tượng quốc tế
sớm hay muộn nó sẽ đến với tất cả các dân tộc và các Quốc gia trên trái đất. Sự thành
công của các nước trong việc đạt những mục tiêu về khoa học và công nghệ để tạo ra
tăng tưởng kinh tế đã tác động trực tiếp tới sức cạnh tranh và dẫn tới kết quả là làm
tăng tốc độ tăng tưởng kinh tế là nhờ vào đầu tư nhà máy và thiết bị mới, sử dụng nhân
lực có kỹ năng và kiến thức cao hơn, hoặc do cải tiến và đổi mới khoa học công nghệ.
SVTH: Cao Bích Liên
Trang
20
- Xem thêm -