Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thế giới nghệ thuật thơ đỗ trung lai (lv01879)...

Tài liệu Thế giới nghệ thuật thơ đỗ trung lai (lv01879)

.PDF
121
240
67

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 PHAN THỊ HẠNH THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT THƠ ĐỖ TRUNG LAI Chuyên ngành: Lí luận văn học Mã số: 60 22 01 20 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN TÙNG HÀ NỘI - 2016 LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Nguyễn Văn Tùng người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn này. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo khoa Ngữ văn, phòng Sau đại học - Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2, Viện văn học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã giảng dạy và giúp đỡ tôi hoàn thành khóa học. Đồng thời tôi xin chân thành cảm ơn Chi ủy, Ban Giám hiệu, các đồng chí trong tổ nhóm chuyên môn trường THPT Nguyễn Thị Giang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi về mọi mặt trong suốt thời gian học tập và hoàn thành bản luận văn này. Tôi xin đặc biệt cảm ơn nhà thơ Đỗ Trung Lai đã giúp đỡ và cung cấp tài liệu để tôi hoàn thành tốt luận văn này. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè những người đã động viên khuyến khích tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Hà Nội, ngày 2 tháng 7 năm 2016 Tác giả luận văn Phan Thị Hạnh LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những kết quả nghiên cứu được thể hiện trong luận văn này chưa hề được công bố ở một công trình của tác giả nào khác. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình. Hà Nội, ngày 02 tháng 07 năm 2016 Tác giả Phan Thị Hạnh MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cảm ơn Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề .........................................................................................................1 3. Nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu .........................................................................5 4. Phương pháp nghiên cứu .........................................................................................5 5. Đóng góp của luận văn ............................................................................................6 6. Cấu trúc luận văn ....................................................................................................6 NỘI DUNG ................................................................................................................7 Chƣơng 1. VẤN ĐỀ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT ...................................................7 1.1. Khái niệm thế giới nghệ thuật ..............................................................................7 1.2. Cấu trúc của thế giới nghệ thuật ..........................................................................8 1.2.1. Thế giới nghệ thuật - một chỉnh thể của sáng tạo nghệ thuật ...........................8 1.2.2. Các nguyên tắc kết nối của thế giới nghệ thuật ................................................9 1.2.3. Các yếu tố của thế giới nghệ thuật ..................................................................11 1.2.3.1. Quan niệm nghệ thuật ..................................................................................11 1.2.3.2. Cảm hứng nghệ thuật ...................................................................................19 1.2.3.3. Hình tượng nghệ thuật và hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ ...................22 1.2.3.4. Ngôn từ và giọng điệu ..................................................................................24 1.2.3.5. Không gian nghệ thuật .................................................................................28 1.2.3.6. Thời gian nghệ thuật ....................................................................................30 Tiểu kết: ....................................................................................................................31 Chƣơng 2. CÁI TÔI TRỮ TÌNH VÀ CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT TRONG THƠ ĐỖ TRUNG LAI ...........................................................................................32 2.1. Những yếu tố tác động đến thơ Đỗ Trung Lai ...................................................32 2.2. Tiểu sử, sự nghiệp sáng tác thơ của Đỗ Trung Lai ............................................34 2.2.1. Các tác phẩm và giải thưởng ...........................................................................35 2.2.2. Quan niệm của Đỗ Trung Lai về nghệ thuật và thơ ........................................35 2.2.3. Chặng đường thơ Đỗ Trung Lai ......................................................................37 2.3. Cảm hứng chủ đạo trong thơ Đỗ Trung Lai .......................................................38 2.3.1. Cái tôi công dân và cảm hứng yêu nước trong thơ Đỗ Trung Lai ..................38 2.3.1.1. Tình yêu tổ quốc...........................................................................................38 2.3.1.2. Cảm hứng thế sự, suy ngẫm về con người, đất nước trong thời bình ..........46 2.3.1.3. Cảm hứng xây dựng cuộc đời mới ..............................................................49 2.3.2. Cái tôi nhân ái và cảm hứng yêu thương con người .......................................52 2.3.2.1. Với những người lính ...................................................................................52 2.3.2.2. Với những người thân trong gia đình, những người dân trên mảnh đất quê mình ....................................................................................................................56 2.3.2.3. Ngỡ ngàng trước vẻ đẹp trẻ thơ ...................................................................58 2.3.2.4. Ân tình, sâu sắc trong tình yêu đôi lứa ........................................................61 2.3.3. Cái tôi trải nghiệm và cảm xúc trước thời gian ...............................................67 Tiểu kết: ....................................................................................................................71 Chƣơng 3. PHƢƠNG THỨC KIẾN TẠO THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG THƠ ĐỖ TRUNG LAI ........................................................................................... 72 3.1. Ngôn ngữ thơ tự nhiên, gần gũi với ngôn ngữ đời thường ................................73 3.2. Giọng điệu ..........................................................................................................76 3.2.1. Giọng điệu tâm tình, đồng cảm sẻ chia sâu sắc ..............................................76 3.2.2. Giọng điệu chiêm nghiệm, triết lý đầy suy tư .................................................81 3.3. Hình ảnh thơ .......................................................................................................84 3.3.1. Hình ảnh so sánh, ẩn dụ, nhân hóa ..................................................................86 3.3.2.Hình ảnh bình dị quen thuộc ............................................................................88 3.4. Không gian và thời gian .....................................................................................88 3.4.1. Không gian tâm lý ...........................................................................................89 3.4.2. Ám ảnh thời gian trong thơ Đỗ Trung Lai ......................................................92 3.5. Thể thơ ...............................................................................................................97 3.5.1. Lục bát .............................................................................................................97 3.5.2. Thể thơ 5 chữ ................................................................................................102 3.5.3. Thể thơ tự do .................................................................................................104 Tiểu kết ....................................................................................................................108 KẾT LUẬN ............................................................................................................109 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................109 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thế giới nghệ thuật là một chỉnh thể nghệ thuật bao gồm tất cả các yếu tố của tác phẩm nghệ thuật. Mỗi yếu tố này được đặt trong mối quan hệ biện chứng, xâu chuỗi với các yếu tố khác. Nghiên cứu thế giới nghệ thuật là để tìm hiểu quy luật sáng tạo của chủ thể nghệ thuật, quan niệm về nghệ thuật, cuộc đời, nhân sinh của người nghệ sĩ. Thơ trữ tình là biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của nhà thơ. Những cảm xúc tâm trạng, suy nghĩ của thi sĩ thể hiện trong thế giới nghệ thuật chính là những biểu hiện của cái tôi và các nguyên tắc thể hiện nó. Nghiên cứu đề tài “Thế giới nghệ thuật thơ Đỗ Trung Lai”,chúng tôi muốn chọn cách tiếp cận theo hướng thi pháp học để có thể khai thác được những đặc trưng thẩm mỹ của một phong cách thơ độc đáo. Chúng tôi cũng hi vọng sau đề tài này sẽ góp phần đưa ra được một cái nhìn đầy đủ và có hệ thống về tác phẩm của nhà thơ Đỗ Trung Lai.Chọn nghiên cứu thơ Đỗ Trung Lai bởi đây còn là “một vùng đất mới”, còn tiềm ẩn những “vỉa quặng” quý chưa được khai phá. Cùng với đó, việc nghiên cứu thế giới nghệ thuật thơ Đỗ Trung Lai giúp cho chúng tôi nâng cao năng lực nghiên cứu thơ ca, phục vụ đắc lực cho việc nghiên cứu và giảng dạy một thể loại văn học cơ bản trong chương trình Ngữ văn trung học phổ thông. 2. Lịch sử vấn đề Nghiên cứu, phân tích tác phẩm văn học là một công việc khó khăn bởi con đường để đi vào thế giới nghệ thuật của người nghệ sỹ không giản đơn. Mỗi người nghiên cứu có một cách khác nhau để tiếp cận tác phẩm văn học. Từ thời kìĐổi mới, trong xu thế giao lưu và hội nhập chung, công tác nghiên cứu văn học đã có những bước chuyển biến quan trọng, tiếp thu có chọn lọc nhiều hướng nghiên cứu văn học từ nước ngoài, trong đó hướng tiếp cận tác phẩm theo hướng thi pháp học. Với hướng này nhiều tác phẩm văn học quen thuộc được soi chiếu dưới nhiều góc nhìn mới làmánh lên những vẻ đẹp mới, đem lại cho người đọc những cảm nhận thú vị bất ngờ. Thi pháp học coi tác phẩm văn học như những thế giới nghệ thuật. Nó khám 2 phá các nguyên tắc tạo nên các thế giới nghệ thuật phân biệt với thực tại, bắt đầu từ quan niệm nghệ thuật, tiếp theo là các hình thức nhân vật, không gian, thời gian, kiểu sự kiện và cấu trúc văn bản với các hình thức ngôn từ. Hình thức ngôn từ mang toàn bộ cái nhìn của nhà văn và các phương diện nêu trên của thế giới nghệ thuật. Nói cách khác, thi pháp học nghiên cứu cái lí hay là quan niệm nghệ thuật của hình thức. Cái lí của hình thức thể hiện trong hệ thống các nguyên tắc, phương tiện tạo dựng thế giới nghệ thuật. Vì thế quan niệm nghệ thuật về con người, quan niệm về không gian, thời gian như là các yếu tố của thế giới nghệ thuật có vai trò quan trọng. Văn học Việt Nam trong một thời gian dài thường chỉ được nghiên cứu như một loại hình nghệ thuật phản ánh xã hội, một hiện tượng tư tưởng, thế giới quan, với thi pháp học, văn học đã được nhìn nhận từ phương diện sáng tạo nghệ thuật Đóng góp cho sự phát triển của thi pháp học ở Việt Nam có nhiều nhà nghiên cứu với các công trình phát triển lí thuyết, ứng dụng nghiên cứu tác phẩm. Những người có công đầu phải kể đến những nhà nghiên cứu như Phan Ngọc, Nguyễn Phan Cảnh, Nguyễn Tài Cẩn, Hoàng Trinh, Đỗ Đức Hiểu, Trần Đình Sử, Lã Nguyên, Đỗ Lai Thuý… Đặc biệt, Trần Đình Sử xứng đáng được gọi là nhà thi pháp học Việt Nam với rất nhiềucác chuyên luận và tiểu luận nghiên cứu thi pháp học. Các thuật ngữ thế giới nghệ thuật, hình thức quan niệm, quan niệm nghệ thuật về con người, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, kiểu tác giả, kiểu nhà thơ, thể tài dân tộc - lịch sử, thể tài thế sự, thể tài đời tư, trữ tình điệu ca, điệu nói… từ lâu đã trở nên quen thuộc với giới nghiên cứu, được giới nghiên cứu sử dụng rộng rãi chính là nhờ công lao Việt hóa của Trần Đình Sử. Chính Trần Đình Sử đã thao tác trên hệ thống lí thuyết ấy để nghiên cứu Thi pháp thơ Tố Hữu ( 1987), Những thế giới nghệ thuật thơ ( 1995),Thi pháp Truyện Kiều ( 2002)..., tạo ra nhiều công trình có sức hấp dẫn mạnh mẽ đến thế đối với giới nghiên cứu phê bình văn học Việt Nam cũng như tạo nên một cơn sốt nghiên cứu thi pháp học cho đến tận ngày nay. 3 Điều thú vị là thi pháp học đã được vận dụng hết sức hiệu quả. Vận dụng thi pháp học để nghiên cứu tác phẩm có thể kể đến một số tác giả và các công trình như: Nguyễn Thị Bích Hải với Thi pháp thơ Đường(1995); Lê Dục Tú với Quan niệm con người trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn,(1997); Phan Diễm Phương với Lục bát và song thất lục bát-Lịch sử phát triển, đặc trưng thể loại (1998), Nguyễn Duy Bắc với Bản sắc dân tộc trong thơ ca Việt Nam hiện đại,(1998); Lê Lưu Oanh với Thơ trữ tình Việt Nam 1975 – 1990 (1998); Phạm Thu Yến với Những thế giới nghệ thuật ca dao, (1998); Vũ Văn Sĩ, với Về một đặc trưng thi pháp thơ Việt Nam 1945 – 1995(1999); Trần Đình Sử, Nguyễn Thanh Tú với Thi pháp truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan(2001); Nguyễn Đăng Điệp với Giọng điệu trong thơ tữ tình (2002); Lê Quang Hưng với Thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu (2002); Trần Khánh Thành, Thi pháp thơ Huy Cận (2002); Đào Ngọc Chương vớiThi pháp tiểu thuyết và sáng tác của E. Hemingwey (2003); Hồ Thế Hà với Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên (2004).. Từ hiệu quả đã được kiểm chứng về khả năng của thi pháp học, nên chúng tôi trong công trình này đã vận dụng hướng tiếp cận thi pháp học nghiên cứu thế giới nghệ thuật thơ Đỗ Trung Lai. Đỗ Trung Lai sinh ngày 7 tháng 4 năm 1950 tại xã Phùng Xá, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây, hiện ông đang sinh sống và sáng tác ở Hà Nội. Ông là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1991. Tốt nghiệp khoa Vật lý,Trường Đại học sư phạm Hà Nội, nhà thơ Đỗ Trung Lai từng làm giáo viên trường Văn hoá quân đội, phóng viên rồi Phó Trưởng phòng báo Quân đội Nhân dân cuối tuần….. Ngoài làm thơ Đỗ Trung Lai còn vẽ tranh, làm báo, có phòng tranh riêng đã được Hội nghệ sĩ tạo hình Việt Nam trưng bày. Tuy sáng tác không sớm nhưng Đỗ Trung Lai đã để lại số tập thơ tiêu biểu như: Đêm sông Cầu (thơ, 1990); Anh em và những người khác (thơ, 1990); Đắng chát và ngọt ngào (1991) Thơ và tranh (1998) và Ơ thờ ơ (2003). Đỗ Trung Lai là nhà thơ ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm của công chúng, các tác phẩm của ông tạo được sự chú ý của dư luận và bạn đọc. 4 Tuy nhiên cho đến nay, các ý kiến đánh giá về tác phẩm của Đỗ Trung Lai còn lẻ tẻ, chưa thu hút được nhiều nhà nghiên cứu có tên tuổi. Viết về tác giả và tác phẩm của Đỗ Trung Lai đáng chú ý có một số bài viết sau: Trần Hoàng Thiên Kim trên báo Văn nghệ công an online ra ngày 5/5/2011 với bài “Nhà thơ Đỗ Trung Lai: Ngẫm ngợi tuổi 60” cho rằng: Thơ Đỗ Trung Lai có triết lý sâu xa, ngôn ngữ hàm súc, hình ảnh phong phú. Nhiều lúc ông tưng tửng đến kiêu ngạo, nhưng cái lõi tâm trạng của ông vẫn là một nỗi buồn nhân thế. Lê Lanh trong “Đọc 30 bài thơ của Đỗ Trung Lai đăng trên trang tin tức trannhuong.net ra ngày 16.08.2015 khẳng định: “Thơ Đỗ Trung Lai đậm đà bản sắc dân tộc, sáng tạo có kế thừa văn học truyền thống, nhất là ca dao dân ca, truyện Kiều… Ám ảnh thơ Đường nhưng không ngoại lai. Một nhà thơ viết có trách nhiệm, luôn săn tìm cái mới”. Mặt khác, Lê Lanh còn nhìn thấy trong thơ Đỗ Trung Lai có một nét riêng với rất nhiều nhà thơ khác. Không trau chuốt về hình thức, không nặng nề về cách thức thể hiện trên mỗi trang thơ bởi trước nhất ở anh là một nhà thơ mang cốt cách chiến sỹ. Bởi Đỗ Trung Lai nguyên là một sinh viên “Xếp bút nghiên theo việc binh đao”. “Thơ không cần bình mà ai đọc cũng hiểu,cũng mê với bất cứ đối tượng ở trình độ văn hoá nào. Thơ ấy mới khó. Rất khác với loại thơ “cách tân”, có khi người học vấn tới bậc giáo sư, miệng vẫn lẩm bẩm: “Sao mình ngu thế !...” rồi phải gấp tờ báo lại !”. Trong lời mở đầu của tập thơ Anh, Em và những người khác nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng : „Tư duy thơ Đỗ Trung Lai đã vào độ chín, anh biết cách chọn lọc ra chất thơ giữa vẻ lộn xộn của đời sống hiện thực. Anh đề cập đã có cái nhìn bao trùm xã hội, đã cập đến vấn đề sống còn của cõi người. Thơ anh đang mở ra phong phú, phức tạp. Nhưng đấy cũng là chỗ đòi hỏi anh phải nỗ lực trong cảm thụ lẫn nhận thức. Anh đã có một hướng riêng nhưng để đi tới đích và chỉ đi tới đích khi lòng anh đủ rộng và trí anh đủ sâu để hiểu được những nỗi niềm. Những bài thơ đi quá sức cảm, sức nghĩ của người viết rất dễ thành khô khan, khoa trương hoặc sa và hình thức chủ nghĩa ». Những ý kiến đó của Vũ Quần Phương trong tập thơ đã gợi mở cho chúng tôi những cảm nhận riêng khi khảo sát tập thơ Anh, Em và 5 những người khác cũng như những tập thơ khác của Đỗ Trung Lai. Trên đây là một số bài viết về thơ và con người trong thơ Đỗ Trung Lai. Nhìn chung, việc nghiên cứu thơ Đỗ Trung Lai hầu như chưa được quan tâm, chú ý, chưa xứng với đóng góp nghệ thuật của Đỗ Trung Lai đối với thi đàn Việt Nam đương đại. Vì vậy, với đề tài này, chúng tôi cố gắng đưa ra một cái nhìn hệ thống và khoa học về thơ Đỗ Trung Lai. 3. Nhiệm vụ và đối tƣợng nghiên cứu 3.1. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn nghiên cứu thế giới nghệ thuật thơ Đỗ Trung Lai, hay là tìm hiểu thơ Đỗ Trung Lai trong quan hệ nội tại thống nhất giữa tư tưởng cảm xúc và hình thức biểu hiện qua toàn bộ sáng tác của nhà thơ. Luận văn cần nêu bật được những đặc điểm cơ bản của thế giới nghệ thuật thơ Đỗ Trung Lai. 3.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là thế giới nghệ thuật thơ Đỗ Trung Lai Phạm vi nghiên cứu: Chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên cứu của công trình là 102 bài thơ được in trong 3 tập thơ của anh (Trừ những bài được in lại) 1. Đêm sông Cầu (1990) 2. Anh, Em và những người khác (1990) 3. Ơ thờ ơ (2013) 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp tiếp cận thi pháp học Thế giới nghệ thuật là một vấn đề của thi pháp học, do đó chúng tôi ứng dụng cách tiếp cận thi pháp học đối với các tác phẩm thơ Đỗ Trung Lai. 4.2. Phương pháp hệ thống, loại hình Chúng tôi quan niệm sáng tác thơ của Đỗ Trung Lai là một chỉnh thể nghệ thuật trọn vẹn và mang tính hệ thống. Vì thế khi nghiên cứu chúng tôi đặt các tác phẩm thơ trong một hệ thống chung.Bên cạnh đó, chúng tôi cũng chú ý đến việc đặt các tác phẩm thơ Đỗ Trung Lai, các vấn đề nghiên cứu trong các loại hình. 4.3. Phương pháp thống kê phân loại Phương pháp này sẽ giúp cho việc phân tích những nhận xét về thơ Đỗ 6 Trung Lai có chứng cứ cụ thể. Mặt khác nó giúp cho việc so sánh đối chiếu có thêm sức thuyết phục. 4.3. Phương pháp so sánh Nhằm phát hiện những nét độc đáo riêng biệt của Đỗ Trung Lai so với các nhà thơ khác. Đồng thời thấy được những cách tân độc đáo của thơ anh trong dòng chảy của thơ đương đại. 4.5. Cùng với đó là một số thao tác khoa học: Phân tích, tổng hợp…… 5. Đóng góp của luận văn Luận văn nêu một cách hệ thống, có cơ sở khoa học về các đặc điểm cơ bản của thế giới nghệ thuật thơ Đỗ Trung Lai. Luận văn đóng góp vào việc nghiên cứu thế giới nghệ thuật thơ ca thông qua việc nghiên cứu tác phẩm của một nhà thơ trong cái nhìn tổng thể. Đây là một hướng nghiên cứu khả quan nhằm nắm bắt được giá trị nghệ thuật của thơ. Kết quả của luận văn sẽ góp phần phục vụ công tác giảng dạy và học tập trong nhà trường. 6. Cấu trúc luận văn Phần mở dầu Phần nội dung gồm 3 chƣơng Chƣơng 1: Vấn đề thế giới nghệ thuật Chƣơng 2: Cái tôi trữ tình và cảm hứng nghệ thuật trong thơ Đỗ Trung Lai Chƣơng 3: Phương thức kiến tạo thế giới nghệ thuật thơ Đỗ Trung Lai Phần kết luận Tài liệu tham khảo 7 NỘI DUNG Chƣơng 1 VẤN ĐỀ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT 1.1. Khái niệm thế giới nghệ thuật Thế giới nghệ thuật do người nghệ sĩ sáng tạo ra. Một mặt nó phản ánh hiện thực, mặt khác nó biểu hiện những khát vọng chân, thiện, mĩ của chủ thể sáng tạo. Thế nào là thế giới nghệ thuật là một vấn đề đã được nhiều nhà nghiên cứu trong nhiều tài liệu đề cập. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, thế giới nghệ thuật là “khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng tác nghệ thuật. Thế giới nghệ thuật nhấn mạnh rằng: sáng tác nghệ thuật là một thế giới riêng được sáng tạo ra theo các nguyên tắc tư tưởng, khác với thế giới thực tại vật chất hay thế giới tâm lý của con người, mặc dù nó phản ánh các thế giới ấy. Thế giới nghệ thuật có không gian riêng, thời gian riêng, có quy luật tâm lý riêng, có quan hệ xã hội riêng, quan niệm đạo đức, thang bậc giá trị riêng... Như vậy,khái niệm thế giới nghệ thuật giúp ta hình dung tính độc đáo về tư duy nghệ thuật của sáng tạo nghệ thuật có cội nguồn trong thế giới quan, văn hoá chung, văn hoá nghệ thuật và cá tính sáng tạo của nghệ sĩ” [24, tr.303] Giáo trình Lí luận văn học khẳng định: “Gọi bằng thế giới nghệ thuật bởi vì đó là cấu tạo đặc biệt, có sự thống nhất không tách rời, vừa có sự phản ánh thực tại, vừa có sự tưởng tượng sáng tạo của tác giả, có sự khúc xạ thế giới bên trong của nhà văn. Thế giới này chỉ có trong tác phẩm và trong tưởng tượng nghệ thuật…Thế giới nghệ thuật là thế giới tư tưởng, thế giới thẩm mỹ, thế giới tinh thần của con người” [83,tr.81] và “một thế giới nghệ thuật nhất định với tư cách là hệ thống không chỉ đặc trưng cho tác phẩm đó, mà còn đặc trưng cho cả nhà văn nói chung…Nghiên cứu cấu trúc của thế giới nghệ thuật vừa cho ta hiểu hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm, quan niệm của tác giả về thế giới, vừa có thể khám phá thế giới bên trong ẩn kín của nhà văn, cái thế giới chi phối sự hình thành phong cách nghệ thuật” [83,tr.83]. 8 Theo Nguyễn Đăng Mạnh: “Thế giới nghệ thuật của nhà văn hiểu đúng nghĩa của nó là một chỉnh thể, đã là chỉnh thể tất phải có cấu trúc nội tại theo những nguyên tắc thống nhất, cũng có nghĩa là quan hệ nội tại giữa các yếu tố phải có tính quy luật” [98,tr.78] Từ những định nghĩa trên, chúng tôi đi đến cách hiểu về thế giới nghệ thuật như sau: Thế giới nghệ thuật là thế giới hình tượng được sáng tạo, xây dựng trong tác phấm nghệ thuật theo những nguyên tắc tư tưởng – thẩm mĩ nhất định của người nghệ sĩ. Đó là một chỉnh thể nghệ thuật sống động, cảm tính, được “xây cất” bằng vật liệu ngôn từ và các phương thức, phương tiện nghệ thuật đặc thù. Là đứa con tinh thần của nghệ sỹ. Vì vậy thế giới nghệ thuật luôn hàm chứa và thể hiện quan niệm riêng của người nghệ sỹ về thế giới, con người và mang sự sáng tạo. Đó không phải là một thế giới tĩnh mà là một thế giới động, phản ánh những biến chuyển tinh vi và phức tạp trong tư tưởng của người nghệ sĩ. 1.2. Cấu trúc của thế giới nghệ thuật 1.2.1. Thế giới nghệ thuật - một chỉnh thể của sáng tạo nghệ thuật Tính chỉnh thể là sự tập hợp, tổng hợp các mặt, các yếu tố bộ phận tạo thành. Đó chính là sự thống nhất, logic giữa cái chủ quan và cái khách quan; hiện thực với lý tưởng; hình thức với nội dung, thậm chí cả cái tất nhiên và ngẫu nhiên... Tính chỉnh thể được hiểu rất đa dạng và phong phú. Chỉnh thể của một tác giả, tác phẩm, một trào lưu văn học, một giai đoạn hay một nền văn học. Trong chỉnh thể lớn lại bao gồm các chỉnh thể nhỏ hơn, có mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau. Vì vậy, tiếp cận tác phẩm văn học đầy đủ nhất là tiếp cận nó trong chỉnh thể nghệ thuật. Chỉ trong chỉnh thể nghệ thuật, ý nghĩa của tác phẩm mới biểu hiện một cách đầy đủ nhất, rõ nét nhất. Và ở đó nội dung và hình thức vừa có mối quan hệ biện chứng với nhau vừa thể hiện quy luật của chỉnh thể tác phẩm, chỉnh thể nghệ thuật, vừa thể hiện được cấu trúc nội tại của thế giới nghệ thuật tác phẩm. Chỉnh thể nghệ thuật là một cấu trúc đa tầng, nhiều cấp độ, từ thấp đến cao. Tính chỉnh thể khiến các yếu tố trong thế giới nghệ thuật chi phối lẫn nhau, phụ thuộc vào nhau, vì vậy khi một yếu tố thay đổi có thể kéo theo sự thay đổi của hàng 9 loạt các yếu tố khác. Điều đó có nghĩa một tác phẩm nghệ thuật đích thực, có giá trị lớn là một cấu trúc đa thanh, đa giọng, một thế giới nghệ thuật sinh động, một sinh mệnh đời sống trong mối quan hệ nhiều chiều. Bên cạnh đó, thế giới nghệ thuật là thế giới riêng tạo ra từ các nguyên tắc và tư tưởng nghệ thuật. Thế giới nghệ thuật là sản phẩm của sự kết hợp hài hòa, sự xuyên thấm giữa yếu tố khách quan của bức tranh hiện thực đời sống bên ngoài với yếu tố chủ quan sáng tạo, độc đáo của người nghệ sĩ theo nguyên tắc nhất định về tư tưởng và nghệ thuật. Nghiên cứu thế giới nghệ thuật của tác phẩm, khám phá được tính chỉnh thể có ý nghĩa quan trọng đối với việc tìm hiểu cách cảm nhận thế giới cũng như quan niệm tư tưởng của nhà văn. Lê Tiến Dũng cho rằng: “Qua văn bản ngôn từ người đọc bắt gặp bức tranh đời sống, một thế giới như ta đã gặp đâu đó trong đời, lại như chưa gặp bao giờ...Người ta gọi lớp này là lớp thế giới nghệ thuật hay là lớp hình tượng. Mỗi nhà văn, mỗi thời đại văn học sáng tạo ra một thế giới nghệ thuật riêng. Tiếp nhận được thế giới này là cơ sở để hiểu tư tưởng - nghệ thuật của tác phẩm, cảm nhận được những gì nhà văn miêu tả, kí thác cũng như cái nhìn, quan niệm của nhà văn về con người, cuộc sống” [10,tr.11]. Từ những quan niệm trên, có thể thấy thế giới nghệ thuật không đơn thuần là vấn đề hình thức mà trong tính chỉnh thể của nó, hình thức thẩm mĩ luôn được thẩm thấu, chuyển hóa trong một nội dung thích hợp.Thông qua thế giới nghệ thuật của một tác giả ta có thể phân biệt được chỗ sâu sắc, tư tưởng nghệ thuật độc đáo của tác giả ấy với tác giả khác. 1.2.2. Các nguyên tắc kết nối của thế giới nghệ thuật Thế giới nghệ thuật là một chỉnh thể một chỉnh thể toàn vẹn thống nhất được tạo nên bởi các nguyên tắc tư tưởng nghệ thuật riêng. Những nguyên tắc này có ý nghĩa tương đối ổn định trong từng thời kỳ. Đây là một trong những căn cứ để nhận biết giai đoạn văn học. Trong sáng tạo nghệ thuật, nghệ thuật và tư tưởng không bao giờ tách rời nhau mà nó là một thể thống nhất cùng biểu hiện tư tưởng và sáng tạo của nhà văn. Tất nhiên tư tưởng sẽ định hướng cho sáng tạo. Teskhov đã nói: 10 ''Nếu như có một tác giả nào đó mà khoe với tôi rằng anh ta đã viết một thiên truyện không có dự định từ trước thì tôi sẽ gọi anh ta là thằng rồ”. [85,tr.1l]. Các nguyên tắc kết nối thế giới nghệ thuật “không phải là sự tổng hợp những phương thức, thủ pháp, biện pháp nghệ thuật mà gắn chặt với thế giới quan nhưng không phải bị đồng nhất thế giới quan . . . Thế giới quan này được thể hiện bằng các nguyên tắc cụ thể " [82,tr.6]. Như vậy, nguyên tắc tư tưởng nghệ thuật chịu sự chi phối của quan điểm tư tưởng thế giới quan, nhân sinh quan, quan niệm, quan điểm nghệ thuật của cá nhân và thời đại. Do quan niệm ở mỗi thời kì thay đổi đã kéo theo sự thay đổi của các nguyên tắc tư tưởng nghệ thuật. Trong phương pháp sáng tác huyền thoại dân gian (theo Hà Minh Đức) nguyên tắc thần thánh hoá là chủ yếu. Từ quan niệm con người là sản phẩm của thượng đế đã tạo ra cho các tác giả dân gian một thế giới quan thần thoại lẫn thế giới quan dựa trên chủ nghĩa duy vật chất phác. Thế giới quan này làm nảy sinh tư tưởng cảm hứng lớn về sức mạnh và tin vào số mệnh. Vì vậy, nhân vật là: thần, thánh, tiên, phật…. Nếu là người thì có phép thuật kì lạ như Tấm, Sọ Dừa... Các nhân vật này được tạo nên từ trí tưởng tượng phong phú nhằm giải thích những điều con người chưa biết và thể hiện ước mơ của họ. Ước lệ tượng trưng, qui phạm, là nguyên tắc của phương pháp sáng tác cổ điển.Từ quan niệm con người là con người chung, gắn liền với thiên nhiên vũ trụ, họ đã lấy vẻ đẹp của thiên nhiên, vũ trụ làm thước đo giá trị con người. Do lấy cảm quan vũ trụ làm chủ đạo để giãi bày quan điểm, tư tưởng nên hệ thống nhân vật đầy tính ước lệ tượng trưng, mang tính lý tưởng hoá cao. Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du khi miêu tả tài sắc của chị em Thuý Kiều ông đã lấy thiên nhiên để miêu tả vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều. …Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da. … Làn thu thuỷ nét xuân sơn 11 Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh. . . (Truyện Kiều) Mặt khác khi miêu tả thiên nhiên cũng bị bó gọn trong khuôn khổ của phong, vân, tuyết, nguyệt, tùng, cúc, trúc, mai. Trong phương pháp sáng tác lãng mạn, các nghệ sỹ lấy việc biểu hiện “cái tôi nội cảm” làm nguyên tắc chủ yếu. Từ chỗ thất vọng với thực tại, họ hoặc quay về với quá khứ hoặc hướng tới tương lai. Họ coi nghệ thuật là nơi trú ngụ của tâm hồn mình và quan niệm nghệ thuật chỉ sống với mình hơn là sống với đời. Vì thế đối với họ nghệ thuật chủ yếu biểu hiện cái tôi với tất cả những biến thái dù nhỏ nhất của tâm hồn và lấy luôn cái tôi làm thước đo giá trị. Nguyên tắc này phổ biến trong dòng văn học lãng mạn của nước ta, nhất là phong trào Thơ mới những năm 1932 - 1945 . Không đề cao tư tưởng phóng túng và cái tôi như phương pháp lãng mạn, xuất phát từ hiện thực đời sống, từ quan niệm văn học phải phản ánh trung thực đời sống, phương pháp sáng tác hiện thực lấy nguyên tắc tả thực làm cơ bản. Nguyên tắc này yêu cầu việc xây dựng hệ thống nhân vật phải được bắt đầu từ những chi tiết chân thực. Đó phải là các chi tiết đắt, tiêu biểu và có ý nghĩa cao trong việc phản ánh đời sống cũng như tư tưởng thái độ của người viết. Các chi tiết chân thực điển hình rất quan trọng trong việc xây dựng hình tượng điển hình. Chi tiết càng điển hình thì giá trị biểu hiện cuộc sống càng lớn. Đây là những nguyên tắc cơ bản nhưng không phải là độc quyền của bất kỳ phương pháp nào.Trong sáng tác, các nguyên tắc này vẫn có sự giao thoa với nhau. Mức độ giao thoa ít hay nhiều là tuỳ thuộc vào ý đồ của người sáng tác.Việc xây dựng các nguyên tắc cơ bản vừa thể hiện thế giới quan của nhà văn vừa biểu hiện thế giới quan niệm chung có tính thời đại. 1.2.3. Các yếu tố của thế giới nghệ thuật 1.2.3.1. Quan niệm nghệ thuật - Quan niệm về thế giới 12 Thế giới được tạo nên bởi thiên nhiên, vũ trụ và con người. Nhưng quan niệm về thế giới lại không giống nhau. Quan niệm về thế giới được hình thành dựa trên các yếu tố hình thái ý thức xã hội( triết học, chính trị,đạo đức, tôn giáo…). Trong đó, triết học đóng vai trò là hạt nhân, nền tảng cho các hình thái ý thức xã hội khác. Thế giới luôn biến đổi và sự hiểu biết của con người về thế giới cũng thay đổi. Do đó, quan niệm về thế giới của mỗi người, của nhân loại cũng thay đổi theo hướng ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn. Lịch sử phát triển quan niệm về thế giới của con người từ thế giới huyền thoại, thế giới tôn giáo đến thế giới quan triết học. + Thế giới quan huyền thoại: Là phương thức cảm nhận thế giới của người nguyên thuỷ, có đặc điểm là các yếu tố tri thức và cảm xúc, lý trí và tín ngưỡng, hiện thực và tưởng tượng, cái thật và cái ảo, cái thần và cái người hoà quyện nhau thể hiện quan niệm về thế giới. + Thế giới quan tôn giáo: Niềm tin tôn giáo đóng vai trò chủ yếu, tín ngưỡng cao hơn lý trí, cái ảo lấn át cái thật, cái thần trội hơn cái người. + Thế giới quan triết học diễn tả quan niệm dưới dạng hệ thống các phạm trù, qui luật đóng vai trò như những bậc thang trong quá trình nhận thức. Như vậy, triết học được coi như trình độ tự giác trong quá trình hình thành phát triển của quan niệm nghệ thuật về thế giới. Triết học là hạt nhân lý luận của quan niệm nghệ thuật, đóng vai trò định hướng, củng cố và phát triển quan niệm của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử. Trong triết học, chủ nghĩa duy tâm quan niệm thế giới là hiện tượng tinh thần, tồn tại bất biến. Chủ nghĩa duy vật lại quan niệm thế giới là hiện tượng vật chất luôn vận động biến đổi. Tuy khác nhau trong quan niệm nhưng nội dung giống nhau, đó là: triết học nghiên cứu thế giới một cách chỉnh thể, tìm ra những quy luật chung nhất chi phối sự vận động của chỉnh thể, của xã hội loài người và thể hiện nó một cách có hệ thống dưới dạng duy lý. 13 Trong văn học quan niệm về thế giới không đơn giản là vật chất hay tinh thần mà được biểu hiện ở điểm nhìn nghệ thuật.Dựa trên sự cảm nhận của cá nhân về một thế giới để thoả mãn sự tồn tại của nó. Tương ứng với mỗi quan niệm về thế giới là một thế giới nghệ thuật, vì thế việc tìm hiểu quan niệm này phải xét trong từng thế giới nghệ thuật cụ thể. - Quan niệm về nghệ thuật: Trên thế giới có nhiều quan niệm khác nhau về nghệ thuật. Quan niệm về nghệ thuật rất phức tạp Platon cho rằng: “nghệ thuật là bản sao lại của một bản sao, là sự bắt chước của sự bắt chước". Arixtốt trên lập trường của chủ nghĩa duy vật, đã coi nghệ thuật là một trong những hình thái hoạt động nhận thức của con người, là phương tiện thanh lọc tình cảm, v.v... Hêghen coi nghệ thuật là “tư duy trong các hình tượng”, hoặc “hình tượng” , “dưới con mắt chúng ta không phải là bản chất trừu tượng, mà là hiện thực cụ thể của bản chất”. Nhưng thực chất bản chất của nghệ thuật theo quan điểm của Hêghen, cũng chỉ là một giai đoạn trong qúa trình phát triển của “tinh thần tuyệt đối”, là sự “hồi tưởng” hoặc “đào sâu tất cả qúa trình mà nó đã kinh qua”. Biêlinxki cho rằng nghệ thuật là sự phản ánh hiện thực một cách sáng tạo bằng hình tượng nghệ thuật. Nhưng đến Tsecnưsépxki, một nhà mỹ học lỗi lạc Nga thế kỷ XIX đã tiến xa hơn Biêlinxki với cống hiến của ông trong qúa trình phát triển tư tưởng mỹ học, và đã đạt đến đỉnh cao của những quan niệm duy vật trong lịch sử mỹ học trước C. Mác về nghệ thuật.Còn Tecnưsépxki coi nghệ thuật là phương tiện để nhận thức hiện thực. Vấn đề nghệ thuật, bản chất của nghệ thuật chỉ có thể được giải quyết một cách đầy đủ và triệt để từ lập trường của mỹ học Mác-Lênin, - mỹ học được xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Quan niệm mácxít nhìn nhận nghệ thuật là một hiện tượng có tính lịch sử gắn liền với sự phát triển xã hội, nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội đặc thù. Cho nên, đối tượng của nghệ thuật vừa là quan hệ của con người với thế giới, vừa là chính bản thân con người với tất cả các mặt của nó như: tâm lý, tình cảm, đạo đức, 14 tư tưởng, xã hội, v.v. Nghệ thuật không những xem xét con người trong tính chỉnh thể của nó, mà còn đi sâu vào những điều kỳ diệu, bí ẩn nhất của tự nhiên, xã hội; Tất cả những gì còn nằm ở tầng sâu mà ý thức con người khoa học cụ thể không thể phát hiện, thể hiện được. Từ đó cho thấy quan niệm mácxít có cái nhìn biện chứng, toàn diện và khoa học về bản chất nghệ thuật, khi lấy hoạt động của con người làm nền tảng cho sự nảy sinh, tồn tại và phát triển nghệ thuật. - Quan niệm về các phạm trù thẩm mỹ Các phạm trù mĩ học chính là những khái niệm mĩ học chung nhất phản ánh những tri thức khái quát của con người về những hiện tượng thẩm mĩ được bộc lộ trong quan hệ thẩm mĩ giữa con người đối với tự nhiên và xã hội. Trong số các phạm trù mĩ học, phạm trù rộng nhất là thẩm mỹ nó bao gồm các phạm trù phổ biến: cái đẹp, cái cao cả, cái bi, cái hài. Đó là những phạm trù thẩm mỹ cơ bản. Nếu ý thức thẩm mỹ là khái niệm thể hiện chủ thể thẩm mỹ bao quát nhất thì khi biểu hiện đối tượng thẩm mỹ, người ta sử dụng khái niệm cái thẩm mỹ. Đó là phạm trù thẩm mỹ bao trùm lên các phạm trù thẩm mỹ cụ thể, cơ bản và không cơ bản. Cái thẩm mỹ gồm cả phạm trù thẩm mỹ tích cực lẫn phạm trù thẩm mỹ tiêu cực. Cơ sở của sự phân chia là xét xem phạm trù thẩm mỹ ấy có phù hợp với quy luật phát triển tất yếu của sự sống, lịch sử và xã hội hay không. Tiếng gà trống đánh thức buổi bình minh mở đầu một ngày lao động giàu ý nghĩa được con người coi là đẹp. Nấm độc giàu màu sắc sặc sỡ vẫn bị xem là xấu. Cái chết của Hitler kết thúc mối hiểm họa của chủ nghĩa phát xít hủy diệt không thương tiếc nền văn minh của loài người bị coi là xấu. Trong khi sự ra đi của Hồ Chí Minh lại mang vẻ đẹp sáng ngời. Với tất cả những lý do đó, cái đẹp, cái cao cả, cái bi, cái hùng là các phạm trù thẩm mỹ tích cực; còn cái xấu, cái thấp hèn, cái hài, là các phạm trù thẩm mỹ tiêu cực. Trong đó cái đẹp được coi là vị trí trung tâm trong hệ thống các phạm trù thể hiện đối tượng thẩm mỹ. Không phải ngẫu nhiên mà bên cạnh nghệ thuật, cái đẹp lại được con người trong các thời kỳ lịch sử quan tâm tìm hiểu nhiều đến như vậy. Người ta cũng có thể định nghĩa cái xấu – phạm trù thẩm mỹ sóng đôi đối lập với
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan