Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết thiên sứ của phạm thị hoài và trong tiểu t...

Tài liệu Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết thiên sứ của phạm thị hoài và trong tiểu thuyết cái trống thiếc của gunter gras

.PDF
97
365
103

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 ====== ĐỐ QUỐC ĐÔNG THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT THIÊN SỨ CỦA PHẠM THỊ HOÀI VÀ TRONG TIỂU THUYẾT CÁI TRỐNG THIẾC CỦA GUNTER GRASS Chuyên ngành: Lí luận văn học Mã số: 60 22 01 20 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. PHÙNG GIA THẾ HÀ NỘI, 2017 LỜI CẢM ƠN Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới PGS.TS Phùng Gia Thế, người đã tận tâm hướng dẫn, chỉ bảo, động viên và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài. Cảm ơn quý thầy, cô Khoa Ngữ văn, Phòng sau đại học - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn. Đồng thời tôi xin bày tỏ lòng biết ơn những đồng nghiệp đã hỗ trợ, giúp đỡ và động viên tôi trong suốt thời gian theo học khóa thạc sỹ tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. Hà Nội, tháng 8 năm 2017 Tác giả luận văn Đố Quốc Đông LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc. Nếu không đúng như trên, tôi xin chịu trách nhiệm về đề tài của mình. Hà Nội, tháng 8 năm 2017 Tác giả luận văn Đố Quốc Đông MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2 3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 4 4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 5 5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................... 5 6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 5 7. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 6 8. Bố cục của luận văn ...................................................................................... 6 NỘI DUNG ....................................................................................................... 7 Chương 1. THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG THIÊN SỨ VÀ TRONG CÁI TRỐNG THIẾC .......................................................................................... 7 1.1. Khái niệm nhân vật và thế giới nhân vật ................................................... 7 1.1.1. Khái niệm nhân vật ................................................................................. 7 1.1.2. Khái niệm thế giới nhân vật .................................................................... 8 1.2. Những nét tương đồng và khác biệt về thế giới nhân vật trong Thiên sứ và trong Cái trống thiếc ..................................................................... 9 1.2.1. Nhân vật kỳ ảo ........................................................................................ 9 1.2.2. Nhân vật bi kịch .................................................................................... 20 1.2.3. Nhân vật nắm giữ lòng tin ..................................................................... 24 1.2.4. Nhân vật đám đông ............................................................................... 28 Chương 2. KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THIÊN SỨ VÀ TRONG CÁI TRỐNG THIẾC ............................................... 32 2.1. Không gian nghệ thuật trong Thiên sứ và trong Cái trống thiếc ............. 32 2.1.1. Khái niệm không gian nghệ thuật ......................................................... 33 2.1.2. Những nét tương đồng và khác biệt về không gian nghệ thuật trong Thiên sứ và trong Cái trống thiếc .......................................................... 35 2.1.2.1. Không gian hiện thực ......................................................................... 37 2.1.2.2. Không gian kỳ ảo ............................................................................... 44 2.2. Thời gian nghệ thuật trong Thiên sứ và trong Cái trống thiếc ................ 49 2.2.1. Khái niệm thời gian nghệ thuật ............................................................. 49 2.2.2. Những nét tương đồng và khác biệt về thời gian nghệ thuật trong Thiên sứ và trong Cái trống thiếc .......................................................... 52 2.2.2.1. Thời gian hiện thực ............................................................................ 52 2.2.2.2. Thời gian kỳ ảo .................................................................................. 54 Chương 3. NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU NGHỆ THUẬT TRONG THIÊN SỨ VÀ TRONG CÁI TRỐNG THIẾC ............................................... 60 3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật trong Thiên sứ và trong Cái trống thiếc ................ 60 3.1.1. Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật ............................................................ 60 3.1.2. Những nét tương đồng và khác biệt về ngôn ngữ người kể chuyện trong Thiên sứ và trong Cái trống thiếc ............................................. 61 3.2. Giọng điệu nghệ thuật trong tiểu thuyết Thiên sứ và trong Cái trống thiếc ....................................................................................................... 71 3.2.1. Khái niệm giọng điệu nghệ thuật .......................................................... 71 3.2.2. Những nét tương đồng và khác biệt về giọng điệu nghệ thuật trong Thiên sứ và trong Cái trống thiếc .......................................................... 73 3.2.2.1. Giọng giễu nhại, hài hước ................................................................. 73 3.2.2.2. Giọng thương cảm, xót xa; suồng sã, tự nhiên và giọng vô âm sắc với lối viết ở “độ không” ......................................................................... 79 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 85 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 89 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1. Thế giới nghệ thuật là một chỉnh thể toàn vẹn sinh động được thiết tạo bởi những nguyên tắc tư tưởng và chịu sự tác động, chi phối của quan niệm nghệ thuật của nhà văn. Là sản phẩm sáng tạo của nhà văn, thế giới nghệ thuật có cấu trúc và quy luật nội tại riêng, mang đậm dấu ấn phong cách và cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Nhà văn sáng tạo tác phẩm xét đến cùng là tái tạo lại thế giới hiện thực một cách nghệ thuật, đặt nó trong một mô hình không gian thời gian nghệ thuật riêng và một hình thức ngôn ngữ tương ứng. Cho nên, có thể nói thế giới nghệ thuật bộc lộ cái nhìn trong đó chứa đựng toàn bộ nhân sinh quan của nhà văn về con người và cuộc đời. Tìm hiểu thế giới nghệ thuật, vì thế, một mặt giúp chúng ta nhận diện được phong cách nhà văn; một mặt khác, là con đường khả dĩ bậc nhất để đi vào khám phá những giá trị tư tưởng - thẩm mĩ của tác phẩm văn học. 2. Hiện nay, văn học so sánh là một bộ môn có vị trí quan trọng trong ngành nghiên cứu văn học. Trước đây, văn học so sánh còn chưa có một vị thế xứng đáng nhưng trong một vài năm trở lại đây, văn học so sánh đã được đưa vào giảng dạy trong các trường Cao đẳng và Đại học. Nó đã mở ra một hướng tìm tòi mới và hấp dẫn hàng ngàn sinh viên. Văn học so sánh vì thế đã chính thức đặt chân vào ngành nghiên cứu văn học và đang đòi hỏi sự quan tâm nhiều mặt, nhiều chiều của các nhà chuyên môn và những người yêu thích văn học. Việc giới thiệu văn học so sánh đã được thực hiện bằng một số chuyên luận và bài viết song chủ yếu mới chỉ dừng lại ở bình diện lí thuyết mà chưa thực sự đi sâu nghiên cứu lịch sử văn học. Do đó, việc thực hiện đề tài này của chúng tôi có một ý nghĩa thực tiễn thiết thực. 2 3. Phạm Thị Hoài và Gunter Grass là hai cây bút tiểu thuyết nổi tiếng của hai nền văn học Việt Nam và Đức. Thiên sứ của Phạm Thị Hoài ra đời vào cuối những năm 80 của thế kỉ XX và được đánh giá là một tác phẩm nổi bật của văn học Việt Nam, thể hiện những cách tân mới mẻ trong tiến trình tiểu thuyết đương đại. Trong khi đó, Cái trống thiếc của Gunter Grass (Nobel văn chương 1999) là một tác phẩm xuất sắc, được xem như “điểm mốc phục sinh nền văn học Đức khỏi cơn mụ mị thời hậu chiến”. Việc so sánh thế giới nghệ thuật trong các tác phẩm gây tiếng vang của hai nhà văn có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm hiểu những nét tương đồng và khác biệt về tư tưởng cũng như về thi pháp nghệ thuật trong sáng tác của họ, đồng thời thấy được những tiếp thu và sáng tạo của Phạm Thị Hoài đối với nền văn học Đức nói chung và đối với Gunter Grass nói riêng . Với những lí do cụ thể nêu trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài “Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết “Thiên sứ” của Phạm Thị Hoài và trong tiểu thuyết “Cái trống thiếc” của Gunter Grass” làm nội dung nghiên cứu trong luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Thiên sứ của Phạm Thị Hoài và Cái trống thiếc của Gunter Grass là hai tác phẩm nổi tiếng, tiêu biểu cho hai nền văn học, văn hóa khác nhau. Việc nghiên cứu cá lẻ hai tiểu thuyết này đã được các nhà nghiên cứu, phê bình thực hiện trên nhiều khía cạnh, bình diện. Tiêu biểu trong số đó, chẳng hạn như vấn đề yếu tố huyền thoại, dấu ấn phi lí, yếu tố nhân vật… Khảo sát các thực tiễn, có thể thấy, cho đến nay, các công trình nghiên cứu về Cái trống thiếc cũng như tác giả Gunter Grass ở Việt Nam mới chỉ mang tính chất giới thiệu, rất ít công trình nghiên cứu chuyên sâu. Nhà báo Linh Phong trong bài “Tiểu thuyết tái hiện gương mặt bị quên lãng của lịch sử”, sau phần giới thiệu về cốt truyện đã nhấn mạnh: Không chỉ tạo dấu ấn 3 mạnh mẽ về cốt truyện, nhân vật, nhà văn Gunter Grass còn thể hiện một tài năng văn chương đặc biệt qua tiểu thuyết đầu tay, Cái trống thiếc. Với lối kể truyện vừa mang tính tả thực, với ngồn ngộn những lớp sự kiện, biến động, được kết hợp nhuần nhuyễn với lối tư duy huyền ảo, kỳ bí, tạo nên tính chất bí ẩn lôi cuốn cho tác phẩm” [43]. Trong Lời giới thiệu về Cái trống thiếc, dịch giả Dương Tường đánh giá rất cao tác phẩm khi ông cho rằng: "Điểm mạnh của Cái trống thiếc theo tôi là ở tính hòa sắc kỳ ảo trong văn chương với nhiều yếu tố bất ngờ. Với giới cầm bút nước ta, đây là một gợi ý rất lớn cho việc tiếp cận, mổ xẻ và chuyển hóa hiện thực. Tuy nhiên, với bạn đọc Việt Nam, tôi e sách sẽ bị coi là hơi khó đọc, nhưng nếu đọc được, chắc chắn các bạn sẽ thích" [11]. Tác giả Bá Vũ trong bài giới thiệu về bộ phim chuyển thể từ Cái trống thiếc đã có những nhận xét sơ bộ về giá trị và vị trí quan trọng của tác phẩm khi cho rằng “The Tin Drum là cuốn tiểu thuyết được biết đến nhiều nhất trong nền văn chương hậu chiến của Đức, và được đánh giá như lần khai sinh thứ hai cho thể loại tiểu thuyết Ðức đương đại thế kỷ 20” [50]. Trên tờ Thể thao & Văn hóa, tác giả Tường Linh khi nói về sự nghiệp lừng lẫy của Gunter Grass đã nhấn mạnh: “Tiểu thuyết Cái trống thiếc (1959), một tác phẩm pha trộn nhiều yếu tố tưởng tượng, gia đình, triết lý và ngụ ngôn chính trị, đã ra đời tại Paris. Do động tới nhiều vấn đề vẫn bị xem là cấm kỵ vào thời hậu chiến, sách đã gây phẫn nộ lớn trong xã hội Tây Đức, khi ấy vẫn còn rất bảo thủ. Tuy nhiên sách lại trở thành hiện tượng trên quy mô toàn cầu” [27]. Trong số các công trình nghiên cứu về Cái trống thiếc của Gunter Grass, tiêu biểu phải kể đến là luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Huyền Trang với nhan đề “Huyền thoại trong Cái trống thiếc của Gunter Grass”, được bảo vệ tại Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội năm 2012. 4 Luận văn của Nguyễn Thị Huyền Trang tập trung phân tích các yếu tố huyền thoại trong tiểu thuyết Cái trống thiếc như: biểu tượng, mô típ, huyền thoại hóa trong xây dựng nhân vật. Ngoài ra, luận văn còn nghiên cứu một số đặc điểm của thi pháp huyền thoại hóa như: sự lặp lại, không gian độc thoại nội tâm, kỹ thuật dòng ý thức, những ẩn dụ và chất hài hước đen trong tiểu thuyết Cái trống thiếc... Về Thiên sứ của Phạm Thị Hoài, có thể kể đến một số bài phân tích tiểu thuyết trên các bình diện khác nhau. Nhiều nhà phê bình đã đánh giá sự xuất hiện của Thiên sứ của Phạm Thị Hoài là một bước tiến của tiểu thuyết Việt Nam trên tiến trình hội nhập với tiểu thuyết thế giới. Tiêu biểu trong số đó chẳng hạn như Thụy Khuê trong bài Phạm Thị Hoài, Thiên sứ [24], Lã Nguyên với bài “Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài [37], Nguyễn Thị Bình trong Văn xuôi Việt Nam sau 1975, những đổi mới căn bản (Nxb. Giáo dục, 2007), Mai Hải Oanh trong Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Nxb. Hội nhà văn, 2009) [38]... Qua khảo sát sơ bộ lịch sử vấn đề, có thể nhận thấy, việc phân tích đơn lẻ các tiểu thuyết của hai nhà văn đã thu hút sự chú ý nhiều các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, việc so sánh thế giới nghệ thuật trong Thiên sứ của Phạm Thị Hoài và trong Cái trống thiếc của Gunter Grass để tìm ra những tương đồng và khác biệt giữa hai nhà văn vẫn còn là một vấn đề còn bỏ ngỏ, đòi hỏi sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học. 3. Mục đích nghiên cứu Luận văn vận dụng những kiến thức lí luận về thế giới nghệ thuật, tiếp cận, khám phá thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Thiên sứ của Phạm Thị Hoài trong đối sánh với tiểu thuyết Cái trống thiếc của Gunter Grass nhằm 5 chỉ ra những tương đồng, khác biệt, mặt tiếp thu và sáng tạo của Phạm Thị Hoài so với tác gia nổi tiếng của văn học Đức thế kỉ XX. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Dựa trên cơ sở lí thuyết văn học so sánh và thi pháp học, luận văn tiến hành nghiên cứu đối sánh một cách có hệ thống những biểu hiện đặc sắc của thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Thiên sứ của Phạm Thị Hoài và trong tiểu thuyết Cái trống thiếc của Gunter Grass. Qua đó, khẳng định tài năng và những đóng góp của hai nhà văn nổi tiếng của Việt Nam và Đức. 5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Thiên sứ của Phạm Thị Hoài và trong tiểu thuyết Cái trống thiếc của Gunter Grass. 5.2. Phạm vi nghiên cứu - Thiên sứ, tiểu thuyết của Phạm Thị Hoài, Tạp chí Tác phẩm mới, 1988. - Cái trống thiếc, tiểu thuyết của Gunter Grass, Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội, 2002. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong luận văn, chúng tôi phối hợp sử dụng một số phương pháp nghiên cứu văn học chính sau: - Phương pháp tiếp cận hệ thống; - Phương pháp phân tích tổng hợp; - Phương pháp so sánh, đối chiếu; - Phương pháp loại hình. Trong các phương pháp trên, phương pháp so sánh, đối chiếu là phương pháp chính được sử dụng để nghiên cứu tương tác, ảnh hưởng của Gunter Grass với Phạm Thị Hoài và nghiên cứu sự giao lưu tiếp xúc giữa nền văn học Việt Nam với nền văn học Đức. 6 7. Đóng góp của luận văn 7.1. Phân tích những nét tương đồng và khác biệt trong thế giới nghệ thuật của tiểu thuyết Thiên sứ và Cái trống thiếc. 7.2. Khẳng định những mặt tiếp thu, kế thừa và mặt sáng tạo của Phạm Thị Hoài so với Gunter Grass; qua đó khẳng định tài năng, những đóng góp của nữ nhà văn trong tiến trình tiểu thuyết Việt Nam đương đại. 8. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Thế giới nhân vật trong Thiên sứ và trong Cái trống thiếc. Chương 2. Không gian và thời gian nghệ thuật trong Thiên sứ và trong Cái trống thiếc. Chương 3. Ngôn ngữ và giọng điệu nghệ thuật trong Thiên sứ và trong Cái trống thiếc. 7 NỘI DUNG Chƣơng 1 THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG THIÊN SỨ VÀ TRONG CÁI TRỐNG THIẾC 1.1. Khái niệm nhân vật và thế giới nhân vật 1.1.1. Khái niệm nhân vật Theo Từ điển thuật ngữ văn học, nhân vật văn học là “Con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học. Nhân vật văn học có thể có tên riêng (Tấm Cám, chị Dậu, anh Pha) (...) có khi được sử dụng như một ẩn dụ, không chỉ con người cụ thể nào cả. Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất với con người có thật trong cuộc sống. Chức năng cơ bản của nhân vật văn học là khái quát tính cách của con người” [12, tr.202]. Trong cuốn Lí luận văn học do Hà Minh Đức chủ biên, nhân vật văn học được xác định là: “một hiện tượng nghệ thuật mang tính ước lệ, đó không phải là sự sao chụp đầy đủ một chi tiết biểu hiện của con người mà chỉ là sự thể hiện con người qua những đặc điểm điển hình về tiểu sử, đặc điểm, tính cách... và cần lưu ý thêm một điều: Thực ra khái niệm nhân vật thường được quan niệm với một phạm vi rộng lớn hơn nhiều, đó không chỉ là những con người có tên hoặc không tên, được khắc họa sâu đậm hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm, mà còn có thể là sự vật, loài vật khác ít nhiều mang bóng dáng, tính cách con người” [10, tr.102]. Mỗi nhà văn, nhà nghiên cứu lí luận văn học đều có cách định nghĩa khác nhau về nhân vật văn học, nhưng nhìn chung, ở họ vẫn có sự thống nhất ở một số điểm như: Nhân vật văn học là một hiện tượng thẩm mĩ có tính ước lệ, hiện ra trong tác phẩm vô cùng sinh động, phong phú và đa dạng. Có khi 8 đó là hình tượng con người, nhưng cũng có khi là cả nhân vật “phi người” như nhân vật thần trong thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, hoặc là con vật trong truyện ngụ ngôn, thậm chí là đồ vật như trong tiểu thuyết phương Tây hiện đại... Những “dạng thức đặc biệt” của nhân vật phụ thuộc rất nhiều vào quan niệm thẩm mĩ, quan điểm tư tưởng cũng như thấm đẫm truyền thống văn hóa, bối cảnh thời đại mà nhân vật được sản sinh ra. Nhân vật văn học là con đẻ tinh thần của nhà văn, luôn gắn liền với nghệ sĩ sáng tạo ra nó. Và dù xuất hiện trong tác phẩm dưới bất kì hình thức nào thì nhân vật cũng đều là phương tiện giúp nhà văn thể hiện quan niệm thẩm mĩ về cuộc đời. Đồng thời, nhân vật cũng là phương tiện giúp độc giả thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của nhà văn trong tác phẩm. 1.1.2. Khái niệm thế giới nhân vật Thế giới nhân vật là một tổng thể những hệ thống nhân vật được xây dựng theo quan niệm của nhà văn và chịu sự chi phối của tư tưởng tác giả. Thế giới ấy mang tính chỉnh thể trong sáng tác nghệ thuật của nhà văn, có tổ chức và sự sống riêng, phụ thuộc vào ý thức sáng tạo của nghệ sĩ. Nằm trong thế giới nghệ thuật, thế giới nhân vật cũng là sản phẩm tinh thần, là kết quả của trí tưởng tượng sáng tạo của nhà văn và chỉ xuất hiện trong tác phẩm văn học, trong sáng tác nghệ thuật. Đó là một mô hình nghệ thuật có cấu trúc riêng, có qui luật riêng, thể hiện ở đặc điểm con người, tâm lí, không gian, thời gian,... gắn liền với một quan niệm nhất định về chúng của tác giả. Thế giới nhân vật là sự cảm nhận một cách trọn vẹn, toàn diện và sâu sắc của chủ thể sáng tạo về toàn bộ nhân vật xuất hiện trong tác phẩm, mối quan hệ, môi trường hoạt động của họ, ý nghĩ, tư tưởng của nhân vật trong cách đối nhân xử thế, trong giao lưu với xã hội, với gia đình... Thế giới nhân vật vì thế bao quát sâu rộng hơn hình tượng nhân vật. Con người trong văn học vì thế vừa giống với con người ngoài đời sống thực tại, vừa có ý nghĩa khái quát, tượng trưng. 9 Trong thế giới nhân vật, người ta có thể phân chia thành các kiểu loại nhân vật nhỏ hơn (nhóm nhân vật) dựa vào căn cứ và tiêu chí nhất định. Trong lịch sử văn học, mỗi tác gia văn học có thế giới nhân vật riêng, mỗi thể loại văn học cũng có thế giới nhân vật với qui luật riêng của nó. 1.2. Những nét tƣơng đồng và khác biệt về thế giới nhân vật trong Thiên sứ và trong Cái trống thiếc 1.2.1. Nhân vật kỳ ảo Về phương diện lí thuyết, nhân vật kỳ ảo là loại nhân vật được xây dựng bằng bút pháp hư ảo, có nhiều đặc điểm kỳ dị, dị hình. Nhân vật kì ảo là một dạng của nhân vật dị biệt. Kiểu nhân vật này xuất phát quan niệm về con người tâm linh, con người tha hóa, và đặc biệt từ quan niệm đa chiều về hiện thực - dung nạp mọi thứ, ảo thực đan xen bình đẳng. Nhà tiểu thuyết Gunter Grass đã có ý thức tạo nên sự “lạ hóa” trong xây dựng nhân vật, khước từ nguyên tắc xây dựng nhân vật phân tuyến của một số tác giả khác cũng như văn học ở thời kỳ trước. Nhờ vậy, nhân vật trong tiểu thuyết của ông có nhiều khác biệt so với tiểu thuyết truyền thống. Đó là hệ thống nhân vật không nhằm minh họa cho một hệ tư tưởng có sẵn mà nó biểu hiện được sự phức tạp của đời sống thực tại. Trong Cái trống thiếc tồn tại một thế giới nhân vật đa dạng song ám ảnh người đọc nhất vẫn là nhân vật kỳ ảo. Có thể xem đó là ý đồ nghệ thuật của tác giả. Có thể nói, ở Việt Nam, Thiên sứ của Phạm Thị Hoài đã xây dựng thành công loại nhân vật kì ảo, dị biệt. Đó là kết quả của quan niệm về hiện thực đa chiều, của một xã hội đảo lộn mọi giá trị, nơi con người phải gánh chịu những “chấn thương” tinh thần từ bên trong. Kiểu nhân vật kỳ ảo này đóng vai trò quan trọng trong việc gắn liền cốt truyện và chủ đề tác phẩm, dẫn dắt độc giả vào những môi trường khác nhau 10 của đời sống. Ở đó, loại nhân vật kỳ ảo thể hiện qua những nhân hình dị dạng khác người, nhân vật kỳ dị gắn với những điều kỳ dị. Nói đến nhân vật kỳ ảo tiêu biểu phải kể đến một số nhân vật như: Oskar tên đầy đủ là Oskar Matzerath – nhân vật chính của tác phẩm gã lùn dị dạng, là một cậu bé thông minh và có trí tuệ sắc sảo, sinh vào tháng 9 năm 1924 dưới cung Xử Nữ. Mẹ Oskar- bà Anges là chủ một cửa hàng tạp hóa và Matzerath- bố của Oskar lúc bấy giờ là một chân đại diện cho một hãng văn phòng phẩm lớn ở Rhine. Ngay từ lúc ra đời, không giống với bất cứ một đứa trẻ nào khác, cậu bé Oskar rất thính tai và dường như đã hoàn chỉnh tâm lí, Oskar nghe thấy những lời nói, những dự định của bố và mẹ cho cậu khi cậu trưởng thành. Cậu bé ngay từ đầu đã chối bỏ ước mơ trở thành một nhà kinh doanh của ông bố mà cảm thấy hào hứng và chờ đợi một món quà vào sinh nhật lần thứ 3 của cậu: một Cái trống thiếc. Và thế, Oskar đã quyết định thôi lớn ở tuổi thứ 3 và gắn bó với Cái trống thiếc sơn đỏ - trắng. Bằng cách khéo léo dựng lên một vụ tai nạn trong căn hầm mà ông bố Matzerath quên không đóng cửa, Oskar đã đủ bằng cớ giải thích cho sự thôi không lớn nữa của mình: cậu bé tự ngã từ bậc thang thứ 9 xuống dưới tầng hầm kéo theo cả một cái giá đầy những chai xiro phúc bồn tử và ngã sõng xoài trên sàn xi-măng của căn hầm kho. “Ngay trước khi bất tỉnh, tôi còn kịp nhận thấy thành công mĩ mãn của cuộc thử nghiệm: những chai xiro phúc bồn tử mà tôi cố tình kéo theo trong cú ngã va nhau loảng xoảng” [11, tr.102]. Vậy là mãi mãi dừng lại ở chiều cao 94cm, Oskar đã lia con mắt nhìn cuộc đời dưới bề ngoài của một đứa trẻ lên 3, nhưng với sự già dặn và trí tuệ của một người trưởng thành, làm nảy ra từ cái trống đồ chơi con nít một thế giới nhố nhăng, kệch cỡm và bí hiểm, một nhân loại bất túc với thân phận ê chề vùi lấp dưới những đổ nát của lịch sử. 11 Cũng như Oskar, cô bé Hoài trong Thiên sứ cũng quyết định thôi không lớn nữa ở tuổi 14. Trong tâm hồn là cách nghĩ của một người đàn bà hai mươi chín tuổi nhưng Hoài nhất quyết không chịu lớn, ẩn trong hình hài của một cô bé vẫn cứ mãi như một đứa trẻ. Không dựng nên hiện trường của một vụ tai nạn như Oskar, Hoài cứ thế lặng lẽ chối bỏ thế giới người lớn, chối bỏ sự phát triển của bản thân để giữ lại cơ thể còm nhom “một mét hai nhăm phân, đuôi sam”. Đó là một biến cố lớn trong đời cô bé Hoài: “Tôi lặng lẽ vào phòng tắm công cộng, đổ đầy nước chiếc chậu đường kính 60 phân, ngồi lọt trong chậu như thưở bé thường thế, và lập tức cảm giác bình yên dâng lên trong bóng tối mờ mờ không cửa sổ; chiếc chậu nhựa vốn ngày càng nhỏ theo mỗi lần sinh nhật tôi bỗng nguyên vẹn là một hồ nước mênh mông trong kí ức 3 tuổi không chút âu lo. Tôi thu cằm giữa hai đầu gối, sung sướng thấy mình còn yên ổn trong bụng mẹ, và thiếp vào giấc ngủ đẫm lời vòi nước hát ru. Giấc ngủ bào thai. Tôi không muốn trở thành người lớn” [19, tr.98]. Hoài mãi dừng lại ở một mét hai mươi nhăm chiều dài sinh học. Từ đôi mắt của một đứa trẻ 14 tuổi, một thế giới người lớn đầy phức tạp và hỗn độn hiện lên thật sắc nét. Vậy là cả hai nhân vật đều quyết định chối bỏ thế giới người lớn, quyết định chối bỏ tấm đồng phục của loài người để sống theo cách của mình. Hoài quyết định “Tôi từ chối không đứng vào bất kì thế hệ nào. Tôi từ chối bất kì bộ đồng phục quá chật hoặc quá rộng nào. Hãy để tôi trần truồng với cơ thể còm nhom sớm đình tăng trưởng của tôi” [19, tr.101]. Đối với Hoài, những giá trị tinh thần may sẵn ấy là nguồn gốc nỗi bất hạnh của cả vài thế hệ, với vô vàn những Paven Kocshaghin, Ruồi Trâu F1, F2, F3 đi đứng, nói năng, sống, tư duy và yêu đúng theo khuôn mẫu. Oskar trong Cái trống thiếc cũng vậy, cậu bé cũng không chịu “phải thay đổi cỡ giày cũng như cỡ quần từ năm này sang năm khác để chứng tỏ có một cái gì đang lớn” [11, tr.98]. Theo “Triết luận về cái phi lí” của Anbe Camuy thì “Cuộc đời đã phi lí 12 thì con người phải tìm cách chiến thắng nó bằng cách sống hết mình trong sự thụ cảm cái phi lí ấy, bằng cách sống mà không cần hi vọng, hành động mà không cần định rõ động cơ và lường trước hậu quả… cái phi lí diễn ra giữa bao nhiêu sự việc vây bủa con người, cái phi lí lộ nguyên hình qua sự xung đột giữa cái dơ dáy của cuộc sống và sự mong muốn trong sạch bắt nguồn từ thưở ấu thơ”. Và đúng như vậy, cả Oskar và Hoài đều đáp lại cái kì ảo bằng sự nổi loạn của chính mình, bằng tự do và sự say mê của chính mình. Sự nổi loạn ấy có ý nghĩa chống lại thế giới kì ảo, là sự nổi loạn của cá nhân có tính chất siêu hình và vô nguyên tắc, là sự thách thức cái kì ảo của đời người. Lứa tuổi chỉ là vỏ bọc Oskar mãi dừng lại ở độ tuổi lên ba nhưng trong suy nghĩ của cậu lại là suy nghĩ của một người trưởng thành: “Tôi vẫn mãi là đứa trẻ lên 3, là chú bé Tí Hon, là người xứ Lilliput, là thằng lùn quyết không chịu lớn nữa. Tôi làm thế để khỏi phải học vấn đáp đại và tiểu giáo lý và để khi đến tuổi trưởng thành, cao trên một mét bảy khỏi phải đối phó với người đàn ông vẫn tự gọi mình là cha của Oskar mỗi khi soi gương cạo mặt, ông sẽ ép tôi đi vào con đường kinh doanh tạp phẩm, lĩnh vực mà Matzerath hi vọng sẽ trở thành thế giới của tôi khi tôi hai mươi mốt tuổi. Để tránh cái máy thu ngân, tôi bám riết lấy cái trống của tôi và từ lần sinh nhật thứ 3 trở đi, không chịu lớn thêm lên một đốt tay nào nữa. Tôi giữ nguyên là thằng bé lên 3 sớm khôn ngoan lọt thỏm giữa đám người cao vòi vọi, song lại đứng trên mọi người lớn, không chịu so bóng mình với họ, hoàn chỉnh cả bề trong lẫn bề ngoài trong khi bọn họ, cho đến lúc kề miệng lỗ, vẫn băn khoăn hoài về sự phát triển” [11, tr.98]. Oskar dường như đang khẳng định sự đình tăng trưởng về mặt sinh học không có nghĩa kéo theo sự đình tăng trưởng về mặt tâm lí học. Hơn ai hết, Oskar đang tự nhận mình đứng cao hơn mọi người, bao quát được mọi thứ đang diễn ra, cái đẹp, cái xấu; cái thiện, cái ác; cái bền vững, cái phù phiếm trong xã hội 13 này. Trong khi đó, những con người kia, dù có lớn khôn nhưng cuối cùng, cho tới cuối đời vẫn băn khoăn đi tìm lời giải đáp. Hoài cũng vậy, dường như lứa tuổi 14 vĩnh hằng của Hoài chỉ là lớp vỏ để che chở, bảo vệ cho một cái gì đó sâu thẳm trong tâm hồn Hoài. Đó là tầng sâu của những rung động thầm kín, của những khát khao, của những đòi hỏi bị ghìm nén. Một người đàn bà khao khát yêu thương và được yêu thương, khao khát cho và nhận bị ép chặt trong hình hài một cô bé mười bốn tuổi. Một khuôn mặt trẻ con che chở cho một tâm hồn mang “cơn sốt núi lửa”, suốt mười lăm năm ròng làm “một nhân chứng câm lặng, thông tỏ quyết liệt, không bao giờ quay lưng lại cuộc đời”. Bên trong lớp vỏ “Hoài” là rất nhiều cuộc sống khác nhau. Em mang trọn gánh nặng của một “nỗi buồn kinh niên”, nỗi đau của “một con búp bê bé nhỏ, câm lặng”, biết trước tất cả, đoán trước được tất cả mà lại không thể thay đổi được điều gì, em – “đứa con út già trước tuổi gánh chịu tất cả những gì bố mẹ và anh chị nó chưa kịp hiểu”. Từ con mắt của những đứa trẻ, Oskar và Hoài đã làm nảy lên những thứ xấu xa, kệch cỡm từ cuộc sống xã hội đương thời. Những con mắt ấy là những con mắt biết nhìn đời, hiểu đời và thấu đời, là con mắt nhìn “đã vươn tới tầm vóc Cứu thế”. Hiện thân của xã hội và văn hóa Cái trống thiếc đã khắc họa một nước Đức thời kỳ hậu Thế chiến thứ hai đầy đen tối. Người xem cũng cảm nhận rõ mối liên hệ giữa chiếc trống đồ chơi của Oskar và những cuộc diễu hành phô trương của quân Phát xít, qua đó phơi bày tội ác của chiến tranh và những thủ đoạn chính trị vốn không hề mang lại cơm áo và hòa bình như chúng hứa hẹn. Vẫn xoay quanh quyết định “không lớn lên nữa” của cậu bé Oskar, Cái trống thiếc đã chuyển tải một thế giới đen tối toàn những “người lớn” quá nhiều tham vọng và dục vọng. Thật trớ trêu, lý do khiến một bé trai 3 tuổi hùng hồn tuyên bố sẽ không lớn thêm 14 nữa là bởi nó “quá kinh tởm thế giới của người lớn”. Càng bi kịch hơn, khi Oskar vẫn tiếp tục trưởng thành trong thân xác của một đứa bé và phải chứng kiến sự trỗi dậy cho đến ngày tàn của phát xít Đức. Ngay từ khi đến tuổi đi học, Oskar đã chán ngấy sách vở và sự học. Trường học đối với cậu chẳng có gì thú vị. Sau đó, cậu được gửi tới học ở nhà người chủ hiệu bánh mì- cô Gretchen Scheffler. Ở đây, Oskar đã tìm thấy cả một kho tàng sách: “Sách dù dở cũng vẫn là sách và thiêng liêng. Những gì tôi tìm thấy ở đó chỉ có thể gọi là sách linh tinh, chắc hẳn phần lớn đến từ tủ sách của Theo anh trai cô”. Và giữa sự lựa chọn không mấy thú vị ấy, Oskar đã chọn cho mình hai cuốn sách: “Những ái tình chọn lọc” của Goethe và cuốn “Rasputin và đàn bà” của Rasputin. Có thể nói, sự hòa hợp đầy mâu thuẫn giữa hai tác giả, hai phong cách viết ấy đã có những ảnh hưởng quyết định đến cuộc đời Oskar. Oskar chao đảo giữa Rasputin và Goethe, giữa con người với tâm địa đen tối chuyên bỏ bùa cho đàn bà và bậc thi bá sáng láng thích để đàn bà bỏ bùa mình. Thế nhưng, cuối cùng Oskar đã nghiêng về phía Rasputin. Oskar say sưa với cuốn sách Rasputin tới mức cậu một mực không rời Rasputin, cứ khi nào cô Gretchen muốn đưa một cuốn sách khác thì cậu bé lại gào lên: “Rasputin, Rasputin”. Oskar đọc đều đặn và nhanh chóng, đến nỗi “Chỉ một năm sau, tôi có cảm giác như mình đang sống ở St. Peterburg, trong những phòng riêng của Sa hoàng, chúa tể của mọi nước Nga, phòng trẻ của Hoàng tử Nga thường xuyên đau yếu, giữa những giáo hoàng và những kẻ âm mưu, mục thị chứng kiến những cảnh truy hoan của Rasputin. Câu chuyện hấp dẫn tôi và tôi sớm nhận ra đây là một gương mặt trung tâm. Điều đó thật hiển nhiên bằng vào những tranh khắc đương đại rải rác từ đầu đến cuối sách, minh họa Rasputin râu rậm, mắt đen như than giữa những nàng tươi trẻ không mặc gì ngoài đôi tất đen” [11, tr.151]. 15 Từ những gì Oskar cảm nhận được, thế giới người lớn trong mắt cậu cũng chẳng khác gì thế giới trong tiểu thuyết của Rasputin. Đó là thế giới của đàn bà, của phụ nữ, của những cuộc tình chóng vánh, những cuộc truy hoan đầy hổ thẹn, những cuộc ngoại tình vụng trộm… Xã hội đương thời diễn ra trước mắt Oskar rõ mồn một như cậu đang lướt qua từng trang tiểu thuyết vậy. Cũng giống như Oskar, cô bé Hoài trong Thiên sứ sinh ra trong thời kỳ đặc biệt, đó là xã hội Việt Nam vào những năm cuối của thế kỉ XX, đặc biệt là từ sau 1986. Đây là thời kỳ đất nước ta đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, còn rất nhiều khó khăn và thử thách. Chiến tranh đã lùi vào quá khứ, con người bắt tay xây dựng một cuộc sống mới nhưng cũng dần thấy được bao nỗi đau mới trong thời bình. Đó là sự cô đơn, tha hóa, cạn kiệt tình yêu thương, cạn kiệt cảm xúc trước cuộc sống thực dụng, chạy theo tiền tài, danh vọng. Cô bé Hoài quyết định thôi không lớn nữa ở tuổi mười bốn, sau khi tự nhận thấy mình “vĩnh viễn không trinh trắng nữa” do sục vào “vườn cấm” tủ sách gia đình − tức là tình trạng văn hóa đương thời. Có một cái gì tương đồng giữa cơ thể còm nhom chưa phát triển của Hoài khi ấy với trạng thái văn hóa chứa đựng trong tủ sách kia... Ta được nghe những nhận xét của cô bé Hoài về những cuốn sách “quyết định bộ mặt tinh thần của cả một thế hệ”, tạo nên “bộ đồng phục tinh thần may sẵn”, hoặc những nhận xét của cô về những “phong độ” tiếp nhận văn hóa: kẻ sưu tập hời hợt; kẻ khước từ như “phản ứng có điều kiện”, do các “tín hiệu báo động thường xuyên” mang lại; kẻ tiếp nhận theo lối “cái gì cũng say mê một chút”… Và trong số ít những người xem ra tiếp nhận thật sự thì cũng có những cung cách khác nhau. Hành vi dị thường “quyết định đình tăng trưởng” là một phản xạ nổi loạn kiểu cô bé Hoài. “Tôi từ chối không đứng vào bất cứ thế hệ nào. Tôi từ chối bất kỳ bộ đồng phục quá chật hoặc quá rộng nào…”. Đình tăng trưởng, không vội nhập vào thế giới người lớn, để khỏi bị khoác cho bộ đồng phục tinh thần
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất