BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN
PHAN ĐÌNH HUY
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT Y
ĐIÊNG
••
Chuyên ngành
Mã số
: VĂN HỌC VIỆT NAM
: 60.22.01.21
Người hướng dẫn : TS. NGUYỄN VĂN ĐẤU
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới
sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Văn Đấu. Các số liệu, kết quả nêu trong luận
văn là trung thực và chưa được công bố trong bất cứ một công trình nghiên
cứu nào.
Học viên
PHAN ĐÌNH HUY
MỤC LỤC
••
MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
1.
Lý do chọn đề tài.....................................................................................1
2.
Lịch sử vấn đề..........................................................................................3
3.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .........................................................7
4.
Phương pháp nghiên cứu........................................................................7
5.
Đóng góp của luận văn...........................................................................8
6.
Cấu trúc của luận văn.............................................................................8
Chương 1.NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT Y ĐIÊNG ...................9
1.1.
Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Y Điêng .....................................
10
1.1.1. Con người cộng đồng....................................................................10
1.1.2. Con người nghệ sĩ ........................................................................14
1.1.3. Con người bất hạnh.......................................................................17
1.1.4. Con người tha hóa.........................................................................20
1.2.
Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong tiểu thuyết Y Điêng ....................
23
1.2.1. Miêu tả ngoại hình nhân vật.........................................................23
1.2.2. Miêu tả hành động nhân vật .........................................................27
1.2.3. Miêu tả ngôn ngữ nhân vật...........................................................29
1.2.4. Miêu tả tâm lý nhân vật................................................................35
Tiểu kết.........................................................................................................38
Chương 2. KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG
TIỂU THUYẾT Y ĐIÊNG...........................................................................40
2.1.
Không gian nghệ thuật .......................................................................40
2.1.1. Không gian thiên nhiên ...............................................................40
2.1.2. Không gian sinh hoạt ...................................................................46
2.2.
Thời gian nghệ thuật ..........................................................................57
2.2.1. Thời gian lịch sử tuyến tính .........................................................58
2.2.2. Thời gian tâm trạng......................................................................59
Tiểu kết............................................................................................................64
Chương 3. NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU NGHỆ THUẬT TRONG
TIỂU THUYẾT Y ĐIÊNG...........................................................................66
3.1.
Ngôn ngữ ..........................................................................................66
3.1.1. Hệ thống từ ngữ và cách diễn đạt giản dị, đậm chất Tây Nguyên .
66
3.1.2. Các biện pháp tu từ .....................................................................73
3.2.
Giọng điệu ........................................................................................82
3.2.1. Giọng điệu ngợi ca........................................................................83
3.2.2. Giọng điệu cảm thương, xót xa ................................................... 85
3.2.3. Giọng điệu căm thù, tố cáo...........................................................87
Tiểu kết............................................................................................................90
KẾT LUẬN.....................................................................................................92
CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI...............95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAMKHẢO .......................................................96
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ (BẢN SAO)
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tây Nguyên là mảnh đất có bề dày lịch sử, văn hóa với sự hội tụ của
nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống tạo nên nhiều mảng văn hóa đa sắc màu.
Đây là nơi sản sinh ra những bản trường ca nổi tiếng không chỉ đi vào lòng
người Việt Nam mà đã vươn ra thế giới với những Đăm Săn, Xing Nhã, Khinh
Dú... làm tiền đề cho sự ra đời của nền văn học viết Tây Nguyên. Mặc dù đi
sau nhưng văn xuôi Tây Nguyên nói riêng và văn học Tây Nguyên nói chung
đã góp thêm những bông hoa mới lạ vào vườn hoa văn học dân tộc.
Y Điêng là nhà văn Tây Nguyên cũng là người dân tộc thiểu số nên dù
muốn hay không trong ông vẫn thừa hưởng những quan niệm, tư tưởng và
những nét văn hóa đặc trưng của vùng đất và dân tộc mình. Dù văn xuôi Tây
Nguyên và văn xuôi dân tộc thiểu số chưa có những nhà văn lớn nhưng có
không ít nhà văn thật sự niềm đam mê và tâm huyết đối với văn chương dân
tộc mình. Vì vậy, Cao Thị Hảo trong bài “Bước đầu phác thảo diện mạo văn
xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại” đã nhận xét: “Có thể nói, tuy chưa có
những tài năng xuất sắc, những phong cách đích thực, nhưng những cây bút
người dân tộc thiểu số đã phần nào thực hiện được sứ mệnh cũng như khát
khao cháy bỏng của những người con không quên nguồn cội, đó là nuôi giữ
ngọn lửa văn chương của dân tộc mình. Nếu không có sự hoà nhập máu thịt,
cộng sinh giữa chủ thể và khách thể thì các nhà văn dân tộc thiểu số không thể
viết về con người, cuộc sống của dân tộc mình đầy cảm xúc như thế. Hầu hết
các nhà văn dân tộc thường có cảm xúc mãnh liệt, nóng bỏng da diết về con
người, cuộc sống của dân tộc mình, quê hương mình” [26].
Như vậy, dù chưa có những tác giả lớn, những phong cách chưa thật sự
nổi bật, nhưng các cây bút văn xuôi Tây Nguyên như những “con chim đến từ
2
núi lạ” góp thêm tiếng hót mới cho vườn văn chương dân tộc và là những
“người giữ lửa” cho nền văn học của dân tộc mình.
1.2. Y Điêng được xem là một trong những nhà văn “mở đường” cho văn
xuôi Tây Nguyên với hàng loạt tác phẩm được viết rất đều đặn từ trước 1975
đến nay: Em chờ bộ đội Awa Hồ, Ông già K Rao, Như cánh chim Kwang,
Hờ Giang, Đ'rai H'Linh đi về phía sáng, Chuyện trên bờ Sông Hinh, Người
buôn Tría, Sông Hinh con sông quê hương, Lửa trong tay chúng tôi, Trung
đội người Bah Nar, Ba anh em... Ngay cả Nguyên Ngọc- nhà văn của buôn
làng Tây Nguyên cũng đã dành những lời khen và đánh giá rất cao về tiểu
thuyết Y Điêng: “Khi suy nghĩ về sự phát triển của tiểu thuyết ta hiện nay, tôi
nghĩ không thể không tính đến những kinh nghiệm, những vấn đề do cách viết
của cuốn tiểu thuyết Đất Bằng của Vi Hồng, hay cuốn tiểu thuyết Hờ Giang
của anh Y Điêng đặt ra chẳng hạn. Tôi nói cách viết, bởi vì tôi thấy hình như
cách viết của hai anh rất khác cách viết tiểu thuyết ta- hay ít ra là tôi- vẫn
thường quen thuộc. Thậm chí không biết tôi nói hơi quá chăng có thể nó gợi
cho ta một cách hình dung khác, suy nghĩ khác về nghệ thuật viết tiểu thuyết”
(Báo Nhân dân, số ra ngày 19 tháng 4 năm 1980). Với những cố gắng sáng tạo
không mệt mỏi, Y Điêng đã gặt hái được nhiều giải thưởng từ cấp Tỉnh đến
Trung ương và được tặng giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm
2007 với hai tiểu thuyết Chuyện trên bờ Sông Hinh và Hờ Giang. Tuy nhiên,
cho đến nay mới chỉ có một công trình khoa học nghiên cứu công phu và
nghiêm túc về nhà văn gạo cội này. Do đó, chúng tôi đã bắt tay vào nghiên cứu
Thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Y Điêng- phần xuất sắc nhất trong sáng tác
của Y Điêng để chỉ ra những đóng góp và hạn chế của ông trong bức tranh văn
xuôi Tây Nguyên và văn xuôi dân tộc.
1.3. Hiện nay, nhiều trường trên cả nước đang triển khai dạy học văn học
địa phương và tôi là một giáo viên đang công tác ngay chính mảnh đất nơi Y
3
Điêng đã sinh ra và lớn lên với hơn một phần ba học sinh là người đồng bào.
Do đó, công trình này trước hết phục vụ cho công tác giảng dạy của tôi và hi
vọng rằng nó sẽ có những đóng góp nhất định cho công việc giảng dạy văn học
địa phương ở Sông Hinh nói riêng cũng như Tây Nguyên nói chung và là tài
liệu tham khảo bổ ích cho những ai yêu mến, muốn khám phá tiểu thuyết Y
Điêng.
2. Lịch sử vấn đề
Y Điêng (tên đầy đủ Y Điêng Kpăhôp) sinh ngày 15 tháng 2 năm 1928 tại
Buôn Thung- Xã Đức Bình Đông- Huyện Sông Hinh- Tỉnh Phú Yên. Ông
tham gia cách mạng từ rất sớm. Tháng 10 năm 1945 ông làm thư ký xã bộ Việt
Minh xã Ca Bin Đắk Lắk. Năm 1947 ông thoát ly, tham gia cách mạng tại Đắk
Lắk, làm cán bộ tuyên truyền và dạy học. Năm 1953, ông ra Việt Bắc và được
cử đi học lớp chính trị- nghiệp vụ ở một trường đào tạo thuộc Bộ công an tại
Chiêm Hóa, Tỉnh Tuyên Quang. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, tháng
10/1954, ông là một thành viên trong đoàn quân chiến thắng về tiếp quản Thủ
đô Hà Nội, rồi làm cảnh sát tại khu vực Cửa Nam. Năm 1958, Y Điêng về
công tác tại Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam. Năm 1963, ông làm phóng
viên đài phát thanh và nghiên cứu văn hoá ở Khu tự trị Việt Bắc.
Năm 1964, Y Điêng trở lại miền Nam làm thư ký riêng cho cụ Y Bi ALê- Ô, phó chủ tịch Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam.
Đất nước thống nhất, ông trở về Tây Nguyên, đảm trách chức vụ Phó chủ
tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đắk Lắk suốt sáu năm mới
chuyển về xuôi làm Phó chủ tịch Hội Văn nghệ tỉnh Phú Khánh. Dù có thừa
tiêu chuẩn để được ưu tiên nhận một căn hộ trong khu tập thể ở thành phố biển
Nha Trang, nhưng hình ảnh núi rừng, nương rẫy, buôn làng thân thương đã
thôi thúc ông trở về sống giữa buôn làng miền đồi cỏ Sông Hinh.
4
Là người yêu thích văn chương từ nhỏ, nên dù đã trải qua nhiều công
việc, nhiều nghề khác nhau nhưng trước sau Y Điêng vẫn giữ một tình yêu đối
với văn chương. Dù biết rằng viết văn là công việc không hề đơn giản, nhất lại
là một nhà văn Ê Đê viết văn bằng chữ quốc ngữ nhưng Y Điêng đã vượt qua
rào cản ngôn ngữ ấy bằng niềm đam mê và trách nhiệm với văn chương của
dân tộc mình. Y Điêng từng tâm sự: “Với tôi, dòng Sông Hinh quê hương nơi
tôi sinh ra, gắn bó suốt tuổi thơ cùng bạn bè đã trở thành máu thịt, tôi nhớ
hoài khi phải xa nó. Quê hương vùng Sông Hinh của tôi lại là cái nền của các
trường ca sử thi, không một lúc nào không có những nghệ nhân hát trường ca,
hát giao duyên, hát về ký ức nghèo đói của mình. Trường ca thấm đẫm trong
tôi. Những buổi đầu tham gia cách mạng, văn hoá quá thấp, tiếng phổ thông
chưa thạo, nên tôi không dám nghĩ đến viết văn. Chỉ đến khi tôi về công tác ở
Đài Tiếng nói Việt Nam, công việc đòi hỏi tôi phải đọc, phải dịch, phải viết.
Khi dịch và đọc báo chí, tôi thấy quê hương tôi lớn đẹp hơn nhiều so với suy
nghĩ của tôi trước đây. Tôi mạnh dạn cầm bút thử sức mình bằng tuỳ bút viết
về con Sông Hinh quê hương. Chuyện của dân tộc mình phải chính mình viết.
Mình không viết, không nói là mắc nợ với quê hương, với người thân” [67].
Ông luôn trăn trở: “Nhà văn người đồng bào dân tộc thiểu số ít lắm,
trong khi đó vốn văn hóa buôn làng sẽ dần mất đi nếu không kịp viết lại, nhiều
chuyện còn trong bụng của người già phải chép lại cho bà con bằng cả tiếng
Việt lẫn tiếng Ê Đê. Mình viết về quê hương mình, đồng bào mình với dáng
dấp và hơi thở của núi rừng thôi mà” [63]. Trong quá trình sáng tác ông luôn
nghĩ về quê hương và con người Tây Nguyên: “Tôi luôn nghĩ về con sông, con
người của quê hương tôi. Sông núi đẹp, con người hiền hòa bảo vệ quê hương.
Dân tộc mình chính mình biết và chính mình viết. Mình không viết là mình có
lỗi với quê hương, sông núi và người thân. Nghề viết văn khó quá, tôi viết hiền
quá, viết chậm quá nên phải viết lại nhiều lần, mỗi lần sửa lại như là mới viết
5
vậy” [67].
Y Điêng được ví như cây kơ nia đại thụ của đại ngàn Tây Nguyên nhưng
những nghiên cứu, đánh giá về ông còn quá ít ỏi so với những gì mà ông đã
đóng góp cho văn học dân tộc thiểu số nói chung và của người Ê Đê nói riêng.
Theo nhà văn Linh Nga Niê Kdam, Y Điêng là người viết văn thuộc thế hệ thứ
nhất ở Tây Nguyên. Ông đã để lại nhiều tác phẩm giá trị với nhiều thể loại
như: tiểu thuyết, thơ, kí, truyện ngắn, kí,... nhưng cho đến bây giờ mới chỉ có
công trình Một số đặc điểm nổi bật trong sáng tác Y Điêng của Nguyễn Thị
Thúy [59] được coi là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu khá kĩ về sáng
tác của ông, còn lại chủ yếu là các bài báo và nghiên cứu về một khía cạnh nhỏ
nào đó trong sáng tác của nhà văn.
Tác giả Nguyễn Thị Thu Trang trong Sách văn học Phú Yên thế kỉ XX đã
có bài viết khái quát về tác giả Y Điêng cũng như văn phong của ông. Y Điêng
là một trong những tác giả trụ cột của văn xuôi Phú Yên, tập trung cho đề tài
về đồng bào dân tộc miền núi. Văn của Y Điêng tiếp nhận được “tinh thần
hiện đại của văn học mà vẫn giữ được màu sắc riêng trong cách diễn đạt, cảm
nhận của dân tộc mình. Yếu tố thực luôn được đan xen trong cái kì ảo của các
huyền thoại vốn rất giàu có ở một vùng còn hoang sơ mà hùng vĩ” [59, 4].
Trong đội ngũ những nhà văn hiện đại, Y Điêng nổi bật ở tư cách là một đại
diện ưu tú của khu vực miền Trung, Tây Nguyên. Tác phẩm của ông là sự kết
hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp truyền thống của dân tộc và tinh thần hiện đại
của văn học trong việc thể hiện, phản ánh hiện thực cuộc sống và con người
Tây Nguyên.
Trong “Một ánh núi Y Điêng”, Triệu Lam Châu nhận xét: “Đọc truyện,
đọc thơ của Y Điêng tôi thấy hiện lên biết bao là ánh núi. Ánh núi hiện lên từ
tiếng cồng chiêng âm vang cả núi rừng và lòng người. Ánh núi long lanh hiện
lên từ ánh mắt nao lòng của người con gái Ê Đê khi trao chiếc cong cho người
6
yêu. Ánh núi hiện lên từ dòng Sông Hinh thẳm sâu huyền thoại buôn làng cùng
những bản trường ca ngân nga suốt đêm thâu” [8].
Nhà văn Mã A Lềnh cũng đã đưa ra những so sánh độc đáo về lối văn của
Y Điêng: “ngay thẳng như cây giữa rừng, thật thà như cỏ sườn núi, trong veo
lóoc róc như suối nguồn” [35].
Bằng Tín trong “Bậc trưởng lão của dòng văn học miền núi Phú Yên” đã
nhận xét về Y Điêng: “Từng trang, từng trang viết của Y Điêng thấm đẫm tình
yêu thiết tha, sâu nặng với mảnh đất, con sông quê hương làm xúc động người
đọc ” [60].
Trong bài “Y Điêng- Người gõ cửa rừng nguyên sinh”, Phong Lan đã
đánh giá nhà văn Y Điêng “là người Ê Đê đầu tiên vượt qua khỏi văn học dân
gian truyền miệng để bước tới văn học viết, người đầu tiên viết truyện dài
bằng song ngữ Ê Đê- Việt” [32] và “chính từ việc sưu tầm, dịch thuật các
trường ca, truyện cổ, các “khan” của các dân tộc Tây Nguyên từ buổi đầu đã
giúp cho Y Điêng am hiểu một cách tinh tường về bản lĩnh dân tộc mình, tạo
nên những tham số cho sự sáng tạo” [32].
Lý giải nguyên nhân tạo nên cảm hứng sáng tạo trong sáng tác Y Điê ng,
Hữu Bình trong “Y Điêng- nhà văn của buôn làng sông Hinh” đã viết: “Như
cánh chim Prơ- tốc vẫn bay không mỏi trên đại ngàn của Sông Hinh. Quê ông,
dòng sông quê ông vẫn như mạch cảm hứng sáng tạo không ngừng, không
nghỉ, giúp ông viết nên bản tình ca quê hương, những năm tháng đổi mới hôm
nay” [7].
Đào Tấn Trực trong bài “Nhà văn Y Điêng: Nhớ dòng sông, con người
quê hương tôi” đã góp thêm một nhận định về sáng tác Y Điêng: “Nhân vật
Irong sáng tác của Y Điêng là hình tượng những con người Tây Nguyên nhân
hậu, đảm đang, thủy chung và nghĩa tình như chính đất rừng Tây Nguyên.
Bức tranh hiện thực đó hiện lên sinh động, đậm bản sắc văn hóa và giàu giá
7
trị lịch sử hào hùng của dân tộc. Ở đó có những con người anh hùng, dũng
mãnh, những con người bé nhỏ bất hạnh và cả những nhân vật phản diện, tiêu
cực ” [67].
Như vậy, có thể thấy, sáng tác của Y Điêng đã nhận được sự quan tâm
nghiên cứu của một số tác giả nhất định. Đó sẽ là những gợi ý rất quý báu đối
với chúng tôi khi tiến hành nghiên cứu đề tài này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung tìm hiểu Thế giới nghệ tiểu thuyết Y Điêng trên các
phương diện: nhân vật; không gian, thời gian nghệ thuật; ngôn ngữ, giọng điệu
nghệ thuật.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi tập trung khảo sát, nghiên cứu các tác tiểu thuyết tiêu biểu của
Y Điêng gồm:
Chuyện trên bờ Sông Hinh, NXB Văn hóa nghệ thuật Đắk Lắk, 1994.
Ba anh em, NXB Văn hóa dân tộc Hà Nội, 1996.
Trung đội người Bah Nar, NXB Văn hóa nghệ thuật Đắk Lắk, 2000.
Hờ Giang, NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2015.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng đối sánh với các tác phẩm
khác của Y Điêng và tác phẩm của một số nhà văn khác cùng viết về đề tài dân
tộc thiểu số ở miền núi.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1.
Phương pháp nghiên cứu loại hình
Vận dụng những đặc điểm về thể loại tiểu thuyết để nghiên cứu những
vấn đề có liên quan.
4.2. Lý thuyết thi pháp học
Vận dụng lý luận của thi pháp học để nghiên cứu những đặc điểm nổi
8
bật về nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết Y Điêng.
4.3.
Phương pháp phân tích, khái quát
Việc phân tích, miêu tả cụ thể kết hợp tổng hợp, khái quát giúp tìm ra
những nét đặc sắc trong tiểu thuyết Y Điêng.
4.4.
Phương pháp so sánh
So sánh tiểu thuyết Y Điêng với các tác phẩm khác của ông để thấy được
sự vận động của một phong cách. So sánh tiểu thuyết của tác giả với các tác giả
dân tộc khác để thấy được “dòng riêng giữa nguồn chung” của nhà văn từ đó
khẳng định được cá tính sáng tạo độc đáo cũng như những đóng góp của tiểu
thuyết Y Điêng đối với nền văn học Tây Nguyên và nền văn học hiện đại nước
nhà.
5. Đóng góp của luận văn
Thực hiện đề tài Thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Y Điêng, qua việc khảo
sát, phân tích bốn cuốn tiểu thuyết của Y Điêng, chúng tôi nhằm tìm ra các
kiểu nhân vật cũng như đặc điểm của không gian, thời gian nghệ thuật; ngôn
ngữ và giọng điệu nghệ thuật của tiểu thuyết Y Điêng. Từ đó thấy được nét
riêng, đặc sắc và vị trí của nhà văn đối với văn xuôi Tây Nguyên và văn xuôi
hiện đại của dân tộc. Ngoài ra, luận văn còn là tài liệu tham khảo về tác giả Y
Điêng khi việc giảng dạy văn học địa phương đang được áp dụng nhiều trong
nhà trường.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung của
Luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Nhân vật trong tiểu thuyết Y Điêng
Chương 2: Không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Y Điêng
Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu nghệ thuật trong tiểu thuyết Y Điêng.
9
Chương 1
NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT Y ĐIÊNG
•
Trong tiểu thuyết, yếu tố đầu tiên mà nhà văn dày công xây dựng đó là
nhân vật- nơi tập “trung hết thảy, giải quyết hết thảy” mọi vấn đề. Nhân vật là
phạm trù trung tâm của văn học vì con người là đối tượng miêu tả chủ yếu của
văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Nhân vật văn học là con người cụ
thể được miêu tả trong các tác phẩm văn học” [52, 202].
Theo Giáo trình lý luận văn học thì nhân vật văn học được quan niệm
rộng hơn: “Đó không chỉ là con người có tên hoặc không có tên, mà có thể là
những sự vật, loài vật khác nhau, ít nhiều mang bóng dáng tính cách của con
người, được dùng như những phương thức khác nhau để biểu hiện con người...
Cũng có khi đó không phải là những con người, sự vật cụ thể mà chỉ là một
hiện tượng về con người hoặc có liên quan đến con người, được thể hiện nổi
bật trong tác phẩm” [37, 126].
Theo Trần Đình Sử: “Nhân vật là đối tượng hướng đến của văn học,
đồng thời là phương tiện để nhà văn phản ánh và khái quát hiện thực. Nhân
vật văn học được sáng tạo ra, hư cấu ra là để khái quát và biểu hiện tư tưởng,
thái độ đối với cuộc sống, ca ngợi nhân vật là ca ngợi đời, lên án nhân vật là
lên án đời. Xót xa cho nhân vật là xót xa đời. Do vậy tìm hiểu nhân vật là tìm
hiểu cách hiểu về cuộc đời và con người, là tìm hiểu tư tưởng, tình cảm của tác
giả đối với con người” [55, 26].
Trong một công trình khác ông viết: “Con người vừa là yếu tố nhận thức
chủ yếu trong văn học, vừa là cái đích để sáng tạo văn học hướng tới. Các
sáng tạo về phương pháp, phong cách, thể loại ngôn ngữ, kết cấu chung qui
đều góp phần tạo nên hình tượng nghệ thuật mới mẻ” [57, 223].
Dù có nhiều ý kiến khác nhau về nhân vật văn học nhưng phải khẳng định
10
rằng nhân vật là yếu tố quan trọng hàng đầu trong cấu trúc, thể hiện tư tưởng
tác phẩm và quyết định sự thành công của tác phẩm văn học.
Trong tiểu thuyết Y Điêng, nhân vật hiện lên với đầy đủ các phương diện
từ ngoại hình đến tâm lý, tính cách vừa mang những nét chung của con người
Tây Nguyên vừa mang những nét khu biệt với các nhà văn khác viết về Tây
Nguyên nhưng có thể thấy nổi bật lên các kiểu nhân vật: nhân vật cộng đồng;
nhân vật nghệ sĩ, nhân vật bất hạnh và nhân vật tha hóa.
1.1. Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Y Điêng
1.1.1.
Con người cộng đồng
Từ ngàn đời nay, người Ê Đê nói riêng và đồng bào Tây Nguyên nói
chung sống một đời gắn bó với núi rừng, nương rẫy và buôn làng. Vì cuộc
sống mưu sinh và để chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt, giặc dã liên miên
đã giúp con người thương yêu, đoàn kết, giúp đỡ chia sẻ những khó khăn, nỗi
đau cho nhau cả những niềm vui khi được mùa, hay trong những lễ hội của
buôn làng. Vì vậy, người dân Tây Nguyên nói chung và người Ê Đê nói riêng
có lối sống và tinh thần cộng đồng rất cao. Tinh thần cộng đồng không chỉ là
cách để họ sống mà còn là tình cảm, là chuẩn mực đạo đức làm nên nét văn
hóa đặc trưng của người Ê Đê, của Tây Nguyên.
Là người con của dân tộc Ê Đê, người con của núi rừng Tây Nguyên, Y
Điêng yêu mảnh đất ấy như máu thịt của mình. Ông đã dành cả tâm huyết và
đời mình cho mảnh đất và con người nơi đây. Từng trang văn của ông lấp lánh
vẻ đẹp của tình người mà trên hết là tinh thần cộng đồng.
Trong Chuyện trên bờ Sông Hinh, tác phẩm có quy mô nhất của ông, ta
có thể thấy từ trong cuộc sống sinh hoạt thường ngày đến khi chiến tranh xảy
ra, đồng bào bị dồn vào ấp chiến lược, con người đều một lòng sát cánh bên
nhau. Từ những cuộc vui trong lễ hội “ăn năm uống tháng” đến khi trong làng
có người mất cả làng đều chung tay lo liệu mọi việc một cách tự nguyện mà
11
không đợi ai nhắc bảo.
Hoạt động được người Ê Đê và người Tây Nguyên mong đợi nhất trong
năm là mùa “ăn năm uống tháng”. Đây là hoạt động vui chơi mang tính cộng
đồng rất cao. Tác giả miêu tả cảnh “ăn năm uống tháng” tổ chức ở nhà Ma
Thin nhưng ta cứ ngỡ đây là ngày hội chung của cả buôn làng vì tính cộng
đồng: “Tiếng chiêng trống ăn năm uống tháng của buôn Doan đã nổi lên...
Các chàng trai cô gái đã sửa soạn cho nhà ông thêm rực rỡ. Con trai lo sửa
lại sạp nhà, hiên nhà, làm cột đâm trâu. Các cô gái lo kiếm củi, giã gạo, hái lá
chuối để gói cơm. Họ còn sửa soạn đón các trai gái làng khác đến để dự hội.
Đã từ mấy hôm nay, ở nhà ông Ma Thin từ hiên ngoài đến hiên trong, người đi
lại không ngớt. Kẻ mang lá nhét ché rượu bước lên, người khiêng nồi bung đi
múc nước” [19, 195- 196].
Người Ê Đê nổi tiếng là hiếu khách. Khách của một nhà cũng là khách, là
niềm vui chung của cả buôn làng: “Cái thói quen của làng hoặc của cả người
Mơ- dhur là mến khách. Hễ nhà ai có khách lên là người làng dần kéo đến...
nên chỉ trong một lúc, có thể nói ngồi chưa ấm đít thì người làng đến mỗi lúc
một đông” [20, 100]. Dù gia đình có khách nghèo hay giàu thế nào cũng có ché
rượu, con gà đãi khách. Nếu chủ nhà không có thì đã có buôn làng thay họ tiếp
đãi. Đây là một nét đẹp tiêu biểu cho tinh thần cộng đồng của người Ê Đê.
Tinh thần cộng đồng ấy còn mạnh mẽ hơn khi có một người con của buôn
làng mất đi, mọi người đều chung tay đùm bọc bất kể giàu nghèo. Viết về sự ra
đi của ma Hơ Linh, Y Điêng đã dành những câu văn đậm tình người:
Cái làng nghèo nhưng một lòng đùm bọc nhau... Ma Hơ Linh đã hết
thở... Những người đến đều nhốn nháo cả. Kẻ chạy mượn trống,
mượn chiêng để đánh trong đêm cho đỡ buồn tẻ, phá cái lạnh ngắt
trên nhà, người lấy gạo cho vào miệng người chết. Mí Hơ Linh vừa
khóc vừa mở gùi lấy khố áo mặc cho chồng... buôn làng cùng một
12
lòng một tay, kẻ làm việc này, người làm việc nọ, chạy đi khắp nơi.
Ai cũng lo cả, từ cuốn sáp ong, dựng gậy ban. Người nấu cơm, con
trai thui gà để cúng người chết... Đó là tục lệ của làng, hễ gia đình
nào gặp hiểm nghèo mỗi người có gì giúp nấy cho nhau. Con trai lo
múc nước, bẻ lá nhét vào ché rượu, con gái lo nấu cơm cho người
làng thức thâu đêm ăn. Cả buôn làng thức trắng đêm [19, 40- 42].
Hay trong đêm con trai ông chủ bến nước mất:
Nghe tiếng hai ông bà chủ bến nước khóc, những người ở nhà
đều chạy đến... Người thui gà, kẻ lôi ché rượu ra, người đánh Irống
cho người chết. Các chàng trai đánh chiêng. Cha mẹ và họ hàng lo
mặc lại áo mới, khố mới cho người xấu số... không ai bảo ai, người
nào cũng có việc làm. Người khỏe mạnh đi giết bò, kẻ khiêng nước
bỏ lá, chặt củi, ôm tranh khô để thui bò. Làng đem bao nhiêu ché
rượu đều có người buộc, nhét lá đổ nước vào. Làm xong một việc họ
lại đánh chiêng trống. Tiếng chiêng trống không phải dai dẳng như
trong ngày hội ăn năm uống tháng. Trong làng có bao nhiêu nhà có
bấy nhiêu người đến viếng. Kẻ mang theo ché rượu, tô gạo, người
con gà hoặc trứng gà, chiếc vòng đồng tặng người chết [19, 153155].
Tinh thần cộng đồng còn thể hiện rõ hơn khi con người rơi vào hoàn cảnh
khó khăn, buôn làng liền chung tay giúp đỡ. Mí con Hơ Linh bị chánh tổng Y
Sô vu cho có ma lai và tìm cách đuổi họ khỏi buôn Thu, hai mẹ con lặn lội đến
buôn Doan nhưng họ không cô đơn, lạc lõng. Ngay lập tức, họ đã được bà con
Buôn Doan giúp mẹ con Hơ Linh chọn đất, làm nhà mới:
Mỗi người giúp một tay... các chàng trai đã được phân công
rồi, ai cũng muốn đi đâu phải là người đi trước và thứ mình làm
phải là thứ tốt, làm sao khi hạ thứ đó xuống các cô gái trong làng
13
chỉ có khen thôi... các cô gái cũng phải hoãn tất cả các công việc
hàng ngày. Họ đến giúp người bạn mới. Cầm rìu, cầm rựa đốn cây
chặt tre thì họ không làm được nhưng cắt tranh vác cây nấu nước
hoặc chuyển những thứ gì đó thì họ thừa sức [19, 189- 190].
Trong lao động sản xuất, các gia đình, thành viên của buôn làng thường
làm đổi công cho nhau, đó cũng là cơ sở làm nảy sinh và phát triển cho con
người cộng đồng. Ngay cả khi cuốc nương làm rẫy, họ thường chia cặp một
nam một nữ trên một luống đất để người nam có thể cuốc hộ phần đất của bạn
nữ bên cạnh mình. Theo Jacques Dounes: “Do cộng đồng huyết thống, nhiều
làng là những thị tộc gia đình. Chính từ đó hình thành tính cộng đồng của
người Tây Nguyên, biểu hiện bằng tính tương trợ vô tư, bằng việc vần đổi
công thường xuyên, việc bình quân trong phân phối” [12, 255]. Có lẽ không ở
đâu con người lại mang tính cộng đồng cao như ở Tây Nguyên.
Tinh thần cộng đồng biểu hiện cao nhất trong hoàn cảnh chiến tranh. Khi
giặc Pháp đến, dân làng bị dồn vào ấp chiến lược, buôn làng từ già đến trẻ,
không kể trai gái đều đồng lòng, mưu trí đấu tranh chống giặc:
Chính bữa lũ Tây đến là dịp đồng bào: đàn ông, lũ trai thắt lại
khố, đàn bà con gái cuốn lại váy để đứng lên đấu tranh trở về buôn
cũ. Trẻ con khóc, người mẹ không dỗ mà dùng khuỷu tay thích vào
chúng đau, lũ trẻ càng khóc, người này nhắc khuyên người mẹ mỗi
lúc một nhiều người nói thêm ồn ào, kẻ đứng người ngồi. Đa số
người dự họp là phụ nữ có con mọn khi con khóc thì họ đi ra, lúc
đầu đứng ở đầu hồi nhà gần đó rồi lần lượt đi thẳng về nhà mình.
Các ông cũng đứng dậy, chẳng ai nghe [20, 260].
Có thể thấy, để sống được với núi rừng, nương rẫy, với thiên tai, giặc dã,
đồng bào Tây Nguyên đã đoàn kết một lòng để bảo vệ mình và bảo vệ buôn
làng. Chính điều này đã làm nên nét đẹp văn hóa cho người Ê Đê và người Tây
14
Nguyên đó là tinh thần cộng đồng. Vì vậy, con người cộng đồng là một yếu tố
tiêu biểu trong việc xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Y Điêng.
1.1.2.
Con người nghệ sĩ
Trên mảnh đất Việt Nam có lẽ không nơi đâu thiên nhiên ưu đãi và tươi
đẹp như mảnh đất Tây Nguyên. Phải chăng vẻ đẹp của những đồi thông, những
cánh rừng bạt ngàn, những con suối trong xanh mát rượi mà mẹ thiên nhiên đã
phú cho người Tây Nguyên một cảm quan và năng khiếu âm nhạc bẩm sinh.
Đọc tác phẩm nào của Y Điêng ta cũng bắt gặp những nhân vật giàu chất nghệ
sĩ mà nhất là tình yêu đối với âm nhạc. Người Tây Nguyên sống gắn với lời ca
tiếng hát từ trong cuộc sống, lao động, các lễ hội đến trong chiến đấu âm nhạc
vẫn theo họ. Ngay khi đứa trẻ ra đời, trong lễ thổi tai, đứa trẻ đã được nghe
những giai điệu âm nhạc đầu đời. Đó là âm thanh của cồng chiêng- một thứ
nhạc cụ đã làm thành nét văn hóa đặc trưng Tây Nguyên, được Unesco công
nhận là di sản văn hóa phi vật thể: “Đêm khuya vắng, tiếng chiêng nghe càng
êm dịu như ru khi nhỏ khi to, khi lượn theo ngọn đồi rồi lại bay lên với mảnh
trăng hạ tuần.” [19, 201]. Tiếng cồng tiếng chiêng đã theo họ trong mọi lễ hội,
từng niềm vui, nỗi buồn của buôn làng đều có cồng chiêng chia sẻ. Và đến khi
họ nhắm mắt từ giã cõi đời thì một lần nữa cồng chiêng lại được tấu lên để tiễn
họ về với giàng trời, giàng đất.
Trong Chuyện trên bờ Sông Hinh, những nhân vật trong tác phẩm đều
rất thích hát và hay hát. Họ hát để tìm con gái cho con trai của họ: “Trong bữa
rượu khi hơi men đã thấm vào miệng, bà mẹ nào có con trai cũng phải hát ngỏ
lời với mí Hơ Linh” [19, 43]. Vì vậy khi đã chọn được con dâu ưng ý, Mí Y
Thoa tự hào hát ca ngợi con trai, con dâu Hơ Linh của mình: “Trong những
ngày hội khi ăn cơm no, uống rượu say bà cũng có thể hát đôi điều về người
con trai của mình, người con dâu của họ” [20, 13- 14].
Trong Hờ Giang, một lần nữa ta bắt gặp chất nghệ sĩ đó: “Gian nhà trong
15
các bà có hơi men vào là có tiếng hát” [24, 614]. Đặc biệt ta không thể quên
giọng hát của mí Y Soa khi hát với mẹ Hơ Giang để hỏi Hơ Giang cho con trai
mình: “Giọng hát rất thanh, nghe nó trong đêm như bò theo từng cái sạp nhà,
ngọt ngào như gió xuân về” [24, 614]. Tiếng hát không chỉ là phương tiện để
đối thoại, hỏi con dâu, con rể mà họ hát còn vì “say nghĩa, say tình”.
Tây Nguyên là vùng đất của nhiều lễ hội. Những lời khấn, lời cúng là
chuyện thường gặp của các lễ hội nhưng hát trong lễ thì là chuyện rất hiếm. Và
chất nghệ sĩ được thể hiện ngay chính trong các lễ hội đậm chất Tây Nguyên
này. Trong lễ đâm trâu, trước khi tiến hành đâm trâu, người ta hát ru trâu như
một sự tri ân đối với chú trâu đã gắn bó cả một đời với người dân và cầu mong
trâu ra đi thanh thản: “cả cái thiên nhiên vùng đồi cỏ như ngừng mọi sự hoạt
động của mình để thưởng thức điệu ru trâu. Người ru trâu cất tiếng hát...
Tiếng hát ru trâu khi cao vút, khi trầm bổng man mác, tròn lẳn và ngọt ngào”
[21, 42- 45].
Có lẽ không ở đâu trong lúc “cay đắng chán chường”, con người vẫn hát
như ở Tây Nguyên. Dường như hát là một nhu cầu bản năng, tự nhiên và
phóng khoáng như núi rừng. Mí Hơ Linh khi ra rẫy nhớ chồng- hát, ngồi vá áo
thương con, thương thân phận của mình cũng hát. Tiếng hát như tiếng lòng nức
nở cất lên của một kiếp người gặp bao cay đắng, éo le. Tiếng hát như một sự
giãi bày, trút bớt những phiền muộn trong lòng.
Ngoài tiếng hát, họ còn rất giỏi chơi các loại nhạc cụ. Đó cũng là cách để
họ bộc lộ cảm xúc của lòng mình. Y Thoa được miêu tả là chàng trai không
những khỏe mạnh, thạo công việc mà còn chơi đàn rất giỏi. Tiếng đàn “nỉ non,
dìu dặt” nhiều cung bậc khiến người nghe mê mẩn:
Tiếng nhị của anh dìu dặt, nỉ non leo đến tận tai mọi người,
mát như mặt đất thấm hạt sương. Tiếng nhị đi qua cửa chính, luồn
qua cửa sổ bò đến chiếc chiếu của các cô đang nằm... tiếng nhị của
anh, không phải một cái gì phẳng lặng, có lúc thẳng rõ, lúc lại khúc
16
khuỷu, vừa nhẹ nhàng nhưng lại vừa thúc giục, mỉa mai đối với ai
còn chần chừ... Tiếng đàn khi êm ả điệu hát hơ- ri, khi thánh thót
bắt chước theo giọng hót của chim trên rừng đơ- lay- gia [19, 99100].
Y Thoa không chỉ giỏi chơi đàn nhị mà còn giỏi chơi đàn cóc tang: “Y
Thoa lên chòi. Trên đó có sẵn một bộ đàn cóc tang bằng gỗ xoan đào. Đàn đá
khá lâu nên nhẵn bóng, tiếng lại rất thanh, Y Thoa đánh đàn. Nghe tiếng cóc
tang, tiếng trầm, tiếng thanh, mỗi âm thanh như nói lên một lời. Anh đánh theo
một điệu dân ca” [19, 122- 123].
Không chỉ có Y Thoa mà Y Ngai- một chàng trai khác của xứ đồi cỏ Sông
Hinh cũng rất giỏi chơi đàn nhị. Tiếng đàn của anh giàu sức lay động lòng
người: “Ôi chao, tiếng nhị nỉ non khắp gian nhà rồi bò ra ngoài cho cả làng
nghe” [19, 190].
Trong Ba anh em, nhân vật Y Nguyên được miêu tả ngoài vẻ đẹp ngoại
hình, giỏi võ nghệ, trọng tình nghĩa còn có tài đánh chiêng, vỗ trống không ai
bằng: “Nói về công việc đánh chiêng vỗ trổng thì anh YNguyên có biệt tài...
khi anh đeo trổng vào người. làm cho các cô gái say sưa và nhảy múa càng
duyên dáng hơn” [21, 50]. Tiếng trống, tiếng chiêng của anh làm các cô gái
say đắm, các cụ già thấy tự hào về người con của dân tộc mình đã giữ được cái
hồn của văn hóa buôn làng Tây Nguyên trong từng tiếng chiêng, nhịp trống vì
vậy mà mỗi khi thiếu anh, lễ hội của buôn làng như kém vui đi hẳn.
Ngoài ra, hát hay thổi kèn còn là cách để người dân Tây Nguyên xua tan
cái mệt nhọc sau một ngày làm lụng vất vả: “Từ con suổi, đường rẫy, cây đổ
kiến vàng. Những bóng cây mát trên đường rẫy, sau khi đi làm rẫy về cùng
bạn bè ngồi lại thổi kèn đinh tút, đinh năm” [24, 635- 636].
Có lẽ sống giữa đại ngàn Tây Nguyên tươi đẹp đã làm con người nơi đây
sống rất nghệ sĩ và phải chăng cũng nhờ chất nghệ sĩ này mà họ vượt qua được
- Xem thêm -