Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn đoàn lê...

Tài liệu Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn đoàn lê

.PDF
122
691
95

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------oOo--------- VŨ THÚY HẰNG THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SỸ VĂN HỌC Người hướng dẫn khoa học PGS – TS Lê Dục Tú Hà Nội - 2010 MỤC LỤC PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU Trang 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 3 3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu 6 4. Phương pháp nghiên cứu 6 5. Những đóng góp mới của luận văn 7 6. Cấu trúc luận văn 7 PHẦN II: NỘI DUNG CHƢƠNG I. CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT 9 1. Cảm hứng nghệ thuật trong tác phẩm văn học 9 2. Cảm hứng nghệ thuật trong tác phẩm văn học sau 1975 11 3. Những cảm hứng nghệ thuật cơ bản trong truyện ngắn của Đoàn Lê 14 3.1. Cảm hứng bi kịch 14 3.1.1. Bi kịch chiến tranh 15 3.1.2. Bi kịch đời thường 18 3.1.2.1. Bi kịch cuộc sống thời mở cửa 18 3.1.2.2. Bi kịch tình yêu 27 3.1.2.3. Bi kịch hôn nhân – gia đình 36 3.2. Cảm hứng triết luận 46 3.2.1. Triết lý về cuộc sống – nhân sinh 46 3.2.2. Triết lý về tình yêu – hôn nhân 48 CHƢƠNG II: THẾ GIỚI NHÂN VẬT 51 1. Đặc điểm nhân vật trong truyện ngắn của Đoàn Lê 51 1.1. Đặc điểm nhân vật của văn học giai đoạn trước và sau 1975 51 1.2. Đặc điểm nhân vật trong truyện ngắn Đoàn Lê 55 2. Các kiểu nhân vật và phƣơng thức biểu hiện trong truyện ngắn Đoàn Lê 59 2.1. Nhân vật cô đơn 59 2.2. Nhân vật thức tỉnh, tự ý thức 63 2.3. Nhân vật ảo 66 CHƢƠNG III: MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ 1. Cốt truyện 73 73 1.1. Cốt truyện truyền thống 74 1.2. Cốt truyện tâm lý 78 1.3. Cốt truyện kỳ ảo 83 1.4. Vai trò của người kể truyện đối với sự phát triển của cốt truyện 85 2. Tình huống truyện 87 2.1. Tình huống bi kịch 88 2.2. Tình huống tự nhận thức 89 3. Không gian - Thời gian nghệ thuật 90 3.1. Không gian nghệ thuật 91 3.2. Thời gian nghệ thuật 95 4. Ngôn ngữ nghệ thuật 100 4.1. Ngôn ngữ giàu chất hiện thực đời thường 101 4.2. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm 103 5. Giọng điệu nghệ thuật 105 5.1. Giọng điệu trữ tình 106 5.2. Giọng điệu mỉa mai, châm biếm 107 5.3. Giọng đồng cảm, xót xa 110 KẾT LUẬN 113 TÀI LIỆU THAM KHẢO 116 PHẦN I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1 Văn học Việt Nam sau chiến tranh có nhiều khởi sắc. Những tìm tòi, đổi mới về cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật của văn học giai đoạn này đã khẳng định những bước chuyển mạnh mẽ của văn học nước nhà. Đặc biệt từ sau đổi mới, văn học thực sự có những bước tiến quan trọng bắt nhịp kịp thời với bước chuyển của thời đại. Sự xuất hiện của hàng loạt những cây bút nữ đã tạo nên diện mạo mới cho văn xuôi giai đoạn này như Đoàn Lê, Lê Minh Khuê, Y Ban, Lý Lan, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, nhất là với thể loại truyện ngắn. Họ nhìn nhận những vấn đề của cuộc sống bằng sự tinh tế, nhạy cảm của trái tim phụ nữ. Họ đưa vào tác phẩm của mình “một sinh khí mới rất cần thiết để thể hiện bề sâu, bề sau của cuộc sống con người hôm nay” (Nguyễn Minh Châu). Mỗi người một phong cách, một hướng tiếp cận, khám phá đời sống, các cây bút nữ giai đoạn này đều nỗ lực thể hiện sự phong phú phức tạp muôn màu của cuộc sống thời mở cửa, góp phần làm nên diện mạo của một nền văn học mới. Đóng góp của họ được thể hiện nhiều nhất ở thể loại truyện ngắn. Có thể nói văn học từ sau đổi mới là sự lên ngôi của thể loại này. Những tìm tòi, đổi mới về tư tưởng chủ đề, về hình thức nghệ thuật trong truyện ngắn là những đóng góp quan trọng làm nên những bước phát triển vững chắc cho thể loại truyện ngắn Việt Nam. Vì vậy tìm hiểu những khám phá nghệ thuật của bất cứ một tác giả nào trong giai đoạn văn học này cũng là những đóng góp có ý nghĩa để có cái nhìn khái quát hơn về diện mạo của cả một giai đọan văn học. 1.2 Đoàn Lê là một trong những gương mặt nữ ít nhiều đã thể hiện phong cách nghệ thuật của mình trên văn đàn sau 1975, nhất là thập niên cuối thế kỷ XX và những năm gần đây. Là một nghệ sỹ đa tài, Đoàn Lê đã để lại dấu ấn của mình trên nhiều lĩnh vực: từng là diễn viên điện ảnh, thiết kế mỹ thuật, biên kịch, đạo diễn phim, họa sỹ, nhà văn, nhà thơ. Đến nay vốn liếng văn chương của Đoàn Lê đã khá dày dặn. Ngoài những kịch bản phim truyện, bà có năm tập truyện ngắn, bốn cuốn tiểu thuyết và rất nhiều tác phẩm hội họa được giới phê bình đánh giá cao. Đặc biệt, trong tư cách nhà văn, Đoàn Lê được biết đến như một cây bút nữ có phong cách đa dạng và sức sáng tao tươi mới cùng với một ngôn ngữ dịu dàng nền nã. Bà từng có hai tập truyện ngắn được dịch ra tiếng 1 Anh để giới thiệu với bạn đọc Mỹ là Trinh tiết xóm chùa và Nghĩa địa xóm chùa, một tiểu thuyết được giải thưởng của hội nhà văn Việt Nam Cuốn gia phả để lại và gần đây nhất là cuốn tiểu thuyết Tiền định được lọt vào vòng chung khảo của giải thưởng Bách Việt, cùng một số truyện ngắn được nhận giải thưởng của các báo, các tạp chí (truyện Đêm ngâu vào - Giải A tạp chí Sông Hương, truyện Hạt vừng- Giải thưởng Tạp chí tác phẩm Văn học, truyện Trinh tiết xóm Chùa - Giải thưởng báo Văn nghệ). Ở mảng truyện ngắn, Đoàn Lê được đánh giá là một cây bút viết truyện ngắn đặc sắc. Truyện ngắn của bà xuất hiện đều đều trên các báo. Truyện ngắn Đoàn Lê lúc thì đằm thắm trữ tình, lúc lại hiện thực sắc sảo, có khi táo bạo hiện đại đến bất ngờ, có lúc lại trẻ trung thổn thức như một cô gái mới lớn. Đọc truyện ngắn của bà, người đọc dễ dàng nhận ra một trái tim phụ nữ giầu yêu thương với tất cả những vấn đề của cuộc sống nhân sinh, nhất là vấn đề người phụ nữ. Đoàn Lê cũng may mắn được sống và cảm nhận những giá trị cuộc sống ở cả hai giai đoạn văn học: những năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và mảng hiện thực cuộc sống sau chiến tranh nhất là từ thời kỳ đổi mới. Bởi vậy, trong những sáng tác của bà, số phận của những con người bước ra từ cuộc chiến tranh cùng bi kịch của những con người trong cuộc sống muôn mặt đời thường đã hiện lên thật sâu sắc và cảm động. Dù không phải là người đi tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học, nhưng truyện ngắn của Đoàn Lê vẫn có nhiều yếu tố cách tân về thi pháp, phần nhiều là nằm trong ranh giới của truyện truyền thống- hiện đại. Trong truyện ngắn của Đoàn Lê, một không gian nghệ thuật luôn trở đi trở lại gây ám ảnh lòng người là không gian của một xóm Chùa cụ thể. Nhưng đó cũng là không gian bao trùm cả nông thôn Việt Nam trong thời kỳ đổi mới- không gian với sự giao tranh quyết liệt của những yếu tố mới – cũ. Đây cũng là một trong những đề tài nổi trội của văn học giai đoan này. Bởi vậy tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của Đoàn Lê cũng chính là cách tiếp cận với cuộc sống và truyện ngắn đương đại. Đồng thời phong cách truyện của bà cũng rất tiêu biểu cho những cây bút nữ giai đoạn văn học sau đổi mới. Với những lý do ấy, chúng tôi chọn đề tài tìm hiểu Thế giới nghệ thuật truyện ngắn của Đoàn Lê với hy vọng giúp bạn đọc hôm nay nhận diện một gương mặt văn học và từ đó nhìn nhận diện mạo của văn chương đương đại. 2 2. Lịch sử vấn đề Văn học sau 1975 là sự nở rộ các truyện ngắn của nhiều cây bút nữ. Họ là lớp nhà văn trẻ tài năng và giầu nhiệt huyết. Lối viết của họ có sự kế thừa tinh hoa của giai đoạn văn học trước đồng thời cũng chứa đựng nhiều nét cách tân, đột phá ở cả phương diện nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Tuy vậy, sáng tác của họ còn khá mới mẻ đối với nhiều bạn đọc. Tình hình nghiên cứu tác phẩm, phong cách tác giả còn rải rác chưa có hệ thống, chưa đáp ứng được nhu cầu đọc ngày càng cao của xã hội. Đoàn Lê là một cây bút có những dấu ấn nhất định trên văn đàn hôm nay, nhất là trong thời gian gần đây, sáng tác của Đoàn Lê đã được khá nhiều bạn đọc quan tâm. Tuy nhiên để có một cái nhìn khái quát về toàn bộ sáng tác của nhà văn này thì cho đến nay chỉ có rất ít công trình khoa học đi sâu nghiên cứu truyện ngắn Đoàn Lê một cách cụ thể. Hầu hết các bài viết mới chỉ dừng ở dạng giới thiệu, nhận xét sơ bộ, trình bày cảm xúc về một truyện ngắn, một tập truyện ngắn hay một tiểu thuyết nào đó của nhà văn. Nhận xét về truyện ngắn Đoàn Lê, các nhà nghiên cứu, phê bình thường ghi nhận những đóng góp của bà với văn học Việt Nam giai đoạn đổi mới nhất là giai đoạn sau 1986. Vương Trí Nhàn khi lý giải về sự xuất hiện đông đảo của các cây bút nữ sau 1975 trong đó có sáng tác của Đoàn Lê đã cho rằng : “phụ nữ bắt mạch nhanh hơn nam giới. Họ luôn gần gũi với cái lỉnh kỉnh dở dang của cuộc sống. Mặt khác, với cái cực đoan sẵn có- tốt, dịu dàng, rộng lượng thì không ai bằng, mà nhỏ nhen, chấp nhặt, dữ dằn cũng không ai bằng, từng cây bút đã tìm ra mặt mạnh của mình khá sớm, định hình khá sớm” [49]. Sự góp mặt của những nhà văn nữ những năm gần đây trong đó có Đoàn Lê đã tạo ra một luồng sinh khí mới cho văn học đương đại. Cách nhìn hiện thực và con người bằng những ưu thế của giới tính trong sáng tạo nghệ thuật và cách lựa chọn đề tài, xử lý tình huống đã tạo nên những nét khác biệt có nhiều đóng góp của các cây bút nữ cho nền văn xuôi đương đại. Nhận định của một nhà phê bình về các nhà văn nữ của văn học đương đại thông qua các hình thức biểu hiện của nhân vật nữ trong sáng tác của họ trong đó có Đoàn Lê như sau: “Đặc điểm trong những truyện ngắn của các tác giả nữ là hiện thực xã hội đang thay đổi nhanh chóng, quyết liệt và ảnh hưởng đến từng cuộc đời, ít nhiều làm vỡ những giấc mộng lớn, mộng con với thái độ chung là chấp nhận như một chuyển động tất yếu của cuộc đời” [79, 103]. Bên cạnh những nhận định chung về sáng tác của 3 các tác giả nữ trong đó có Đoàn Lê thì những ý kiến, nhận xét riêng về truyện ngắn của bà cũng góp phần khẳng định sự ảnh hưởng của cây bút này đối với văn học nữ giai đoạn đổi mới. Tạp chí Nghiệp đoàn Xuất bản ở Mỹ năm 2005 đã nhận xét rất tinh tế về phong cách sáng tác Đoàn Lê và giá trị tập truyện ngắn: “Trinh tiết xóm Chùa”: “Đoàn Lê được ghi nhận ở phong cách đa dạng và sức sáng tạo tươi mới. Với giới học giả, những truyện ngắn này cho một cái nhìn vào bên trong văn hóa Việt Nam sau “đổi mới”. Với người đọc nói chung, đây là những tác phẩm bao quát và đầy nhân văn về những đề tài như lòng tham, hôn nhân, ly dị, tuổi già. Đó là những tác phẩm về quyền con người, khảo sát tất cả những gì bí ẩn, tinh tế của trái tim con người”. Trong bài viết: Đoàn Lê “chị tôi” [61], nhà văn Hồ Anh Thái đã có những ý kiến đánh giá rất tinh sắc về một số phương diện nghệ thuật trong truyện ngắn của Đoàn Lê: “Với ngôn ngữ dịu dàng, nền nã, hóm hỉnh, hài hước một cách nhẹ nhàng, chị viết về những vấn đề thời cuộc ở cái làng ven đô thị trong hàng loạt tác phẩm gắn với tên Xóm Chùa: Đất xóm Chùa, Nghĩa địa xóm Chùa, Người đẹp xóm Chùa, Giường đôi xóm Chùa.” Tuy là chuyện xóm Chùa nhưng Đoàn lê đã “tìm tòi và sử dụng rất nhiều kỹ thuật viết, chính thế mạnh này đã lôi cuốn người đọc”. Cũng trong bài viết này, tác giả còn đề cập đến nghệ thuật sử dụng yếu tố kỳ ảo trong hai truyện Nghĩa địa xóm Chùa và Lên Ruồi của Đoàn Lê.. “Cả Nghĩa địa xóm Chùa và Lên Ruồi đều nằm trong mạch truyện có yếu tố kỳ ảo của Đoàn Lê. Nhưng ngay cả trong những truyện kỳ ảo nhất của bà thì “cái thực vẫn lấn cái ảo, cái ảo chỉ làm lạ hóa, chỉ thay đổi một góc nhìn hiện thực, chứ không phải là yếu tố xoay chuyển và quyết định hiện thực nghệ thuật”. Cũng nói về nghệ thuật viết truyện có yếu tố kỳ ảo, nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú khi cho in trên tạp chí Tác Phẩm Mới truyện Nghĩa địa xóm Chùa của Đoàn Lê đã bày tỏ cảm xúc mãnh liệt của mình như sau: “Hay Đoàn Lê nghi có mầm bệnh trong người? Chỉ có người ốm mới dám viết những chuyện khủng khiếp như vậy”. Kirkus Reviews, một tạp chí có uy tín trong ngành xuất bản của Mỹ, nhận xét về văn phong của tập truyện Nghĩa địa xóm Chùa của Đoàn Lê: “Mười truyện mang màu sắc Gogol trong một bản dịch tiếng Anh đầu tiên của Đoàn Lê...Thảng hoặc Đoàn Lê có xu hướng ẩn dụ kiểu Kafka như trong Lên ruồi, hay một truyện ngắn đạt tới giọng điệu riêng tư thấm thía như Giường đôi xóm Chùa. Đó là những truyện ngắn đặc sắc”, những truyện ngắn “như những viên 4 đá quý”, những truyện “phúng dụ, châm biếm, huyễn tưởng” với văn phong tinh tế, linh hoạt. Trong bài viết “Đoàn Lê- nghệ sỹ đa tài” (Báo nhân dân http /wv.nd. com.vn) nhận định về văn phong Đoàn Lê: “giản dị, hóm hỉnh, sâu sắc, Đoàn Lê có biệt tài phát hiện và miêu tả những chi tiết đắt giá ngay trong những cái tưởng chừng như vụn vặt đời thường. Văn phong Đoàn Lê cuốn hút người đọc bằng những câu chữ tinh tế, mượt mà”. Trong luận án tiến sỹ với đề tài “Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi đương đại Việt Nam”, Tiến sỹ Bùi Thanh Truyền đã khảo sát hàng loạt truyện ngắn có yếu tố kỳ ảo trong đó có truyện ngắn Nghĩa địa xóm Chùa của Đoàn Lê. Ông đã phát hiện được khả năng kỳ diệu của ngôn ngữ Đoàn Lê trong việc khu biệt thế giới kỳ ảo: “Đặc trưng của thế giới huyền thoại đã chi phối rất rõ cách sử dụng ngôn ngữ của nhà văn. Đến lượt mình, hệ thống ngôn ngữ này cũng có chức năng khu biệt quan trọng thế giới kì ảo ấy. Khi miêu tả tình làng nghĩa xóm , Đoàn Lê viết: "Từ ngày ra nhập tịch nghĩa địa xóm Chùa tôi được sống trong cảnh chan hoà tình người, tối lửa tắt trăng có nhau cực kì vui vẻ." Hạ xuống một chữ trăng, người viết đã tạo lập nét khu biệt đáng kể của không gian, thời gian và đặc tính của những "cư dân nghĩa địa" với đêm, bóng tối cùng sự dị ứng bởi ánh sáng mặt trời” [74, 170]. Còn khi viết truyện ngắn Chờ nhật thực, gửi cho Báo tuổi trẻ cuối tuần chính Đoàn Lê nói về việc sử dụng yếu tố kỳ ảo trong truyện của mình: “Yếu tố huyền ảo được sử dụng, nhằm tôn lên những nét hiện thực và lịch sử.” Trong bài viết “Ai cứu xóm Chùa” [13], tiến sỹ Nguyễn Lân Dũng nhận xét về không gian xóm Chùa trong hàng loạt những sáng tác của Đoàn Lê như sau: “Xóm Chùa là tên một làng quê được nhắc đến trong nhiều truyện ngắn của nữ tác giả Đoàn Lê. Có thể đó không phải là một địa danh thật và không phải mọi câu chuyện ở đây đều xảy ra tại một làng quê cụ thể nào. Nhưng với cái nhìn sắc sảo và nhân ái của tác giả, tôi tin là những câu chuyện xảy ra liên quan đến cái Xóm Chùa này đều là những chuyện có thật tại nông thôn nước ta từ ngày Mở cửa. Tôi khâm phục văn tài của Đoàn Lê vì chị đã làm cho người đọc không thể không khắc khoải suy nghĩ và lo âu cho tương lai của nông thôn nước ta trước những diễn biến đi ngược lại với truyền thống nhân văn, nhân ái qua hàng nghìn năm qua”. 5 Những nhận định, ý kiến của những nhà phê bình, nghiên cứu văn học đã góp phần giúp bạn đọc có cái nhìn khái quát về truyện ngắn cũng như sáng tác chung của Đoàn Lê. Đồng thời cũng phần nào hiểu được những nét cách tân trong nghệ thuật viết truyện của bà. Tuy nhiên, những ý kiến đánh giá, nhận xét về truyện ngắn Đoàn Lê đa phần là những ý kiến trên mạng còn chung chung, sơ lược, chưa cụ thể, chi tiết. Những ý kiến chính thống về Đoàn Lê chưa nhiều và cũng chưa có hệ thống. Và để hiểu một cách trọn vẹn, sâu sắc, có hệ thống những giá trị về nội dung, những đặc sắc về nghệ thuật của truyện ngắn Đoàn Lê thì cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào đáp ứng được điều đó. Luận văn này với mong muốn bước đầu đi sâu tìm hiểu thế giới nghệ thuật truyện ngắn Đoàn Lê một cách có hệ thống nhằm giúp bạn đọc có nhiều cơ hội tiếp cận, tìm hiểu và yêu mến cây bút này hơn, đồng thời cũng là cách tiếp cận để hiểu những đặc trưng cơ bản của văn học đương đại. Bởi những đóng góp của nhà văn này cho nền văn học đương đại Việt Nam là điều không thể phủ nhận. 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 3.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng khảo sát chính là thế giới nghệ thuật truyện ngắn Đoàn Lê như: Cảm hứng nghệ thuật, Thế giới nhân vật, Một số phương diện nghệ thuật trong truyện ngắn Đoàn Lê. 3.2 Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài là truyện ngắn của Đoàn Lê. Nhưng để có cái nhìn tổng thể, trọn vẹn về thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của Đoàn Lê, chúng tôi có liên hệ và so sánh với các tiểu thuyết của bà, cũng như những sáng tác khác của một số nhà văn có nét nghệ thuật tương đồng (Nam Cao, Thạch Lam, Nguyễn Huy Thiệp...) và những cây bút nữ cùng thời (Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Lý Lan, Võ Thị Hảo...) Các tập truyện của Đoàn Lê được khảo sát trong luận văn: - Thành hoàng làng xổ số- Nhà xuất bản Phụ Nữ Hà Nội 1990 - Nghĩa địa xóm chùa - Nhà xuất bản Hội nhà văn 1999 - Trinh tiết xóm chùa - Nhà xuất bản Hội nhà văn 2005 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Khi tiến hành thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu là: phương pháp thống kê, phân loại; phương pháp 6 phân tích, tổng hợp; phương pháp lịch sử; phương pháp so sánh đối chiếu. Với những phương pháp này, chúng tôi cố gắng tìm những đặc điểm cơ bản nhất của thế giới nghệ thuật truyện ngắn Đoàn Lê trong mối tương quan giữa tác phẩm của bà với những nhà văn cùng giới, cùng thời kỳ và cả những cây bút ở giai đoạn văn học trước. 4.1 Phương pháp thống kê phân loại: Phương pháp thống kê, phân loại: giúp cho việc tìm hiểu, phân loại các kiểu nhân vật, mô hình cốt truyện khi nghiên cứu thế giới nghệ thuật truyện ngắn Đoàn Lê. 4.2 Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp phân tích, tổng hợp: giúp cho việc nghiên cứu, phân tích, cắt nghĩa, lý giải các vấn đề, các chi tiết nghệ thuật...từ đó khái quát lên những đặc điểm chung về hình thức nghệ thuật trong toàn bộ hệ thống truyện ngắn của nhà văn. 4.3 Phương pháp lịch sử: Phương pháp lịch sử: xem xét những đặc trưng nghệ thuật trong truyện ngắn của Đoàn Lê trong sự kế thừa của văn học truyền thống nhưng cũng có những cách tân độc đáo tạo nên dấu ấn riêng của Đoàn Lê trên văn đàn hôm nay. 4.4 Phương pháp đối chiếu so sánh: Phương pháp đối chiếu so sánh nhằm làm nổi bật những đặc trưng riêng trong thế giới nghệ thuật của Đoàn Lê trong sự so sánh với văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, nhất là với những cây bút nữ cùng thời và với văn học giai đoạn trước. 5. Những đóng góp mới của luận văn. Tìm hiểu thế giới nghệ thuật truyện ngắn của Đoàn Lê: cảm hứng nghệ thuật, thế giới nhân vật, các phương diện nghệ thuật cơ bản…để khẳng định vai trò, vị trí, tên tuổi, những đóng góp về sự cách tân nghệ thuật của Đoàn Lê đối với văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Từ đó có cái nhìn khái quát, đa diện về truyện ngắn Việt Nam đương đại. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo, nội dung luận văn gồm ba chương: 7 Chƣơng I: Cảm hứng nghệ thuật trong truyện ngắn của Đoàn Lê gồm cảm hứng bi kịch và cảm hứng triết luận. Chƣơng II: Thế giới nhân vật gồm các phần: Đặc điểm nhân vật trong truyện ngắn của Đoàn Lê, các kiểu nhân vật và phương thức biểu hiện. Chƣơng III. Một số phương diện nghệ thuật trong truyện ngắn của Đoàn Lê gồm: Cốt truyện, tình huống truyện, không gian- thời gian, ngôn ngữ nghệ thuật, giọng điệu nghệ thuật... 8 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi PHẦN II : NỘI DUNG CHƢƠNG I. CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT 1. Cảm hứng nghệ thuật trong tác phẩm văn học Từ trước đến nay có nhiều cách hiểu khác nhau với khái niệm “Cảm hứng nghệ thuật”, các cách hiểu đó đều thống nhất ở chỗ khẳng định vai trò quan trọng của cảm hứng nghệ thuật trong tác phẩm. Cảm hứng nghệ thuật trong tác phẩm văn học giống như sợi chỉ đỏ xuyên suốt, xâu nối các khối văn bản trong tác phẩm. Cuốn Từ điển thuật ngữ văn học đưa ra khái niệm về cảm hứng nghệ thuật (hay còn gọi là cảm hứng chủ đạo) là “trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư tưởng xác định, một sự đánh giá nhất định, gây tác động đến cảm xúc của những người tiếp nhận tác phẩm.” [21, 32]. Có thể nói cảm hứng nghệ thuật chính là những cảm xúc, tình cảm chân thành của nhà văn gửi gắm trên mỗi trang giấy. Cảm hứng nghệ thuật được xem như “một điều kiện không thể thiếu trong việc tạo ra những tác phẩm đích thực”(Bêlinxki). Nhờ “sợi dây” cảm hứng này mà toàn bộ các cấp độ, các yếu tố của nội dung tác phẩm được thống nhất trong một không khí cảm xúc nhất định. Nhưng với ý nghĩa lớn lao hơn, cảm hứng nghệ thuật còn trở thành “công cụ đắc lực” để thông qua đó nhà văn thể hiện thế giới quan của bản thân và khẳng định phong cách cá nhân của mình trên văn đàn.Cảm hứng nghệ thuật trong tác phẩm văn học với niềm say mê khẳng định cái tốt, cái tích cực; phủ nhận những điều xấu xa giả dối sẽ đem lại cho tác phẩm một luồng sinh khí, biến những tư tưởng khô khan thành các hình tượng sinh động, tạo ra một bầu khí q uyển nóng bỏng, biến tác phẩm trở thành một sợi dây truyền tình cảm của tác giả đến người tiếp nhận. Sự nhiệt thành trong việc bộc lộ cảm xúc của nhà văn, nhà thơ sẽ khiến “cảm hứng chủ đạo của tác phẩm chi phối sự thống nhất cảm xúc của hình tượng, chi phối hệ thống nghệ thuật biểu cảm của tác phẩm”. Đối với truyện ngắn, cảm hứng nghệ thuật càng đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Người ta thường nói về thể loại truyện ngắn như một “lát cắt của mặt gỗ”, là “sự dồn nén và cô đặc lại”, một “khoảnh khắc ngắn ngủi” của đời sống được lồng vào trong một thiên truyện chỉ dài mấy mươi trang giấy. Tuy 9 nhiên sức gợi cảm của thể loại này lại rất lớn và thường mang tính chất mở ở sự ngắn gọn và cô đọng của nó. Truyện ngắn nên gọn nhưng phải tinh tế và bén nhọn về tư tưởng nghệ thuật. Chính vì tính chất ngắn gọn ấy mà cảm hứng chủ đạo của tác phẩm trở thành “chất keo” gắn kết ý tứ và các phần nội dung để trở thành một thiên tác phẩm có giá trị. Bởi vậy có thể coi cảm hứng chủ đạo gần như linh hồn của tác phẩm. Nếu thiếu đi linh hồn, tác phẩm chỉ còn là cái xác khô cứng và đương nhiên sẽ không thể sống trong lòng độc giả. Nếu như đối với truyện dài và tiểu thuyết, do dung lượng lớn nên việc miêu tả chi tiết sự vận động của một tâm hồn, một tính cách với những diễn biến tâm lý phức tạp nhằm đạt tới chiều dài của một cuộc đời và sự khái quát hóa về một số phận con người nên cảm hứng chủ đạo của tác phẩm được thể hiện rất rõ thì truyện ngắn do dung lượng tác phẩm có hạn, cảm xúc của tác giả càng phải dồn nén nhiều hơn. Vì thế mà có nhiều nhận xét cho rằng: truyện ngắn gần với thơ hơn các thể loại tự sự khác như truyện dài và tiểu thuyết. Ở một số truyện ngắn có xuất hiện các “tứ”. “Tứ” trong truyện ngắn chính là “chủ đề nhưng đã gắn với hình ảnh, với chất liệu” (Ma Văn Kháng). “Tứ” là yếu tố chủ yếu tạo nên “chất thơ” trong truyện ngắn. Chất thơ hay tính chất trữ tình trong tác phẩm truyện ngắn toát lên từ khung cảnh, chất liệu, từ không khí chung của toàn tác phẩm, hay từ sự hòa hợp giữa yêú tố khách quan và chủ quan của toàn thiên truyện .Truyện ngắn cũng có điểm tương đồng với thơ ở chỗ những xúc cảm tâm lý thường bộc lộ một cách cao độ hơn, thể hiện nội dung tư tưởng một cách nổi bật, tập trung vào một vấn đề nhân sinh trọng tâm chứ không dàn trải như ở thể loại tiểu thuyết, như lời nhận xét của nhà văn Lỗ Tấn “qua một mảng lông mà biết toàn bộ con báo, qua một con mắt mà truyền được cả tinh thần”. Vì vậy, truyện ngắn luôn đòi hỏi cảm hứng nghệ thuật phải dồi dào, có định hướng, từ đó thể hiện nội dung tư tưởng một cách s ắc bén và tạo nên một cấu trúc nghệ thuật chặt chẽ, hài hòa giữa yếu tố lí trí và tình cảm. Cảm hứng nghệ thuật không phải là tình cảm được xướng lên thành một phát ngôn trong tác phẩm, nó là tình cảm mà người đọc cảm nhận được từ tình huống, từ khung cảnh, từ chất liệu, từ không khí chung của toàn tác phẩm. Lí luận văn học coi cảm hứng nghệ thuật là một yếu tố của bản thân nội dung nghệ thuật, của thái độ tư tưởng xúc cảm của nhà 10 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi văn với thế giới được mô tả. Cảm hứng nghệ thuật trong tác phẩm văn học luôn thống nhất với đề tài và tư tưởng tác phẩm, nó tạo nên cho tác phẩm một sự thống nhất ở mọi cấp độ. Đồng thời, cảm hứng nghệ thuật còn thể hiện được thế giới quan của nhà văn, bộc lộ được quan điểm của nhà văn trước mọi vấn đề của cuộc sống. Cảm hứng nghệ thuật trong tác phẩm có vai trò quan trọng, có vai trò không thể thiếu, như Bêlinxki đã nói, bởi nó “biến sự chiếm lĩnh thuần túy trí óc đối với tư tưởng thành tình yêu đối với tư tưởng, một tình yêu mạnh mẽ, một khát vọng nhiệt thành”. 2. Cảm hứng nghệ thuật trong văn học Việt Nam sau 1975 Cảm hứng chủ đạo trong văn chương Việt Nam trước năm 1975 gắn liền với những sự kiện lớn lao có liên quan tới vận mệnh dân tộc: công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và sự nghiệp xây dựng Tổ quốc. Sau ngày đất nước thống nhất (1975), đời sống con người đổi khác, tư tưởng, tâm lí, nhu cầu vật chất và tinh thần của con người cũng không còn như trước, vì vậy văn học cũng không thể chỉ mang mãi cảm hứng cũ. Hiện thực cuộc sống đời thường sau chiến tranh mở ra những vùng đất mới, khơi gợi những nguồn cảm hứng mới mẻ cho các nhà văn. Sau 1975, cảm hứng ngợi ca trong văn học không còn đóng vai trò chủ đạo như trong văn học 30 năm trước. Đề tài, chủ đề của tác phẩm văn học gần với đời sống hiện thực hơn. Các nhà văn đã đụng đến một số hiện tượng ít được đề cập trong văn học trước 1975 như phơi bày một vài mặt tiêu cực trong xã hội hoặc nhìn thẳng vào những tổn thất nặng nề trong chiến tranh hay bước đầu đề cập đến bi kịch cá nhân. Đất nước cần được đổi mới toàn diện và sâu sắc, văn học cũng đòi hỏi như vậy. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng khẳng định “đổi mới đang là nhu cầu bức thiết”, “có ý nghĩa sống còn” và nói rõ: “Thái độ của Đảng ta trong việc đánh giá tình hình là nhìn thẳng vào sự thật, đánh gía đúng sự thật, nói rõ sự thật”. Đại hội Đảng lần thứ VI là một sự kiện lịch sử trọng đại đã cắm một cột mốc lớn đánh dấu sự đổi mới mạnh mẽ của nền văn học nước nhà. Thành tựu quan trọng nhất của văn học sau 1975 là sự đổi mới trong ý thức nghệ thuật của giới cầm bút. Sau Đại hội Đảng lần VI, hầu hết người làm thơ, viết văn 11 thuộc các thế hệ khác nhau đều chung một ý nghĩ “không thể viết như cũ được nữa” (Lê Lựu trả lời phỏng vấn báo Quân đội nhân dân, ngày 24/4/1988). Và từ đó, một khuynh hướng văn học mới phát triển mạnh mẽ với cái nhìn hiện thực thẳng thắn hơn, đa chiều hơn. Công cuộc đổi mới càng ngày càng phát triển cả ở bề rộng lẫn chiều sâu, sự đổi mới diễn ra từ tư tưởng thẩm mĩ đến hệ thống thể loại, thi pháp và phong cách nghệ thuật. Các nhà văn không còn “nhìn đời và nhìn người một phía”, họ không chỉ dừng lại ở cảm hứng ngợi ca mà nhận thức được rằng “hiện thực không phải là một cái gì đơn giản, xuôi chiều; con người là một sinh thể phong phú, phức tạp, còn nhiều bí ẩn phải khám phá; nhà văn phải là người có tư tưởng, phải nhập cuộc bằng tư tưởng chứ không chỉ bằng nhiệt tình và trong tìm tòi sáng tạo không chỉ dựa vào kinh nghiệm cộng đồng mà còn phải dựa vào kinh nghiệm của cá nhâ n mình nữa; độc giả không phải là những đối tượng để thuyết giáo mà là những người bạn để giao lưu, đối thoại một cách bình đẳng…[42,16]. Với cái nhìn đa chiều ấy, văn học đồng thời cũng xuất hiện những cảm hứng mà văn học thời chiến tranh rất ít xuất hiện như: cảm hứng bi kịch, cảm hứng trào lộng…. Cảm hứng bi kịch khai thác những bi kịch đổi đời; bi kịch hậu chiến; bi kịch tình yêu, hôn nhân…phản ánh đúng những bộn bề của cuộc sống của thời kinh tế thị trường đầy xáo động. Những tác phẩm mang cảm hứng này đánh dấu sự khởi sắc của văn chương thời kỳ đổi mới. Có thể nhắc tới những sáng tác ở giai đoạn đầu như Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (Nguyễn Minh Châu), Thời xa vắng (Lê Lựu), Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng)…Và ở chặng đường sau là hàng loạt những tên tuổi như Bảo Ninh, Đoàn Lê, Võ Thị Hảo, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ… Cảm hứng phê phán, cảm hứng trào lộng cũng là một nguồn cảm hứng lớn trong văn học giai đoạn này. Khi ý thức cá nhân phát triển, khi con người không còn được nhìn ở góc nhìn lịch sử, công dân nữa mà chủ yếu được nhìn nhận ở phương diện cá nhân trong quan hệ đời thường, những bi, hài kịch bắt đầu xuất hiện. Cảm hứng trào lộng mở ra những bức tranh cuộc sống với nhiều mảng màu tương phả n: niềm vui chiến thắng xen với nỗi buồn mất mát, sự đủ đầy của vật chất thời mở 12 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi cửa lại là mầm mống của mất mát đạo đức, tình cảm trong cuộc sống tinh thần, hạnh phúc tồn tại song song với những bất hạnh của đời thường…Những hiện tượng dở khóc dở cười diễ n ra trong cuộc sống tạo thành nguồn cảm hứng cho các tác giả sáng tác. Cái Tôi cá nhân càng được đề cao, thì việc khai thác vào tận cùng của những nỗi niềm càng được chú ý tới và vì thế mà văn chương ngày càng sâu sắc hơn. Chính vì vậy sáng tác văn học trong giai đoạn này đã đạt được đến những thành công nhất định khi Vấn đề quyền sống, nỗi đau khổ và hạnh phúc của con người được khai thác trong văn chương với cảm hứng nhân đạo sâu sắc [46,3]. Việc tìm hiểu những đặc điểm tiêu biểu của văn học Việt Nam sau năm 1975 là một điều quan trọng, vì trong bài Khái quát về văn học Việt Nam từ cách mạng tháng tám 1975 đến hết thế kỷ XX [42,17] có nhận xét về văn học thời kỳ đổi mới như sau “cảm hứng thế sự tăng mạnh, trong khi cảm hứng sử thi lãng mạn giảm dần; từ đó văn học quan tâm nhiều hơn tới số phận cá nhân trong những quy luật phức tạp của đời thường; nội tâm của nhân vật được khai thác sâu hơn, bút pháp hướng nội được phát huy, không gian đời tư được chú ý, thời gian tâm lý ngày càng mở rộng, phương thức trần thuật trở nên đa dạng, giọng điệu trần thuật trở nên phong phú hơn; ngôn ngữ văn học cũng gần với hiện thực đời thường hơn…”[42,18]. Từ đó có thể thấy sự tác động to lớn của cảm hứng nghệ thuật với các thành tố khác trong văn chương. Tìm hiểu được kỹ cảm hứng nghệ thuật người nghiên cứu sẽ hiểu rõ thế giới nghệ thuật, quan niệm sáng tác, phong cách nhà văn, thậm chí của cả một giai đoạn văn học. Là một cây bút ít nhiều để lại dấu ấn của mình trên văn đàn hôm nay, truyện ngắn của Đoàn Lê thường xuất phát từ những nguồn cảm hứng chủ đạo như: cảm hứng bi kịch, cảm hứng phê phán trào lộng, cảm hứng triết luận… Từ những nguồn cảm hứng đó, nhà văn đã mạnh dạn đưa vào tác phẩm những bức tranh chân thực, sống động về cuộc sống hiện thực đời thường “ như nó vốn có”. Từ đó cung cấp cho người đọc những cái nhìn đa diện, đa chiều về cuộc sống thời đổi mới. 13 3. Những cảm hứng nghệ thuật cơ bản trong truyện ngắn của Đoàn Lê. 3.1 Cảm hứng bi kịch. Cảm hứng bi kịch xuất hiện trong văn học từ rất sớm. Tuy nhiên phải đến văn học hiện đại nguồn cảm hứng này mới được thể hiện rõ nét và sâu sắc. Cuộc sống thời mở cửa có nhiều thay đổi do sự thâm nhập của nền kinh tế thị trường. Sự thay đổi ấy dẫn đến biết bao bi kịch của con người. Cảm hứng bi kịch xuất hiện trong văn học Việt Nam từ xa xưa nhưng mới chỉ nằm rải rác trong các giai đoạn văn học mà chưa có sự tập trung thành hệ thống. Từ thời văn học dân gian đã xuất hiện những tấn bi kịch: bi kịch nước mất nhà tan trong truyền thuyết An Dương Vương và Mỵ Châu Trọng Thủy, bi kịch hôn nhân gả bán, ép buộc trong truyện thơ Tiễn dặn người yêu của tộc người Thái, bi kịch thân phận người phụ nữ - những con người thấp cổ bé họng, những “con sâu cái kiến” trong xã hội cũ ở Ca dao. Văn học trung đại thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX xuất hiện hàng loạt bi kịch của những “hồng nhan bạc mệnh”, “hồng nhan đa truân” như bi kịch của những người cung nữ xinh đẹp bị biến thành đồ chơi rồi bị bỏ quên nơi lãnh cung trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều hay bi kịch của người chinh phụ có chồng đi chinh chiến trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn , bi kịch của người con gái đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” nhưng cuộc đời là một chuỗi những bất hạnh khổ đau trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, bi kịch về thân phận khổ đau bất hạnh phải chịu cảnh chồng chung cùng muôn vàn những hủ tục giàng buộc người phụ nữ trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương… Bước sang giai đoạn văn học hiện đại, phong trào Thơ mới là chuỗi bi kịch của cái “tôi” cá nhân, cá thể. Đó là một cái “tôi” cô đơn bế tắc hoàn toàn đối lập với xã hội, một cái tôi được đào sâu đến tận cùng và càng đi sâu càng thấy lạnh: Thế Lữ thoát lên tiên nhưng động tiên đã khép, Lưu Trọng Lư phiêu diêu trong trường tình nhưng tình yêu không bền, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên điên cuồng rồi lại tỉnh, Xuân Diệu say đắm vẫn bơ vơ…Đến văn học 30 năm chiến tranh, cảm hứng bi kịch vẫn chưa có một vị trí đáng kể do những điều kiện khách quan của lịch sử. Phải đến những năm 80 của thế kỷ XX, cảm hứng bi kịch mới trở thành một trong những nguồn cảm hứng xuyên suốt trong văn học. Lúc này do sự tác động của nền kinh tế thị trường cùng xu thế toàn cầu hóa, văn học có sự biến đổi nhanh chóng để phù hợp với điều kiện hoàn cảnh mới. Cuộc sống xã hội muôn màu, muôn vẻ tạo 14 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi nên những tình huống bi kịch, những xung đột điển hình cho văn học. “Cái nhất thời trong cái muôn đời, cái độc ác nằm trong cái nhân hậu, cái cực đoan nằm giữa cái tinh thần xởi lởi, cởi mở, cái nhảy cẫng lên lấc láo lên giữa cái dung dị, thái độ bình thản chịu đựng và tinh thần trách nhiệm đầy suy nghĩ” [10] . Hiện thực cuộc sống thời hậu chiến với bộn bề những vấn đề nhức nhối đã khơi nguồn cảm hứng bi kịch cho những nhà văn giai đoạn văn học này. Sau khi hòa bình lập lại, nỗi đau và sự mất mát mà chiến tranh để lại là những căn nguyên sâu xa của những tấn bi kịch mà con người hậu chiến phải gánh chịu. Thêm vào đó, cuộc sống thời mở cửa với tốc độ đô thị hóa chóng mặt là căn nguyên dẫn tới những tấn bi kịch thương tâm cho biết bao gia đình. Là nhà văn thuộc thế hệ “gạch nối giữa hai thời kỳ của đất nước”, hơn nữa bản thân Đoàn Lê đã từng sống chứng kiến, thậm chí trải nghiệm nỗi đau tột cùng và những mất mát lớn lao của con người do chiến tranh gây ra. Bởi vậy những trang viết về chiến tranh của bà luôn sâu sắc và cảm động. 3.1.1 Bi kịch chiến tranh Chiến tranh bao giờ cũng là nỗi ám ảnh lớn nhất đối với tất cả những ai từng trải qua nó. Ở đó có nỗi đau, có sự hy sinh mất mát. Đoàn Lê thuộc thế hệ nhà văn sinh ra và lớn lên trong thời chiến, được tận mắt chứng kiến cuộc sống cùng cực của con người dưới bom đạn chiến tranh. Bản thân Đoàn Lê suốt thời thơ ấu biết bao lần cùng những chị em của mình chạy tản cư: giặc càn rất dữ dội, chúng lùng sục, bắt bớ, bắn giết người rất dã man, rồi cảnh nhà tan tác chia ly, người còn người mất... Những ký ức đau thương ấy được nhà văn biến thành những tư liệu quý giá cho những trang viết của mình. Cũng nhờ những trải nghiệm thực tế ấy mà cách tiếp cận bi kịch của nhà văn dường như có phần sâu sắc, xúc động hơn. Khảo sát toàn bộ sáng tác của Đoàn Lê, chúng ta nhận thấy hầu như mọi sáng tác của bà đều bắt nguồn từ cảm hứng bi kịch: bi kịch chiến tranh, bi kịch tình yêu hôn nhân- gia đình, bi kịch từ cuộc sống thời mở cửa…Trong đó những trang viết của Đoàn Lê về bi kịch chiến tranh không nhiều nhưng lại có sức ám ảnh thật ghê gớm với lòng người. Viết về đề tài chiến tranh, người đọc biết đến rất nhiều cây bút có tên tuổi như: Chu Lai với “Ăn mày dĩ vãng”, “Vòng tròn bội bạc”; Nguyễn Minh Châu với “Miền cháy”, Bảo Ninh với “Nỗi buồn chiến tranh”, Lê Lựu với 15 “Thời xa vắng”…Họ viết về chiến tranh bằng tất cả sự xúc động của người trong cuộc- những người lính đã đi qua cuộc chiến tranh. Bởi thế, qua những trang viết của mình, họ đã tái hiện được rất chân thực bộ mặt tàn khốc của chiến tranh. Đoàn Lê cũng là nhà văn sống qua thời chiến, bà cũng từng chứng kiến và trải nghiệm nỗi đau đớn, mất mát tột cùng do chiến tranh để lại. Bởi thế bộ mặt chiến tranh hiện hình trong những trang viết của bà có sức sống, có sức gợi tả nỗi đau thật ghê gớm. Dù bà không hề đi sâu vào việc miêu tả diễn biến của cuộc chiến, cũng không chú tâm đến việc tái hiện sự gian khổ, thiếu thốn của cuộc sống thời chiến mà người lính phải trải qua nhưng bộ mặt gớm ghiếc của chiến tranh với tất cả sức hủy diệt của nó vẫn hiện lên mồn một trong những trang văn của bà. Viết về chiến tranh, Đoàn Lê thường đi sâu khai thác đời sống nội tâm của những người lính khi cuộc sống không còn tiếng súng. Họ bước ra khỏi cuộc chiến với tâm hồn rách nát tả tơi. Chiến tranh tàn khốc đã cướp đi của họ tất cả: tình yêu, cuộc sống, niềm tin, cướp đi mọi niềm vui sống ở họ. Đó là mảng đời sống nội tâm đầy ắp những kỷ niệm đau đớn, nhức nhối của nhân vật “tôi” khi sống lại “Một ngày ở xứ em”. Thời gian chỉ một ngày nhưng dồn chứa nỗi đau của một thời, một đời. Nhân vật tôi đã sống với tất cả ký ức đau thương của một thời máu lửa. Chỉ trong một khoảnh khắc, bom đạn khốc liệt của chiến tranh đã vĩnh viễn cướp đi người con gái anh yêu cùng bao đồng đội của anh. Chứng kiến cảnh người yêu bị chôn vùi dưới lớp đất đá chỉ còn hở một cánh tay cầu cứu tuyệt vọng, trái tim anh như muốn vỡ ra trăm mảnh. Đặc biệt ấn tượng về chiếc vòng bạc trên cổ tay người con gái anh yêu rạch một đường nhỏ rớm máu luôn hiển hiện nhức nhối trong anh. Chiếc vòng bạc chính là kỷ vật tình yêu mà anh tặng nàng. Nó được tạo nên từ những vòng thép sáng loáng của một trái bom bi bị tháo gỡ. Nhờ chiếc vòng đặc biệt ấy mà tình yêu của họ đã nổi tiếng khắp rừng trường Sơn những năm tháng ấy. Nhưng chiến tranh tàn khốc với bộ mặt ghớm ghiếc đã chỉ trong phút chốc “tiếng súng, tiếng bom, tiếng rít căng thẳng của máy bay cường kích ào đến…” trong khoảnh khắc ý thức bị tê liệt, anh chạy bổ xuống cung đường nơi người yêu đang làm việc. Trái tim anh đau thắt khi thấy “hình ảnh cánh tay em lọt giữa khe hở của hai cây xà cừ vươn lên vẫy gọi, cầu cứu. Cánh tay giống như một búp cây trắng mọc lên từ mặt đất vừa 16 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi bị cày xới ám đen đang còn nghi ngút khói…” Chỉ trong phút chốc, người anh yêu đã vĩnh viễn bị vùi sâu, chôn chặt dưới lớp đất đá loang lổ. Anh bước ra khỏi cuộc chiến như người mất hồn, trái tim anh đã hoàn toàn rệu rã “chỉ còn mang chức năng của một cái bơm máu”. Anh sợ hãi trốn tránh quá khứ, mỗi khi nhớ đến nó là thần kinh anh lại không thể chịu nổi. Tất cả ký ức đau thương gắn với cánh tay cầu cứu của người con gái anh yêu vươn lên giữa những mảnh đất đá bị cày xới, vẫn sống, vẫn hiển hiện, vẫn cào xé nhức nhối lòng anh. Nỗi đau đó đeo đẳng ngay cả trong đêm tân hôn, khi anh cận kề bên người vợ mới thì “một luồng điện buốt giá xâm chiếm tâm hồn tôi. Trong nháy mắt, tất cả như sụp đổ, vỡ toác ra.Tôi bỗng chìm nghỉm vào vòng bom đạn Trường Sơn. Lửa cháy, mùi khét thuốc súng, mùi hăng lá cây giập nát. Cả người tôi nôn nao sống dậy cảm giác kinh hoàng tuyệt vọng khi tay em từ mặt đất bừa bộn vươn lên, níu lấy tay tôi, xoắn lại với nỗi đau đớn thầm lặng…”. Ngay trong giây phút hạnh phúc nhất của đời người, những ám ảnh của chiến tranh vẫn không buông tha người lính để anh phải trải qua một đêm tân hôn thật khốn khó...Và hôm nay, sau mười hai năm trở về với cuộc sống đời thường, né tránh những va đập của quá khứ, anh lại sống “Một ngày xứ em tràn đầy và nhức nhối kỷ niệm”. Mọi thứ lại sống dậy hiển hiện đau đớn đến quay quắt. Chỉ một ngày nhưng anh đã uống trọn nỗi đau của một thời, một đời… Theo dõi câu chuyện được kể qua dòng hồi ức của nhân vật “tôi”, thần kinh người đọc như căng lên, trái tim thổn thức, quặn đau theo nỗi đau của nhân vật. Những trang văn này gợi chúng ta liên tưởng đến tâm trạng nhức nhối của nhân vật Kiên trong chuyến đi ngược Trường Sơn thu nhận hài cốt đồng đội ở “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh. Ký ức đau thương ở chuông Gọi Hồn cứ ẩn hiện cào xé nhức nhối trong Kiên. Rồi lần lượt từng số phận gắn với những cái chết kinh hoàng của đồng đội hiển hiện trong Kiên như một thước phim quay chậm ở mọi góc cảnh. Những lúc ấy Kiên lại đau đớn đến chết lịm. Nỗi đau của Kiên có khác gì nỗi đau của nhân vật “tôi” trong “Một ngày xứ em”. Bi kịch của họ cũng là bi kịch chung của những người lính bước ra từ cuộc chiến tranh. Họ đều cống hiến hết mình cho Tổ Quốc, những người may mắn sống sót bước ra khỏi cuộc chiến thì hoặc mang thương tật về thể xác hoặc bị chấn động về tinh thần đến không thể hoà nhập được với cuộc sống mới. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan