Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ The role of mass communication in the implementation of children’s rights in Bin...

Tài liệu The role of mass communication in the implementation of children’s rights in Binh Phuoc Province today

.PDF
27
30713
110

Mô tả:

1 HO CHI MINH NATIONAL POLITICAL ACADEMY NGUYEN THI MINH NHAM THE ROLE OF MASS COMMUNICATION IN THE IMPLEMENTATION OF CHILDren’s RIGHTS IN BINH PHUOC PROVINCE TODAY Field of Study: Code: Sociology 62 31 30 01 SUMMARY THESIS OF THE DOCTOR OF SOCIOLOGY HANOI – 2014 2 The work is completed at Ho Chi Minh National Academy of Politics Scientific supervisor: Prof. Dr. Nguyen Dinh Tan Opponent 1: Opponent 2: Opponent 3: The thesis is protected at the Thesis Evaluation Council at the Academy level held at Ho Chi Minh National Academy of Politics At …….hour….on date……………2014 The thesis can be found at: Vietnam National Library and the Scientific Information Center of Ho Chi Minh National Academy of Politics 3 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Truyền thông đại chúng (sau đây xin gọi tắt là TTĐC) vừa là động lực, vừa là công cụ tổ chức, quản lý và nâng cao dân trí trong xã hội, tạo sự tương tác xã hội, hình thành các liên kết xã hội, hướng dẫn, định hướng nhận thức, thái độ và hành vi cho công chúng. Trong xã hội bùng nổ thông tin như hiện nay, TTĐC, mà trung tâm là báo chí trở thành một trong những tác nhân xã hội hoá không chính thức rất quan trọng của con người. Theo đó, TTĐC là một trong những công cụ được Đảng, Nhà nước ưu tiên sử dụng cho công tác tuyên truyền thực hiện quyền trẻ em ở Việt Nam. Ngày 20-02-1990, Việt Nam ký Công ước quốc tế về quyền trẻ em (sau đây xin gọi tắt là CRC), là nước đầu tiên ở châu Á, nước thứ hai trên thế giới chính thức cam kết ra sức bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Qua 24 năm thực hiện CRC, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, luật đẩy mạnh công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, đặc biệt là việc bổ sung, sửa đổi, ban hành Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004. Việc thực hiện quyền trẻ em ở nước ta đã đạt được những thành quả quan trọng, được nhân dân trong nước và cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn còn đứng trước rất nhiều thách thức trong việc đảm bảo mọi trẻ em đều được hưởng đầy đủ các quyền của mình. Tình trạng vi phạm quyền trẻ em ở mức độ nghiêm trọng còn xảy ra ở nhiều nơi. TTĐC tích cực tuyên truyền, kêu gọi, cổ vũ các tổ chức, cá nhân, cộng đồng thực hiện quyền trẻ em, đáng chú ý là việc phanh phui, đưa ra ánh sáng các vụ việc bạo hành, xâm hại tình dục trẻ em gây chấn động dư luận xã hội trong thời gian gần đây. Bên cạnh những mặt tích cực là cơ bản, đôi khi quyền trẻ em chưa được TTĐC tuyên truyền thấu đáo, vì thế đã có những cách hiểu không đầy đủ bản chất khái niệm, có những hành xử và phản ứng không đúng trong quá trình triển khai thực hiện. Có lúc, có nơi, chính TTĐC lại vi phạm quyền trẻ em, sử dụng câu chuyện, hình ảnh trẻ em nhằm giật gân, câu khách hay quay lưng lại với nỗi đau của trẻ em. Câu hỏi nghiên cứu được đặt ra ở đây là: TTĐC có vai trò gì để thúc đẩy tiến trình thực hiện quyền trẻ em? Người dân đánh giá thế nào về vai trò của TTĐC trong thực hiện quyền trẻ em? Nhân tố nào tác động đến vai trò của TTĐC trong thực hiện quyền trẻ em? Vai trò của TTĐC trong thực hiện quyền trẻ em có xu hướng biến đổi ra sao? Cần làm gì để tăng cường vai trò của TTĐC trong thực hiện quyền trẻ em khi vai trò của TTĐC ngày càng được khẳng định trong bối cảnh toàn cầu hóa, dân chủ hóa đời sống xã hội và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam? Vai trò của TTĐC trong thực hiện quyền trẻ em là vấn đề có thể được nghiên cứu từ cách tiếp cận xã hội học TTĐC. Việc vận dụng các lý thuyết của 4 xã hội học TTĐC để đánh giá toàn diện quá trình TTĐC về quyền trẻ em; vận dụng thuyết kiến tạo xã hội vào đánh giá quá trình kiến tạo mô hình nhận thức, thái độ và hành vi thực hiện quyền trẻ em; vận dụng thuyết vai trò xã hội vào xem xét vai trò của TTĐC trong vai trò thực tế và vai trò kỳ vọng của người dân… là những hướng nghiên cứu quan trọng để trả lời các câu hỏi đặt ra từ thực tiễn. Tuy nhiên, những nghiên cứu này chưa từng được thực hiện một cách đầy đủ và toàn diện ở Việt Nam. Quyền trẻ em vẫn còn là lĩnh vực chưa được nghiên cứu đầy đủ. Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn và lý luận nêu trên sẽ được trả lời trong luận án “Vai trò của truyền thông đại chúng trong thực hiện quyền trẻ em ở tỉnh Bình Phước hiện nay”. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục tiêu nghiên cứu Nghiên cứu cơ sở lý luận, từ đó phân tích thực trạng vai trò của các phương tiện TTĐC trong thực hiện quyền trẻ em ở tỉnh Bình Phước hiện nay và đề xuất các giải pháp tăng cường vai trò của TTĐC trong thực hiện quyền trẻ em. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Thứ nhất: Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu vai trò của TTĐC trong thực hiện quyền trẻ em. Thứ hai: Phân tích thực trạng vai trò của các phương tiện TTĐC tỉnh Bình Phước trong thực hiện quyền trẻ em ở địa phương hiện nay. Trong đó có những đánh giá từ phía công chúng tỉnh Bình Phước. Thứ ba: Phân tích các nhân tố tác động đến vai trò của TTĐC tỉnh Bình Phước trong thực hiện quyền trẻ em ở địa phương hiện nay. Đưa ra các dự báo xu hướng biển đổi vai trò. Thứ tư: Đề xuất các khuyến nghị về giải pháp nhằm tăng cường vai trò của TTĐC trong thực hiện quyền trẻ em trong thời gian tới. 3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Các vai trò của TTĐC tỉnh Bình Phước trong việc thực hiện quyền trẻ em ở địa phương hiện nay. 3.2. Khách thể nghiên cứu: Cơ quan TTĐC của tỉnh được chọn nghiên cứu; cán bộ truyền thông các cơ quan TTĐC được chọn nghiên cứu; công chúng Bình Phước (trẻ em và người lớn). 3.3. Phạm vi nghiên cứu - Thời gian nghiên cứu: 2010-2013. - Không gian nghiên cứu: tỉnh Bình Phước. - Phạm vi nội dung: Đề tài nghiên cứu vai trò của các phương tiện TTĐC tỉnh Bình Phước trong thực hiện quyền trẻ em ở địa phương hiện nay. Các cơ quan TTĐC được chọn nghiên cứu là: Báo Bình Phước; Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Phước; bốn Đài truyền thanh và truyền hình cấp huyện (thị xã Đồng Xoài; huyện Bù Gia Mập; Bù Đăng và Đồng Phú). Đề tài giới hạn nghiên 5 cứu trong bốn loại hình báo chí (báo in, truyền hình, phát thanh, báo mạng điện tử) và truyền thanh cấp huyện (không phải cơ quan báo chí). Các sản phẩm truyền thông được khảo sát đã đăng phát từ tháng 6 đến tháng 10/2012. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Các tri thức về truyền thông, TTĐC, vai trò của TTĐC và xã hội học TTĐC. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của TTĐC, quyền trẻ em và vai trò của TTĐC trong thực hiện quyền trẻ em. Các lý thuyết mô hình truyền thông theo chu kỳ của Roman Jakobson, thuyết kiến tạo xã hội của Peter L. Berger, lý thuyết trung gian về vai trò - tập hợp của R.Merton và tiếp cận vai trò của TTĐC trong thực hiện quyền trẻ em dựa trên quyền. 4.2. Phương pháp nghiên cứu 4.2.1. Phương pháp nghiên cứu định lượng 4.2.1.1. Phỏng vấn tiêu chuẩn (cấu trúc) - Phỏng vấn 582 công chúng người lớn - cha mẹ trong các gia đình có trẻ em trên địa bàn (xã Tân Thành và phường Tân Phú, thị xã Đồng Xoài; xã Tân Lợi và thị trấn Tân Phú, huyện Đồng Phú; xã Thọ Sơn và thị trấn Đức Phong, huyện Bù Đăng; xã Phú Riềng và Long Hà, huyện Bù Gia Mập). Phỏng vấn đạt yêu cầu và hợp lệ 535 người, chiếm 91,9%. - Đối với công chúng trẻ em: Phỏng vấn 264 trẻ em từ 12 đến dưới 16 tuổi ở một trường tiểu học và một trường THCS thuộc huyện Đồng Phú và thị xã Đồng Xoài, có đón xem chương trình trẻ em trên Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Phước. Số trường hợp đạt yêu cầu và hợp lệ là 206, chiếm 78,0%. - Đối với cán bộ truyền thông: phỏng vấn 185 người là lãnh đạo, phóng viên, biên tập viên, phát thanh viên các cơ quan TTĐC được nghiên cứu, chọn ngẫu nhiên. Số trường hợp đạt yêu cầu và hợp lệ là 164, chiếm 88,6%. 4.2.1.2. Phân tích nội dung định lượng Được tiến hành bằng một bộ công cụ mã hóa nội dung thông điệp về trẻ em trên các phương tiện TTĐC tỉnh Bình Phước để thống kê tần suất sử dụng các phạm trù trẻ em, học sinh (dưới 16 tuổi), quyền trẻ em; liên quan đến trẻ em, hoạt động bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, với 2.222 sản phẩm truyền thông về trẻ em trên các cơ quan TTĐC được nghiên cứu từ tháng 6 đến tháng 10/2012. 4.2.2. Phương pháp nghiên cứu định tính 4.2.2.1. Phân tích nội dung tài liệu 4.2.2.2. Phỏng vấn sâu: Thực hiện 29 cuộc phỏng vấn sâu với cán bộ TTĐC; cán bộ lãnh đạo, quản lý và công chúng (người lớn và trẻ em). 4.2.2.3. Thảo luận nhóm: Thực hiện 04 cuộc thảo luận nhóm với cán bộ TTĐC. 4.2.2.4. Phương pháp quan sát 5. Giả thuyết nghiên cứu và khung phân tích 5.1. Giả thuyết nghiên cứu Thứ nhất: TTĐC thực hiện được vai trò vận động, khuyến khích và được 6 công chúng đánh giá cao nhất. Vai trò thông tin, tuyên truyền, giáo dục được thực hiện tốt hơn vai trò giám sát. Vai trò giám sát không thực hiện tốt bằng vai trò hình thành và thể hiện dư luận xã hội. TTĐC thực hiện vai trò giải trí cho trẻ em hạn chế nhất so với các vai trò khác. Thứ hai: Việc thực hiện các vai trò của TTĐC tỉnh Bình Phước trong thực hiện quyền trẻ em phụ thuộc vào đặc điểm nhân khẩu xã hội, nhận thức, thái độ về quyền trẻ em của cán bộ truyền thông. Đồng thời bị chi phối bởi tôn chỉ, mục đích, cơ cấu tổ chức của cơ quan truyền thông, các hoạt động truyền thông cũng như các chính sách về TTĐC, quyền trẻ em và vai trò của TTĐC trong thực hiện quyền trẻ em và điều kiện phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội của địa phương. Thứ ba: Thời gian tới, vai trò của TTĐC tỉnh Bình Phước trong thực hiện quyền trẻ em sẽ thay đổi theo xu hướng tính đến các yếu tố quyền của trẻ em đã được pháp luật thừa nhận và nâng cao năng lực thực hiện quyền trẻ em của các bên liên quan. Nhưng vẫn có sự chênh lệch giữa các vai trò và sự khác nhau giữa các cơ quan, loại hình TTĐC trong thực hiện quyền trẻ em. Người dân Bình Phước ngày càng thỏa mãn hơn, ứng dụng được nhiều hơn các thông tin về quyền trẻ em từ TTĐC trong tỉnh, nhưng sẽ yêu cầu cao hơn về nội dung, hình thức thể hiện và sự tiện lợi của hội tụ truyền thông, tích hợp phương tiện. 5.2. Các biến số được xác định trong luận án * Biến độc lập: - Đặc điểm cơ quan truyền thông (tôn chỉ, mục đích; cơ cấu tổ chức hoạt động). - Hoạt động truyền thông về quyền trẻ em (thời điểm truyền thông, loại hình truyền thông). - Đặc điểm của cán bộ truyền thông (đặc điểm nhân khẩu xã hội; nhận thức, thái độ về quyền trẻ em, hành vi tác nghiệp). * Biến phụ thuộc: Các đặc điểm của việc thực hiện vai trò của TTĐC trong thực hiện quyền trẻ em: - Thông tin, tuyên truyền, giáo dục về thực hiện quyền trẻ em. - Hình thành và thể hiện dư luận xã hội về thực hiện quyền trẻ em. - Vận động, khuyến khích thực hiện quyền trẻ em. - Giám sát tình hình thực hiện quyền trẻ em. - Giải trí cho trẻ em. Vai trò của TTĐC tỉnh Bình Phước trong thực hiện quyền trẻ em ở địa phương hiện nay được đo trên tiêu chí: 1. Số lượng, tỷ lệ sản phẩm truyền thông có mục đích đăng phát thông tin thể hiện vai trò từ kết quả phân tích thông điệp truyền thông, so với ý kiến của cán bộ truyền thông; 2. Chất lượng nội dung, hình thức thể hiện, ưu điểm, hạn chế của vai trò; 3. Ý kiến đánh giá của công chúng về hiệu quả và việc thể hiện các vai trò. * Biến can thiệp: - Công ước quốc tế về quyền trẻ em (CRC); hệ thống chính sách về TTĐC, về quyền trẻ em và vai trò của TTĐC trong thực hiện quyền trẻ em. - Đặc điểm kinh tế, văn hoá, xã hội của địa phương: chuẩn mực xã hội; phong tục tập quán; trình độ dân trí; các hoạt động truyền thông khác về quyền 7 trẻ em… 6. Điểm mới, ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 6.1. Điểm mới của đề tài Thứ nhất, về khách thể nghiên cứu: Đây là nghiên cứu đầu tiên về vai trò của TTĐC trong việc thực hiện quyền trẻ em thông qua bốn loại hình báo chí và kênh truyền thanh cấp huyện. Trên cơ sở phân tích thực trạng, các nhân tố tác động, dự báo xu hướng biến đổi, đề tài đề xuất một số khuyến nghị về giải pháp tăng cường vai trò của TTĐC trong thực hiện quyền trẻ em, góp phần thúc đẩy thực hiện quyền trẻ em trên thực tế. Thứ hai, về cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu: Đề tài sử dụng lý thuyết mô hình truyền thông theo chu kỳ của Roman Jakobson, thuyết kiến tạo xã hội của Peter L. Berger, lý thuyết trung gian về vai trò - tập hợp của R.Merton và tiếp cận dựa trên quyền của trẻ em cùng với phương pháp phân tích nội dung thông điệp truyền thông để có được một bức tranh toàn diện về vai trò của TTĐC trong thực hiện quyền trẻ em ở tỉnh Bình Phước hiện nay. 6.2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Ý nghĩa lý luận: Đề tài ứng dụng và góp phần kiểm chứng, phát triển lý thuyết xã hội học TTĐC và thuyết kiến tạo xã hội. Kết quả nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ vai trò xã hội của TTĐC. Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài cho thấy bức tranh vai trò của TTĐC trong thực hiện quyền trẻ em, hình ảnh trẻ em trên TTĐC và ý kiến đánh giá của công chúng. Luận án khẳng định vai trò của TTĐC trong thực hiện quyền trẻ em và sự cần thiết phải tăng cường vai trò của TTĐC trong tiến trình thực hiện quyền trẻ em. Kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo bổ ích với ngành Thông tin Truyền thông, Lao động - Thương binh và Xã hội, ngành Tuyên giáo trên lĩnh vực quản lý, định hướng tuyên truyền về quyền trẻ em cho các cơ quan TTĐC. Đây cũng là tài liệu tham khảo giá trị cho các giảng viên, học viên trong nghiên cứu, giảng dạy xã hội học TTĐC ở Việt Nam. 7. Kết cấu của luận án: Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, nội dung chính của luận án được chia thành bốn chương, chín tiết. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI 1.1.1. Hướng nghiên cứu lý luận về vai trò của truyền thông đại chúng Tác giả luận án điểm luận các quan điểm chức năng luận về vai trò của TTĐC; TTĐC kiến tạo những hình ảnh khuôn mẫu trong công chúng; các mô hình truyền thông; hiệu quả, ảnh hưởng của TTĐC đến đời sống xã hội; yếu tố chi phối nội dung truyền thông. Từ đó, tác giả có được những thông tin quan trọng để xác định: Các vai trò của TTĐC tỉnh Bình Phước trong thực hiện quyền trẻ em; sử dụng thuyết kiến tạo xã hội để phân tích thực trạng truyền 8 thông về quyền trẻ em; và có tri thức xã hội học TTĐC để phân tích các nhân tố tác động đến thực trạng vai trò của TTĐC tỉnh Bình Phước trong thực hiện quyền trẻ em ở địa phương hiện nay. 1.1.2. Hướng nghiên cứu về phương pháp Tác giả luận án tổng quan về phương pháp phân tích nội dung thông điệp truyền thông. Căn cứ nội dung nghiên cứu và năng lực của mình, tác giả sử dụng phương pháp phân tích nội dung định lượng với một bộ mã hóa thông điệp truyền thông về trẻ em của các phương tiện TTĐC tỉnh Bình Phước. 1.1.3. Hướng nghiên cứu thực nghiệm về vai trò của truyền thông đại chúng trong thực hiện quyền trẻ em Tác giả điểm luận các nghiên cứu trong Báo cáo về các vấn đề của trẻ em trên báo chí và truyền hình châu Á của Trung tâm Thông tin liên lạc châu Á và Khoa nghiên cứu thông tin - Trường Đại học Công nghệ Nanyang Singapore (1999); nghiên cứu của Helena Thorfinn (2000) trong cuốn chuyên khảo “Truyền thông, đạo đức nghề nghiệp với trẻ em”. Đây là cơ sở để tác giả đưa ra các biến số, tham khảo phân tích thực trạng. 1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM 1.2.1. Hướng nghiên cứu lý luận về vai trò của truyền thông đại chúng Các nghiên cứu mang tính chất lý luận về vai trò của TTĐC không nhiều, phần lớn được trình bày lồng ghép vào các nghiên cứu thực nghiệm về tiêu chí phân tích hiệu quả của TTĐC; nhân tố tác động đến hoạt động và hiệu quả TTĐC. Tác giả tham khảo để phân tích thực trạng vai trò của TTĐC trong thực hiện quyền trẻ em. 1.2.2. Hướng nghiên cứu thực nghiệm về vai trò của truyền thông đại chúng trong thực hiện quyền trẻ em Tác giả luận án điểm luận nghiên cứu về hình ảnh trẻ em trên TTĐC Việt Nam của Trịnh Duy Luân và Mai Quỳnh Nam (1999); một số nghiên cứu về truyền thông trẻ em của Mai Quỳnh Nam; nghiên cứu thực nghiệm về sự lạm dụng hình ảnh nam giới và phụ nữ trên TTĐC nhìn từ thuyết kiến tạo xã hội. Có thể nói, chưa có nghiên cứu xã hội học nào đánh giá một cách đầy đủ và toàn diện vai trò của TTĐC trong thực hiện quyền trẻ em nhìn từ phía nhà truyền thông và đánh giá của công chúng ở một địa phương cụ thể. 1.2.3. Các hướng nghiên cứu khác Trẻ em và TTĐC đã được các nhà nghiên cứu trên lĩnh vực báo chí, truyền thông, các tổ chức quốc tế quan tâm, nghiên cứu, đề xuất giải pháp và nỗ lực để bảo vệ, thúc đẩy tiến trình thực hiện quyền trẻ em. Tiểu kết chương 1 Tất cả các nghiên cứu được điểm luận đều chưa phân tích đầy đủ, toàn diện thực trạng vai trò của TTĐC đối với việc thực hiện quyền trẻ em từ ý kiến của nhà truyền thông và công chúng cũng như các nhân tố tác động đến thực trạng. 9 Vì vậy, luận án sẽ tìm hiểu sâu những vấn đề chưa được nghiên cứu thấu đáo sau đây: 1- Từ các lý thuyết của xã hội học TTĐC, thuyết kiến tạo xã hội, lý thuyết về vai trò và tri thức về quyền trẻ em, đề tài sẽ nhận diện và đánh giá thực trạng vai trò của TTĐC ở Bình Phước trong thực hiện quyền trẻ em với mục đích xem xét TTĐC Bình Phước đã thực hiện các vai trò trong thực hiện quyền trẻ em như thế nào. Phân tích các nhân tố tác động đến thực trạng này. 2- Công chúng đã đón nhận những thông điệp truyền thông về trẻ em như thế nào; có tác động ra sao đến nhận thức, thái độ của công chúng; cách công chúng sử dụng các thông tin về quyền trẻ em vào cuộc sống. 3- Đề xuất các khuyến nghị giải pháp tăng cường vai trò của TTĐC trong thực hiện quyền trẻ em. Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 2.1.1. Các khái niệm cơ bản 2.1.1.1. Khái niệm truyền thông đại chúng Truyền thông đại chúng (mass communication) được hiểu là một quá trình xã hội được thực hiện thông qua các phương tiện kỹ thuật TTĐC (mass media) nhằm quảng bá thông tin tới đông đảo công chúng trong xã hội. 2.1.1.2. Khái niệm quyền trẻ em: Quyền trẻ em được hiểu là quyền con người của công dân Việt Nam dưới 16 tuổi, với 10 quyền cơ bản theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004. 2.1.1.3. Khái niệm vai trò và vai trò của truyền thông đại chúng trong thực hiện quyền trẻ em Vai trò được quan niệm là một tập hợp các chức năng, các quyền và nghĩa vụ gắn cho một vị trí xã hội của một người hay một nhóm người mà xã hội mong đợi phải được thực hiện. Vai trò của TTĐC trong thực hiện quyền trẻ em được hiểu là một tập hợp các chức năng, các quyền và nghĩa vụ của các tổ chức TTĐC và những người làm truyền thông được Nhà nước quy định, xã hội và công chúng kỳ vọng, mong đợi phải thực hiện (gồm thông tin, tuyên truyền, giáo dục thực hiện quyền trẻ em; hình thành và thể hiện dư luận xã hội trong thực hiện quyền trẻ em; vận động, khuyến khích thực hiện quyền trẻ em; giám sát tình hình thực hiện quyền trẻ em và giải trí cho trẻ em) để kiến tạo các mô hình nhận thức, thái độ và hành vi thực hiện quyền trẻ em theo CRC và luật pháp Việt Nam, thúc đẩy tiến trình thực hiện quyền trẻ em trong thực tế. 2.1.2. Các lý thuyết nghiên cứu 2.1.2.1. Tiếp cận lý thuyết mô hình truyền thông theo chu kỳ của Roman Jakobson Mô hình truyền thông theo chu kỳ của R.Jakobson giúp chúng ta hiểu rằng, vai trò của nhà truyền thông rất quan trọng, nếu nhận thức, thái độ của họ về 10 quyền trẻ em không đúng đắn, đầy đủ thì nội dung thông điệp truyền đi cũng không chính xác, chưa kể có thể bị sai lệch do hiện tượng “nhiễu”. Nội dung thông điệp nhiều khi được công chúng đón nhận không đúng như ý của nhà truyền thông, nếu nội dung đó xa lạ với phông văn hóa, kiến thức, kinh nghiệm hay khác xa với đời sống, tâm lý và đặc điểm xã hội của công chúng. Việc ghi nhận nội dung thông điệp hoàn toàn phụ thuộc vào sự chọn lọc theo đặc điểm nhân khẩu xã hội, phông văn hóa và vốn tâm lý của họ. Công chúng có phản hồi trở lại với nhà truyền thông và trở thành người phát tin đến nhà truyền thông. 2.1.2.2. Tiếp cận thuyết kiến tạo xã hội của Peter L. Berger Tiếp cận thuyết kiến tạo xã hội của Berger có thể hiểu, TTĐC là một trong những thiết chế xã hội quan trọng góp phần kiến tạo nên những kịch bản, khuôn mẫu thực hiện quyền trẻ em theo CRC, theo chủ trương, chính sách, pháp luật mà xã hội phải thực hiện. Mỗi cá nhân tiếp nhận dần dần những tri thức, mẫu hình thực hiện quyền trẻ em một cách vô tình hay có chủ đích từ TTĐC. Nếu các nhà truyền thông có nhận thức, thái độ tốt, kiến tạo được những khuôn mẫu đúng đắn, thì công chúng sẽ có cơ hội để lĩnh hội được những khuôn mẫu, mô hình đúng đắn và ngược lại. Song, công chúng cũng tự kiến tạo nên thế giới và quan niệm của họ với những gì rất riêng, do sự khác biệt về đặc điểm xã hội. Những tri thức, kinh nghiệm, khuôn mẫu hành vi thực hiện quyền trẻ em công chúng có được từ TTĐC tiếp tục được duy trì, củng cố bởi sự tương tác xã hội. Việc thực hiện quyền trẻ em và truyền thông về quyền trẻ em đều bị chi phối bởi các yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, tôn giáo của bối cảnh xã hội cụ thể. 2.1.2.3. Tiếp cận lý thuyết trung gian về vai trò - tập hợp của R.Merton Lý thuyết của R. Merton cho chúng ta biết rằng, với vị thế của mình, nhà truyền thông không phải chỉ có một vai trò truyền thông về quyền trẻ em, mà còn có vai trò truyền thông về kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, quốc phòng, an ninh… Trong quá trình thực hiện vị thế là nhà truyền thông về quyền trẻ em, họ lại có nhiều vai trò phải thực hiện. Họ có tập hợp vai trò thể hiện trong mối gắn kết nhà truyền thông với công chúng, với cơ quan chủ quản, các cán bộ nhân viên trong cơ quan, với cơ quan truyền thông khác và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Theo đó, có thể nhà truyền thông sẽ gặp phải sự khủng hoảng, căng thẳng và xung đột vai trò. 2.1.2.4. Tiếp cận vai trò của truyền thông đại chúng trong thực hiện quyền trẻ em dựa trên quyền trẻ em Theo cách tiếp cận quyền trẻ em, truyền thông về quyền trẻ em là vai trò, trách nhiệm pháp lý của TTĐC. TTĐC phải đảm bảo rằng, quyền trẻ em có tính thống nhất, không thể phân tách, là bất khả xâm phạm, Nhà nước, các tổ chức, cá nhân trong xã hội phải có trách nhiệm tổ chức thực hiện. Nhà truyền thông tuyệt đối không phân biệt đối xử với trẻ em, phải đảm bảo được lợi ích tốt nhất của trẻ em, trẻ em có quyền được sống và phát triển, phải có sự tham gia của trẻ 11 em vào quá trình truyền thông. 2.1.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về vai trò của truyền thông đại chúng và về quyền trẻ em Chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh không bàn một cách trực tiếp về vai trò của TTĐC với việc thực hiện quyền trẻ em, nhưng đặc biệt quan tâm đến vị trí, vai trò của báo chí truyền thông trong sự nghiệp cách mạng xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Báo chí là một công cụ tuyên truyền quan trọng của đảng vô sản, tuyên truyền, bảo vệ quyền trẻ em cũng là một trong những nghĩa vụ quan trọng của báo chí. Công tác tuyên truyền, vận động xã hội nâng cao nhận thức và chuyển đổi hành vi thực hiện quyền trẻ em là một trong những hoạt động quan trọng của Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012-2020; được khẳng định trong Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 05-11-2012 của Bộ Chính trị “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới” và một số văn bản khác. Đây là sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về trách nhiệm, vai trò của TTĐC trong thực hiện quyền trẻ em. 2.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU 2.2.1. Đặc điểm kinh tế, văn hoá - xã hội của tỉnh Bình Phước Bình Phước là một tỉnh miền núi, biên giới thuộc miền Đông Nam Bộ; có diện tích tự nhiên là 6.871.543 km2; dân số 922.706 người, trong đó trẻ em chiếm 31,0%. Tỉnh có 41 dân tộc và gần 20,0% đồng bào tôn giáo. Tỉnh Bình Phước được tái lập ngày 01-01-1997. Tỉnh có 10 huyện, thị xã với 111 xã, phường, thị trấn. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm 2013 đạt 9,59%. GDP bình quân đầu người theo giá thực tế năm 2013 đạt 41,63 triệu đồng. Những thành tựu trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của tỉnh. Tình hình kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện quyền trẻ em. Hoạt động của các cơ quan TTĐC ở Bình Phước hiện nay còn rất nhiều khó khăn, hạn chế khi đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp chưa đủ mạnh. Khó khăn của hoạt động TTĐC ảnh hưởng đáng kể đến công tác truyền thông về quyền trẻ em. 2.2.2. Tình hình thực hiện quyền trẻ em ở tỉnh Bình Phước hiện nay Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, các quyền của trẻ em Bình Phước đã được cấp ủy đảng, chính quyền, gia đình, nhà trường và cộng đồng xã hội quan tâm thực hiện, song còn nhiều khó khăn, hạn chế, dù đã có một số kết quả rất đáng trân trọng. Nghị quyết và Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em vẫn chưa thật sự đi vào cuộc sống. Tiểu kết chương 2 Luận án xem xét vai trò của TTĐC trong thực hiện quyền trẻ em trên năm khía cạnh: vai trò thông tin, tuyên truyền, giáo dục; hình thành, thể hiện dư luận xã hội; vận động, khuyến khích thực hiện quyền trẻ em; giám sát tình hình thực 12 hiện quyền trẻ em và giải trí cho trẻ em. Luận án sử dụng tổng tích hợp các lý thuyết: Mô hình truyền thông theo chu kỳ của Roman Jakobson; thuyết kiến tạo xã hội của Peter L. Berger; lý thuyết trung gian về vai trò - tập hợp của R.Merton; tiếp cận vai trò của TTĐC trong thực hiện quyền trẻ em từ cách tiếp cận quyền của trẻ em. Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về báo chí, về quyền trẻ em và vai trò của TTĐC trong thực hiện quyền trẻ em là cơ sở để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ tuyên truyền quyền trẻ em của TTĐC. Cơ sở thực tiễn nghiên cứu luận án là đặc điểm kinh tế, văn hóa - xã hội của tỉnh Bình Phước và tình hình thực hiện quyền trẻ em hiện nay trên địa bàn tỉnh. Chương 3 THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG TRONG THỰC HIỆN QUYỀN TRẺ EM Ở TỈNH BÌNH PHƯỚC HIỆN NAY 3.1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH TRUYỀN THÔNG VỀ ĐỀ TÀI TRẺ EM Ở TỈNH BÌNH PHƯỚC HIỆN NAY 3.1.1. Số lượng sản phẩm truyền thông về đề tài trẻ em Từ tháng 6 đến tháng 10/2012, các phương tiện TTĐC tỉnh Bình Phước được nghiên cứu có 2.222 sản phẩm truyền thông về đề tài trẻ em, trực tiếp hoặc hướng tới phục vụ việc thực hiện quyền trẻ em. Trong đó, có 1.344 sản phẩm dành cho trẻ em và 878 sản phẩm dành cho người lớn. 1. Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Phước đứng đầu về số lượng và tỷ lệ sản phẩm truyền thông về đề tài trẻ em, với 1.622 sản phẩm, chiếm 13,8% tổng sản phẩm truyền thông của Đài. Trong đó, có 1.344 sản phẩm cho trẻ em, chiếm 90,5% tổng sản phẩm truyền thông về đề tài trẻ em, chiếm 11,4% tổng sản phẩm truyền thông của Đài. Các sản phẩm về đề tài trẻ em không phải chỉ có vào các dịp cao điểm vì trẻ em. Tổng thời lượng phát sóng các sản phẩm truyền thông về trẻ em trong 5 tháng là 35.315 phút, chiếm 22,2% tổng thời lượng phát sóng chương trình của địa phương, không kể tiếp âm, tiếp sóng. 2. Báo Bình Phước: có 218 sản phẩm truyền thông về trẻ em, chiếm 4,4% tổng sản phẩm truyền thông của báo. Trong đó, báo in có 149 tin bài, chiếm 5,2% và báo mạng điện tử có 68 tin bài, chiếm 3,4% tổng tin bài của báo. Các sản phẩm truyền thông không phải chỉ có vào các dịp cao điểm vì trẻ em. Báo không có sản phẩm truyền thông dành cho trẻ em. 3. Các đài truyền thanh, truyền hình cấp huyện: Đài thị xã Đồng Xoài quan tâm cho mảng đề tài trẻ em nhiều nhất, chiếm 10,3% trong tổng số sản phẩm truyền thông của Đài; thứ hai là Đài huyện Đồng Phú; thứ ba là Đài huyện Bù Đăng; ít nhất là Đài huyện Bù Gia Mập. Các hoạt động truyền thông về trẻ em ở Đài thị xã Đồng Xoài không phải chỉ ưu tiên vào các dịp cao điểm, mà được thực hiện thường xuyên. Trong khi đó, Đài huyện Đồng Phú, Bù Đăng và Bù Gia Mập không thực hiện thường xuyên, mà chỉ ưu tiên vào tháng 6 - 13 tháng hành động vì trẻ em và tháng 9 - đầu năm học mới. 3.1.2. Hình thức của sản phẩm truyền thông về đề tài trẻ em Phần lớn là do các cơ quan TTĐC trong tỉnh tự thực hiện. Một số Đài truyền thanh và truyền hình cấp huyện lấy sản phẩm truyền thông từ Báo Bình Phước, Báo Bình Phước điện tử và báo khác. Tin là thể loại nhiều nhất, với ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, gần gũi, phù hợp với trình độ nhận thức của số đông công chúng. Các sản phẩm truyền thông về trẻ em chỉ được thực hiện đều đặn, có tính chất định kỳ trên Báo Bình Phước in và Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Phước. Các sản phẩm truyền thông về trẻ em thường đứng sau vấn đề chính trị, kinh tế, ít khi được đứng trên trang nhất và trong các chuyên mục chính trị thời sự, chủ yếu đưa vào chuyên trang/chuyên mục giáo dục, thanh niên, văn hóa. Các sản phẩm truyền thông được phát sóng trên Đài truyền hình Bình Phước không phải những khung giờ vàng, nhưng vẫn thuận tiện để theo dõi. 3.1.3. Đặc điểm nội dung thông tin Hầu hết các sản phẩm truyền thông về trẻ em không nêu các quyền trẻ em có liên quan. Cũng chỉ có 4,8% sản phẩm truyền thông về trẻ em có dùng từ “quyền trẻ em”, mà phần lớn chỉ ngầm thể hiện các quan niệm về trẻ em và quyền trẻ em. Vì vậy, TTĐC chưa đưa ra thông điệp đúng về quyền trẻ em, do đó dẫn đến những hạn chế nhất định trong việc bảo vệ trẻ em, không kiến tạo nên nhận thức đúng đắn về quyền trẻ em cho xã hội. 3.1.4. Hình ảnh trẻ em trên truyền thông đại chúng Bình Phước Hình ảnh phổ biến nhất của trẻ em trên TTĐC Bình Phước là trẻ em bình thường (chiếm 62,2%). Không có hình ảnh xấu xí, vi phạm pháp luật, rất ít hình ảnh trẻ em bị tai nạn thương tích, bị bạo hành, xâm hại tình dục, khuyết tật, mồ côi, lang thang. Các phương tiện TTĐC đã nỗ lực mang lại cho công chúng một bức tranh không quá ảm đạm về tình hình trẻ em ở Bình Phước, nhưng chưa phản ánh toàn diện hình ảnh trẻ em trên thực tế. 3.1.5. Sự tham gia của trẻ em Bình Phước trên truyền thông đại chúng Trẻ em Bình Phước được tham gia rất ít vào quá trình truyền thông về trẻ em. Tiếng nói của trẻ em trên TTĐC Bình Phước rất hạn chế, chưa tác động đáng kể đến quá trình hoạch định chính sách và giải quyết các vấn đề trẻ em. Không phải lúc nào quyền và lợi ích của trẻ em cũng được TTĐC tôn trọng và bảo vệ. Sự tham gia của trẻ em Bình Phước trên TTĐC mới ở hình thức tượng trưng, thấp hơn so với mặt bằng chung của cả nước. 3.2. VAI TRÒ CỦA TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG TỈNH BÌNH PHƯỚC TRONG THỰC HIỆN QUYỀN TRẺ EM, TỪ NỘI DUNG THÔNG ĐIỆP TRUYỀN THÔNG 3.2.1. Vai trò thông tin, tuyên truyền, giáo dục thực hiện quyền trẻ em Vai trò thông tin, tuyên truyền, giáo dục về thực hiện quyền trẻ em chưa được TTĐC Bình Phước đặc biệt quan tâm. Chỉ có 43,6% sản phẩm truyền thông về trẻ em được nghiên cứu có mục đích đăng phát thông tin, tuyên truyền, giáo dục về quyền trẻ em. Đài huyện Bù Gia Mập quan tâm nhiều nhất đến mục 14 đích đăng phát thông tin tuyên truyền, giáo dục trong các mục đích đăng phát của cơ quan mình; thứ hai là Đài huyện Đồng Phú; thứ ba là Đài thị xã Đồng Xoài; rồi đến Đài huyện Bù Đăng và Báo Bình Phước; quan tâm ít nhất là Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Bình Phước. Các đài truyền thanh cấp huyện quan tâm nhiều nhất cho công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục thực hiện quyền trẻ em (chiếm 79,6%). Báo mạng điện tử ưu tiên cho mục đích đăng phát thông tin này ở vị trí thứ hai; thứ ba là báo in; rồi đến truyền hình và hạn chế nhất là phát thanh. Kết quả này cho thấy, nhận định của cán bộ truyền thông không chính xác hoặc TTĐC đã không thực hiện đúng chủ trương đăng phát thông tin về quyền trẻ em. Phần lớn cán bộ truyền thông cho rằng, mục đích đăng phát thông tin về đề tài trẻ em của cơ quan họ là thông tin, tuyên truyền về quyền trẻ em (chiếm 91,4%), cao nhất trong các mục đích đăng phát về trẻ em. Thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách về quyền trẻ em: không phải là mục đích đăng phát được TTĐC Bình Phước đặc biệt quan tâm khi nó chỉ chiếm 11,8%. Đài huyện Bù Gia Mập quan tâm cho mục đích đăng phát này nhiều nhất (chiếm 51,3%); thứ hai là Đài thị xã Đồng Xoài; thứ ba là Báo Bình Phước; ít nhất là Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Phước. Báo mạng điện tử ưu tiên nhất cho mục đích đăng phát này (chiếm 56,5%); thứ hai là truyền thanh cấp huyện; thứ ba là báo in; rồi đến truyền hình; ít nhất là báo phát thanh. Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Phước vừa có đông công chúng, vừa có nhiều ưu thế trong hoạt động tuyên truyền, nhưng tuyên truyền chủ trương, chính sách về quyền trẻ em còn rất hạn chế, nhất là phát thanh. Phổ biến kiến thức, kỹ năng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em: Có 48,2% sản phẩm truyền thông về đề tài trẻ em được khảo sát có mục đích đăng phát phổ biến kiến thức, kỹ năng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, gấp bốn lần mục đích đăng phát thông tin, tuyên truyền các chủ trương, chính sách về quyền trẻ em. Có 76,8% cán bộ cho biết cơ quan của họ có mục đích đăng phát này. Đài huyện Bù Đăng ưu tiên cho mục đích đăng phát thông tin phổ biến kiến thức, kỹ năng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nhiều nhất; thứ hai là Đài huyện Bù Gia Mập; thứ ba là Đài thị xã Đồng Xoài; rồi đến Đài huyện Đồng Phú và Báo Bình Phước; ít nhất là Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Phước. Truyền thanh cấp huyện ưu tiên cho mục đích đăng phát này nhất; thứ hai là truyền hình; thứ ba là báo in; ít nhất là phát thanh. Báo Bình Phước và Truyền hình Bình Phước không chỉ ít truyền thông về chính sách, mà còn ít truyền thông cả kiến thức, kỹ năng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. 3.2.2. Vai trò hình thành và thể hiện dư luận xã hội TTĐC ở Bình Phước thực hiện chưa tốt vai trò hình thành và thể hiện dư luận xã hội về việc thực hiện quyền trẻ em. Từ tháng 6 đến tháng 10/2012, chỉ có 12,2% sản phẩm truyền thông đã hình thành, thể hiện dư luận xã hội về việc thực hiện quyền trẻ em. Cũng chỉ có 48,8% cán bộ truyền thông cho rằng cơ quan mình thực hiện vai trò này, thấp nhất trong các mục đích đăng phát thông tin về quyền trẻ em. Báo Bình Phước thông tin hình thành và thể hiện dư luận 15 xã hội nhiều nhất so với các cơ quan TTĐC khác; thứ hai là Đài huyện Bù Gia Mập; thứ ba là Đài huyện Đồng Phú; rồi đến Đài thị xã Đồng Xoài, Đài huyện Bù Đăng, hạn chế nhất là Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Phước, riêng kênh phát thanh không có tin bài hình thành và thể hiện được dư luận xã hội. Báo in thông tin hình thành, thể hiện dư luận xã hội nhiều nhất; thứ hai là báo mạng điện tử; thứ ba là truyền thanh cấp huyện; rồi đến truyền hình và ít nhất là phát thanh. Có thể thấy, chỉ có Báo Bình Phước phát huy tốt vai trò hình thành và thể hiện dư luận xã hội. Ngoài vụ cháu Nguyễn Thị Hảo ba tuổi bị mẹ ruột hành hạ, cắt đứt gân chân năm 2008, từ trước tới nay TTĐC ở Bình Phước rất hạn chế trong khả năng hình thành và thể hiện dư luận xã hội, nói đúng hơn là chưa biết cách tạo dư luận xã hội, thổi bùng dư luận xã hội. TTĐC Bình Phước chưa từng liên kết dư luận xã hội với các chiến dịch thông tin - giáo dục truyền thông, không khai thác, đẩy cao trào của dư luận xã hội thành những chiến dịch truyền thông. Song, ưu điểm là ở Bình Phước chưa có trường hợp TTĐC tạo nên dư luận xã hội quá đà, không có lợi cho trẻ em vì mục đích lợi nhuận của nhà truyền thông hay vô tình dẫn đến các hành vi vi phạm quyền trẻ em như một số trường hợp ở các cơ quan báo chí lớn. 3.2.3. Vai trò vận động, khuyến khích thực hiện quyền trẻ em Đây là vai trò được TTĐC Bình Phước quan tâm nhất, với 87,5% sản phẩm truyền thông có mục đích đăng phát vận động, khuyến khích thực hiện quyền trẻ em. Cán bộ truyền thông cũng cho rằng, vai trò này được cơ quan họ thực hiện tốt thứ hai trong các vai trò (chiếm 87,8%), sau vai trò thông tin, tuyên truyền, giáo dục thực hiện quyền trẻ em. Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Phước quan tâm vai trò này nhất; thứ hai là Đài huyện Bù Đăng; thứ ba là Đài thị xã Đồng Xoài; rồi đến Đài huyện Bù Gia Mập, huyện Đồng Phú; hạn chế nhất là Báo Bình Phước. Phát thanh quan tâm nhiều nhất cho vai trò vận động, khuyến khích thực hiện quyền trẻ em (chiếm 100,0%); thứ hai là truyền hình; thứ ba là truyền thanh cấp huyện; rồi đến báo in; hạn chế nhất là báo mạng điện tử (chiếm 40,6 %). Có thể thấy, chỉ đến vai trò vận động, khuyến khích thực hiện quyền trẻ em, Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Phước và kênh phát thanh mới thể hiện sức mạnh, ưu thế và sự quan tâm của mình cho công tác tuyên truyền về quyền trẻ em. TTĐC thông tin, phản ánh những hoàn cảnh trẻ em khó khăn cần được giúp đỡ, kêu gọi mọi người mở rộng tấm lòng nhân ái, chia sẻ tinh thần, hỗ trợ vật chất, động viên các em vượt qua khó khăn, vươn lên trong cuộc sống. Tuy nhiên, TTĐC Bình Phước chưa thực sự quan tâm đến trách nhiệm xã hội này. Mục đích đăng phát thông tin kêu gọi giúp đỡ trẻ em khó khăn chỉ chiếm 6,7% so với các mục đích khác, thấp hơn rất nhiều so với ý kiến của cán bộ truyền thông. Có đến 80,2% cán bộ cho biết cơ quan họ ưu tiên cho mục đích đăng phát thông tin kêu gọi giúp đỡ trẻ em khó khăn. Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Phước và báo hình thông tin kêu gọi giúp đỡ trẻ em khó khăn nhiều nhất; 16 thứ hai là Báo Bình Phước và báo in; thứ ba là Đài huyện Đồng Phú và báo điện tử; thứ tư là Đài huyện Bù Gia Mập và truyền thanh cấp huyện; thứ năm là Đài huyện Bù Đăng; hạn chế nhất là Đài thị xã Đồng Xoài và phát thanh. TTĐC lấy gương người tốt, việc tốt, mô hình hay về thực hiện quyền trẻ em để giáo dục, nêu gương, khuyến khích, nhân rộng. Từ tháng 6 đến tháng 10/2012, có 76,5% sản phẩm truyền thông về trẻ em được khảo sát có mục đích nêu gương người tốt, việc tốt, mô hình hay về thực hiện quyền trẻ em. 75,6% cán bộ truyền thông được hỏi cho rằng cơ quan họ có mục đích đăng phát này. Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Phước nêu gương người tốt, việc tốt, mô hình hay về thực hiện quyền trẻ em nhiều nhất; ít nhất là Báo Bình Phước. Truyền hình ưu tiên cho mục đích đăng phát này nhất; thứ hai là phát thanh; thứ ba là truyền thanh cấp huyện; rồi đến báo in; hạn chế nhất là báo mạng điện tử. 3.2.4. Vai trò giám sát tình hình thực hiện quyền trẻ em Hoạt động giám sát chưa được TTĐC Bình Phước quan tâm ưu tiên thực hiện tốt. Từ tháng 6 đến tháng 10/2012, chỉ có 12,5% sản phẩm truyền thông có mục đích đăng phát giám sát tình hình thực hiện quyền trẻ em. Báo Bình Phước và loại hình báo in quan tâm cho mục đích này nhất và hạn chế nhất là Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Phước và phát thanh. Mục đích đăng phát này thực hiện trên thực tế không như ý kiến của cán bộ truyền thông, vì 74,4% cán bộ cho biết mục đích đăng phát của cơ quan họ là phản ánh, giám sát tình hình thực hiện quyền trẻ em. Có thể thấy, chỉ đến vai trò giám sát tình hình thực hiện quyền trẻ em, Báo Bình Phước mới thực sự quan tâm thực hiện tốt vai trò đối với việc thực hiện quyền trẻ em. Trong khi đó, Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Phước, nhất là phát thanh, chưa quan tâm đến vai trò này. TTĐC Bình Phước phản ánh, giám sát quyền được học tập nhiều nhất; thứ hai là quyền được vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao, du lịch; thứ ba là quyền phát triển năng khiếu. Bốn quyền được TTĐC Bình Phước phản ánh, giám sát rất ít là quyền được khai sinh và có quốc tịch; được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm và danh dự; được có tài sản của trẻ em và được sống chung với cha mẹ. Trong khi đó, bốn quyền này hoàn toàn không phải đã thực hiện tốt ở Bình Phước. TTĐC Bình Phước đang kiến tạo nên một thực tế thực hiện quyền trẻ em không giống như những gì đang diễn ra. 3.2.5. Vai trò giải trí cho trẻ em Có 59,9% sản phẩm truyền thông được nghiên cứu có mục đích đăng phát thể hiện vai trò giải trí cho trẻ em. 59,8% cán bộ truyền thông cho biết TTĐC Bình Phước có mục đích đăng phát này. Nhưng trên thực tế chỉ Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Phước có chương trình dành cho trẻ em và phục vụ nhu cầu giải trí của trẻ em. Đài đặc biệt ưu tiên mục đích giải trí cho trẻ em với 81,9% chương trình có nội dung giải trí cho trẻ em, ưu tiên nhất trong tất cả các vai trò đối với việc thực hiện quyền trẻ em. Thế nhưng, sự quan tâm đến vai trò này làm giảm đi sự quan tâm các vai trò quan trọng khác là vi phạm nguyên tắc tiếp cận quyền, vi phạm quyền trẻ em, ảnh hưởng tiêu cực đến công tác bảo vệ, 17 chăm sóc và giáo dục trẻ em. Báo Bình Phước và truyền thanh các huyện chưa thực hiện tốt, không có sản phẩm truyền thông, chuyên mục dành riêng cho trẻ em và phục vụ nhu cầu giải trí của trẻ em. 3.3. Ý KIẾN CỦA CÔNG CHÚNG VỀ VAI TRÒ CỦA TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG TỈNH BÌNH PHƯỚC TRONG THỰC HIỆN QUYỀN TRẺ EM 3.3.1. Về vai trò thông tin, tuyên truyền, giáo dục Phần lớn công chúng Bình Phước đánh giá các vai trò của TTĐC trong thực hiện quyền trẻ em ở mức khá. Công chúng đánh giá cao nhất vai trò Thông tin, tuyên truyền, giáo dục thực hiện quyền trẻ em (23,7% tốt, 49,3% khá). Công chúng đánh giá vai trò này ở Báo Bình Phước điện tử tốt nhất; thứ hai là Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Phước; thứ ba là Báo Bình Phước in; đánh giá thấp nhất với truyền thanh cấp huyện. Thông tin phổ biến kiến thức, kỹ năng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được các cơ quan TTĐC Bình Phước thực hiện nhiều hơn thông tin, tuyên truyền các chủ trương, chính sách về quyền trẻ em. Tuy nhiên, công chúng lại đánh giá vai trò thông tin, tuyên truyền các chủ trương, chính sách tốt hơn phổ biến kiến thức, kỹ năng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Có 82,8% công chúng đánh giá TTĐC thực hiện vai trò thông tin, tuyên truyền các chủ trương, chính sách về quyền trẻ em ở mức khá trở lên. Tỷ lệ này ở vai trò phổ biến kiến thức, kỹ năng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em chỉ đạt 70,0%. Hoạt động thông tin, tuyên truyền, giáo dục của TTĐC trong tỉnh đã giúp công chúng thỏa mãn được nhu cầu thông tin về quyền trẻ em. Công chúng người lớn cơ bản thỏa mãn với những thông tin về quyền trẻ em trên TTĐC Bình Phước (chiếm 65,3%). Số người được hỏi cho biết đáp ứng tốt chiếm tỷ lệ thấp (28,8%). Trong đó, mức độ thỏa mãn cao nhất dành cho Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Phước; thứ hai là Báo Bình Phước in; thứ ba là Báo Bình Phước điện tử; thấp nhất là truyền thanh cấp huyện. Như vậy, Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Phước thực hiện tốt nhất các vai trò đối với việc thực hiện quyền trẻ em và cũng thỏa mãn tốt nhất nhu cầu thông tin của công chúng. Những thông tin về trẻ em trên TTĐC chưa được công chúng ứng dụng tốt trong cuộc sống. Mới có 49,1% công chúng người lớn ứng dụng được nhiều thông tin về quyền trẻ em thu được từ các phương tiện TTĐC tỉnh Bình Phước. Và cũng chỉ có 42,1% công chúng ứng dụng được ít và 8,9% công chúng không ứng dụng được. Đa số công chúng trẻ em mới ứng dụng được ít những thông tin về quyền trẻ em biết được từ Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Phước vào cuộc sống hàng ngày (chiếm 40,2%); số trẻ em ứng dụng được nhiều chỉ chiếm 27,0%; còn khá nhiều em chưa có cơ hội ứng dụng (chiếm 23,8%). Một số em không thể ứng dụng (chiếm 9,0%). Hầu hết công chúng người lớn trao đổi, bàn luận những thông tin thu được về đề tài trẻ em trên TTĐC với người khác (chiếm 98,1%), giúp nâng cao nhận thức, điều chỉnh thái độ và hành vi của nhiều người trong việc thực hiện quyền trẻ em. Họ thường trao đổi, bàn luận với những người có mối quan hệ gần gũi 18 như người thân trong gia đình và bạn bè, đồng nghiệp; ít trao đổi, bàn luận với hàng xóm, láng giềng và càng ít trao đổi, bàn luận với họ hàng. Công chúng trao đổi, bàn luận thông tin về trẻ em thu được từ TTĐC, dẫn dắt mọi người có thông tin về quyền trẻ em, nhưng hầu như không có bao giờ trao đổi, phản hồi thông tin với cơ quan TTĐC. TTĐC Bình Phước thông tin, tuyên truyền, giáo dục thực hiện quyền trẻ em góp phần giúp công chúng có được nhận thức, thái độ tích cực về quyền trẻ em. Tuy nhiên, nhận thức, thái dộ về quyền trẻ em của công chúng vẫn còn nhiều hạn chế. Công chúng nhận thức chưa đầy đủ và toàn diện về quyền trẻ em, cũng nhận thức chưa tốt về các quyền trẻ em được nêu trong CRC và Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Phần lớn công chúng được hỏi có nhận thức về quyền của trẻ em ở mức khá. Không có mối liên hệ chặt chẽ giữa việc thường xuyên theo dõi các kênh TTĐC và mức nhận thức về quyền trẻ em. Việc trả lời câu hỏi kênh truyền thông nào mang lại nhận thức cho công chúng Bình Phước tốt nhất là điều vô cùng khó khăn. Vì công chúng chịu sự tác động về mặt nhận thức từ nhiều kênh truyền thông khác nhau, không chỉ riêng TTĐC trong tỉnh. 3.3.2. Về vai trò hình thành và thể hiện dư luận xã hội Công chúng đã có những ghi nhận khá tích cực về vai trò của các phương tiện TTĐC tỉnh Bình Phước trong hình thành và thể hiện dư luận xã hội về thực hiện quyền trẻ em, dù trên thực tế vai trò này chưa được TTĐC thực hiện tốt (16,6% tốt và 42,9% khá). Vai trò này của Báo Bình Phước điện tử được công chúng đánh giá cao nhất; thứ hai là Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Phước; thứ ba là truyền thanh cấp huyện; thấp nhất là Báo Bình Phước in. Không có sự khác biệt giữa các nhóm công chúng trong đánh giá vai trò hình thành và thể hiện dư luận xã hội về thực hiện quyền trẻ em của TTĐC Bình Phước. 3.3.3. Về vai trò vận động, khuyến khích thực hiện quyền trẻ em Công chúng Bình Phước đã có những đánh giá tích cực về vai trò vận động, khuyến khích thực hiện quyền trẻ em của các phương tiện TTĐC trong tỉnh (tốt chiếm 48,8%; khá chiếm 17,3%). Vai trò vận động, khuyến khích thực hiện quyền trẻ em của Báo Bình Phước điện tử được công chúng đánh giá cao nhất; thứ hai là Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Phước; thứ ba là Báo Bình Phước in và hạn chế nhất là truyền thanh cấp huyện. Vai trò nêu gương người tốt, việc tốt, mô hình hay về thực hiện quyền trẻ em được công chúng đánh giá (30,8% đánh giá tốt; 46,4% đánh giá khá) cao hơn so với việc kêu gọi giúp đỡ trẻ em khó khăn (32,2% đánh giá tốt, 42,8% đánh giá khá). Về kêu gọi giúp đỡ trẻ em khó khăn, công chúng người lớn đánh giá cao nhất chất lượng mục đích đăng phát này trên Báo Bình Phước điện tử; thứ hai là trên Báo Bình Phước in; thứ ba là Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Phước; thấp nhất là truyền thanh cấp huyện. Vai trò của Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Phước không được công chúng đánh giá cao như nó thực hiện. Ở hoạt động nêu gương người tốt, việc tốt, mô hình hay về thực hiện quyền 19 trẻ em trên TTĐC Bình Phước, Báo Bình Phước điện tử tiếp tục được đánh giá cao nhất; thứ hai là Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Phước; thứ ba là Báo Bình Phước in; thấp nhất là truyền thanh cấp huyện. Từ những gương người tốt, việc tốt, mô hình hay về thực hiện quyền trẻ em được phản ánh trên TTĐC Bình Phước, công chúng đã có những thông tin, bài học kinh nghiệm, có nhiều hành động thực hiện tốt quyền trẻ em trong gia đình và xã hội. Qua một số chỉ báo hành vi thực hiện quyền trẻ em trong gia đình có thể thấy, TTĐC chưa mang lại cho công chúng nhiều kinh nghiệm, kỹ năng thực hiện quyền trẻ em. TTĐC trong tỉnh chưa kiến tạo cho công chúng nhận thức, thái độ và hành vi thực hiện quyền trẻ em tiến bộ và toàn diện. 3.3.4. Về vai trò giám sát tình hình thực hiện quyền trẻ em Vai trò giám sát tình hình thực hiện quyền trẻ em mặc dù các phương tiện TTĐC chưa quan tâm thực hiện tốt, nhưng đã đáp ứng được kỳ vọng của công chúng, nên vẫn được công chúng đánh giá ở mức cao (30,8% tốt; 46,4% khá), cao nhất so với các vai trò khác. Công chúng đánh giá cao nhất vai trò của Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Phước; thứ hai là Báo Bình Phước điện tử; thứ ba là truyền thanh cấp huyện và hạn chế nhất là Báo Bình Phước in. Công chúng đã đánh giá cao vai trò của Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh hơn Báo Bình Phước, dù Báo Bình Phước quan tâm nhiều nhất cho hoạt động giám sát. TTĐC Bình Phước đã thành công trong việc thu hút sự quan tâm của công chúng vào việc thực hiện một số quyền trẻ em. Nhưng TTĐC cũng đang lèo lái công chúng bỏ qua một số quyền khác. Đây là sự vi phạm cách tiếp cận quyền trẻ em. 3.3.5. Về vai trò giải trí cho trẻ em Công chúng trẻ em đánh giá vai trò của Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Phước trong phục vụ nhu cầu giải trí của trẻ em tuy có cao hơn công chúng người lớn, nhưng phần lớn cũng chỉ ở mức khá, chưa làm công chúng hoàn toàn thỏa mãn. Công chúng người lớn chưa đánh giá cao vai trò giải trí cho trẻ em của TTĐC trong tỉnh. Phần lớn công chúng mới đánh giá vai trò này ở mức khá, với 18,9% công chúng đánh giá tốt và 42,9% đánh giá khá. Trong đó, Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Phước được công chúng đánh giá cao nhất (tốt chiếm 31,8%; khá chiếm 38,7%); cơ quan truyền thông khác không được đánh giá cao vì gần như không có chương trình giải trí cho trẻ em. Công chúng đánh giá cao vai trò của TTĐC Bình Phước trong việc đáp ứng nhu cầu giải trí đang rất thiếu thốn của trẻ em trong tỉnh. Nhưng nhu cầu này vẫn chưa được thỏa mãn một cách đầy đủ, trẻ em vẫn còn khát sân chơi lành mạnh trong đời thường lẫn truyền thông. Tiểu kết chương 3 Chương 3 phân tích khái quát tình hình truyền thông về quyền trẻ em. Phân tích các vai trò của TTĐC trong thực hiện quyền trẻ em từ kết quả phân tích nội dung thông điệp truyền thông so với ý kiến của của cán bộ truyền thông và ý kiến đánh giá của công chúng. Căn cứ tiêu chí đánh giá mức độ thực hiện tốt 20 vai trò đối với việc thực hiện quyền trẻ em có thể nhận thấy: Các phương tiện TTĐC tỉnh Bình Phước thực hiện tốt nhất vai trò vận động, khuyến khích và vai trò thông tin, tuyên truyền, giáo dục thực hiện quyền trẻ em; rồi đến vai trò giải trí cho trẻ em, vai trò giám sát tình hình thực hiện quyền trẻ em; hạn chế nhất là vai trò hình thành và thể hiện dư luận xã hội. Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Phước thực hiện tốt nhất các vai trò đối với việc thực hiện quyền trẻ em; thứ hai là Báo Bình Phước; thứ ba là Đài huyện Bù Gia Mập; rồi đến Đài huyện Đồng Phú, thị xã Đồng Xoài; hạn chế nhất là Đài huyện Bù Đăng. Loại hình truyền thông thực hiện tốt nhất là truyền hình; thứ hai là truyền thanh cấp huyện, báo in; thứ ba là báo mạng điện tử; hạn chế nhất là phát thanh. Chương 4 YẾU TỐ TÁC ĐỘNG, XU HƯỚNG BIỂN ĐỔI VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ CỦA TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG TỈNH BÌNH PHƯỚC TRONG THỰC HIỆN QUYỀN TRẺ EM 4.1. YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VAI TRÒ CỦA TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG TỈNH BÌNH PHƯỚC TRONG THỰC HIỆN QUYỀN TRẺ EM HIỆN NAY 4.1.1. Tác động của sự phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội địa phương Trình độ dân trí thấp, phong tục tập quán còn lạc hậu, kinh tế - xã hội còn khó khăn đang cản trở không nhỏ đến việc thực hiện quyền trẻ em và các hoạt động TTĐC về quyền trẻ em, đồng thời cũng đặt ra những yêu cầu cần thiết phải thực hiện tốt công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức, thái độ, hành vi thực hiện quyền trẻ em. 4.1.2. Tác động của các chính sách về quyền trẻ em, truyền thông đại chúng và vai trò của truyền thông đại chúng trong thực hiện quyền trẻ em ở tỉnh Bình Phước Hoạt động tuyên truyền về quyền trẻ em đã được Tỉnh ủy, UBND tỉnh chỉ đạo lồng ghép trong tất cả các văn bản chỉ đạo, không có văn bản hay kế hoạch thực hiện riêng công tác tuyên truyền về quyền trẻ em. Các văn bản đều chỉ đạo các cơ quan TTĐC tập trung vào ba nhiệm vụ chính: tuyên truyền gương người tốt, việc tốt, mô hình hay về thực hiện quyền trẻ em; chủ trương, chính sách, pháp luật về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; phê phán hành vi vi phạm quyền trẻ em. Nghĩa là các chính sách chỉ đạo đã đề cập không đầy đủ các vai trò của TTĐC trong thực hiện quyền trẻ em, cũng thiếu cách tiếp cận quyền trẻ em. Việc giải thể Ủy ban Dân số - gia đình và trẻ em cũng ảnh hưởng đến tư tưởng, tâm lý của cán bộ, đảng viên và nhân dân về tầm quan trọng của công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, phần nào làm sao nhãng công tác tuyên truyền về quyền trẻ em trên TTĐC trong tỉnh. Công tác xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch về hoạt động TTĐC còn nhiều hạn chế. Các hoạt động định hướng truyền thông về trẻ em chưa được quan tâm đúng mức. 4.1.3. Tác động của cơ quan truyền thông
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng