Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp từ thực tiễn thành phố hải phòng...

Tài liệu Thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp từ thực tiễn thành phố hải phòng

.PDF
74
455
97

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ THỊ HUYỀN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG Chuyên ngành : Luật hiến pháp và Luật hành chính Mã số : 60.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN MINH MẪN HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Minh Mẫn. Các số liệu trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, khách quan, khoa học và trung thực. Những kết luận của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào khác. Tác giả luận văn Vũ Thị Huyền DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Kết quả của việc thực hiện về việc thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp ở thành phố Hải Phòng từ năm 2011-2016 ......................................... 42 MỤC LỤC MỞ ĐẦU Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP 1.1 Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp 1.2 Nội dung cơ bản của pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp 1 10 10 23 Chương 2: THỰC TRẠNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI 36 PHÒNG 2.1 Tình hình thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hải Phòng 2.2 Đánh giá về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hải Phòng 36 43 Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ĐỐI VỚI DOANH 50 NGHIỆP 3.1 Định hướng tăng cường hiệu quả thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp 3.2 Một số giải pháp tăng cường hiệu quả thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp 50 53 KẾT LUẬN 64 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 65 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT THA Thi hành án THADS Thi hành án dân sự UBND Ủy ban nhân dân HĐND Hội đồng nhân dân TTTM Trọng tài thương mại BCĐ Ban chỉ đạo TAND Tòa án nhân dân MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thi hành án dân sự (THADS) là một giai đoạn – giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng, là hoạt động đưa bản án, quyết định về dân sự của tòa án, trọng tài thương mại, hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh ra thi hành trên thực tế. THADS có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án nói riêng và hoạt động tư pháp nói chung, bảo đảm cho bản án, quyết định của tòa án, trọng tài thương mại, hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh được chấp hành nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân, tổ chức, nhà nước, góp phần đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Yêu cầu thực thi nghiêm chỉnh các bản án, quyết định của tòa án, trọng tài thương mại, hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh đã trở thành nguyên tắc hiến định: từ Hiến pháp năm 1946 – Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đến Hiến pháp năm 1992 (Điều 136) và tiếp tục được khẳng định trong Hiến pháp năm 2013 (Điều 106). Đồng thời thể chế hóa các đường lối, chính sách đó bằng việc ban hành nhiều văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao để điều chỉnh các quan hệ pháp luật trong lĩnh vực này như Pháp lệnh THADS năm 1989, Pháp lệnh THADS năm 1993, Pháp lệnh THADS năm 2004, Luật THADS năm 2008 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật THADS năm 2014. Từ việc nhận thức được tầm quan trọng của công tác thi hành án dân sự cùng với những chủ trương, chính sách sách của Đảng và Nhà nước, các văn bản pháp luật về thi hành án dân sự đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng và hữu hiệu để các cơ quan THADS cũng như các chấp hành viên, các cán bộ, công chức trong các cơ quan THADS thực hiện tốt các chức năng, thẩm quyền của mình. Các văn bản pháp luật này đã tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới về tổ 1 chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự; xác định rõ hơn địa vị pháp lý của các chủ thể đối với việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong các quyết định THADS. Từ đó cơ cấu và hoạt động của các cơ quan THADS ngày càng được hoàn thiện hơn, ý thức của các cá nhân, tổ chức về THADS ngày càng được nâng lên rõ rệt. Nhiều bản án, quyết định của tòa án, trọng tài thương mại được thi hành theo đúng nội dung của bản án, quyết định; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức và nhà nước; thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật; củng cố niềm tin của nhân dân; góp phần đảm bảo an ninh, trật tự xã hội; giữ gìn kỷ cương, phép nước, xây dựng nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam dân chủ, công bằng, văn minh. Hải Phòng là thành phố ven biển nằm ở phía Đông miền duyên hải Bắc Bộ, có dân số đông. Là một trong 5 thành phố lớn trực thuộc trung ương và là một đô thị trung tâm cấp quốc gia, là thành phố lớn thứ 3 của Việt Nam, có vị trí quan trọng về kinh tế xã hội và an ninh, quốc phòng của vùng Bắc bộ và cả nước. Là thành phố cảng, của chính ra biển quan trọng của nước ta, là đầu mối giao thông quan trọng vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, trên hai hành lang - một vành đai hợp tác kinh tế Việt Nam – Trung Quốc. Hải Phòng là đầu mối giao thông đường biển phía Bắc. Với lợi thế cảng nước sâu nên vận tải biển rất phát triển, đồng thời là một trong những động lực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Nền kinh tế của Hải Phòng nói riêng và của cả nước nói chung đã và đang đạt được những kết quả nhất định, tạo được những bước đột phá về kinh tế. Hàng năm hàng trăm doanh nghiệp mới được thành lập, nhiều công ty, tập đoàn lớn không những được trong nước biết đến mà còn vươn ra thị trường quốc tế và khu vực. Tuy nhiên, hiện tại và tương lai cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là sự kiện gia nhập TTP – Hiệp định Hợp tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương. 2 Trong những năm qua, công tác THADS ở thành phố Hải Phòng đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận: tỷ lệ án thi hành xong tăng cao, cả về việc và về tiền; nhiều việc tồn đọng, phức tạp kéo dài đã được thi hành dứt điểm. Kết quả này đã phần nào phản ánh những nỗ lực, cố gắng của ngành tư pháp thành phố Hải Phòng nói chung và của lĩnh vực THADS nói riêng; phản ánh sự quan tâm, phối kết hợp chặt chẽ của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, các cơ quan hữu quan trong việc thực hiện pháp luật THADS. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác THADS, đặc biệt đối với doanh nghiệp ở Hải Phòng vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập; phần lớn chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Lượng án tồn đọng còn lớn, án phức tạp, kéo dài còn chưa giải quyết được, gây bức xúc, mất niềm tin trong nhân dân. Nguyên nhân chủ yếu của thực trạng trên đó là: hệ thống pháp luật hiện hành THADS còn thiếu tính khả thi, thiếu đồng bộ với các Bộ luật và Luật khác, nhiều điểm còn bất cập, lại hay sửa đổi; một bộ phận không nhỏ các chấp hành viên, cán bộ THA còn thiếu tinh thần trách nhiệm, sự tận tâm trong công việc và còn nhiều hạn chế về năng lực làm việc. Mặt khác, hoạt động của Ban chỉ đạo (BCĐ) thi hành án nhìn chung chưa thật sự hiệu quả; sự nhận thức của cấp ủy, chính quyền địa phương về trách nhiệm của mình trong tổ chức, chỉ đạo hoạt động THADS còn nhiều hạn chế….Những nguyên nhân trên đã dẫn đến thực trạng hoạt động THADS nói chung và đối với doanh nghiệp nói riêng còn nhiều bất cập và chưa hiệu quả. Thực tế trên đặt ra yêu cầu phải nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật về THADS đối với doanh nghiệp đảm bảo cho các bản án, quyết định của tòa án (TA), trọng tài thương mại (TTTM) đã có hiệu lực, đặc biệt đối với doanh nghiệp tại Hải Phòng được thực hiện trên thực tế. Xuất phát từ thực tiễn đó tác giả lựa chọn đề tài: “Thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp từ thực tiễn thành phố Hải Phòng” là đề tài luận văn 3 thạc sỹ của mình. Đây là vấn đề nổi cộm, phức tạp và liên quan đến rất nhiều lĩnh vực, khoa học chuyên ngành khác nhau như: quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý hành chính nhà nước…. Tuy nhiên, với phạm vi của luận văn thạc sỹ, tác giả chỉ giới hạn nội dung nghiên cứu về thực trạng THADS đối với doanh nghiệp với tư cách là người phải thi hành án từ thực tiễn thành phố Hải Phòng. Đồng thời kiến nghị những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự nói chung và thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp nói riêng. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm gần đây, vấn đề thực hiện pháp luật luôn được coi là một vấn đề quan trọng trong cơ chế điều chỉnh pháp luật và là nhiệm vụ cấp bách của Đảng, Nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân. Nghiên cứu chuyên biệt về THADS đối với doanh nghiệp là đề tài tương đối mới, cho đến khi tác giả tìm hiểu về đề tài này, chỉ có một số ít công trình khoa học pháp lý đề cập đến vấn đề này như: Đề tài khoa học cấp Nhà nước do Bộ Tư pháp chủ trì “Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới”. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Mô hình quản lý thống nhất công tác Thi hành án” do Cục quản lý THADS – Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định Thừa phát lại” do Viện nghiên cứu khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh chủ trì thực hiện. Đề tài cấp Nhà nước đang thực hiện: “Thi hành án dân sự, thực trạng, hướng hoàn thiện” của Dự án VIE/98/001 do Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện. Công trình nghiên cứu khoa học khác như: Luận án Tiến sĩ năm 2008 : “ Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thanh Thủy, luận án tiến sỹ năm 2008: “Hiệu quả áp dụng pháp luật 4 Thi hành án dân sự ở Việt Nam” của tác giả Đặng Đình Quyền. Luận văn thạc sỹ năm 2015: “Thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp ở nước ta hiện nay” của tác giả Bùi Ngọc Hiếu. Luận văn thạc sỹ năm 2015: “Kiểm sát thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Hải Phòng của tác giả Lê Thị Tuyết Thanh. Luận văn thạc sỹ năm 2005: “Cơ sở lý luận và thực tiễn khắc phục án tồn đọng trong thi hành án dân sự của Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Đức Nghĩa, luận văn thạc sỹ năm 2013: “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án nghĩa vụ trả tiền”; “Luật Thi hành án dân sự Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn” xuất bản năm 2007 sách chuyên khảo do Nguyễn Công Bình chủ biên. Những công trình nghiên cứu nói trên đã nghiên cứu những vấn đề chung của thực hiện pháp luật, những vấn đề mang tính tổng thể hoặc những khía cạnh khác nhau, phạm vi cụ thể khác nhau của THADS. Một số đề tài cũng đã nghiên cứu chuyên sâu, nhưng chỉ để cập đến nội dung các quy định về kiểm sát thi hành án dân sự, các biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án hay những vấn đề lý luận và thực hiện pháp luật thi hành án dân sự… Tuy nhiên, nghiên cứu một cách hệ thống dưới góc độ khoa học pháp lý về mặt lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật THADS đối với doanh nghiệp, tìm ra nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động THADS đối với doanh nghiệp và đưa ra các quan điểm, giải pháp cụ thể, đồng bộ nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt động THADS đối với doanh nghiệp. Lại càng chưa có công trình nào tiến hành nghiên cứu các vấn đề nói trên trong không gian giới hạn là thành phố Hải Phòng. Vì thế tác giả chọn đề tài. “Thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp từ thực tiễn thành phố Hải Phòng” là đề tài luận văn thạc sỹ của mình. Trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn này đã có sự kế thừa những vấn đề chung mang tính lý luận,vận dụng sáng tạo, có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học trước 5 đó, từ đó đi sâu vào nghiên cứu những vấn đề thực tiễn để đảm bảo hàm lượng khoa học cũng như giá trị thực tiễn của luận văn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn này nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực hiện pháp luật thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp; đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật THADS đối với doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hải Phòng; chỉ ra những nguyên nhân của những kết quả cũng như hạn chế, bất cập. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác THADS đối với doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ thực hiện một số nhiệm vụ sau: Một là, phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về thực hiện pháp luật THADS đối với doanh nghiệp. Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về THADS đối với doanh nghiệp tại thành phố Hải Phòng hiện nay. Đánh giá đúng nguyên nhân của những kết quả đạt được cũng như những hạn chế, bất cập. Ba là, đưa ra những định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác THADS đối với doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Phạm vi nghiên cứu Thực hiện pháp luật THADS là phạm trù rất rộng, bao gồm rất nhiều lĩnh vực, nhiều vấn đề khác nhau. Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, tác giả tập trung vào nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật THADS đối 6 với doanh nghiệp với tư cách là người phải thi hành án từ thực tiễn thành phố Hải Phòng trong phạm vi sau: Về không gian, việc áp dụng pháp luật THADS đối với các chi cục trên địa bàn thành phố Hải Phòng. Về thời gian, luận văn chỉ nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hải Phòng đối với doanh nghiệp từ năm 2011 đến năm 2016. 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là về thủ tục và trình tự thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp. Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về THADS nói chung và pháp luật THADS đối với doanh nghiệp nói riêng. Những giải pháp đưa ra bao gồm các giải pháp trước mắt để áp dụng ngay và các giải pháp định hướng, lâu dài để áp dụng đồng thời với việc hoàn thiện các quy định pháp luật THADS cũng như các quy định pháp luật có liên quan như Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai…Tất cả nhằm góp phần tăng cường hiệu quả hoạt động THADS nói chung và hoạt động THADS đối với doanh nghiệp nói riêng. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận nghiên cứu Phương pháp luận mà tác giả sử dụng để nghiên cứu đề tài này là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Triết học Mác Lê nin; tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác THADS và chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. 7 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu mà tác giả sử dụng trong luận văn là các phương pháp truyền thống như: phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh để phân tích đánh giá những quy định pháp luật, những sự kiện cũng như những số liệu thực tế từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá nhằm củng cố cho những nhận định và đề xuất mà tác giả đưa ra. Mặt khác, tác giả đặc biệt sử dụng phương pháp lo gic - lịch sử để nghiên cứu, trên cơ sở kề thừa một số kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa học, các luận văn, bài nghiên khoa học có liên quan đến lĩnh vực THADS đối với doanh nghiệp và để liên kết các phần trong tổng thể bố cục của luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ thạc sỹ luật, nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hải Phòng. Điểm mới của luận văn là luận văn tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn thực hiện pháp luật về THADS đối với doanh nghiệp nói chung và ở Hải Phòng nói riêng. Từ đó nâng cao nhận thức của xã hội đối với pháp luật, đặc biệt là pháp luật THADS, nâng cao hiệu quả của công tác THADS cũng như công tác THADS đối với doanh nghiệp. Những giải pháp đưa ra bao gồm cả giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm xác định, củng cố về nhận thức về vị trí, vai trò của thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật về THADS đối với doanh nghiệp trong việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong thực hiện pháp luật THADS của các cơ quan thi hành án, cấp ủy đảng và các cơ quan hữu quan; nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành của các cá nhân, cơ quan, tổ chức (đặc biệt là doanh nghiệp) đối với công tác thi hành án dân sự. 8 Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho nội bộ ngành, cấp ủy và chính quyền địa phương trong việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác THADS đối với doanh nghiệp. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm có 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp Chương 2: Thực trạng thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hải Phòng Chương 3: Định hướng, giải pháp tăng cường hiệu quả thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp 9 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp 1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp Để làm sáng tỏ khái niệm THADS đối với doanh nghiệp, ta cần làm sáng tỏ các khái niệm: thi hành án, thi hành án dân sự, doanh nghiệp. Theo Đại từ điển Tiếng việt, thi hành là “Thực hiện điều đã chính thức quyết định” [44 ,tr.1559]. Theo Từ điểm Luật học thì Thi hành án là “Giai đoạn kết thúc quá trình tố tụng, là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử nhằm làm cho phán quyết của Tòa án nhất định có hiệu lực pháp luật” [13, tr. 464]. Như vậy, Thi hành án có thể được hiểu là thực hiện bản án, quyết định của Tòa án – văn bản pháp lý của tòa án nhân danh nhà nước tuyên tại phiên tòa , giải quyết các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính trên thực tế. Việc thi hành các bản án, quyết định có hiệu quả trên thực tế không những để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức và nhà nước; thể hiện tính nghiêm minh, tính tối thượng của pháp luật mà còn là biện pháp hữu hiệu để khôi phục các quyền, lợi ích của các cá nhân, tổ chức và nhà nước bị xâm hại. Tại Khoản 1 Điều 2 Luật THADS quy định những bản án, quyết định được thi hành bao gồm: “1. Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật gồm: a) Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; b) Bản án, quyết định của Tòa phúc thẩm; 10 c) Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án; d) Bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài đã được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; đ) Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh mà sau 30 ngày, kể từ ngày có hiệu lực pháp luật đương sự không tự nguyện thi hành, không khởi kiện tại Tòa án; e) Phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại; g) Quyết định của Tòa án giải quyết phá sản. 2. Những Bản án, quyết định sau đây của Tòa án sơ cấp được thi hành ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị: a) Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc; b) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp kịp thời.” Tương tự như quy định của Bộ Luật Dân sự, Luật Thi hành án dân sự, khái niệm “dân sự” được hiểu theo nghĩa rộng. Theo đó THADS được hiểu là hoạt động đưa bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động có hiệu lực pháp luật thi hành trên thực tiễn. Dựa trên khái niệm, phạm vi của THADS để xác định THADS là một giai đoạn tố tụng hay là một hoạt động quản lý hành chính – tư pháp. Trước kia, cơ quan THA là bộ phận của tòa án nhân dân, thuộc sự quản lý của TAND các cấp. Đến năm 1993, cơ quan THA được chuyển giao từ TAND các cấp sang Bộ Tư pháp, khái niệm THADS được các nhà khoa học pháp lý phân tích và nhìn nhận trên nhiều góc độ, phương diện khác nhau. 11 Trước tiên, về quan điểm THADS là một giai đoạn tố tụng hay là hoạt động quản lý hành chính – tư pháp?. Quan điểm của tác giả luận văn này là THADS là hoạt động Hành chính - Tư pháp vì những lý do sau: Thứ nhất, về sơ sở pháp lý. Cơ sở pháp lý của các quyết định THADS là bản án, quyết định của tòa án và các quyết định khác theo quy định của pháp luật. Do vậy, cơ quan THADS phải thi hành theo đúng nội dung phán quyết của các bản án, quyết định của tòa án chứ không phải theo mệnh lệnh hành chính của các cơ quan hành chính cấp trên. Cơ quan cấp trên (kể cả cơ quan quản lý toàn diện hệ thống tổ chức và hoạt động) không có quyền yêu cầu cơ quan THADS cấp dưới phải tạm hoãn, đình chỉ hoặc tiếp tục…. thi hành án nếu không có đủ căn cứ pháp lý. Cơ quan THADS chỉ thực hiện việc tạm hoãn, đình chỉ hoặc tiếp tục thi hành án nếu có Quyết định THA của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Thứ hai, về vai trò và trách nhiệm cá nhân. Mọi hoạt động của cơ quan THADS đều thông qua vai trò hoạt động của những cá nhân những người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác theo quy định của pháp luật. Đồng thời, khi thực hiện phải tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Tại điều 20 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của chấp hành viên: “1. Kịp thời tổ chức thi hành nhiệm vụ được phân công, ra các quyết định về thi hành án theo thẩm quyền. 2. Thi hành đúng nội dung bản án, quyết định; áp dụng đúng các quy định pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án, đảm bảo lợi ích của nhà nước, quyền, lọi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thực hiện nghiêm chỉnh chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp chấp hành viên. 3. Triệu tập đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết việc thi hành án. 12 4. Xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của người phải thi hành án hoặc phối hợp với cơ quan có liên quan xử lý vật chứng, tài sản và những việc khác có liên quan đến thi hành án. 5. Quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án, lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án; thu giữ tài sản thi hành án. 6. Yêu cầu cơ quan công an tạm giữ người chống đối việc thi hành án theo quy định của pháp luật. 7. Lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật về thi hành án; xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền; kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm. 8. Quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế để thu hồi tiền, tài sản đã chi trả cho đương sự không đúng quy định của pháp luật, thu phí thi hành án và các khoản phải nộp khác. 9. Được sử dụng công cụ hỗ trợ trong khi thi hành công vụ theo quy định của Chính phủ. 10. Thực hiện nhiệm vụ khác theo sự phân công của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự. Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Chấp hành viên phải tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án và được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh sự, nhân phẩm và uy tín.” Những hoạt động trên đây mang đặc trưng của hoạt động tư pháp chứ không phải là đặc trưng của hoạt động hành chính. Thứ ba, về chức năng, nhiệm vụ chủ yếu. Cơ quan THADS có nhiệm vụ, chức năng chủ yếu là đảm bảo cho các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác đã có hiệu lực pháp luật được thi hành trên thực tế theo 13 quy định của pháp luật. Nói cách khác, chức năng và nhiệm vụ chủ yếu của cơ quan thi hành án là đảm bảo cho việc thực hiện có hiệu quả các chức năng tư pháp. Như vậy, hoạt động chính của cơ quan thi hành án cũng giống như hoạt động chính của các cơ quan lập pháp hay tư pháp khác như Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân. Thứ tư, về chủ thể quản lý. Chủ thể quản lý trực tiếp cơ quan THADS là Bộ Tư pháp - cơ quan hành chính. Tuy nhiên, về mặt bản chất, hoạt động của cơ quan bị quản lý không hoàn toàn phụ thuộc vào cơ quan chủ quản trực tiếp mà phụ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ của chính cơ quan đó. Thứ năm, về chức năng trong hoạt động tư pháp. Quyền lực của nhà nước về mặt bản chất bao gồm ba quyền: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Ba nhánh quyền lực này được giao cho các cơ quan nhà nước khác nhau, hoạt động theo cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau. Đây là nguyên tắc Hiến định. Khoản 3 Điều 2 Hiến pháp 2013 quy định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Ngoài các cơ quan đó còn có các cơ quan được lập ra để hỗ trợ (cơ quan bổ trợ) nhằm tạo điều kiện cho các cơ quan được giao chức năng chính có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trong nhánh quyền lực tư pháp thì tòa án là trung tâm của hoạt động tư pháp. Các cơ quan điều tra, truy tố, thi hành án đều là các cơ quan bổ trợ cho hoạt động chính của ngành – cơ quan chính là Tòa án. Đó chỉ là các cơ quan thực hiện, một quy trình để cơ quan xét xử hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình là chức năng xét xử, đảm bảo các quyết định, bản án được tuyên đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Do đó, có thể khẳng định rằng hoạt động THADS là hoạt động tư pháp (cơ quan bổ trợ) nhằm đảm bảo cho các bản án, quyết định của tòa án, các quyết định khác có hiệu lực pháp luật được thi hành trên thực tế. 14 Cuối cùng là về điều kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, nhà nước. Thật sai lầm khi khẳng định rằng phán quyết của Tòa án là khâu cuối cùng của hoạt động tư pháp. Một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật chỉ có thể thực thi trên thực tế thông quan hoạt động của cơ quan THA. Hay nói cách khác, bản án và quyết định có hiệu lực của Tòa án chỉ là điều kiện cần, quyền là lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, nhà nước có được bảo đảm, bảo vệ hay không phải dựa trên điều kiện đủ là bản án, quyết định đó phải được cơ quan THA tổ chức thi hành trên thực tế. Từ những lý do trên đây, tác giả đưa đến khẳng định rằng: Hoạt động THADS là hoạt động Hành chính - tư pháp. Vấn đề thứ hai là vấn đề khái niệm dân sự trong khái niệm thi hành án dân sự. Vấn đề này hiện đang có hai cách hiểu khác nhau. Cách hiểu thứ nhất dựa trên quan niệm về dân sự theo nghĩa hẹp. Cơ sở pháp lý của quan điểm này dựa trên quy định của Bộ luật Dân sự. Theo đó, quan hệ dân sự bao gồm quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, nhân thân và tài sản trong quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Khái niệm dân sự trong THADS đương nhiên chỉ bao gồm những việc, vụ việc liên quan đến quan hệ tài sản và nhân thân (phi tài sản). Cách hiểu thứ hai là quan niệm về dân sự theo nghĩa rộng. Theo đó, việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định có nguồn gốc pháp luật về nội dung là luật tư (luật dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động) được thực hiện theo thủ tục chung chứ không có sự tách bạch căn bản việc thi hành án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thưong mại, lao động. Quan điểm của tác giả là khái niệm dân sự trong THADS được hiểu theo nghĩa rộng. Điều này phù hợp với pháp luật của phần lớn các quốc gia trên thế giới. Nói tóm lại, từ sự phân tích ở trên ta có thể đưa ra khái niệm THADS như sau: THADS là hoạt động do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để đưa bản án, quyết định 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan