Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nông - Lâm - Ngư Nông nghiệp “Theo dõi khả năng sinh sản của lợn nái Landrace và điều tra những bệnh thường...

Tài liệu “Theo dõi khả năng sinh sản của lợn nái Landrace và điều tra những bệnh thường gặp ở đàn lợn nái nuôi tại Công ty đầu tư và phát triển nông nghiệp Huyện Quản Bạ - Tỉnh Hà Giang .

.DOCX
52
538
62

Mô tả:

Phần 1 Mở đầu 1.1. Đặt vấn đề Ở Việt Nam 80% dân số làm Nông nghiệp, ngành chăn nuôi ở nước ta đã và đang được quan tâm phát triển. Trong các ngành chăn nuôi thì chăn nuôi lợn giữ một vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước. Hiện nay thịt lợn chiếm khoảng 80% nhu cầu về thịt cho tiêu dùng trong nước. Do nhu cầu tiêu thụ thịt trong nước đang tăng nhanh, đặc biệt là thịt nạc, do sự cạnh tranh gay gắt về chất lượng và giá cả của lợn giống, lợn hơi và các sản phẩm chế biến từ thịt lợn trên thị trường trong nước và quốc tế, nhiều hộ nông dân, trang trại và xí nghiệp chăn nuôi lợn ở nước ta đã cố gắng chuyển phương thức chăn nuôi truyền thống chủ yếu dựa vào kinh nghiệm vốn có và nguồn thức ăn từ phụ phẩm nông nghiệp sang chăn nuôi theo hướng công nghiệp. Mấy năm gần đây được sự quan tâm của các ngành, các cấp, nhiều nỗ lực chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi tới sản xuất của hệ thống khuyến nông, hệ thống các trường đào tạo huấn luyện, hệ thống viện, trung tâm, một số hiệp hội đoàn thể quần chúng, tổ chức quốc tế… quy trình kỹ thuật chăn nuôi tiên tiến được giới thiệu một cách có hệ thống tới hộ nông dân và mang lại kết quả ban đầu. Ở nước ta nuôi lợn hướng nạc trở thành biện pháp tích cực để đáp ứng yêu cầu của người tiêu thụ thịt lợn trong nước, cũng nh phục vụ nhu cầu cho xuất khẩu. Cho đến nay giống lợn Landrace vẫn đóng vai trò chủ yếu trong khâu sản xuất và lợn nái nuôi thịt ở nước ta. Việc đánh giá năng suất sinh sản đang là một đòi hỏi cấp thiết đối với người làm công tác chọn giống và nhân giống vật nuôi. Bên cạnh những tiến bộ đã đạt được thì chúng ta còn gặp không Ýt khó khăn, đặc biệt là về kỹ thuật, tình hình dịch bệnh của đàn lợn nái. Xuất phát từ xu thế và thực tế trên, nhằm nâng cao kiến thức cũng như góp phần đẩy mạnh công tác chăn nuôi lợn ở Việt Nam, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Theo dõi khả năng sinh sản của lợn nái Landrace và điều tra những bệnh thường gặp ở đàn lợn nái nuôi tại Công ty đầu tư và phát triển nông nghiệp Huyện Quản Bạ - Tỉnh Hà Giang . 1.2. Mục đích - yêu cầu 1.2.1. Mục đích - Đánh giá khả năng sinh sản của lợn nái giống Landrace nuôi tại công ty đầu tư và phát triển nông nghiệp Huyện Quản Bạ - Tỉnh Hà Giang. - Theo dõi những bệnh thường gặp ở đàn lợn nái nuôi tại trại. 1.2.2. Yêu cầu - Theo dõi thu thập đầy đủ và chính xác các số liệu có liên quan đến khả năng sinh sản của lợn nái Landrace. - Tìm được nguyên nhân gây ra những bệnh thường gặp trên đàn lợn nái từ đó đưa ra biện pháp phòng và trị. Phần 2 Tổng quan tài liệu 2.1. Cơ sở lý luận 2.1.1 Đặc điểm sinh lý, sinh dục của lợn nái 2.1.1.1. Sự thành thục về tính và thể vóc  Sự thành thục về tính. Tuổi thành thục về tính là tuổi mà con vật bắt đầu có phản xạ tính dục và có khả năng sinh sản. Khi gia súc đã thành thục về tính, bộ máy sinh dục đã phát triển hoàn thiện, dưới tác dụng của thần kinh nội tiết tố con vật bắt đầu xuất hiện các phản xạ về sinh dục. Con cái có hiện tượng động dục, con đực có phản xạ giao phối. Khi đó ở con cái các noãn bao chín và rụng trứng (lần đầu), con đực có phản xạ sinh tinh. Đối với các giống gia súc khác nhau thì thời gian thành thục về tính khác nhau, ở lợn nội thường từ 4 - 5 tháng tuổi (120 - 150 ngày), ở lợn ngoại (180 - 210 ngày) (Võ Trọng Hốt và cs (2000) [ ]). Kết quản nghiên cứu của Phùng Thị Vân và cs (1998) [ ], cho biết lợn Landrace thành thục về tính là 213,1 ngày. Ở lợn cái có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự thành thục về tính như giống, chế độ dinh dưỡng, khí hậu, chuồng trại, trạng thái sinh lý của từng cá thể,… + Giống: Ở lợn lai tuổi động dục đầu tiên muộn hơn so với lợn nội thuần. Lợn lai F1 bắt đầu động dục lúc 6 tháng tuổi, khi khối lượng cơ thể đạt 50 - 55kg. Lợn ngoại động dục lần đầu muộn hơn so với lợn lai vào lúc 6 - 7 tháng tuổi, khi lợn có khối lượng 65 - 68 kg. Còn đối với lợn nội tuổi thành thục về tính từ 4 - 5 tháng tuổi. Cụ thể lợn Landrace nhập vào nuôi ở Việt Nam có tuổi động dục lần đầu là 208 - 209 ngày. + Chế độ dinh dưỡng: Ảnh hưởng rất lớn đến tuổi thành thục về tính của lợn cái. Thường những lợn được chăm sóc và nuôi dưỡng tốt thì tuổi thành thục về tính sớm hơn những lợn được nuôi trong điều kiện dinh dưỡng kém. Gurger (1972) [ ] chỉ rõ, lợn cái được nuôi trong điều kiện dinh dưỡng tốt sẽ thành thục ở độ tuổi trung bình 188,5 ngày (6 tháng tuổi) với khối lượng cơ thể là 80 kg và nếu hạn chế thức ăn thì sự thành thục về tính sẽ xuất hiện lúc 234,8 ngày (trên 7 tháng tuổi) và khối lượng cơ thể là 48,4 kg. Dinh dưỡng thiếu làm chậm sự thành thục về tính là do sự tác động xấu lên tuyến yên và sự tiết kích tố hướng dục, nếu thừa dinh dưỡng cũng ảnh hưởng không tốt tới sự thành thục là do sự tích luỹ mỡ xung quanh buồng trứng và cơ quan sinh dục làm giảm chức năng bình thường của chúng, mặt khác do béo quá ảnh hưởng tới các hocmon oestrogen và progesterone trong máu làm cho hàm lượng của chúng trong cơ thể không đạt mức cần thiết để thúc đẩy sự thành thục. + Mùa vụ và thời kỳ chiếu sáng: Cũng là yếu tố ảnh hưởng rõ rệt tới tuổi động dục. Mùa hè lợn cái hậu bị thành thục chậm hơn so với mùa thu đông, điều đó có thể do ảnh hưởng của nhiệt độ trong chuồng nuôi gắn liền với mức tăng trọng thấp trong các tháng nóng bức. Những con được chăn thả tự do thì xuất hiện thành thục sớm hơn những con nuôi nhốt trong chuồng 14 ngày (mùa xuân) và 17 ngày (mùa thu). Mùa đông, thời gian chiếu sáng trong ngày thấp hơn so với các mùa khác trong năm, bóng tối cũng làm chậm tuổi thành thục về tính so với những biến động ánh sáng tự nhiên hoặc ánh sáng nhân tạo 112 giờ mỗi ngày (Dwane và cs, (2000) [ ]). + Mật độ nuôi nhốt: Mật độ nuôi nhốt đông trên 1 đơn vị diện tích trong suốt thời gian phát triển sẽ làm chậm tuổi động dục. Nhưng cần tránh nuôi cái hậu bị tách biệt đàn trong thời kỳ phát triển. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc nuôi nhốt lợn cái hậu bị riêng từng cá thể sẽ làm chậm lại thành thục tính so với lợn cái được nuôi nhốt theo nhóm. Bên cạnh những yếu tố trên thì đực giống cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến tuổi động dục của lợn cái hậu bị. Nếu cái hậu bị thường xuyên tiếp xúc với đực giống sẽ nhanh động dục hơn cái hậu bị không tiếp xúc với lợn đực giống. Theo Hughes và James (1996) [ ], lợn cái hậu bị ngoài 90 kg thể trọng ở 165 ngày tuổi cho tiếp xúc 2 lần/ngày với lợn đực, mỗi lần tiếp xúc 15 - 20 phút thì tới 83% lợn cái hậu bị động dục lần đầu.  Sự thành thục về thể vóc. Tuổi thành thục về thể vóc là tuổi có sự phát triển về ngoại hình và thể chất đạt mức độ hoàn chỉnh, xương đã được cốt hoá hoàn toàn, tầm vóc ổn định. Tuổi thành thục về thể vóc thường chậm hơn so với tuổi thành thục về tính. Thành thục về tính được đánh dấu bằng hiện tượng động dục lần đầu tiên. Lúc này sự sinh trưởng và phát dục của cơ thể vẫn còn tiếp tục, trong giai đoạn lợn thành thục về tính mà ta cho giao phối ngay sẽ không tốt. Vì lợn mẹ có thể thụ thai nhưng cơ thể mẹ chưa đảm bảo cho bào thai phát triển tốt, nên chất lượng đời con kém. Đồng thời cơ quan sinh dục, đặc biệt là xương chậu vẫn còn hẹp dễ gây hiện tượng khó đẻ. Điều này ảnh hưởng đến năng suất sinh sản của lợn nái sau này. Do đó không nên cho phối giống quá sớm. Đối với lợn cái nội khi được 7 - 8 tháng tuổi khối lượng đạt 40 - 50 kg nên cho phối, đối với lợn ngoại khi được 8 - 9 tháng tuổi, khối lượng đạt 100 110 kg mới nên cho phối. 2.1.1.2. Chu kỳ động dục Chu kỳ động dục là một quá trình sinh lý phức tạp sau khi toàn bộ cơ thể đã phát triển hoàn hảo, cơ quan sinh dục không có bào thai và không có hiện tượng bệnh lý thì bên trong buồng trứng có quá trình phát triển của noãn bao, noãn bao thành thục, trứng chín và thải trứng. Song song với quá trình thải trứng thì toàn bộ cơ thể nói chung đặc biệt là cơ quan sinh dục có hàng loạt các biến đổi về hình thái cấu tạo và chức năng sinh lý. Tất cả các biến đổi đó được lặp đi, lặp lại có tính chất chu kỳ nên gọi là chu kỳ tính. Chu kỳ tính được bắt đầu từ khi cơ thể đã thành thục về tính, nó xuất hiện liên tục và chấm dứt khi cơ thể cái già yếu.  Tiền động dục (kéo dài 2 - 3 ngày). Đây là giai đoạn đầu của chu kỳ sinh dục. Ở giai đoạn này các noãn bao phát triển thành thục và nổi rõ lên bề mặt buồng trứng. Buồng trứng to hơn bình thường các tế bào ống dẫn trứng tăng cường sinh trưởng, số lượng lông nhung tăng lên, đường sinh dục tăng tiết dịch nhày và xung huyết nhẹ, hệ thống tuyến ở cổ tử cung tiết dịch nhày, các noãn bao chín và tế bào trứng tách ra ngoài, tử cung co bóp mạnh, niêm dịch đường sinh dục chảy nhiều, con vật bắt đầu xuất hiện tính dục. Các biến đổi trên tạo điều kiện cho tinh trùng tiến lên trong đường sinh dục cái gặp tế bào trứng và tiến hành thụ tinh. Biểu hiện bên ngoài: Âm đạo sưng to, đỏ hồng, không có hoặc có Ýt nước nhờn không cho đực nhảy hoặc bỏ chạy khi ta Ên tay vào hông. Ở giai đoạn này lợn thường bỏ ăn hoặc Ýt ăn, hay kêu rít.  Động dục (kéo dài 2 -3 ngày). Thời gian của giai đoạn này được tính từ khi tế bào trứng tách khỏi noãn bao các biến đổi của cơ quan sinh dục lúc này rõ rệt nhất, niêm mạc âm hộ xung huyết, phù thũng rõ rệt, niêm dịch trong suốt chảy ra ngoài nhiều, con vật biểu hiện tính hưng phấn cao độ: Con cái đứng nằm không yên, phá chuồng, ăn uống giảm hẳn, kêu rít, đứng trong trạng thái ngẩn ngơ, ngơ ngác, đái rắt, luôn nhảy lên lưng con khác hoặc để con khác nhảy lên lưng mình, thích gần đực, khi gần đực thì luôn đứng ở tư thế sẵn sàng chịu đực như: đuôi cong lên và lệch sang một bên, hai chân sau dạng ra và khụy xuống sẵn sàng chịu đực. Nếu ở giai đoạn này trứng gặp được tinh trùng, hợp tử được hình thành thì chu kỳ tính ngừng lại, gia súc cái ở vào giai đoạn có thai và cho đến khi đẻ xong một thời gian nhất định thì chu kỳ tính mới xuất hiện trở lại. Trường hợp gia súc không có thai thì chuyển sang giai đoạn tiếp.  Giai đoạn sau động dục (kéo dài 1 ngày). Ở giai đoạn này toàn bộ cơ thể nói chung và cơ quan sinh dục nói riêng dần dần trở lại trạng thái hoạt đông sinh lý bình thường. Các phản xạ về hưng phấn, về sinh dục dần mất hẳn, con vật chuyển sang thời kỳ yên tĩnh, chịu khó ăn uống. Trên buồng trứng thể vàng xuất hiện và bắt đầu tiết progesteron. Progesteron tác động lên trung khu thần kinh làm thay đổi tính hưng phấn, làm kết thúc giai đoạn động dục, niêm mạc của toàn bộ đường sinh dục ngừng tăng sinh, các tuyến ở cơ quan sinh dục ngừng tiết dịch, cổ tử cung đóng lại.  Giai đoạn nghỉ ngơi. Đây là giai đoạn dài nhất của chu kỳ sinh dục. Thời kỳ này con vật hoàn toàn yên tĩnh, cơ quan sinh dục dần dần trở lại trạng thái yên tĩnh sinh lý bình thường. Trong buồng trứng thể vàng bắt đầu teo đi, noãn bao bắt đầu phát dục nhưng chưa nổi rõ lên bề mặt của buồng trứng, toàn bộ cơ quan sinh dục dần dần xuất hiện những biến đổi chuẩn bị cho chu kỳ tiếp theo. Sau khi lợn đã thành thục về tính thì trong buồng trứng đã có những bao noãn tương đối lớn, các kích thích bên ngoài như nhiệt độ, ánh sáng, thức ăn, mùi vị…, tác động lên vỏ não và kích thích này truyền đến tuyến yên làm cho tuyến yên tiết ra FSH (folliculo stimulating hormon). Hormon này tác động lên buồng trứng làm cho noãn bao phát trieenr và thành thục, tế bào hạt trong noãn bao tiết ra oestrogen chứa đầy trong xoang bao noãn. Lúc này lợn có biểu hiện động dục, biếng ăn, chỉ nhấm nháp chút Ýt, bồn chồn đi lại nhiều, âm hộ có hiện tượng xung huyết đỏ mọng, kêu la phá chuồng, thích nhảy lên lưng con khác, thích gần đực, lấy tay Ên lên lưng thì thấy lợn đứng yên, đứng ở tư thế giao phối, đuôi cong lên, âm hộ chảy nước nhờn, lúc đầu loãng sau đặc dần. Sau khi thải trứng thì trong một thời gian ngắn, noãn bao sẽ sinh ra thể vàng. Thể vàng tiết ra progesteron làm cho tử cung chuẩn bị đón hợp tử và ức chế sự phân tiết Gonado Stimulin của tuyến yên, ức chế sự thành thục của noãn bao trong buồng trứng làm cho lợn nái không động dục trở lại. Thuỳ trước của tuyến yên tiết ra Prolactin làm cho thể vàng tiết ra Progesteron và kích thích tuyến sữa phát dục. NÕu lợn nái có chửa thể vàng sẽ tồn tại trong suốt thời gian mang thai, đÕn khi lợn đẻ thể vàng mất đi. Nếu lợn không có chửa, tử cung sản sinh ra Hormon Protagladine làm tan rã thể vàng, Progesteron không sản sinh ra nữa. Tuyến yên lại được giải phóng và lại sản sinh ra FSH, bắt đầu một chu kỳ mới. Chu kỳ động dục của lợn thường là từ 18 - 22 ngày, thời gian động dục kéo dài 5 - 7 ngày, nhưng thời gian chịu đực thường 2,5 ngày, phối giống trong thời gian này đạt hiệu quả cao nhất. Đối với lợn Landrace thời điểm phối giống thích hợp vào cuối ngày thứ 3 đầu ngày thứ 4 tính từ lợn bắt đầu động dục. Để phối giống mang lại hiệu quả cao nhất có 3 cách, tính từ khi nái đứng im chịu đực như sau: - Sau 12 giờ và 36 giê. - Sau 12 giê, 36 giê sau đó cứ 12 giê cho phối 1 lần đến khi nái không chịu thì thôi. - Đối với lợn nái hậu bị nên cho phối giống sớm hơn nái từ 6 - 8 giê. KÕt quả đem lại từ 3 cách phối trên đều như nhau. Sau khi phối giống 21 ngày không có hiện tượng động dục trở lại là đã có chửa. Có thể phân biệt lợn có chửa hay không qua một số biểu hiện bên ngoài. Lợn có chửa biểu hiện mệt nhọc, ngủ nhiều ăn tốt hơn, dáng đi ngày càng nặng nề. Lợn tuy đã có chửa nhưng có thể có hiện tượng “động dục giả”. Biểu hiện như sau: âm hộ đỏ, không có nước nhờn, thời gian động dục ngắn, nói chung biểu hiện không rõ ràng. Có thể phân biệt động dục giả và động dục thật ở lợn: Lợn động dục giả vẫn ăn uống bình thường, ăn xong vẫn nằm ngủ, khi thấy đực qua chuồng tai rủ xuống và lảng tránh. Điều này trái với lợn động dục, khi thấy đực qua chuồng luôn ve vẩy và đến gần đực. Chẩn đoán phân biệt lợn nái có chửa có một ý nghĩa rất to lớn, chẩn đoán lợn nái có chửa chính xác giúp cho người chăn nuôi nâng cao được tỷ lệ sinh sản của lợn nái, định ra được các thời kỳ chửa của lợn nái, từ đó định ra được các chuẩn độ nuôi dưỡng chăm sóc phù hợp. Thời gian mang thai của lợn trung bình là 114 ngày, dao động từ 112 -116 ngày, cá biệt có những lợn nái ngoại mang thai tới 117 - 118 ngày, thời gian mang thai dài quá hoặc ngắn quá đều không tốt. Nếu thời gian mang thai ngắn con đẻ ra yếu, sức chống chịu với ngoại cảnh kém, khả năng sống sót thấp. Nếu thời gian mang thai dài đẻ ra nhiều con chết, lợn mẹ thường đẻ khó khăn. Thời gian mang thai phụ thuộc vào số con sinh ra, sè con sinh nhiều thời gian mang thai ngắn và ngược lại. 2.1.1.3. Quá trình sinh trưởng và phát triển của bào thai Hiểu rõ vấn đề này có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác chăm sóc và nuôi dưỡng nái mẹ trong thời kỳ mang thai. Đây là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới tỷ lệ sảy thai, chết thai và số lượng cũng như khối lượng sơ sinh trên ổ và trên con.  Giai đoạn phôi thai (1 - 22 ngày). Giai đoạn này được tính từ ngày thứ nhất đến ngày thứ 22 sau khi thô tinh. Sau khi thô tinh được 20 giờ thì sự phân chia tế bào bắt đầu diễn ra. Phôi thai được hình thành sau thô tinh là thời điểm cho quá trình phát triển của cơ thể mới. Từ một tế bào, phôi tăng cường trao đổi chất thành túi phôi. Tiếp theo tói phôi thực hiện quá trình phân cắt, phôi thai phát triển thành hợp tử. Trong giai đoạn này hợp tử sử dụng chất dinh dưỡng của tế bào trứng và tinh trùng. Sau khi thô tinh được 5 - 6 ngày thì mầm thai và túi phôi được hình thành. Lúc đầu mầm thai lấy chất dinh dưỡng từ tế bào trứng, chất tiết từ các tuyến nội mạc tử cung. Sau khi các màng thai được hình thành, mầm thai lấy chất dinh dưỡng từ cơ thể mẹ bằng con đường thẩm thấu qua các màng. Sau 7 - 8 ngày, màng ối được hình thành, màng ối chứa dịch lỏng vừa có tác dụng bảo vệ phôi vừa cung cấp chất dinh dưỡng cho phôi. Màng niệu được hình thành sau 12 ngày, là nơi chứa chất cặn bã do thai thải ra trong quá trình trao đổi chất. Ở cuối thời kỳ này, một số cơ quan trao đổi chất nh: đầu, hố mắt, tim, gan… đã hình thành nhưng chưa hoàn chỉnh. Đáng chó ý trong 3 tuần đầu này là sự liên kết giữa cơ thể mẹ và thai chưa chắc chắn, phôi thai mới hình thành nên chưa đảm bảo được an toàn. Khối lượng phôi thai trong giai đoạn này rÊt nhỏ, ở cuối giai đoạn mỗi phôi chỉ nặng 1 - 2 gam. Vì vậy, kỹ thuật nuôi dưỡng và chăm sóc trong 3 tuần đầu là cực kỳ quan trọng. Mỗi tác động của ngoại cảnh không tốt đến nái mẹ (như: tiếng ồn, ô nhiễm, quá nóng, hay quá lạnh…) đều ảnh hưởng tới phôi thai, dÔ dẫn đến sảy thai. Dinh dưỡng hay chất lượng thức ăn không tốt (nh: ôi thiu, lên men, mốc…) cũng gây hậu quả tương tự. Cần có sự chăm sóc cẩn thận đối với nái chửa trong 3 tuần đầu sau khi thô tinh.  Giai đoạn tiền thai (23 -39 ngày). Thời kỳ này nhau thai phát triển đầy đủ hơn, quá trình phát triển diễn ra mạnh mẽ để hoàn chỉnh các cơ quan mới. Ở cuối thời kỳ này, hầu hết các cơ quan đã cơ bản hình thành, khối lượng phôi tăng lên 6 - 7 gam.  Giai đoạn bào thai (40 - 114 ngày). Đây là giai đoạn sinh trưởng mạnh nhất của bào thai. Các cơ quan bộ phận được hoàn chỉnh dần. Quá trình trao đổi chất của thai diễn ra mãnh liệt. Đặc điểm của từng giống đã bắt đầu được thể hiện (khoang, đốm, loang…). Khối lượng của bào thai tăng mạnh, đặc biệt từ ngày thứ 80 trở đi thai phát triển rất mạnh. Cuối thời kỳ này, khối lượng bào thai tăng gấp 100 lần kỳ trước. Dựa vào sự phát triển của bào thai, người ta chia quá trình mang thai của lợn nái làm 2 giai đoạn. - Chửa kỳ I: 1 - 84 ngày. - Chửa kỳ II: 84 - 114 ngày. Nhưng trên thực tế để tiện theo dõi và chăm sóc, giai đoạn chửa kỳ II được phân ra làm hai giai đoạn nhỏ: - Giai đoạn 1: 84 - 100 ngày. - Giai đoạn 2: 100 - 114 ngày. Mỗi giai đoạn này đòi khỏi kỹ thuật chăm sóc là khác nhau. Đặc biệt chú ý trong 2 tuần cuối (100 - 114 ngày) dinh dưỡng và chăm sóc phải thật hợp lý. Đây là thời kỳ nái mẹ cần nhiều chất dinh dưỡng nhất cho sự phát triển của bào thai. Tuy nhiên thể tích bào thai lớn làm giảm lượng thức ăn thu nhận, vì vậy cần phải cho nái ăn nhiều bữa để đảm bảo chất dinh dưỡng. Trong thời kỳ mang thai tính thèm ăn của nái bị giảm xuống, để khắc phục điều này cần chế biến và bảo quản thức ăn thật tốt, kích thích tính ngon miệng cho nái thu nhận thức ăn cao. Giai đoạn này lợn mẹ cần sự yên tĩnh, những tác động kích thích từ bên ngoài dễ dẫn đến hiện tượng đẻ non hay xáo trộn sinh lý lợn mẹ, gây khó khăn khi đẻ. Khi thai đã thành thục sẽ được cơ thể mẹ đẩy ra ngoài (trong khoảng 113 - 116 ngày), lợn thường đẻ vào ban đêm, thời gian đẻ trung bình từ 2 - 6 giê. Nếu sức khoẻ của lợn mẹ và các thai bình thường thì không cần can thiệp nhiều trong khi lợn đẻ. Nhưng nếu có khó khăn trong quá trình lợn đẻ (sức khoẻ nái mẹ kém, thai nằm sai ngôi, thai chết khô, chết lưu…) thì can thiệp ngay để đảm bảo cho cả nái mẹ và đàn con. 2.1.2. Một số chỉ tiêu đánh giá năng suất sinh sản của lợn nái Để đánh giá năng suất sinh sản của lợn nái thì có thể dùng nhiều chỉ tiêu sinh sản khác nhau. Tuỳ vào mục đích nghiên cứu, lĩnh vực mà có thể chọn nhiều hoặc Ýt các chỉ tiêu. Hiện nay thường dùng một số chỉ tiêu sau: có hai nhóm chỉ tiêu chính là nhóm chỉ tiêu về đặc điểm sinh lý sinh dục và chỉ tiêu về năng suất sinh sản. 2.1.2.1. Tuổi động dục lần đầu Tuổi động dục lần đầu là tuổi tính từ khi sơ sinh đến khi lợn cái hậu bị động dục lần đầu. Tuổi động dục khác nhau tuỳ theo giống và chế độ chăm sóc. Theo Phùng Thị Vân và cs (1994) [ ] cho biết, chỉ tiêu này ở lợn Landrace là 219,4 ± 4,09 ngày. Theo Nguyễn Mạnh Thuột và cs (2002) [ ] chỉ tiêu này ở Landrace là 183,16 ±0,90 ngày. Lợn cái hậu bị nếu nuôi nhốt liên tục sẽ có tuổi động dục lần đầu muộn hơn lợn nuôi chăn thả. Lợn nuôi có thời gian chăn thả sẽ tăng cường trao đổi chất, tổng hợp được sinh tố và có dịp tiếp xúc với lợn đực, nên có tuổi động dục lần đầu sớm hơn. 2.1.2.2. Tuổi phối giống lần đầu Sau khi lợn đã thành thục về giới tính và thể vóc phát triển tương đối hoàn chỉnh thì có thể cho phối giống. Thành thục về sinh dục tức là lợn cái hậu bị phải có biểu hiện về động dục và rụng trứng. Tuổi trưởng thành về sinh dục phụ thuộc vào đặc điểm của giống và điều kiện nuôi dưỡng, chính sách quản lý của cơ sở chăn nuôi. Trong chăn nuôi lợn ngoại nh giống Landrace thường phối giống từ 7 - 8 tháng tuổi. 2.1.2.3. Tuổi đẻ lứa đầu. Đây là tuổi mà lợn cái hậu bị đẻ lứa thứ nhất, chính là tuổi phối giống có kết quả cộng với thời gian mang thai. Tuổi đẻ lứa đầu của gia súc phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tuổi phối giống lần đầu, kết quả phối giống, thời gian mang thai và từng giống lợn khác nhau. Đối với lợn nái nội tuổi đẻ lứa đầu thường sớm hơn so với lợn nái ngoại do tuổi thành thục về tính dục ngắn hơn. 2.1.2.4. Sè con đẻ ra/lứa Tính cả số con đẻ ra còn sống, số con chết và cả số thai chết được đẻ ra. Chỉ tiêu này đánh giá được tính sai con và khả năng nuôi thai của lợn nái, đồng thời đánh giá được kỹ thuật nuôi dưỡng, chăm sóc lợn nái của người chăn nuôi. 2.1.2.5. Sè con sống đến 24 giê/lứa Đây là số con sinh sống tính đến 24 giê kể từ khi đẻ xong con cuối cùng Nói lên khả năng đẻ nhiều con hay Ýt con của giống, đánh giá được chất lượng đàn con, khả năng nuôi thai của lợn nái, kỹ thuật thụ thai và khả năng chăm sóc nuôi dưỡng của người chăn nuôi. 2.1.2.6. Sè con cai sữa/ nái/ năm Chỉ tiêu này đánh giá tổng quát nhất đối với nghề nuôi lợn nái. Người ta nuôi lợn nái có thể thu lãi hay không là nhờ số lượng con cai sữa/ nái/ năm. Nếu tăng số lứa đẻ/ nái/ năm và tăng số lượng con cai sữa trong mỗi lứa thì số lượng lợn cai sữa/ nái/ năm sẽ cao. 2.1.3. Căn cứ vào chất lượng đàn con 2.1.3.1. Khối lượng sơ sinh toàn ổ Khối lượng sơ sinh toàn ổ được cân sau khi lợn con được đẻ ra, cắt rốn, lau khô và cho bú sữa đầu. Trọng lượng toàn ổ sơ sinh là chỉ tiêu nói lên khả năng nuôi dưỡng thai của lợn mẹ, kỹ thuật chăn nuôi, chăm sóc quản lý và phòng bệnh cho lợn nái chửa của cơ sở chăn nuôi. Trọng lượng sơ sinh càng cao càng tốt vì lợn sẽ tăng trọng nhanh ở các giai đoạn phát triển sau. 2.1.3.2. Khối lượng 21 ngày toàn ổ Khối lượng toàn ổ lóc 21 ngày tuổi là chỉ tiêu đánh giá khả năng tăng trọng của lợn con, và là chỉ tiêu đánh giá khả năng tiết sữa của lợn mẹ. Khả năng tiết sữa của lợn mẹ đạt cao nhất ở ngày thứ 21 sau đó sẽ giảm dần. Do đó người ta dùng khối lượng toàn ổ lúc 21 ngày tuổi để đánh giá khả năng tiết sữa của lợn mẹ. 2.1.3.3. Khối lượng cai sữa toàn ổ Khối lượng cai sữa toàn ổ phụ thuộc vào khối lượng lợn con khi cai sữa, thời gian bắt đầu cai sữa và kỹ thuật chế biến thức ăn cho lợn con. Khối lượng cai sữa có liên quan chặt chẽ đến khối lượng sơ sinh, và làm nền tảng cho khối lượng xuất chuồng. 2.1.3.4. Khoảng cách giữa 2 lứa đẻ Đây là thời gian để hình thành 1 chu kỳ sinh sản. Bao gồm: Thời gian chửa + thời gian nuôi con + thời gian chờ động dục lại sau cai sữa và phối giống có chửa. Khoảng cách giữa hai lứa đẻ ngắn sẽ làm tăng số lứa đẻ/ nái/ năm. 365 Số lứa đẻ/ nái/ năm = ---------------------------Khoảng cách lứa đẻ 2.1.3.5. Căn cứ vào khả năng tiết sữa của lợn nái Khả năng tiết sữa của lợn mẹ là chỉ tiêu nói lên khả năng nuôi con của lợn mẹ, đặc điểm của giống và kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái của cơ sở chăn nuôi. Lợn không có bể sữa, do đó không thể đo lượng sữa của lợn mẹ bằng cách vắt sữa mà chỉ có thể đo lượng sữa thông qua khối lượng của đàn con. Khi so sánh đàn lợn con nào có khối lượng cao hơn thì khả năng tiết sữa của lợn mẹ tốt hơn. 2.1.4. Đặc điểm của giống lợn Landrace được sử dụng trong thí nghiệm Giống lợn Landrace có nguồn gốc từ Đan Mạch, nó được hình thành từ sự lai tạo giữa hai giống lợn Youtland nguồn gốc từ Đức với lợn Yorkshire có nguồn gốc từ Anh quốc. Lợn Landrace toàn thân có màu trắng, mình dài, tai to, rủ về phía trước, bụng gọn, bụng không sâu, bốn chân thon chắc, mông nở, vai đầy, thân hình nhọn về phía trước. Lợn đực trưởng thành nặng từ 300 - 320 kg, lợn cái 220 250 kg và có 12 - 14 núm vú. Ở nước ta đã sử dụng Landrace chủ yếu là để lai kinh tế và nuôi thuần chủng. Trong lai kinh tế dùng lai với các giống lợn ngoại khác hoặc các giống lợn nội để thực hiện chương trình lạc hoá đàn lợn. 2.1.5. Những yếu tố ảnh hưởng đến năng suất sinh sản của lợn nái 2.1.5.1. Yếu tố di truyền Yếu tè di truyền ở đây chính là thành tích sinh sản của giống, mà cụ thể là giống con nái. Thành tích Êy thông thường đặc trưng cho giống và cũng mang tính cá thể. Yếu tố giống có ảnh hưởng rõ ràng tới năng suất sinh sản của nái, đặc biệt là sự khác biệt giữa giống nội và giống ngoại. Theo nghiên cứu của Đặng Vũ Bình (1999) [ ]có mét số chỉ tiêu năng suất sinh sản phân biệt rõ nét qua giống là: Tương ứng qua các giống Móng Cái, Yorkshire và Landrace có tuổi đẻ lần lượt là: 272,3 ngày; 418,5 ngày và 409,3 ngày; số con đẻ ra/ ổ là 10,6; 9,8 và 9,9 con và khối lượng sơ sinh trung bình/ con là 0,58; 1,2 và 1,2 kg. 2.1.5.2. Yếu tố ngoại cảnh Ngoài các nhân tố tác động do di truyền, các nhân tố tác động do ngoại cảnh cũng ảnh hưởng rõ ràng và có ý nghĩa đến năng suất sinh sản của lợn nái như: Chế độ nuôi dưỡng, bệnh tật, phương thức nuôi nhốt, mùa vụ, nhiệt độ, thời gian chiếu sáng đều ảnh hưởng đến các chỉ tiêu năng suất sinh sản của lợn nái. 2.1.5.3. Chế độ nuôi dưỡng Yếu tè quan trọng đối với lợn nái hậu bị và lợn nái mang thai là phải cung cấp đầy đủ số lượng và chất lượng dinh dưỡng cần thiết để có hiệu quả sinh sản cao. Chế độ dinh dưỡng bao gồm: Dinh dưỡng năng lượng, dinh dưỡng protein, ảnh hưởng của khoáng chất, nguyên tố đa vi lượng và ảnh hưởng của vitamin. Nhu cầu năng lượng: Năng lượng không thể thiếu được cho cơ thể mẹ duy trì nuôi thai, tiết sữa, nuôi con. Nhu cầu về năng lượng khác nhau tuỳ thuộc từng giai đoạn. Cần phải đủ nhu cầu về năng lượng cho lợn nái, tránh cung cấp thừa gây lãng phí thức ăn, giảm giá thành sản phẩm. Nếu thiếu sẽ ảnh hưởng đến sinh lý bình thường của con vật. Năng lượng được cung cấp dưới hai dạng: Gluxit chiếm 70 - 80%, Lipit 10 - 13% tổng số năng lượng cung cấp. Nhu cầu về protein: Proteinn là thành phần quan trọng trong khẩu phần thức ăn cung cấp cho lợn, là thành phần không thể thay thế được cần thiết trước tiên cho mọi hoạt động trao đổi chất trong cơ thể và tham gia cấu tạo nên các mô trong cơ thể. Do protein tham gia vào cấu tạo hoạt động trao đổi chất nên hàng ngày luôn có một lượng nhất định protein mất đi. Trong quá trình đồng hoá và dị hoá của cơ thể thì hàng ngày luôn có các tế bào sinh trưởng và phát triển, phân chia và các tế bào già cỗi được loại thải ra ngoài. Do đó protein được cung cấp để bù đắp lại phần mất đi và một phần khác xây dựng lên các tế bào mới, tạo sản phẩm chăn nuôi. Tuy nhiên việc cung cấp protein phải đảm bảo đủ về số lượng và cân đối về các thành phần axit amin không thay thế: Lyzine, methionine, histidin, cystein, tryptophan… hay chính xác hơn nhu cầu về protein của lợn chính là nhu cầu về axit amin. Ngoài ra thức ăn phải có giá trị sinh học cao, dễ tiêu hoá, hấp thu. Để đáp ứng tốt các nhu cầu trên việc phối hợp khẩu phần thức ăn cho lợn bằng nhiều loại thức ăn cần thiết. Bảng 2.1: Hàm lượng axit amin thích hợp cho lợn nái chửa và lợn nái nuôi con (Võ Trọng Hốt, 2000) [ ] Loại axit amin Lizin Treonin Met +xys Tryptophan Histidin Lơxin Izolơxin Valin Tyroxin phenilalamin % của protein Lợn nái chửa Lợn nái nuôi con 3,5 3,8 2,8 2,6 2,5 2,5 0,8 0,8 2,1 1,9 7,6 6,4 3,7 4,5 4,4 4,6 6,3 6,3  Ảnh hưởng của khoáng chất: Trong cơ thể lợn khoáng chất chứa 3% trong đó có tới 75% là canxi và photpho, xấp xỉ 25% là natri và kali, cũng có một lượng nhỏ magiê, sắt, kẽm, đồng, các nguyên tố khác tồn tại ở dạng dấu vết. Ví dụ như canxi làm ngăn trở việc hấp thu kẽm gây hiện tượng rối loạn ở da, gây sừng hoá gọi là hiện tượng paraketosis.  Ảnh hưởng của vitamin: Vitamin cần cho sự chuyển hoá bình thường cho sự phát triển của mô bào, cho sức khoẻ, sinh trưởng và duy trì. Một số vitamin lợn có thể tự tổng hợp để đáp ứng nhu cầu như Vitamin B12. Một số Vitamin lợn hay thiếu cần phải bổ sung (A,D,E). Nếu bổ sung không đúng, thừa hoặc thiếu đều không tốt. + Thiếu Vitamin A: lợn con chậm lớn, da khô, mắt kém, lợn nái mang thai dễ xảy thai, đẻ non… + Thiếu vitamin D: thai phát triển kém,dễ bị liệt chân trước và sau khi đẻ. + Thiếu Vitamin A: lợn có hiện tượng chết phôi, chết thai, lợn không động dục hoặc động dục chậm. Đặc biệt lợn nái mang thai, nếu thiếu Vitamin sẽ ảnh hưởng tới khả năng sinh sản. Do vậy dinh dưỡng đầy đủ, khẩu phần ăn hợp lý, đáp ứng được nhu cầu sinh trưởng, phát dục trước và sau khi đẻ, nuôi con…là một trong những biện pháp hữu hiệu để nâng cao năng suất, hiệu quả trong chăn nuôi.  Điều kiện khí hậu: Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng mùa vụ, nhiệt độ và chế độ chiếu sáng cũng làm ảnh hưởng tới các chỉ tiêu năng suất sinh sản của lợn nái. Đặc biệt là các yếu tố nhiệt độ và Èm độ của chuồng nuôi. Đối với lợn nái nhiệt độ thích hợp từ 18 - 21 0C. Do đó, về mùa hè sức sản xuất của lợn nái thấp hơn so với các mùa khác, vì nếu nhiệt độ chuồng trên 300C sẽ làm giảm tỷ lệ thụ thai, tỷ lệ chết phôi và chết thai tăng cao và thai kém phát triển do lợn mẹ ăn Ýt. Mặt khác nhiệt độ cao sẽ làm kéo dài thời gian đẻ, gây sát nhau, tỷ lệ lợn con hay chết cao do lợn mẹ hay đè chết con. Đồng thời khi nhiệt độ cao và độ Èm cao sẽ làm cho lợn nái không động dục hoặc động dục chậm. Còn nếu nhiệt độ quá thấp sẽ ảnh hưởng đến giai đoạn nuôi con, lợn con dễ bị cảm lạnh va dẫn đến tỷ lệ chết cao.  Kỹ thuật phối giống: Kỹ thuật phối giống ảnh hưởng đến số lượng con/lứa. Chọn thời điểm phối giống thích hợp sẽ làm tăng tỷ lệ thụ thai và số con/lứa. Chó ý rằng nếu
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan