Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thể loại khác Chưa phân loại Thi phan iii.2 hoan chinh...

Tài liệu Thi phan iii.2 hoan chinh

.DOC
24
225
58

Mô tả:

Câu 1: nêu trách nhiệm của người tiếp công dân và trách nhiệm của người đúng đầu trong việc tiếp công dân. Liên hệ thực tế Tiếp công dân để lắng nghe, tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân là công việc quan trọng, luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Luật tiếp công dân vừa có hiệu lực ngày 01/7/2014 và Nghị định số 64/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiếp công dân là những cơ sở pháp lý quan trọng quy định về trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước, đặc biệt là trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác tiếp công dân. Khái niệm tiếp công dân Luật Tiếp công dân năm 2013 (có hiệu lực thi hành từ ngày 07/01/2014) quy định về khái niệm tiếp công dân tại khoản 1 Điều 2 như sau: “Tiếp công dân là việc cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân quy định tại Điều 4 của Luật này tiếp đón để lắng nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân; giải thích, hướng dẫn cho công dân về việc thực hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo đúng quy định của pháp luật. Tiếp công dân bao gồm tiếp công dân thường xuyên, tiếp công dân định kỳ và tiếp công dân đột xuất”. Mục đích của việc tiếp công dân Việc tiếp công dân nhằm tiếp nhận khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của thủ trưởng cơ quan hành chính để xem xét, ra quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận việc giải quyết tố cáo, quyết định xử lý tố cáo và trả lời cho công dân biết theo đúng thời gian pháp luật quy định; đồng thời, hướng dẫn công dân thực hiện quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật, góp phần tuyên truyền pháp luật về khiếu nại cho công dân. Trách nhiệm của cán bộ tiếp công dân (Điều 8 Luật Tiếp công dân năm 2013) - Khi tiếp công dân, người tiếp công dân phải bảo đảm trang phục chỉnh tề, có đeo thẻ công chức, viên chức hoặc phù hiệu theo quy định; - Yêu cầu người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh nêu rõ họ tên, địa chỉ hoặc xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy ủy quyền (nếu có); có đơn hoặc trình bày rõ ràng nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết cho việc tiếp nhận, thụ lý vụ việc; - Có thái độ đúng mực, tôn trọng công dân, lắng nghe, tiếp nhận đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh hoặc ghi chép đầy đủ, chính xác nội dung mà người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh trình bày; - Giải thích, hướng dẫn cho người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh chấp hành chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, kết luận, quyết định giải quyết đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan có thẩm quyền; hướng dẫn người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh đến đúng cơ quan hoặc người có thẩm quyền giải quyết; - Trực tiếp xử lý hoặc phân loại, chuyển đơn, trình người có thẩm quyền xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; thông báo kết quả xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh cho công dân; - Yêu cầu người vi phạm nội quy nơi tiếp công dân chấm dứt hành vi vi phạm; trong trường hợp cần thiết, lập biên bản về việc vi phạm và yêu cầu cơ quan chức năng xử lý theo quy định của pháp luật. Điều 18. Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan trong việc tiếp công dân 1. Lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức công tác tiếp công dân của cơ quan mình: a) Ban hành nội quy, quy chế tiếp công dân; b) Bố trí địa điểm thuận lợi cho việc tiếp công dân; bảo đảm cơ sở vật chất phục vụ việc tiếp công dân; c) Phân công cán bộ, công chức làm công tác tiếp công dân thường xuyên; d) Phối hợp chặt chẽ với cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan tiếp công dân và xử lý vụ việc nhiều người cùng khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh về một nội dung; đ) Kiểm tra, đôn đốc cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có trách nhiệm thuộc quyền quản lý của mình thực hiện các quy định của pháp luật trong việc tiếp công dân; e) Có trách nhiệm bảo đảm an toàn, trật tự cho hoạt động tiếp công dân; g) Báo cáo tình hình, kết quả công tác tiếp công dân với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. 2. Trực tiếp thực hiện việc tiếp công dân ít nhất 01 ngày trong 01 tháng tại địa điểm tiếp công dân của cơ quan mình. 3. Thực hiện tiếp công dân đột xuất trong các trường hợp sau đây: a) Vụ việc gay gắt, phức tạp, có nhiều người tham gia, liên quan đến trách nhiệm của nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc ý kiến của các cơ quan, tổ chức, đơn vị còn khác nhau; b) Vụ việc nếu không chỉ đạo, xem xét kịp thời có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng hoặc có thể dẫn đến hủy hoại tài sản của Nhà nước, của tập thể, xâm hại đến tính mạng, tài sản của nhân dân, ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội. 4. Khi tiếp công dân, người đứng đầu cơ quan phải có ý kiến trả lời về việc giải quyết vụ việc cho công dân. Trường hợp chưa trả lời ngay được thì chỉ đạo cơ quan, tổ chức, đơn vị, công chức, viên chức thuộc quyền quản lý của mình kịp thời xem xét, giải quyết và thông báo thời gian trả lời cho công dân. Như vậy, Tổ chức tốt công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân là một trong những biện pháp quan trọng góp phần đảm bảo thực hiện quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời là một kênh thông tin quan trọng góp phần cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo được sát với tình hình thực tiễn. LIÊN HỆ THỰC TẾ: Ở tỉnh thừa thiên Huế chúng ta, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, Thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước, người đứng đầu cơ quan, đơn vị đã thực hiện nghiêm túc chế độ tiếp công dân thường xuyên, định kỳ và đột xuất theo quy định. Đặc biệt, đã dành thời gian thích đáng trực tiếp gặp gỡ và đối thoại với công dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của người dân để kịp thời giải quyết đúng chính sách, pháp luật những phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân nên số lượng công dân đến khiếu nại, tố cáo giảm đáng kể. Kết quả đạt được trong việc tiếp công dân Trong năm2015, lãnh đạo UBND tỉnh và Thủ trưởng các cấp, các ngành đã tiếp 1.254 lượt với 1.268 người, tăng 83 lượt và giảm 569 người so với năm 2014 (1.171 lượt với 1.837 người); trong đó, UBND tỉnh tiếp 147 lượt với 161 người, tăng 44 lượt với 49 người; cấp huyện tiếp 1.024 lượt với 1.024 người; sở, ngành tiếp 83 lượt với 83 người); trong đó, có 02 đoàn đông người (vụ việc 04 hộ Kim Long, thành phố Huế; vụ việc bà Phan Thị Huyền, đại diện tập thể 12 người, trú tại thôn La Khê, xã Hương Vinh, thị xã Hương Trà). Trong năm 2015, UBND tỉnh và các cấp, các ngành đã tiếp nhận 2.492 đơn; trong đó: khiếu nại, tố cáo 358 đơn (khiếu nại 336 đơn; tố cáo 22 đơn); không tăng không giảm so với cùng kỳ năm trước; kiến nghị, phản ánh 2.134 đơn, giảm 0,9% so với cùng kỳ năm trước. Tổng số đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của thủ trưởng các cơ quan quản lý hành chính nhà nước các cấp là 230 đơn (230 vụ việc); đã giải quyết 200 vụ việc, đạt tỷ lệ 87% (năm 2013 đạt 86 %). Trong đó, giải quyết thông qua giải thích, thuyết phục 44 vụ; giải quyết bằng quyết định hành chính 156 vụ; số vụ việc giải quyết lần 1 là 147 vụ, số vụ việc giải quyết lần 2 là 53 vụ. Phân tích từ kết quả giải quyết 200 vụ khiếu nại cho thấy: Có 19 vụ việc khiếu nại đúng (chiếm 9,5%); 144 vụ việc khiếu nại sai (chiếm 72%); 37 vụ việc khiếu nại đúng một phần (chiếm 18,5%). Giải quyết 122 vụ việc đúng thời hạn theo quy định (chiếm 61%); 78 vụ việc quá thời hạn (chiếm 39%).Việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật: Tổng số quyết định giải quyết khiếu nại phải tổ chức thực hiện 186 quyết định; số quyết định thực hiện xong là 156 quyết định Tổng số đơn tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ trưởng các cơ quan quản lý hành chính nhà nước các cấp là 16 đơn (16 vụ việc); đã giải quyết 13 vụ (đạt tỷ lệ 81%). Phân tích từ kết quả giải quyết 13 vụ tố cáo cho thấy: 02 vụ việc tố cáo đúng (chiếm 15,4%); 07 vụ việc tố cáo sai (chiếm 53,8%) và 04 tố cáo đúng một phần (chiếm 30,8%). Chấp hành thời gian giải quyết: Số vụ việc tố cáo giải quyết đúng thời hạn 12 vụ việc và số vụ việc tố cáo giải quyết quá thời hạn 01 vụ việc. Việc thi hành quyết định xử lý tố cáo: Tổng số quyết định phải tổ chức thực hiện 13; đã thực hiện 11 quyết định Những ưu điểm, tồn tại trong công tác giải quyết khiếu nại tiếp công dân a. Ưu điểm Nhìn chung, tình hình đơn thư có xu hướng giảm dần nhưng số vụ việc năm sau lại tăng so với cùng kỳ năm trước. Đơn thư khiếu kiện chủ yếu tập trung vào việc yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai ranh giới, bờ rào, lối ngõ và tranh chấp sử quyền sử dụng đất, giá đất trong truy thu tiền các lô đất tồn đọng, khiếu nại về giá đền bù do Nhà nước quy hoạch mở đường, tiền hỗ trợ giải quyết việc làm cho con em nông dân khi nhà nước thu hồi đất. Tuy vẫn còn một số vụ việc phức tạp, kéo dài, tồn đọng nhưng nhìn chung đến cuối năm thì đã giải quyết tương đối dứt điểm, không để xảy ra điểm nóng về giải quyết đơn thư. Việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân luôn được Thường trực tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh quan tâm chỉ đạo, kiểm tra, đánh giá cụ thể thông qua các kỳ giao ban công tác nội chính hàng tháng. Vì vậy, trách nhiệm của UBND các huyện, thành phố đã được nâng cao trong việc giải quyết đơn thư phát sinh. Thanh tra tỉnh đã phối hợp với Văn phòng Uỷ ban nhân dân, Hội đồng nhân dân tỉnh tham mưu, xử lý kịp thời các vụ việc khiếu nại, tố cáo của công dân để Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh giao nhiệm vụ cho các Sở, thành phố, huyện giải quyết theo luật định. Ngoài ra định kỳ tháng Chủ tịch UBND tỉnh đều dành thời gian 1 đến 2 buổi nghe kết quả giải quyết đơn thư và cho ý kiến chỉ đạo giải quyết các vụ việc nổi cộm, phức tạp do Thanh tra tỉnh tham mưu, nhờ đó mà tỷ lệ và chất lượng giải quyết khiếu nại, tố cáo ngày càng được nâng lên. Uỷ ban nhân dân tỉnh thường xuyên tranh thủ ý kiến các ngành chuyên môn liên quan đến các vụ việc khiếu kiện, các ngành nội chính của tỉnh để có sự thống nhất cao trong xử lý đơn thư, để đảm bảo sự thống nhất trong tỉnh. b. Tồn tại, vướng mắc - Nhận thức về công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại của một số đơn vị chưa đầy đủ. Công tác tiếp dân ở một số địa phương chưa nghiêm túc, chưa đúng quy định, địa điểm, thời gian tiếp dân chưa phù hợp, xử lý nhiệm vụ sau tiếp dân chưa kịp thời và chưa có hiệu quả. Việc chấp hành các quy định của pháp luật về tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo vẫn còn hạn chế ở một số phòng, ban, đơn vị, phường, xã. Một số phường, xã chưa thực hiện đúng và đầy đủ các quy định về xử lý các tranh chấp khiếu nại, tố cáo. Trách nhiệm của một số lãnh đạo phường, xã trong chấp hành các quy định về tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo chưa tốt dẫn đến đơn thư khiếu nại vượt cấp. - Hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước vẫn còn có hạn chế trên một số lĩnh vực dễ dẫn đến phát sinh khiếu nại, tố cáo như bồi thường giải phóng mặt bằng, giải quyết đất ở tồn đọng, giải quyết đất nhà tập thể, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quản lý trật tự đô thị, xây dựng cơ bản, thu chi tài chính… - Công tác phối hợp giải quyết một số nội dung bức xúc trên các lĩnh vực về đất đai, bồi thường giải phóng mặt bằng, quản lý đô thị, tài chính, xây dựng cơ bản…giữa UBND thành phố, UBND huyện với UBND cấp tỉnh, giữa UBND phường, xã với UBND thành phố, huyện có lúc chưa kịp thời, thiếu thống nhất dẫn đến chậm trễ trong giải quyết một số vụ việc. - Công tác hoà giải ở một số phường, xã, đơn vị cơ sở chưa tích cực để xử lý hiệu quả các vụ việc bức xúc ngay từ cơ sở, thiếu phương pháp hoà giải nên dẫn đến chất lượng hoà giải chưa cao, nhất là đối với các tranh chấp đât đai. Các vụ việc tranh chấp đất đai hoà giải tại cơ sở ở một số phường, xã thực hiện hiệu quả còn thấp, làm cho công dân bức xúc gửi đơn khiếu kiện nhiều nơi, buộc tỉnh thành phố phải xem xét giải quyết. - Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật trên các lĩnh vực về xây dựng, đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng còn có hạn chế nên khi Nhà nước thực hiện xử lý vi phạm, giải toả, đền bù hoặc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phát sinh khiếu kiện do người dân không nắm bắt được thông tin hoặc chưa được hướng dẫn cụ thể. Bên cạnh đó còn thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa chính quyền với Mặt trận Tổ quốc để tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật, nhất là các văn bản pháp luật mới được ban hành, sửa đổi, bổ sung. - Đội ngũ cán bộ, công chức chưa đủ mạnh trong tham mưu dẫn đến chậm trễ trong thực hiện nhiệm vụ hoặc thiếu chủ động trong công việc làm hạn chế hiệu quả giải quyết công việc cho dân. Một số đơn vị chưa thực sự quan tâm việc bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ trong việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, dẫn đến hiện tượng giải quyết vụ việc kéo dài, vi phạm quy định của luật khiếu nại, tố cáo. Một số sở, huyện của thành phố giải quyết nhiều vụ việc nhưng không dứt điểm; một số phòng, ban, phường, xã không giải quyết hết nội dung công dân khiếu kiện làm cho việc tiếp khiếu của công dân tái diễn. - Việc thực hiện nhiệm vụ được giao về giải quyết khiếu nại, tố cáo ở một số cơ quan chưa nghiêm túc, chưa đúng thời gian theo quy định dẫn đến việc công dân bức xúc gửi đơn đi nhiều nơi và vượt cấp. - Một số đoàn thanh tra, phòng, ban chuyên môn và Uỷ ban nhân dân phường, xã chưa thực sự quan tâm và chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm của mình trong thực hiện nhiệm vụ giải quyết đơn thư, năng lực của một số cán bộ chuyên viên còn hạn chế nên chưa làm tốt công tác giải thích, hướng dẫn thực hiện kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo, trong tham mưu còn chưa xem xét làm rõ hết nội dung khiếu nại dẫn đến công dân còn bức xúc khiếu nại nhiều nơi. 3. Nguyên nhân của những tồn tại, vướng mắc Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn tỉnh còn có những tồn tại, hạn chế như trên là vì các nguyên nhân chính sau: - Số lượng đơn thư và vụ việc giữa các năm vẫn tăng là vì đơn thư chủ yếu tập trung vào việc yêu cầu giải quyết các tranh chấp đất đai, trong khi đó các hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn lại trong dân phần lớn là vướng mắc, khó xử lý khi thực hiện các quy định, chính sách về đất đai hiện hành. Một số lượng đất tồn đọng chưa được giải quyết. Vướng mắc trong công tác đền bù giải phóng mặt bằng liên quan đến giá đất, thu hồi đất…Các văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định 84 chưa được ban hành đầy đủ. Ngoài ra, việc đơn thư tăng còn là do trình độ hiểu biết và nhận thức về pháp luật của một bộ phận nhân dân còn hạn chế, dễ bị người khác lôi kéo, một số ít công dân còn lợi dụng quyền dân chủ để khiếu nại, tố cáo vượt cấp kéo dài. - Chưa có hệ thống dữ liệu chung về công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, vì vậy chưa nâng cao được chất lượng thông tin, báo cáo. Bên cạnh đó, năng lực chuyên môn và nghiệp vụ của một số cán bộ tham gia tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo ở các phòng, ban chuyên môn của Uỷ ban nhân dân thành phố, Uỷ ban nhân dân các phường, xã vẫn còn hạn chế, ảnh hưởng đến kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhất là đối với các đơn vị phường, xã. - Việc áp dụng các quy định của pháp luật vào điều kiện thực tế trên một số lĩnh vực quản lý nhà nước, nhất là trên lĩnh vực đất đai, bồi thường giải phóng mặt bằng…vẫn gặp nhiều khó khăn do một số quy định chưa cụ thể và không phù hợp với thực tiễn quản lý. - Số lượng cán bộ trực tiếp giải quyết khiếu nại, tố cáo còn ít,chưa được bổ sung đủ, trong khi đó số lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo tăng nhiều dẫn đến việc quá tải trong giải quyết các vụ việc. - Thái độ, tác phong làm việc và đạo đức công vụ của một số cán bộ công chức ở thành phố và ở phường, xã còn chưa đáp ứng được yêu cầu trong quá trình tiếp dân, xử lý hồ sơ hành chính của dân. Có những cán bộ có trình độ pháp luật nhưng hạn chế về nghiệp vụ hoặc ngược lại cũng là nguyên nhân hạn chế về chất lượng công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của dân. - Một số phòng, Uỷ ban nhân dân các phường, xã chưa thực sự có trách nhiệm trong việc chủ động hoặc phối hợp trong việc chỉ đạo thực hiện giải quyết khiếu nại, tố cáo. Chưa xem công tác giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo là một nhiệm vụ quan trọng ưu tiên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị. Thiếu sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo kiểm tra, giám sát ở cơ quan, đơn vị, phường xã dẫn đến hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa cao. Những giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả công tác tiếp dân ở Thừa Thiên Huế Thứ nhất: Thực hiện tốt công tác tiếp công dân định kỳ và tiếp công dân thường xuyên theo Quyết định số 1871/QĐ-UBND ngày 09/09/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc ban hành Quy chế tổ chức tiếp công dân, xử lý đơn, thư khiếu nại, đơn tố cáo tiếp nhận được, khắc phục việc chuyển đơn lòng vòng, hướng dẫn không đúng quy định. Triển khai có hiệu quả, theo đúng nội dung, tiến độ yêu cầu của Đề án Đổi mới công tác tiếp dân theo Quyết định số 858/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Kế hoạch số 48/KH-UBND ngày 13/6/2011 của UBND tỉnh. Nâng cao chất lượng công tác thanh tra trách nhiệm đối với Thủ trưởng các cấp, các cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 18 tháng 05 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ "Về chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo", Chỉ thị số 21/CT-UBND ngày 20 tháng 6 năm 2012 của Chủ tịch UBND tỉnh "Về việc chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn tỉnh". Thứ hai: Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho nhân dân. Phối hợp với các ngành chức năng liên quan tuyên truyền, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, thực hiện tốt Đề án 03 của Chính phủ về tăng cường giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo cho cán bộ nhân dân các phường, xã. Thứ ba: Tăng cường bám sát cơ sở, nắm rõ tình hình và bản chất từng vụ việc, xử lý dứt điểm tại nơi phát sinh theo đúng thẩm quyền pháp luật quy định. Thường xuyên phối kết hợp với các ngành kiểm tra, đánh giá chất lượng giải quyết khiếu nại, tố cáo và trách nhiệm của cấp uỷ cơ sở. Quan tâm, động viên các tổ hoà giải và chất lượng giải quyết đơn thư từ cơ sở. Khi khiếu kiện phát sinh cần tăng cường biện pháp hoà giải tại cơ sở, khối xóm, tăng cường công khai đối thoại để nâng cao nhận thức và trách nhiệm của công dân, của cán bộ trong cộng đồng dân cư gắn với mục tiêu xây dựng khối xóm văn hoá, hạn chế tối đa phát sinh khiếu kiện đông người, đơn thư vượt cấp, không để xẩy ra điểm nóng trên địa bàn. Thứ tư: Tiếp tục phối hợp giữa Uỷ ban nhân dân, Ban pháp chế Hội đồng nhân dân và Liên đoàn lao động tỉnh kiểm tra hoạt động của Thanh tra nhân dân trong việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Nắm chắc tình hình trên địa bàn, biểu dương, uốn nắn, xếp loại động viên cơ sở trong việc giải quyết khiếu kiện của công dân. Thứ năm: Chăm lo xây dựng lực lượng trực tiếp làm công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo cả về chất lượng và số lượng. Tổ chức tập huấn nghiệp vụ về công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, tạo điều kiện cơ sở vật chất cần thiết cho các Đoàn thanh tra hoàn thành tốt nhiệm vụ. Thứ sáu: Thực hiện tốt quy trình thanh tra, quy trình tiếp nhận, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân theo tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9001-2000. Thứ bảy: Thực hiện kịp thời, nghiêm túc việc xem xét kỷ luật cán bộ công chức vi phạm. Xử lý nhanh việc thu hồi đất đã giao không đúng quy định, cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, truy thu nghĩa vụ tài chính…theo đúng quy định của pháp luật. Thứ tám: Giám sát và có biện pháp xử lý trách nhiệm của người đứng đầu trong việc chậm giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của Trưởng các Đoàn thanh tra, Trưởng các phòng ban, đơn vị và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố và các phường, xã. Như vậy, để đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo của công dân và nâng cao hiệu quả công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trên phạm vi cả nước nói chung và ở Thừa Thiên Huế nói riêng thì trước hết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về công tác này, đồng thời phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và Luật khiếu nại nói riêng để mọi người dân sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật. Muốn làm được điều đó thì phải có một đội ngũ cán bộ, công chức vừa giỏi về kỹ năng, nghiệp vụ, vừa am hiểu pháp luật, thực sự là công bộc của nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ. Bên cạnh đó phải luôn đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước thông qua Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, các cấp uỷ Đảng và sự phối hợp nhịp nhàng với các cơ quan chức năng và các tổ chức đoàn thể. TRÁCH NHIỆM BẢN THÂN Là cán bộ công chức, viên chức, bản thân phải có phẩm chất, đạo đức tốt, có kiến thức và am hiểu chính sách, pháp luật, có ý thức trách nhiệm làm công tác tiếp công dân. Nội dung các vấn đề phản ánh ở nơi tiếp công dân rất đa dạng, liên quan đến chính sách pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau. Do đó, trách nhiệm của bản thân khi tiếp công dân như sau: + Có phẩm chất tốt: Đây là tiêu chuẩn chung của cán bộ công chức và đối với người cán bộ tiếp công dân, đòi hỏi họ phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với sự nghiệp của Đảng và Nhà nước. Ở nơi tiếp công dân, hàng ngày cán bộ tiếp công dân phải tiếp cận, giải thích, hướng dẫn công dân các vấn đề của xã hội, thậm chí là về các vấn đề tiêu cực của xã hội như tham nhũng, lãng phí, cố ý làm trái…, ngoài ra đến phòng tiếp công dân không chỉ đơn thuần là những công dân trách nhiệm, có ý thức xây dựng mà còn không ít kẻ bất mãn, quá khích. Vì vậy, cán bộ tiếp công dân không chỉ giải thích, hướng dẫn mà đôi khi còn đòi hỏi bản lĩnh chính trị để đấu tranh với các luồng tư tưởng ngoại lai, sai trái, đi ngược lại mục tiêu của Đảng. + Có kiến thức và am hiểu chính sách, pháp luật để có thể hướng dẫn giải thích cho công dân khi thực hiện nhiệm vụ của mình. Trước hết, đó là những kiến thức pháp luật về khiếu nại, tố cáo, về đất đai, chính sách xã hội, giải toả đền bù, thu hồi đất, kinh tế, tài chính… Đây là những lĩnh vực nóng bỏng phát sinh nhiều đơn thư khiếu nại, tố cáo. Có thể nói chất lượng, hiệu quả của việc hướng dẫn, giải thích của người cán bộ tiếp công dân phụ thuộc chủ yếu vào năng lực, trình độ của người cán bộ đó. Nếu cán bộ tiếp công dân không nắm vững quy định pháp luật, hiểu rõ các chính sách của Đảng và Nhà nước sẽ không giải thích cho người dân hiểu pháp luật để thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của mình hoặc xác định sai thẩm quyền dẫn đến hướng dẫn cho người dân đến cơ quan không có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, gây ra tâm lý bất bình cho người dân. Người tiếp công dân cũng cần có trình độ nghiệp vụ vững vàng để khi được giao tham mưu thụ lý giải quyết khiếu nại, tố cáo đúng quy định của pháp luật. Chính vì thế cán bộ tiếp công dân phải là người có kiến thức, am hiểu chính sách pháp luật. Đây là yếu tố quyết định đến chất lượng công tác tiếp công dân. + Có tinh thần trách nhiệm với công việc: Tinh thần trách nhiệm của cán bộ tiếp công dân không chỉ thể hiện ở khía cạnh là việc chấp hành đúng giờ giấc, nội quy hoặc có tinh thần làm việc mẫn cán mà tiêu chuẩn này còn đòi hỏi người tiếp công dân có ý thức đối với sự nghiệp của cách mạng, sự tồn vong của chế độ xã hội. Người cán bộ đó không chỉ là người đại diện cho cơ quan, tổ chức mà rộng hơn là đại diện cho Đảng, Nhà nước trong mối quan hệ với nhân dân. Rất nhiều công dân đến Trụ sở tiếp công dân với tâm trạng bức xúc, thậm chí nhiều người có thái độ gay gắt, lăng mạ, chửi bới cán bộ. Chính những lúc này người cán bộ tiếp công dân phải mềm dẻo, kiên trì giải thích, thuyết phục họ và có những biện pháp giải quyết kịp thời. Mọi sự nóng giận, mất bình tĩnh hoặc nhu nhược đều đem lại những hậu quả xấu cho lợi ích Nhà nước, lợi ích cộng đồng. Mặt khác, tinh thần trách nhiệm của người cán bộ tiếp công dân còn bị thử thách bởi tính chất công việc không được hấp dẫn này. Nếu không phải là người có tinh thần trách nhiệm, có bản lĩnh vững vàng chắc chắn sẽ phát sinh tư tưởng bi quan, chán nản, dẫn đến chất lượng tiếp công dân không cao. Tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo là một trong những khâu cơ bản của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Làm tốt khâu này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo kịp thời theo đúng thủ tục qui định của pháp luật. Thực hiện tốt việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân mà đặc biệt là công tác tiếp công dân, điều này thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đến các quyền tự do, lợi ích chính đáng của công dân, nó còn là bảo đảm cho sự phát triển kinh tế xã hội, sự ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng của đất nước. . Làm tốt công tác tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân là góp phần thực hiện có hiệu quả đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, thể hiện bản chất tốt đẹp của xã hội ta, của Nhà nước ta - Nhà nước “của dân , do dân và vì dân” . Câu 2: Anh chị hãy trình bày những nội dung quản lý cán bộ công chức nơi cơ sở được quy định trong luạt cán bộ công chức 2008. Liên hệ ở địa phương hoặc ngành nơi anh chị đang công tác. Đội ngũ cán bộ, công chức có vị trí rường cột trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan hành chính, có vai trò quyết định đến sự phát triển của đất nước, là người trực tiếp tham gia vào quá trình xây dựng và thực thi luật pháp, quản lý mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội; tham mưu, hoạch định, tổ chức thực hiện và thanh tra, kiểm tra việc thực thi các đường lối, chính sách. Khái niệm cán bộ công chức Khoản 1 Điều 4 quy định về cán bộ: “ Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”. Khoản 2 Điều 4 quy định về công chức: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của ĐCS Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”. - Khái niệm và chức danh cán bộ cơ sở Khoản 3 điều 4 Luật CBCC qui định: Cán bộ cơ sở (xã, phường, thị trấn) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị xã hội.  Chức danh cán bộ cơ sở + Bí thư, phó bí thư đảng uỷ, thường trực Đảng ủy cấp xã (nơi không có phó bí thư chuyên trách công tác Đảng); Bí thư, phó bí thư chi bộ xã (nơi chưa thành lập đảng ủy cấp xã); + Chủ tịch, phó chủ tịch Hội đồng nhân dân; + Chủ tịch, phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân; + Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc; + Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; + Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ; + Chủ tịch Hội nông dân (áp dụng đối với những xã, phường, thị trấn có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt Nam); + Chủ tịch Hội Cựu chiến binh. 1.1.2. Khái niệm và chức danh công chức cơ sở Công chức cơ sở (xã, phường, thị trấn) là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.  Chức danh công chức cơ sở + Trưởng Công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính qui); + Chỉ huy trưởng quân sự; + Văn phòng - thống kê; + Địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn), địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã); + Tài chính - kế toán; + Tư pháp - hộ tịch; + Văn hóa - xã hội. Trong điều kiện hiện nay, làm việc ở cấp cơ sở còn có một lực lượng lao động đặc biệt. Đó là những “ công chức dự bị” của các cấp cao hơn được đưa về làm việc tại cơ sở. Ngoài ra còn có một lực lượng cán bộ, công chức về tăng cường cho cơ sở. Những người hoạt động không chuyên trách Đây là nhóm người làm việc giống như những nhóm người được bầu để giữ các vị trí đứng đầu các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội nhưng họ đảm nhiệm vị trí “cấp phó”. Đồng thời, họ cũng là những người làm việc chuyên môn nhưng không thường xuyên và không được gọi là công chức. Gồm: + Trưởng ban tổ chức Đảng + Chủ nhiệm Uỷ ban kiểm tra Đảng + Trưởng Ban Tuyên giáo + Người phụ trách văn phòng đảng uỷ; + Phó trưởng ban công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính qui) + Phó chỉ huy trưởng quân sự; + Kế hoạch - giao thông - thuỷ lợi - nông, lâm, ngư, diêm nghiệp; + Người phụ trách lao động - thương binh và xã hội; + Người phụ trách dân số - gia đình và trẻ em; + Người phụ trách thủ quỹ - văn thư - lưu trữ + Người phụ trách phụ trách đài truyền thanh + Người phụ trách quản lý nhà văn hoá; + Phó chủ tịch Ủy ban mặt trận Tổ quốc; phó các đoàn thể cấp xã bao gồm: Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh; + Chủ tịch Hội Người cao tuổi, Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ. Ngoài ra còn có những người hoạt động không chuyên trách ở thôn và tổ dân phố gồm: Bí thư chi bộ thôn; trưởng thôn; công an viên ở thôn và bí thư chi bộ, tổ trưởng dân phố ở phường, thị trấn. 2. NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ QUẢN LÍ CÁN BỘ CÔNG CHỨC CƠ SỞ 2.1.1. Các nguyên tắc chung về quản lí cán bộ công chức - Quản lý cán bộ công chức phải dựa trên những quan điểm quản lý cán bô ô cảu ĐCSVN; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng CSVN và sự quản lí của Nhà nước, điều lệ của các tổ chức chính trị - xã hội - Kết hợp giữa tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế - Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ trách nhiệm cá nhân và phân công, phân cấp rõ ràng. - Việc sử dụng, đánh giá, phân loại cán bộ, công chức phải dựa trên phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực thi hành công vụ gắn liền với phát triển đội ngũ cán bộ, công chức -Thực hiện bình đẳng giới 2.1.2. Các nguyên tắc cụ thể về quản lý cán bộ, công chức cơ sở - Các qui định của pháp luật về nguyên tắc quản lí cán bộ công chức cơ sở + Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về cán bộ, công chức. + Xây dựng kế hoạch, quy hoạch cán bộ, công chức. + Quy định chức danh và cơ cấu cán bộ. + Quy định ngạch, chức danh, mã số công chức; mô tả, quy định vị trí việc làm và cơ cấu công chức để xác định số lượng biên chế. + Các công tác khác liên quan đến quản lí cán bộ, công chức - Các qui định của điều lệ đối với các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội về nội dung quản lí cán bộ công chức cơ sở +Không được trái với pháp luật nhà nước quy định; + Không được quy định các tiêu chuẩn thấp hơn của pháp luật nhà nước quy định. Đồng thời, pháp luật nhà nước không cấm những quy định mang tính đặc trưng của các tổ chức đó. 2.2. Nội dung quản lý cán bộ, công chức cơ sở 2.2.1. Tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về cán bộ, công chức Các văn bản quy phạm pháp luật sau khi ban hành cần phải được thực hiện trong cuộc sống thì mới có ý nghĩa. Mục đích của việc ban hành văn bản pháp luật chỉ có thể đạt được khi các quy định pháp luật do nhà nước đặt ra được các tổ chức, cá nhân trong xã hội thực hiện một cách chính xác, đầy đủ. Do vậy, vấn đề quan trọng là phải tổ chức thực hiện pháp luật, làm cho những quy định pháp lý được triển khai sâu rộng, đồng bộ và tuân thủ nghiêm túc trong đời sống xã hội. Việc thực hiện chính xác, đầy đủ các quy định của pháp luật về cán bộ, công chức là mối quan tâm không chỉ từ phía nhà nước mà còn từ phía công dân và các tổ chức, trong đó trực tiếp nhất là Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đã qui định rất cụ thể về nghĩa vụ, quyền của cán bộ, công chức và điều kiện bảo đảm thi hành công vụ. Cán bộ công chức trước hết cần tự giác thực hiện, chấp hành nghiêm chỉnh những điều pháp luật đã qui định và đòi hỏi pháp luật cũng phải được các tổ chức, các cá nhân khác tôn trọng, thực hiện chính xác và đầy đủ. 2.2.2. Xây dựng kế hoạch, quy hoạch cán bộ, công chức theo sự lãnh đạo của Đảng, theo các chức danh và cơ cấu cán bộ, công chức do pháp luật quy định Xây dựng qui hoạch, kế hoạch cán bộ, công chức là một nội dung trọng yếu của công tác cán bộ của chính quyền cơ sở. Qui hoạch nhằm chủ động tạo nguồn cán bộ, công chức dồi dào; khắc phục tình trạng hẫng hụt trong đội ngũ cán bộ, công chức, bảo đảm tính kế thừa, phát triển và sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, công chức, giữ vững đoàn kết nội bộ và sự ổn định chính trị ở địa phương. Trên cơ sở đó làm căn cứ để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức đảm nhận các chức danh lãnh đạo, quản lý và các vị trí chuyên môn vững vàng về chính trị, trong sáng về đạo đức, có trình độ và năng lực, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu của tình hình phát triển. Do đó, thực hiện tốt các chính sách và biện pháp để tạo nguồn cán bộ, công chức, đặc biệt là cán bộ, công chức lãnh đạo, đảm bảo sự chủ động và ổn định về nhân sự của chính quyền địa phương cơ sở là yêu cầu quan trọng và cần thiết. Theo đó: - Quy hoạch cán bộ, công chức phải thực sự gắn kết với các khâu khác trong công tác cán bộ như: Nhận xét, đánh giá; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; luân chuyển, sắp xếp, bố trí, sử dụng CBCC - Thực hiện quy hoạch “động” và “mở”: một chức danh có thể quy hoạch nhiều người và một người có thể quy hoạch nhiều chức danh; quy hoạch phải luôn được xem xét, đánh giá để bổ sung, điều chỉnh hàng năm, đưa ra khỏi quy hoạch những người không còn đủ tiêu chuẩn và điều kiện, bổ sung vào quy hoạch những nhân tố mới có triển vọng. - Quy trình quy hoạch phải bảo đảm mở rộng dân chủ, khách quan trong việc phát hiện nguồn, có sự tham gia của cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân, các đoàn thể trong việc nhận xét, đánh giá và giới thiệu cán bộ công chức; lấy kết quả nhận xét, đánh giá cán bộ thường xuyên và định kỳ làm cơ sở để lựa chọn cán bộ đưa vào quy hoạch; bảo đảm quyền tập trung của tập thể ban thường vụ đảng ủy cơ sở, lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội ở xã trong việc quy hoạch cán bộ; đồng thời có cơ chế để nhân dân, mặt trận, các đoàn thể giám sát việc xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ. - Quy trình phải đạt được cơ cấu cán bộ hợp lý: bố trí kết hợp giữa các độ tuổi, thực hiện trẻ hoá, độ tuổi trung bình khoá sau thấp hơn khoá trước; có tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ xuất thân công nông thích đáng; ở những nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số cần có tỷ lệ hợp lý cán bộ dân tộc thiểu số; Quy hoạch cán bộ cần đảm bảo tính khả thi, thực tế, kiên quyết khắc phục tình trạng quy hoạch cán bộ mang tính hình thức. Trên cơ sở quy hoạch cán bộ cần xây dựng các kế hoạch sau đây: - Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng để không ngừng nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng, nhất là đối với các đồng chí còn chưa đủ các tiêu chuẩn cần thiết để giữ các chức danh được quy hoạch. - Kế hoạch luân chuyển để đào tạo, rèn luyện cán bộ nguồn quy hoạch theo tinh thần Nghị quyết số 11NQ/TW, ngày 25-01-2002 của Bộ Chính trị về việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý. - Kế hoạch sắp xếp, bố trí, điều chuyển cán bộ nguồn quy hoạch vào các vị trí phù hợp, để qua công tác thực tế các đồng chí đó được rèn luyện, thử thách, tạo uy tín và vị thế cần thiết, chuẩn bị cho việc giới thiệu bầu cử, bổ nhiệm vào các chức danh quy hoạch. Việc cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng, thực hiện luân chuyển, bổ nhiệm hoặc giới thiệu bầu cử cần căn cứ vào quy hoạch cán bộ. 2.2.3. Mô tả vị trí, việc làm của cán bộ, công chức trên cơ sở số lượng biên chế Đổi mới phương thức quản lý cán bộ công chức trong các cơ quan nhà nước là một nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước ta quan tâm nhằm phát triển và hoàn thiện nền công vụ. Trên cơ sở chức danh, tiêu chuẩn, vị trí việc làm và cơ cấu tổ chức đã được phê duyệt, từng cơ quan, đơn vị tổ chức rà soát lại đội ngũ công chức, đối chiếu với tiêu chuẩn cụ thể để bố trí lại cho phù hợp. Xác định chính xác số lượng các vị trí việc làm cần phải có trong mỗi cơ quan, tổ chức là vấn đề rất khó và phức tạp, cần phải dựa trên các phương pháp khoa học. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, vị trí việc làm trong các cơ quan hành chính nhà nước chưa được xây dựng. Để thực hiện Luật Cán bộ, công chức cần thiết phải xác định vị trí việc làm thông qua bản mô tả công việc, từ đó các yêu cầu về tính phức tạp của công việc, yêu cầu về phẩm chất, trình độ, năng lực sẽ hình thành lên cơ cấu ngạch công chức và các chức danh lãnh đạo, quản lý tương ứng cần bổ nhiệm. Đây cũng là căn cứ để tuyển dụng, bố trí, bổ nhiệm, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, ….công chức. Vì vậy, mô tả vị trí việc việc làm và cơ cấu công chức trên cơ sở số lượng biên chế là rất cần thiết để triển khai có hiệu quả việc đổi mới cơ chế quản lý công chức được quy định tại Luật Cán bộ, công chức năm 2008. 2.2.4. Các công tác khác liên quan đến quản lý CBCC theo pháp luật của Nhà nước Ngoài các nội dung trên, việc quản lý cán bộ, công chức còn bao gồm các công tác khác liên quan đến quy định tại Luật Cán bộ, công chức như: tuyển dụng, sử dụng, bố trí, đào tạo, bồi dưỡng, điều động, biệt phái bổ nhiệm, từ chức, miễm nhiệm, luân chuyển, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật, chế độ, tiền lương… Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, khi đã có đường lối đúng thì cán bộ là khâu quyết định. Vì vậy, việc đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức không chỉ góp phần xây dựng một nền hành chính trong sạch, vững mạnh, thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả mà còn có tác động tích cực đến nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội. LIÊN HỆ: Qua 30 năm đổi mới, đội ngũ cán bộ, công chức của tỉnh Thừa Thiên - Huế không ngừng trưởng thành cả về số lượng và chất lượng; kiến thức về năng lực thực tiễn không ngừng được nâng lên, hầu hết có bản lĩnh chính trị, kiên định lập trường, quyết tâm thực hiện công cuộc đổi mới theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, có tâm huyết và hoài bão góp phần xây dựng và phát triển tỉnh Thừa Thiên - Huế thành trung tâm văn hoá, du lịch, giáo dục và đào tạo, nghiên cứu khoa học, y tế chuyên sâu và là trung tâm kinh tế của vùng trọng điểm kinh tế miền trung và của cả nước. Thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức tỉnh Thừa Thiên - Huế Đến nay, đội ngũ công chức, viên chức trong toàn tỉnh có khoảng trên 20.000 người trong đó gần 2.000 người làm nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước hơn 17.000 người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp chiếm 90,65%. Về chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức quản lý hành chính nhà nước - Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ: đại học và trên đại học chiếm tỷ lệ 74,4%; cao đẳng, trung cấp chiếm tỷ lệ 18,2%; sơ cấp và còn lại chiếm tỷ lệ 7,4%; - Trình độ lý luận chính trị: cử nhân chính trị và cao cấp chiếm tỷ lệ 11,5%, trung cấp chiếm tỷ lệ 17,9%. - Trình độ quản lý nhà nước: đã qua bồi dưỡng quản lý nhà nước chiếm tỷ lệ 59.97%. - Trình độ tin học: cử nhân tin học chiếm tỷ lệ 1,8%; tin học cơ sở chiếm tỷ lệ 47,53%. - Trình độ ngoại ngữ: cử nhân ngoại ngữ chiếm tỷ lệ 5%; cơ sở chiếm tỷ lệ 44,11%. - Cơ cấu độ tuổi: về tuổi đời dưới 30 tuổi chiếm tỷ lệ 14.31%; từ 30 tuổi đến 50 tuổi chiếm tỷ lệ 64.2%; trên 50 tuổi 21,49%(1). Như vậy đội ngũ cán bộ, công chức quản lý hành chính nhà nước phần lớn đã được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị. Vấn đề đáng quan tâm của đội ngũ cán bộ, công chức làm công các quản lý hành chính là sự thiếu hụt về lý luận chính trị và trình độ tin học. Sự thiếu đồng bộ về một số ngành và lĩnh vực, nhất là các chuyên gia giỏi. Phần đông số cán bộ trẻ có kiến thức, có trình độ học vấn, năng động và mạnh dạn nhưng thiếu kinh nghiệm trong việc quản lý điều hành, chưa được chuẩn bị chu đáo, có những trường hợp chậm được phát hiện để bố trí sử dụng thoả đáng và cất nhắc kịp thời. Kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn về kinh tế thị trường, về quản lý nhà nước, quản lý đô thị của một số đông cán bộ, công chức, chậm được đào tạo mới, đào tạo lại. Đã có hiện tượng " chảy máu chất xám" do một số cán bộ, công chức sau khi được cho đi đào tạo sau đại học đã bỏ cơ quan nhà nước, để đi làm việc cho các đơn vị liên doanh, tổ chức nước ngoài, hoặc đến những đơn vị có chế độ ưu đãi và thu nhập cao. Về chất lượng đội ngũ cán bộ, viên chức của các đơn vị sự nghiệp - Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ: đại học và trên đại học chiếm tỷ lệ 31,95%; cao đẳng, trung cấp chiếm tỷ lệ 60,19%; sơ cấp và còn lại chiếm tỷ lệ 7,86%. - Trình độ lý luận chính trị: cử nhân và cao cấp chính trị chiếm tỷ lệ 0,42%, trung cấp chiếm tỷ lệ 4,22%. - Trình độ Quản lý nhà nước: cán bộ công chức được bồi dưỡng chiếm tỷ lệ 1,59%. - Trình độ tin học: cử nhân và cao đẳng tin học chiếm tỷ lệ 0,41%; tin học cơ sở chiếm tỷ lệ 1,27%. - Trình độ ngoại ngữ: cử nhân ngoại ngữ chiếm tỷ lệ 4,55%; cơ sở chiếm tỷ lệ 21,97%. - Cơ cấu về độ tuổi: tuổi đời dưới 30 tuổi chiếm tỷ lệ 26,86%; từ 30 tuổi đến 50 tuổi chiếm tỷ lệ 56,62%; trên 50 tuổi 16,52%(2). Thực trạng công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức: Hội nhập kinh tế quốc tế đã bước vào giai đoạn quan trọng với việc thực hiện các cam kết quốc tế, có ảnh hưởng trực tiếp đến các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của nước ta nói chung và thừa thiên huế nói riêng. Trong các chương trình hành động của mình, tỉnh Thừa Thiên - Huế đã xây dựng kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực cho hội nhập kinh tế quốc tế. Thời gian qua, Thừa Thiên - Huế đã có cố gắng ban đầu trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Vì vậy, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh không ngừng trưởng thành cả về số lượng và chất lượng. Về đào tạo công chức hành chính: Nhằm bảo đảm cho đội ngũ công chức từng bước chuẩn hoá ngạch, bậc công chức theo qui định, tỉnh quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực ở tất cả các lĩnh vực. Về công tác đào tạo cán bộ nguồn tỉnh đã phối hợp cùng Học viện Hành chính Quốc gia và Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh triển khai tổ chức 1 lớp cử nhân hành chính, 1 lớp cử nhân chính trị từ nguồn con em gia đình chính sách, nằm trong quy hoạch của địa phương với số lượng 196, bảo đảm nguồn công chức cho cơ sở. UBND tỉnh quyết định cho các huyện phối hợp với các trường đại học mở lớp đại học hệ vừa học vừa làm tại địa phương nên đã từng bước chuẩn hoá đội ngũ và nâng cao mặt bằng trình độ của cán bộ huyện và cơ sở. Như vậy đội ngũ cán bộ, công chức quản lý hành chính nhà nước số đông đã được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ, công chức làm công các quản lý hành chính là sự thiếu hụt về lý luận chính trị và trình độ tin học, sự thiếu đồng bộ về một số ngành và lĩnh vực. Phần đông số cán bộ trẻ có kiến thức, có trình độ học vấn, năng động và mạnh dạn nhưng thiếu kinh nghiệm trong việc quản lý điều hành, chưa được chuẩn bị chu đáo, có những trường hợp chậm được phát hiện để bố trí sử dụng thoả đáng và cất nhắc kịp thời. Về đào tạo cán bộ xã, phường, thị trấn: Thường vụ Tỉnh uỷ đã ra Nghị quyết chuyên đề về đào tạo đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn. Tính đến nay đã có 381/3.551 người có trình độ đại học, cao đẳng; 999/3.551 người có trình độ trung cấp. Song song với đào tạo cán bộ đương chức các địa phương đã xây dựng kế hoạch đào tạo cán bộ nguồn cho xã, phường, thị trấn; có cả hình thức gửi đi đào tạo đại học (4). Trong những năm qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao mặt bằng chung về trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức; từng bước tiêu chuẩn hoá ngạch, bậc theo qui định của nhà nước; đảm bảo cho công tác quy hoạch và gắn liền với nhu cầu sử dụng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Đội ngũ cán bộ, công chức sau khi được đào tạo nhận thức chính trị vững vàng hơn, hiệu quả công tác được nâng lên rất rõ. Bộ phận cán bộ, công chức được đề bạt, bổ nhiệm hầu hết phát huy tốt chức trách của mình trên cương vị mới. Kết quả đào tạo và đào tạo lại từ năm 2001 đến 2005 tổng hợp như sau: lý luận chính trị: 3.061 lượt người; quản lý nhà nước: 2.461 lượt người; chuyên môn nghiệp vụ: 465 lượt người; tin học: 2.177 lượt người; ngoại ngữ: 972 lượt người (5). Hiệu quả của công tác đào tạo và đào tạo lại thể hiện mối quan hệ tác động trực tiếp giữa việc học tập nâng cao trình độ với hiệu quả công tác quản lý nhà nước. Từ đó cho thấy làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng sẽ thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của toàn tỉnh, cũng như của từng ngành, từng đơn vị cơ sở. Tuy nhiên công tác đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng trong những năm qua vẫn còn những khó khăn: - Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của địa phương chưa đồng bộ giữa số lượng, chất lượng và cơ cấu. Các nhóm đối tượng cán bộ, công chức ở mặt này hoặc mặt khác còn chưa đạt các tiêu chuẩn theo qui định, đặc biệt đội ngũ cán bộ cơ sở, xã, phường trình độ còn thấp và còn nhiều bất cập. - Nội dung đào tạo, bồi dưỡng còn thiếu cân đối giữa việc trang bị trình độ lý luận chính trị với kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ; một số lĩnh vực chưa sâu, còn nhiều lý thuyết, ít kiến thức thực tiễn; chưa quan tâm nhiều đến đào tạo kiến thức quản lý chuyên ngành, lĩnh vực; việc mở các lớp bồi dưỡng theo chuyên đề có phần hạn chế. - Chất lượng đào tạo (nhất là hệ tại chức) chưa cao; một số công chức đang chạy theo bằng cấp. - Đào tạo chưa gắn liền với quy hoạch, đào tạo và sử dụng chưa ăn khớp với nhau, đào tạo, bồi dưỡng chưa thực sự đồng bộ với yêu cầu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, công chức. Giải pháp Đối với cán bộ, công chức cấp xã: - Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng trang bị trình độ lý luận chính trị, kiến thức quản lý nhà nước và trình độ chuyên môn theo tiêu chuẩn quy định cho cán bộ chuyên trách. - Đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh cho Chủ tịch HĐND và Chủ tịch UBND cấp xã. - Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng về kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ không chuyên trách cấp xã, cán bộ thôn, bản và tổ dân phố. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng: Đối với công chức hành chính: + Tổ chức đào tạo tiền công vụ cho công chức dự bị. Công chức trong thời gian tập sự phải được đào tạo trang bị kiến thức về nền hành chính nhà nước, pháp luật, kỹ năng hoạt động công vụ. + Đào tạo, bồi dưỡng về trình độ lý luận chính trị, kiến thức quản lý nhà nước, tin học cho công chức ngạch cán sự, chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp; tổ chức đào tạo tiếng dân tộc cho cán bộ, công chức công tác tại các vùng có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. + Đào tạo, bồi dưỡng trang bị kỹ năng nghiệp vụ cho công chức các ngạch. + Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng trang bị kỹ năng lãnh đạo, quản lý trước khi đề bạt, bổ nhiệm chú ý ưu tiên cho cán bộ lãnh đạo cấp huyện. Đối với cán bộ, công chức cấp xã: + Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng trang bị kiến thức theo tiêu chuẩn cho cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã. + Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng trang bị kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ cho Chủ tịch HĐND và Chủ tịch UBND cấp xã. + Đào tạo, bồi dưỡng trang bị kiến thức tin học cho các đối tượng cán bộ chuyên trách cấp xã, ưu tiên đối tượng là Chủ tịch UBND cấp xã. Đào tạo tiếng dân tộc cho cán bộ chuyên trách cấp xã công tác tại vùng có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. - Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý. Làm cho việc luân chuyển cán bộ từng bước đi vào nề nếp, thường xuyên, đạt hiệu quả thiết thực, khắc phục khuynh hướng cục bộ, khép kín trong từng đơn vị, từng địa phương. Hình thức đào tạo, bồi dưỡng - Đối với công chức, viên chức ngạch chuyên viên và chuyên viên chính trong độ tuổi đều phải qua chương trình đào tạo lại theo qui định của ngạch. - Đối với công chức, viên chức đang trong thời gian tập sự đều phải qua bồi dưỡng tiền công vụ; - Đối với số cán bộ trẻ, có triển vọng, lớp cán bộ tạo nguồn cần phải đào tạo cơ bản, toàn diện để có kiến thức cơ bản, có năng lực thực tiễn và có kỹ năng thực hành nhất định để đảm đương được nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu về lâu dài. Cán bộ xã, phường, thị trấn (cán bộ ở cơ sở) là lực lượng quan trọng trong tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở cơ sở. Được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, đội ngũ cán bộ này không ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức, năng lực và trình độ chuyên môn. Tuy nhiên, để đáp ứng công việc ngày càng nặng nề, cần đổi mới, gắn kết các khâu từ đào tạo, bồi dưỡng đến bố trí sử dụng đối với cán bộ cơ sở một cách đồng bộ hơn. Câu 3: Anh (Chị) hãy phân tích nguyên tắc: bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, sự quản lý của Nhà nước trong quản lý công chức quy định tại khoản 1 Điều 5 Luật cán bộ, công chức năm 2008? Liên hệ việc thực hiện nguyên tắc này ở cơ quan, tổ chức, đơn vị Anh/Chị đang công tác? Trong suốt 85 năm qua, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là nhân tố quyết định những thành tựu to lớn của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội tiếp tục được ghi nhận tại Hiến pháp năm 2013. Hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương tới địa phương do đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước thực hiện theo yêu cầu của hoạt động công vụ, đó là tuân thủ pháp luật, tính chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa và trách nhiệm thực thi công vụ cao. Các nguyên tắc chung về quản lí cán bộ công chức - Quản lí cán bộ công chức phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của Nhà nước và điều lệ của các tổ chức chính trị - xã hội Sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện thông qua hệ thống các quan điểm và phương thức quản lý cán bộ công chức của Đảng Cộng sản Việt Nam. - Về quan điểm của Đảng - Một là, cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Phải thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đổi mới công tác cán bộ gắn với phương thức lãnh đạo của Đảng; Đây là quan điểm rất mới được bổ sung so với Chiến lược cán bộ trước đây. Quan điểm thứ nhất này xác định rõ vai trò, vị trí của đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ trong sự nghiệp cách mạng và công tác xây dựng Đảng Hai là, phải xuất phát từ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. - Ba là, quán triệt quan điểm giai cấp công nhân của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, truyền thống yêu nước, đại đoàn kết và gắn bó mật thiết với nhân dân; tập hợp rộng rãi các loại cán bộ, trọng dụng nhân tài, không phân biệt Đảng viên hay người ngoài Đảng, dân tộc, tôn giáo, người ở trong nước hay người Việt Nam định cư ở nước ngoài; - Bốn là, gắn việc xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng tổ chức và đổi mới cơ chế chính sách. Thực hiện tốt công tác qui hoạch, đào tạo, bố trí và sử dụng cán bộ. Trong điều kiện hiện nay còn phải gắn công tác cán bộ với việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; tích cực đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, lãng phí và các hiện tượng suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, tư tưởng. - Năm là, thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân, nâng cao trình độ dân trí, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ. Phải dựa vào nhân dân để phát hiện, kiểm tra và giám sát cán bộ; - Sáu là, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị. + Về phương thức lãnh đạo của Đảng Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lí cán bộ công chức là các cách thức, biện pháp Đảng tác động lên các khâu của công tác cán bộ nhằm đạt mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức, đủ tài, có cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, duy trì sự ổn định trong bố trí, sử dụng cán bộ, công chức và sự đảm bảo sự chuyển tiếp vững vàng liên tục giữa các thế hệ cán bộ công chức, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cho từng thời kỳ cách mạng. Các phương thức lãnh đạo chủ yếu của Đảng đối với công tác quản lí CBCC bao gồm:  Đảng đề ra các chính sách, chủ trương, đường lối, chiến lược về cán bộ công chức.  Đảng bồi dưỡng, huấn luyện đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất, năng lực và giới thiệu những cán bộ, đảng viên ưu tú vào làm việc trong hệ thống chính trị.  Đảng lãnh đạo bằng phương pháp đặc trưng riêng đó là phương pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục, bằng chính hành động gương mẫu của các đảng viên ĐCS.  Đảng lãnh đạo thông qua các tổ chức đảng (ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy) và đảng viên trong các cơ quan nhà nước; kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác cán bộ của các ngành, các cấp bằng các biện pháp và phương tiện khác nhau. Sự quản lý của Nhà nước trong quản lý công chức Nhà nước là chủ thể thực hiện hoạt động quản lí cán bộ công chức một cách cụ thể, rõ nét nhất thông qua việc thể chế hóa các quan điểm, chính sách của Đảng về công tác quản lí cán bộ công chức thành hệ thống luật pháp. Đồng thời tổ chức, phân công cho các các cơ quan có chức năng, thẩm quyền như Chính Phủ, Bộ Nội vụ, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân các cấp…chịu trách nhiệm xây dựng các nội dung, chương trình cụ thể thực hiện quản lí cán bộ công chức. Bên cạnh việc tuân thủ pháp luật chung của nhà nước, cán bộ, công chức làm việc còn chịu sự quản lí theo những quy định, điều lệ của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội mà mình tham gia. - Kết hợp giữa tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế Xác định vị trí việc làm và cơ cấu công chức được pháp luật xác định là nhiệm vụ bắt buộc đối với các bộ, ngành, địa phương để thực hiện đổi mới cơ chế quản lý cán bộ, công chức. Vị trí việc làm là công việc gắn với chức danh, chức vụ, cơ cấu và ngạch công chức để xác định biên chế và bố trí công chức trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. Ý nghĩa của việc xác định vị trí việc làm là nhằm sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức; phát hiện những chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của các vị trí việc làm, các cơ quan, tổ chức; phục vụ hiệu quả cho hoạt động tuyển dụng, bố trí sử dụng, đào tạo bồi dưỡng công chức, đánh giá quy hoạch cán bộ và cải cách tiền lương hiệu quả. Việc quản lý cán bộ, công chức dựa trên cơ sở kết hợp giữa tiêu chuẩn chức danh với vị trí việc làm tạo cơ sở khoa học, thể hiện tính thực tiễn cao, giúp xác định chỉ tiêu, số lượng người làm việc một cách chính xác, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của từng cơ quan, đơn vị được cấp có thẩm quyền quy định. Thực hiện nguyên tắc này giúp xóa bỏ cơ chế "xin - cho" trong quản lý biên chế cũng như bảo đảm thực hiện có hiệu quả, đúng mục đích công tác tổ chức thi tuyển, thi nâng ngạch, đánh giá, sử dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. -Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ trách nhiệm cá nhân và phân công, phân cấp rõ ràng. - Trong điều kiện Đảng cầm quyền ở nước ta, biểu hiện cụ thể của nguyên tắc đó chính là nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Nguyên tắc này đòi hỏi toàn bộ những vấn đề cơ bản, hệ trọng, những chủ trương, phương hướng, chiến lược liên quan đến công tác cán bộ, công chức phải được dân chủ thảo luận trong tập thể các cơ quan lãnh đạo từ cao tới thấp theo phạm vi, quyền hạn đã được xác định. Cấp trên có quyền và trách nhiệm tham gia vào việc quyết định theo đa số những vấn đề về chính sách, lựa chọn, phê chuẩn, bổ nhiệm, quy hoạch, bố trí, luân chuyển, đề bạt, đánh giá, khen thưởng, xử lý kỷ luật CBCC… trong phạm vi thẩm quyền của mình theo quy định của pháp luật. - Tính dân chủ thể hiện ở việc mọi vấn đề hệ trọng liên quan đến cán bộ công chức đều được bàn bạc, thảo luận cho mọi người cùng biết, cùng tham gia đóng góp.Tính công khai, tính tập thể được thực hiện một cách rộng rãi và mạnh mẽ như: tổ chức lấy ý kiến nhận xét, đánh giá của nhiều người, nhiều bộ phận đối với các cán bộ, công chức hay ở việc tiến hành bầu cử người lãnh đạo, quản lý… Nội dung các khâu trong công tác cán bộ được chuẩn bị kỹ, tiếp thu và lắng nghe ý kiến của cán bộ, đảng viên và quần chúng, không áp đặt ý kiến cá nhân, định kiến hoặc phân biệt với các ý kiến thuộc về thiểu số. Những ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu, đệ trình lên cơ quan cấp trên có thẩm quyền xem xét, quyết định. - Mặc dù tập thể lãnh đạo nhưng khi tổ chức thực hiện thì phải có sự phân công nhiệm vụ rõ ràng, có người phụ trách. Cá nhân phụ trách là khâu tiếp nối của quá trình lãnh đạo tập thể. Người được phân công phụ trách phải đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân, tích cực chủ động triển khai thực hiện nhiệm vụ được giao và phải chịu trách nhiệm trước tập thể, chịu sự kiểm tra, giám sát của tập thể. Việc gì cá nhân không thực hiện được thì phải giao cho tập thể làm và phải có người đứng đầu tập thể đó chịu trách nhiệm. - Chế độ trách nhiệm cá nhân của cán bộ, công chức là những quy định về chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của người cán bộ, công chức phải thực hiện trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ, nếu không làm tốt hoặc vi phạm thì bị xử lý theo quy định của pháp luật. Chế độ trách nhiệm đó được thể hiện qua việc chấp hành các quy định trong chuyên môn nghiệp vụ cũng như về đạo đức nghề nghiệp mà qua đó thể hiện năng lực, phẩm chất của người cán bộ, công chức vừa thể hiện bản chất nhà nước phục vụ nhân dân. Do vậy, để có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình đòi hỏi người CBCC không chỉ là người giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức tốt mà còn phải là người chấp hành nghiêm các quy định của kỷ luật nhà nước - Phân công, phân cấp trong quản lí cán bộ, công chức tức là phải có sự phân định rõ ràng, cụ thể cả nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và các điều kiện về tài chính, phương tiện thực hiện cho chính quyền cấp dưới trong việc tuyển dụng, bố trí, sắp xếp và quản lý cán bộ, công chức. Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ trách nhiệm cá nhân và phân công, phân cấp rõ ràng sẽ góp phần đẩy lùi bệnh hình thức, quan liêu cũng như nguy cơ chuyên quyền, độc đoán trong công tác cán bộ công chức; xác định rõ trách nhiệm của từng cá nhân và từng cấp khi được phân công thực hiện nhiệm vụ, tạo điều kiện lựa chọn được cán bộ đúng tiêu chuẩn, có phẩm chất và năng lực, hoàn thành tốt công tác được giao. - Việc sử dụng, đánh giá, phân loại cán bộ, công chức phải dựa trên phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực thi hành công vụ gắn liền với phát triển đội ngũ cán bộ, công chức - Sử dụng, đánh giá và phân loại cán bộ công chức có mối quan hệ tác động qua lại, chặt chẽ với nhau. Muốn phân loại và sử dụng tốt cán bộ công chức, trước hết phải đánh giá chính xác, trung thực từng cán bộ, công chức. Phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực thi hành công vụ là những tiêu chí cơ bản, quan trọng để đánh giá, nhận xét cán bộ. Đánh giá là hoạt động cần thiết nhằm làm rõ về về lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức , trình độ chuyên môn và năng lực thực thi công vụ khi cán bộ, công chức được phân công thực hiện nhiệm vụ. Có thể liệt kê một số năng lực như năng lực lãnh đạo, điều hành; năng lực soạn thảo văn bản; năng lực xây dựng chính sách; năng lực phối hợp trong công vụ; năng lực giao tiếp, ứng xử trong hành chính…Kết quả đánh giá là căn cứ để thực hiện các hoạt động đối với cán bộ công chức như: Phân loại, bố trí, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật…Thực hiện tốt các chính sách về nhân sự một mặt góp phần tạo động lực cho cán bộ công chức phấn khởi, tiếp tục cống hiến, mặt khác giúp cho cán bộ công chức tu dưỡng, hoàn thiện bản thân. Do đó, công tác đánh giá phải được thực hiện một cách công minh, khách quan, trung thực, chính xác, dân chủ, tránh đánh giá hình thức, mang tính chủ quan, thiên vị. - Quản lí cán bộ, công chức là nhằm phát triển đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước và quản lí xã hội. Vì vậy, quản lý phải luôn gắn liền với đào tạo, bồi dưỡng, làm cho đội ngũ cán bộ công chức vững vàng về lập trưởng tư tưởng, phẩm chất đạo đức trong sạch, am hiểu, tinh thông về chuyên môn, thái độ phục vụ công vụ ngày càng chuyên nghiệp. Đồng thời quản lí cần phải tạo ra các cơ hội để cán bộ công chức được thể hiện, đóng góp, cống hiến sức mình cho nền công vụ. Trên cơ sở ghi nhận các thành tích của cán bộ, công chức, tạo cho CBCC được thăng tiến theo chức nghiệp, công trạng nhằm khích lệ, động viên và phát huy tinh thần làm việc của cán bộ, công chức. -Thực hiện bình đẳng giới Bình đẳng giới là việc phụ nữ và nam giới được coi trọng như nhau, cùng được công nhận và có được vị thế bình đẳng. Họ đều có các điều kiện phù hợp để phát huy đầy đủ tiềm năng, có các cơ hội như nhau để tham gia đóng góp và thụ hưởng bình đẳng trong quá trình phát triển. Có các quyền tự do và chất lượng cuộc sống bình đẳng. Luật Bình đẳng giới gồm 6 chương, 44 điều được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kì họp thứ 10 thông qua vào ngày 29 tháng 11 năm 2006, có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 7 năm 2007 là đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất quy định rõ các nội dung về bình đẳng giới trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong hoạt động công vụ, đối với quản lí CBCC cần thực hiện một số nguyên tắc sau đây: - Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi tuyển dụng, được đối xử bình đẳng tại nơi làm việc về việc làm, tiền công, tiền thưởng, BHXH, điều kiện lao động và các điều kiện làm việc khác. - Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm giữ các chức danh trong các ngành, nghề có tiêu chuẩn chức danh. - Bảo đảm tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc Hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới; - Bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước phù hợp với các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới. 2.1.2. Các nguyên tắc cụ thể về quản lý cán bộ, công chức cơ sở - Các qui định của pháp luật về nguyên tắc quản lí cán bộ công chức cơ sở Hiện nay, chúng ta chưa ban hành các nguyên tắc riêng về quản lý cán bộ công chức cơ sở. Vì vậy, các nguyên tắc quản lí cán bộ, công chức nói chung được qui định tại điều 5 của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đều áp dụng cho cả cán bộ công chức cấp cơ sở Nội dung quản lý cán bộ, công chức được quy định trong Luật cán bộ, công chức. Đó là những nội dung nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng được nhiệm vụ trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội. Bao gồm những nội dung cơ bản sau: - Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về cán bộ, công chức. - Xây dựng kế hoạch, quy hoạch cán bộ, công chức. - Quy định chức danh và cơ cấu cán bộ. - Quy định ngạch, chức danh, mã số công chức; mô tả, quy định vị trí việc làm và cơ cấu công chức để xác định số lượng biên chế. - Các công tác khác liên quan đến quản lí cán bộ, công chức Do CBCC của Việt Nam bao gồm nhiều nhóm người làm việc trong các môi trường thể chế khác nhau nên quy trình cũng như nội dung quản lí cán bộ, công chức sẽ không giống nhau. Cụ thể: - Cơ quan có thẩm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ ban hành nội dung quản lý cán bộ, công chức làm việc trong các tổ chức chính trị; các đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng. - Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ quy định nội dung quản lí cán bộ công chức làm việc trong các tổ chức quyền lực nhà nước. -Chính Phủ quy định cụ thể các nội dung quản lý cán bộ công chức trong hệ thống hành chính nhà nước. - Các qui định của điều lệ đối với các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội về nội dung quản lí cán bộ công chức cơ sở Cán bộ, công chức làm việc trong các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội ngoài những điều quy định trong văn bản pháp luật nhà nước có liên quan, họ còn chịu sự quản lí theo những quy định của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội. Nội dung quản lý cán bộ, công chức của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội: - Không được trái với pháp luật nhà nước quy định; - Không được quy định các tiêu chuẩn thấp hơn của pháp luật nhà nước quy định. Đồng thời, pháp luật nhà nước không cấm những quy định mang tính đặc trưng của các tổ chức đó. 2.2. Nội dung quản lý cán bộ, công chức cơ sở 2.2.1. Tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về cán bộ, công chức Các văn bản quy phạm pháp luật sau khi ban hành cần phải được thực hiện trong cuộc sống thì mới có ý nghĩa. Mục đích của việc ban hành văn bản pháp luật chỉ có thể đạt được khi các quy định pháp luật do nhà nước đặt ra được các tổ chức, cá nhân trong xã hội thực hiện một cách chính xác, đầy đủ. Do vậy, vấn đề quan trọng là phải tổ chức thực hiện pháp luật, làm cho những quy định pháp lý được triển khai sâu rộng, đồng bộ và tuân thủ nghiêm túc trong đời sống xã hội. Việc thực hiện chính xác, đầy đủ các quy định của pháp luật về cán bộ, công chức là mối quan tâm không chỉ từ phía nhà nước mà còn từ phía công dân và các tổ chức, trong đó trực tiếp nhất là Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đã qui định rất cụ thể về nghĩa vụ, quyền của cán bộ, công chức và điều kiện bảo đảm thi hành công vụ. Cán bộ công chức trước hết cần tự giác thực hiện, chấp hành nghiêm chỉnh những điều pháp luật đã qui định và đòi hỏi pháp luật cũng phải được các tổ chức, các cá nhân khác tôn trọng, thực hiện chính xác và đầy đủ. Ví dụ: Các văn bản có liên quan trực tiếp đến CBCCCS cần được phổ biến, quán triệt để đội ngũ CBCC ở cơ sở nắm bắt các qui định rõ ràng và triển khai thực hiện như: - Nghị định số 114/2003/NĐ - CP ban hành ngày 10/10/2003 của Chính Phủ quy định về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn - Nghị định số 92/2009/ NĐ-CP ban hành ngày 22/10/2009 của Chính phủ quy định về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn (cấp xã) và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. - Nghị định số 29/2013/NĐ-CP ban hành ngày 25/6/2013 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định 92/2009/NĐ – CP. - Nghị định số 112/2011/NĐ-CP ban hành ngày 05/12/2011 của Chính phủ về công chức xã, phường, thị trấn. 2.2.2. Xây dựng kế hoạch, quy hoạch cán bộ, công chức theo sự lãnh đạo của Đảng, theo các chức danh và cơ cấu cán bộ, công chức do pháp luật quy định Xây dựng qui hoạch, kế hoạch cán bộ, công chức là một nội dung trọng yếu của công tác cán bộ của chính quyền cơ sở. Qui hoạch nhằm chủ động tạo nguồn cán bộ, công chức dồi dào; khắc phục tình trạng hẫng hụt trong đội ngũ cán bộ, công chức, bảo đảm tính kế thừa, phát triển và sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, công chức, giữ vững đoàn kết nội bộ và sự ổn định chính trị ở địa phương. Trên cơ sở đó làm căn cứ để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức đảm nhận các chức danh lãnh đạo, quản lý và các vị trí chuyên môn vững vàng về chính trị, trong sáng về đạo đức, có trình độ và năng lực, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu của tình hình phát triển. Do đó, thực hiện tốt các chính sách và biện pháp để tạo nguồn cán bộ, công chức, đặc biệt là cán bộ, công chức lãnh đạo, đảm bảo sự chủ động và ổn định về nhân sự của chính quyền địa phương cơ sở là yêu cầu quan trọng và cần thiết. Theo đó: - Quy hoạch cán bộ, công chức phải thực sự gắn kết với các khâu khác trong công tác cán bộ như: Nhận xét, đánh giá; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; luân chuyển, sắp xếp, bố trí, sử dụng CBCC - Thực hiện quy hoạch “động” và “mở”: một chức danh có thể quy hoạch nhiều người và một người có thể quy hoạch nhiều chức danh; quy hoạch phải luôn được xem xét, đánh giá để bổ sung, điều chỉnh hàng năm, đưa ra khỏi quy hoạch những người không còn đủ tiêu chuẩn và điều kiện, bổ sung vào quy hoạch những nhân tố mới có triển vọng. - Quy trình quy hoạch phải bảo đảm mở rộng dân chủ, khách quan trong việc phát hiện nguồn, có sự tham gia của cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân, các đoàn thể trong việc nhận xét, đánh giá và giới thiệu cán bộ công chức; lấy kết quả nhận xét, đánh giá cán bộ thường xuyên và định kỳ làm cơ sở để lựa chọn cán bộ đưa vào quy hoạch; bảo đảm quyền tập trung của tập thể ban thường vụ đảng ủy cơ sở, lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội ở xã trong việc quy hoạch cán bộ; đồng thời có cơ chế để nhân dân, mặt trận, các đoàn thể giám sát việc xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ. - Quy trình phải đạt được cơ cấu cán bộ hợp lý: bố trí kết hợp giữa các độ tuổi, thực hiện trẻ hoá, độ tuổi trung bình khoá sau thấp hơn khoá trước; có tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ xuất thân công nông thích đáng; ở những nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số cần có tỷ lệ hợp lý cán bộ dân tộc thiểu số; Quy hoạch cán bộ cần đảm bảo tính khả thi, thực tế, kiên quyết khắc phục tình trạng quy hoạch cán bộ mang tính hình thức. Trên cơ sở quy hoạch cán bộ cần xây dựng các kế hoạch sau đây: - Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng để không ngừng nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng, nhất là đối với các đồng chí còn chưa đủ các tiêu chuẩn cần thiết để giữ các chức danh được quy hoạch. - Kế hoạch luân chuyển để đào tạo, rèn luyện cán bộ nguồn quy hoạch theo tinh thần Nghị quyết số 11NQ/TW, ngày 25-01-2002 của Bộ Chính trị về việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý. - Kế hoạch sắp xếp, bố trí, điều chuyển cán bộ nguồn quy hoạch vào các vị trí phù hợp, để qua công tác thực tế các đồng chí đó được rèn luyện, thử thách, tạo uy tín và vị thế cần thiết, chuẩn bị cho việc giới thiệu bầu cử, bổ nhiệm vào các chức danh quy hoạch.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan