Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thể chế, năng suất các yếu tố tổng hợp và tăng trưởng kinh tế nghiên cứu các quố...

Tài liệu Thể chế, năng suất các yếu tố tổng hợp và tăng trưởng kinh tế nghiên cứu các quốc gia đang phát triển (tt)

.PDF
28
293
136

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH ------------- PHẠM DUY LINH THỂ CHẾ, NĂNG SUẤT CÁC YẾU TỐ TỔNG HỢP VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ: NGHIÊN CỨU CÁC QUỐC GIA ĐANG PHÁT TRIỂN Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng Mã số: 60.34.02.01 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ TP. Hồ Chí Minh – Năm 2017 Công trình được hoàn thành tại: Trường ĐH Kinh tế TP. Hồ Chí Minh Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Nguyễn Ngọc Hùng 2. TS. Phạm Quốc Hùng Phản biện 1:…………………………………………… Phản biện 2:…………………………………………… Phản biện 3:…………………………………………… Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp trường họp tại: ……………………………………………………….. Vào hồi giờ , ngày tháng Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: năm 1 CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU 1.1 Lý do chọn đề tài Trong bối cảnh mà tác động của việc gia tăng vốn và lao động đến tăng trưởng đang dần giảm sút, các quốc gia đang phát triển muốn tiếp tục đạt được sự tăng trưởng thì nhất thiết phải tạo ra năng suất ngày càng cao. Báo cáo về triển vọng phát triển toàn cầu, OECD (2014) đã đề cập tới việc cần phải thúc đẩy tăng năng suất để duy trì tăng trưởng trong tương lai cho các nền kinh tế đang phát triển. Đánh giá tầm quan trọng của năng suất tới tăng trưởng trong dài hạn, Krugman (1997, trang 11) nhận định “Năng suất không phải là tất cả, nhưng về lâu dài thì nó gần như là tất cả. Khả năng không ngừng nâng cao mức sống của một đất nước phụ thuộc hầu như hoàn toàn vào khả năng tăng sản lượng trên đầu công nhân của nước đó”. Kể từ khi Solow (1956) giới thiệu lý thuyết tăng trưởng kinh tế của mình, khái niệm năng suất yếu tố tổng hợp (Total factor productivity - TFP) đã được các nhà nghiên cứu tìm hiểu và phân tích. Hầu hết các nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế gần đây, đặc biệt là lý thuyết tăng trưởng nội sinh đã nhận định năng suất yếu tố tổng hợp là yếu tố tạo nên sự khác biệt về tăng trưởng giữa các quốc gia. Trong khi đó, trường phái kinh tế học thể chế mới khởi nguồn từ nhà kinh tế Ronald Coase cho rằng thể chế là yếu tố gốc rễ ảnh hưởng tới hiệu quả của nền kinh tế. Douglass C.North, một nhà nghiên cứu tiêu biểu cho trường phái kinh tế học thể chế mới đã nhận xét như sau: “Những yếu tố như mở rộng thị trường, cải tiến công nghệ và cả tăng cường sự đầu tư cho con người đều đóng góp một phần trong tăng trưởng năng suất. Nhưng chúng ta giải thích thế nào về sự tiếp diễn của 2 tình trạng đói nghèo ở nhiều nơi trên thế giới một khi chúng ta đã biết rõ nguyên nhân dẫn tới tăng trưởng kinh tế? Câu trả lời nằm ở sự thất bại của con người khi đảm trách những đổi mới để gia tăng sản lượng. Khung thể chế của một xã hội tạo ra cơ chế khuyến khích, tác động trực tiếp đến hoạt động kinh tế và chính trị, và chúng ta biết rõ về nền tảng thể chế cho sự tăng trưởng kinh tế thành công.” (North, 2000 trang 5). Trước đó, North & Thomas (1973) đã phân tích nguyên nhân dẫn tới tăng trưởng khi phân tách yếu tố quyết định tác động tới phát triển kinh tế bao gồm yếu tố trực tiếp (Proximate determinants) và yếu tố căn nguyên (Fundamental determinants), cụ thể hai tác giả biện luận mối quan hệ trong đó xem thể chế là yếu tố căn nguyên dẫn tới phát triển kinh tế. Xuất phát từ những nhận định trên, trước bối cảnh mà các quốc gia, đặc biệt là nhóm quốc gia đang phát triển vẫn tiếp tục tìm kiếm mô hình tăng trưởng phù hợp để có thể bắt kịp với các nền kinh tế phát triển, đề tài nghiên cứu về: “Thể chế , năng suất yếu tố tổng hợp và tăng trưởng kinh tế: Nghiên cứu các quốc gia đang phát triển” là cần thiết nhằm củng cố thêm về mặt lý thuyết và bổ sung các bằng chứng thực nghiệm về vai trò của thể chế, TFP, cũng như mối quan hệ của chúng tới tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia đang phát triển. 1.2 Khoảng trống nghiên cứu Về mặt lý thuyết: Lý thuyết tăng trưởng do Solow (1956, 1957) phát triển đã mở ra một hướng nghiên cứu mới về kinh tế. Trong mô hình của mình, ngoài hai yếu tố vốn và lao động, Solow đã đề cập tới yếu tố thứ ba là tiến bộ công nghệ (A) hay được xem là TFP, bởi tiến bộ công nghệ ở đây hàm ý là những yếu tố làm gia tăng hiệu quả sử dụng của vốn và lao động. Thời gian gần đây, lý thuyết kinh tế học thể chế mới nổi lên qua các 3 nghiên cứu của North (1990), Acemoglu & cộng sự (2005), Acemoglu & Robinson (2012), đã đưa những minh chứng rất chặt chẽ để khẳng định nền tảng thể chế là căn nguyên của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của các quốc gia.. North đã chỉ ra sự thiếu sót của lý thuyết tăng trưởng truyền thống qua nhận định sau: “Một hạn chế cơ bản của kinh tế học truyền thống khi tiếp cận nguồn gốc tăng trưởng năng suất là nó không đưa vấn đề tăng trưởng và năng suất vào một bối cảnh thể chế năng động” (North, 1994, trang 9). Luận án nhận thấy các lý thuyết tăng trưởng vẫn còn tiếp tục tranh luận và tìm kiếm yếu tố căn nguyên dẫn tới tăng trưởng và phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, mặc dù được thừa nhận là một yếu tố có tác động tới tăng trưởng nhưng việc nghiên cứu để đưa thể chế vào khung phân tích của lý thuyết tăng trưởng truyền thống cũng mới bắt đầu thời gian gần đây. Về mặt nghiên cứu thực nghiệm: Thứ nhất: Đa số các nghiên cứu xem xét riêng từng mối quan hệ của thể chế đến tăng trưởng, của TFP đến tăng trưởng, còn ít nghiên cứu cùng đưa cả thể chế, TFP vào mô hình để cùng phân tích tác động tới tăng trưởng. Trong khi như lập luận của lý thuyết kinh tế học thể chế mới thì ba yếu tố này là một chuỗi quan hệ tương tác với nhau, trong đó thể chế và năng suất có quan hệ qua lại thúc đẩy nhau từ đó tác động tới tăng trưởng kinh tế. Một số các nghiên cứu thực nghiệm cùng đưa thể chế, TFP và tăng trưởng kinh tế vào chung một khung phân tích, nhưng còn một số hạn chế như: Nghiên cứu của Henriksen & cộng sự (2011) về mối quan hệ của thể chế, năng suất và sản lượng trong ngành sản xuất bơ, sữa của Đan Mạch đã đi đến kết luận sự đổi mới thể chế dẫn tới sự đổi mới về công nghệ dẫn tới sự thành công của ngành sản xuất bơ sữa, qua đó đóng góp cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của Đan Mạch. Mặc 4 dù đề cập tới cả ba yếu tố, nhưng kết quả của nghiên cứu này ở phạm vi một ngành kinh tế. Tang & cộng sự (2008) trong bài nghiên cứu về mối quan hệ giữa thể chế, thay đổi công nghệ với biến động kinh tế vĩ mô đã đánh giá tác động của cả chất lượng thể chế (thông qua biến đại diện là: Nguy cơ bị quốc hữu hóa; Các ràng buộc ban đầu về quyền hành pháp) và tăng trưởng TFP (dẫn xuất cho thay đổi công nghệ) trong cùng một mô hình. Tuy nhiên, các tác giả sử dụng biến phụ thuộc là bất ổn kinh tế vĩ mô hay biến động tăng trưởng kinh tế nên kết quả chủ yếu giải thích về ảnh hưởng của chất lượng thể chế và thay đổi công nghệ trong việc giảm bớt những bất ổn này chứ chưa đề cập tới việc chúng có làm cải thiện tốc độ tăng trưởng kinh tế hay không. Trong một nghiên cứu có chủ đề tương tự, Gimenez & Sanau (2007) đã xem xét quan hệ của ba yếu tố này trong một mô hình trên một mẫu gồm 64 quốc gia. Kết quả nghiên cứu đã phát hiện tác động dương của chất lượng thể chế, tiến bộ công nghệ và vốn con người đến tăng trưởng, nghiên cứu cũng nhận định đây là những yếu tố quan trọng có tính quyết định đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Tuy nhiên, dữ liệu của bài nghiên cứu ở giai đoạn khá xa từ 1985 - 1997, hơn nữa, biến dẫn xuất cho yếu tố (A) hay được xem là TFP trong mô hình tăng trưởng là tỷ lệ gia tăng về số lượng tạp chí khoa học, kỹ thuật được xuất bản. Tương tự, Tebaldi & Elmslie (2013) cũng sử dụng số lượng bằng phát minh, sáng chế để dẫn xuất cho đổi mới và tiến bộ công nghệ khi đánh giá tác động của nó cùng với chất lượng thể chế đến tăng trưởng kinh tế. Việc sử dụng biến này tại hai nghiên cứu trên có thể chưa phản ánh hết sự tiến bộ công nghệ của mỗi quốc gia. Thứ hai: Các nghiên cứu chủ yếu thực hiện trên phạm vi một nước hoặc một nhóm nước, việc kiểm định trên các nhóm mẫu khác nhau là cần thiết bởi mỗi quốc gia đều có những nét riêng biệt trong thể chế của 5 mình và do đó chất lượng thể chế cũng sẽ là khác nhau. Điều này được minh chứng qua nghiên cứu mới đây của Krammer (2015) khi phân tách thành hai nhóm mẫu đã cho thấy xuất hiện những tác động khác nhau của các biến dẫn xuất cho chất lượng thể chế tới tăng trưởng năng suất. Law & cộng sự (2013) cũng kết luận chất lượng thể chế tốt hơn thúc đẩy phát triển kinh tế ở các quốc gia thu nhập cao trong khi phát triển kinh tế dường như cải thiện chất lượng thể chế ở các quốc gia có thu nhập thấp hơn. Trong khi đó, Venard (2013) khi thực hiện phân tách mẫu lại cho rằng việc cải thiện chất lượng thể chế là có hiệu quả hơn cho sự phát triển kinh tế ở các nước có chất lượng thể chế thấp. Thứ ba: Khi nghiên cứu về thể chế, có rất nhiều biến được sử dụng để dẫn xuất cho chất lượng thể chế. Đối với các nghiên cứu có sử dụng bộ chỉ số quản trị công của WB thì chưa thấy có nghiên cứu nào sử dụng cùng lúc cả sáu chỉ số để ước lượng tác động của chúng tới tăng trưởng TFP và tăng trưởng kinh tế. Thứ tư: Tìm hiểu bối cảnh nghiên cứu tại Việt Nam, các nghiên cứu cùng chủ để mà luận án lược khảo của Nguyễn Văn Phúc (2013), Nguyễn Hồng Nga (2013), Trần Thọ Đạt & Đỗ Thị Tuyết Nhung (2011) đều sử dụng phương pháp phân tích, thống kê mô tả, chưa thấy có nghiên cứu thực nghiệm nào về tác động của thể chế và TFP đến tăng trưởng kinh tế . 1.3 Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu Để thực hiện các mục tiêu nghiên cứu trên, các câu hỏi nghiên cứu đặt ra gồm: - Chất lượng thể chế có góp phần cải thiện tăng trưởng TFP hay không? - Chất lượng thể chế, tăng trưởng TFP và sự tương tác của chúng có tác động như thế nào đến tăng trưởng kinh tế? 6 - Có sự khác biệt nào về mối quan hệ giữa chất lượng thể chế với tăng trưởng TFP và giữa chất lượng thể chế, tăng trưởng TFP với tăng trưởng kinh tế tại các nhóm quốc gia đang phát triển có đặc điểm tương đồng về thu nhập bình quân? 1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận án nghiên cứu cho các nước đang phát triển trên thế giới dựa theo tiêu chí phân loại thu nhập bình quân của WB. Cụ thể gồm 71 quốc gia, với thời gian nghiên cứu là 19 năm, từ năm 1996 đến 2014. 1.5 Phương pháp nghiên cứu Phương pháp tổng hợp, phân tích so sánh và thống kê mô tả: Phương pháp định lượng: Phương pháp GMM sai phân và phương pháp FE-2SLS 1.6 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án 1.7 Một số điểm mới và đóng góp của luận án Thứ nhất: Luận án trước hết xem xét tác động của chất lượng thể chế tới tăng trưởng TFP, sau đó đưa hai yếu tố chất lượng thể chế và TFP vào một khung phân tích chung để kiểm định tác động đồng thời của chúng tới tăng trưởng kinh tế. Thứ hai: Luận án đưa thêm biến tương tác giữa chất lượng thể chế và tăng trưởng TFP vào mô hình thứ hai để xem liệu sự tương tác giữa chúng có tạo thêm một ảnh hưởng nào tới tăng trưởng kinh tế hay không. Thứ ba: Luận án sử dụng cả 6 chỉ số đánh giá chất lượng thể chế để ước lượng lần lượt tại hai mô hình. Tiếp theo, để kiểm định tính vững của mô hình, luận án sử dụng chỉ số tổng hợp của 6 chỉ số này để ước lượng qua hai phương pháp khác nhau. Thứ tư: Sau khi kiểm định tại mẫu gộp, luận án thực hiện phân tách thành ba nhóm mẫu để kiểm định gồm nhóm quốc gia có thu nhập 7 trung bình, nhóm quốc gia có thu nhập trung bình khá và nhóm quốc gia có thu nhập cao. Kết quả cũng chỉ ra một số khác biệt giữa các nhóm quốc gia, đồng thời cung cấp thêm minh chứng về hiệu ứng ngưỡng tác động của thể chế tới tăng trưởng TFP và tăng trưởng kinh tế. 1.8 Kết cấu luận án Luận án được bố cục thành năm chương cụ thể như sau: Chương 1: Giới thiệu Chương 2: Tổng quan lý thuyết và các nghiên cứu liên quan về TFP, thể chế và mối quan hệ của chúng với tăng trưởng kinh tế Chương 3: Mô hình, phương pháp nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu Chương 4: Kết quả nghiên cứu Chương 5: Kết luận và gợi ý chính sách CHƯƠNG 2 TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN VỀ TFP, THỂ CHẾ VÀ MỐI QUAN HỆ CỦA CHÚNG VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 2.1 Lý thuyết về TFP và thể chế 2.1.1 Lý thuyết về TFP 2.1.1.1 Khái niệm về TFP 2.1.1.2 Phương pháp đo lường TFP 2.1.2 Lý thuyết về thể chế 2.1.2.1 Các quan điểm về thể chế 2.1.2.2 Phương pháp đo lường chất lượng thể chế 2.2 Lý thuyết về tăng trưởng kinh tế 2.2.1 Các mô hình tăng trưởng kinh tế * Một số mô hình tăng trưởng kinh tế trước năm 1950 * Các mô hình tăng trưởng kinh tế từ năm 1950 tới gần đây. 8 2.2.2 Các yếu tố tác động tới tăng trưởng kinh tế 2.3 Mối quan hệ giữa thể chế, TFP và tăng trưởng kinh tế 2.3.1 Lý thuyết về mối quan hệ giữa thể chế, TFP và tăng trưởng Năng suất các yếu tố tổng hợp đã được Solow (1957) tiếp tục đề cập trong mô hình tăng trưởng của mình để giải thích cho sự tăng trưởng ngoài yếu tố vốn và lao động. Hàm sản xuất được Solow thể hiện dưới dạng Cobb - Douglas như sau: Yt  At K t L1t (2.7) Trong đó Y là tổng sản lượng; L là lực lượng lao động; K là vốn và A đại điện cho tiến bộ công nghệ hay hiệu quả các yếu tố đầu vào (TFP); α là tỷ lệ đóng góp của vốn đến sản lượng và 1- α là tỷ lệ đóng góp của lao động. Trên cơ sở đó A sẽ được xác định bằng cách lấy đạo hàm phương trình theo thời gian, sau đó chia hai vế cho Yt ta có phương trình như sau: Yt K t L A   1    t  t Yt Kt Lt At Tốc độ tăng trưởng của A hay TFP được thể hiện qua công thức dưới: g a  g y   g k  1    gl  (2.8) Trong đó ga là tốc độ tăng trưởng TFP, gy là tốc độ tăng sản lượng đầu, gk tốc độ tăng trưởng vốn, gl tốc độ tăng lao động. Tuy nhiên, căn nguyên của tăng trưởng TFP trong lý thuyết tân cổ điển về cơ bản xuất phát từ tiến bộ công nghệ, nhưng lại không giải thích sự tiến bộ này diễn ra như thế nào, hay bản thân tăng trưởng có ảnh hưởng tới nó không. Vì thế, yếu tố này không thể giải thích thỏa đáng về tồn tại khoảng cách thu nhập bình quân đầu người trong dài hạn giữa các quốc gia. Việc tìm kiếm các nguồn gốc của tăng trưởng TFP để có thể giải thích thuyết phục về sự khác biệt trong GDP bình quân đầu người giữa các quốc gia 9 là cần thiết trong nghiên cứu về tăng trưởng gần đây. Solow (2001, trang 286) đồng ý rằng “việc nghiên cứu về tăng trưởng nên tập trung nghiên cứu vào sự hiểu biết và phân tích các nguồn gốc của sự khác biệt về TFP và các chính sách có thể ảnh hưởng đến nó”. Dựa trên mô hình tăng trưởng tân cổ điển, Romer (1986,1990) và Lucas (1988) phát triển lý thuyết tăng trưởng nội sinh để tìm lời giải thích rõ hơn cho phần dư là yếu tố A hay được xem là TFP trong mô hình của Solow. Trong cả hai mô hình trên vai trò của thể chế đã được đề cập tới, tuy nhiên nó chưa được đưa vào để xem xét như một yếu tố trong mô hình. Solow cũng thừa nhận thiếu sót này và cho rằng các yếu tố trong hàm sản xuất còn bao hàm rất nhiều yếu tố phi kỹ thuật không đo lường được, trong đó có thể chế. Solow (2001) cũng đề xuất phần dư trong mô hình của mình (bao gồm cả yếu tố công nghệ và phi công nghệ) có thể được phân tích dựa trên sự khác biệt về lịch sử thể chế của các quốc gia. Easterly & Levine (2001) thực hiện tổng lược các nghiên cứu thực nghiệm nổi tiếng về tăng trưởng kinh tế cũng kết luận là đa số nghiên cứu đều nhận định TFP là yếu tố đem đến sự khác biệt về thu nhập và tăng trưởng giữa các quốc gia chứ không phải là tích lũy vốn và lao động, và cần xây dựng mô hình xác định TFP. Lý thuyết về kinh tế học thể chế mới khởi nguồn bởi Ronald Coase đã xem xét thể chế như một yếu tố căn nguyên dẫn tới những thay đổi của các yếu tố trong hàm sản xuất từ đó tác động đến tăng trưởng. North (1990, trang 107) nhận xét: “Tôi muốn khẳng định một vai trò rất cơ bản của thể chế trong xã hội; chúng là yếu tố gốc rễ của hiệu suất nền kinh tế trong dài hạn”. Khi bàn về mối quan hệ giữa thể chế và năng suất trong lịch sử, North (1994) cũng đưa ra những kết luận về cách mà thể chế đã và đang ảnh hưởng tới thay đổi về năng suất. Tóm lại, các lý thuyết kinh tế đã thể hiện vai trò của thể chế và TFP đối 10 với tăng trưởng kinh tế, đồng thời đa số các nghiên cứu thực nghiệm khi coi TFP và thể chế là các yếu tố đầu vào độc lập trong mô hình cũng tìm thấy mối quan hệ dương của chúng tới tăng trưởng. Vậy thì đâu là nguồn gốc thực sự dẫn tới tăng trưởng kinh tế, sự gia tăng TFP hay là thể chế, hoặc có tác động đồng thời của cả thể chế và TFP đến tăng trưởng hay không vẫn là chủ đề mà các lý thuyết tăng trưởng còn tranh luận. Nhằm mô tả một cách tổng quát về mối quan hệ giữa thể chế, TFP và tăng trưởng, North & Thomas (1973) đưa ra khung phân tích trong đó phân tách yếu tố quyết định tác động tới phát triển kinh tế bao gồm yếu tố trực tiếp (Proximate determinants) và yếu tố căn nguyên (Fundamental determinants). Cụ thể hai tác giả biện luận mối quan hệ giữa các yếu tố trong đó xem thể chế là yếu tố căn nguyên thúc đẩy phát triển kinh tế qua sơ đồ sau: TFP Thể chế Vốn con người Phát triển kinh tế Vốn vật chất Hình 2.1: Khung phân tích mối quan hệ của thể chế, TFP tới phát triển kinh tế Nguồn: North & Thomas (1973) Qua việc kết nối ba lý thuyết tăng trưởng trên, luận án dựa trên quan điểm rằng thể chế là nguồn gốc của tăng trưởng, tác động tới tăng trưởng qua các yếu tố trực tiếp khác trong đó có yếu tố TFP. Từ đó, luận án nghiên cứu tác động của thể chế tới TFP và tác động đồng thời của cả thể chế, TFP đến tăng trưởng kinh tế. 11 2.3.2 Mô hình phân tích về mối quan hệ giữa thể chế, TFP và tăng trưởng 2.4 Tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm liên quan 2.4.1. Các nghiên cứu về mối quan hệ thể chế và TFP Một số nhận định qua các nghiên cứu về tác động của thể chế tới TFP: Một số vấn đề còn tranh luận và hạn chế của các nghiên cứu Do có rất nhiều biến dùng để đo lường, đánh giá chất lượng thể chế của các quốc gia, vì vậy chưa thấy có sự thống nhất cao trong việc sử dụng một bộ chỉ số đo lường chất lượng thể chế. Điều này có thể dẫn tới các kết quả nghiên cứu và giải thích kết quả nghiên cứu chưa có sự nhất quán cao. Hầu hết các nghiên cứu mới phân tích trên một nhóm các quốc gia, hoặc trên một quốc gia cụ thể, do đó chưa thể hiện được sự so sánh về ảnh hưởng của chất lượng thể chế tới tăng trưởng TFP cho từng nhóm quốc gia có điểm tương đồng. Việc so sánh này là cần thiết bởi mỗi quốc gia đều có những nét riêng biệt trong thể chế của mình và do đó chất lượng thể chế cũng sẽ là khác nhau. 2.4.2 Các nghiên cứu về thể chế, TFP và tăng trưởng kinh tế 2.4.2.1 Tác động của thể chế tới tăng trưởng kinh tế Một số nhận định qua các nghiên cứu về tác động của thể chế tới tăng trưởng kinh tế: Một số vấn đề còn tranh luận và hạn chế của các nghiên cứu Các nghiên cứu thực nghiệm chủ yếu sử dụng các biến đo lường chất lượng thể chế từ bộ chỉ số BERI, ICRG và bộ chỉ số WGI. Đối với bộ chỉ số WGI gồm có sáu biến đo lường chất lượng thể chế, các nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu này cũng còn có những kết quả khác nhau như nghiên cứu của Omoteso & Ishola Mobolaji (2014), Gani (2011). 12 Việc phân nhóm mẫu dựa theo tiêu chí thu nhập bình quân đầu người hoặc theo tiêu chí về chất lượng thể chế giữa các quốc gia đã được một số nghiên cứu thực hiện. Kết quả của các nghiên cứu này cũng đã cho thấy có sự khác biệt về ảnh hưởng của chất lượng thể chế tới tăng trưởng kinh tế giữa các nhóm quốc gia. Do đó, việc kiểm định trên các nhóm mẫu khác nhau là cần thiết. 2.4.2.2 Tác động của TFP tới tăng trưởng kinh tế Một số nhận xét qua các nghiên cứu về tác động của TFP tới tăng trưởng kinh tế: Một số vấn đề còn tranh luận và hạn chế của các nghiên cứu Tác động dương của TFP tới tăng trưởng kinh tế đều được phát hiện qua hầu hết các nghiên cứu, bên cạnh đó, có một số tác giả kết luận tác động này là âm vì tại một số quốc gia đặc biệt là các quốc gia ở giai đoạn đầu thời kỳ chuyển đổi, các quốc gia thuộc nhóm thu nhập trung bình thấp thì đóng góp của vốn và lao động quá lớn làm lấn át đi vai trò của TFP như nghiên cứu của Kim & Lau (1994), Young (1995) Reem Limam & Miller (2004). Là một khái niệm kinh tế mang tính tổng hợp, Việc nghiên cứu về TFP và các yếu tố cấu thành hay ảnh hưởng đến nó để qua đó tác động tới tăng trưởng kinh tế vẫn đang là một chủ đề được nhiều nghiên cứu tranh luận. 2.5 Khoảng trống nghiên cứu và khung phân tích đề xuất 13 CHƯƠNG 3 MÔ HÌNH, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU 3.1 Xây dựng mô hình nghiên cứu 3.1.1 Khung phân tích mô hình 𝑌 = 𝐴𝐾 𝛼 𝐿1−𝛼 , 0 < 𝛼 < 1 (3.1) Với Y là GDP thực; K là vốn đầu tư trong nước thực; L là số lao động làm việc; A là năng suất các yếu tố tổng hợp; α, 1- α lần lượt là hệ số co giãn của sản lượng theo vốn và lao động. Biến đổi phương trình (3.1) theo dạng log-linear: 𝑙𝑜𝑔𝑌 = 𝑙𝑜𝑔𝐴 + 𝛼𝑙𝑜𝑔𝐾 + (1 − 𝛼)𝑙𝑜𝑔𝐿 (3.2) Phương trình (3.2) viết dưới dạng chuỗi thời gian: 𝑌𝑖𝑡 = 𝐴𝑖𝑡 + 𝛼𝐾𝑖𝑡 + (1 − 𝛼)𝐿𝑖𝑡 (3.3) Phương trình (3.3) được sử dụng như một mô hình chuẩn trong ước tính hồi quy tăng trưởng. Trên cơ sở lý thuyết tăng trưởng nội sinh, các nghiên cứu thực nghiệm đã đi sâu phân tích yếu tố (A) và đưa ra những yếu tố ảnh hưởng tới nó từ đó tác động tới (Y). Islam (2008) nhận thấy khi nghiên cứu về sự khác biệt năng suất giữa các quốc gia, các nghiên cứu thực nghiệm thường tiếp cận theo hai phương pháp. Một là phương pháp hồi quy tăng trưởng với thông số kỹ thuật mở rộng (extended specification), theo phương pháp này các biến dẫn xuất hoặc các biến được xem là nguyên nhân dẫn đến thay đổi năng suất được thêm vào bên phải của phương trình (3.3). Cách tiếp cận thứ hai là theo phương pháp hai giai đoạn (two-stage methodology), theo cách này năng suất sẽ được ước tính, sau đó tập trung vào phân tích ước tính năng suất thu được tại bước đầu tiên qua việc hồi quy các yếu tố có thể ảnh hưởng làm gia tăng năng suất. 14 Qua một số nghiên cứu tiêu biểu của Romer (1990), Hall & Jones (1999), Islam (2008), Miller & Upadhyay (2000), Loko & Diouf (2009) đã xác định các yếu tố tác động tới TFP bao gồm: chất lượng thể chế, độ mở thương mại, quy mô chính phủ, cơ sở hạ tầng, lạm phát, chất lượng lao động, vốn đầu tư. Do đó, yếu tố (A) tại phương trình (3.3) được thể hiện bằng phương trình như sau: (𝐴)𝑖,𝑡 = 𝛽0 + 𝛽1 (𝐼𝑁𝑆)𝑖,𝑡 + 𝛽2 (𝑇𝐼𝑁𝑉)𝑖,𝑡 + 𝛽3 (𝐺𝐸𝑋𝑃)𝑖,𝑡 + 𝛽4 (𝑂𝑃𝐸𝑁)𝑖,𝑡 + 𝛽5 (𝐼𝑁𝐹)𝑖,𝑡 + 𝛽6 (𝑇𝐸𝐿𝐸)𝑖,𝑡 + 𝜀𝑖,𝑡 (3.4) Trong đó: INS là biến đo lường chất lượng thể chế; GEXP là biến chi tiêu của chính phủ; OPEN là biến độ mở thưởng mại; INF là biến lạm phát; TINV là biến tổng đầu tư trong nước; TELE là biến dẫn xuất cho cơ sở hạ tầng. Để nghiên cứu các yếu tố tác động tới tăng trưởng kinh tế, luận án dựa trên cơ sở lý thuyết kinh tế học thể chế mới khi xem xét vai trò của thể chế như một yếu tố trong mô hình tăng trưởng. Với lập luận của North & Thomas (1973) coi thể chế là căn nguyên tác động tới các yếu tố tích lũy khác bao gồm cả TFP qua đó ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, khung phân tích mô hình cũng xuất phát từ phương trình (3.3) được viết dưới dạng phương trình hồi quy như sau: 𝑌𝑖,𝑡 = 𝛼0 + 𝛼1 (𝑇𝐹𝑃𝐺)𝑖,𝑡 + 𝛼2 (𝐼𝑁𝑆)𝑖,𝑡 + 𝛼3 (𝑇𝐼𝑁𝑉)𝑖,𝑡 + 𝛼4 (𝐺𝐸𝑋𝑃)𝑖,𝑡 + 𝛼5 (𝐿𝐴𝐵𝑂)𝑖,𝑡 + 𝛼6 (𝑂𝑃𝐸𝑁)𝑖,𝑡 + 𝛼7 (𝐼𝑁𝐹)𝑖,𝑡 + 𝛼8 (𝑇𝐸𝐿𝐸)𝑖,𝑡 + 𝜀𝑖,𝑡 (3.5) Luận án đưa thêm biến tăng trưởng TFP ban đầu (TFPGt-1) vào vế trái của phương trình (3.4) do biến phụ thuộc tại phương trình này đã thể hiện dưới dạng tốc độ tăng trưởng TFP, nên không cần đưa thêm biến TFPGt-1 vào vế phải. Tiếp theo, biến thu nhập bình quân đầu người ban 15 đầu (GDP/L)it-1 được thêm vào cả hai vế của phương trình (3.6) có hai phương trình sau: 𝑇𝐹𝑃𝐺𝑖,𝑡 = 𝛽0 + 𝛽1 (𝑇𝐹𝑃𝐺)𝑖,𝑡−1 + 𝛽2 (𝐼𝑁𝑆)𝑖,𝑡 + 𝛽3 (𝑇𝐼𝑁𝑉)𝑖,𝑡 + 𝛽4 (𝐺𝐸𝑋𝑃)𝑖,𝑡 + 𝛽5 (𝑂𝑃𝐸𝑁)𝑖,𝑡 + 𝛽6 (𝐼𝑁𝐹)𝑖,𝑡 + 𝛽7 (𝑇𝐸𝐿𝐸)𝑖,𝑡 + 𝜀𝑖,𝑡 (3.7) 𝐺𝐷𝑃 𝐺𝐷𝑃 ( ) −( ) 𝐿 𝑖,𝑡 𝐿 𝑖,𝑡−1 𝐺𝐷𝑃 = 𝛼0 + 𝛼1 ( ) + 𝛼2 (𝑇𝐹𝑃𝐺)𝑖,𝑡 + 𝛼3 (𝐼𝑁𝑆)𝑖,𝑡 𝐿 𝑖,𝑡−1 𝑇𝐼𝑁𝑉 𝐺𝐸𝑋𝑃 + 𝛼4 ( ) + 𝛼5 ( ) + 𝛼6 (𝐿𝐴𝐵𝑂)𝑖,𝑡 𝐺𝐷𝑃 𝑖,𝑡 𝐺𝐷𝑃 𝑖,𝑡 + 𝛼7 (𝑂𝑃𝐸𝑁)𝑖,𝑡 + 𝛼8 (𝐼𝑁𝐹)𝑖,𝑡 + 𝛼9 (𝑇𝐸𝐿𝐸)𝑖,𝑡 + 𝜀𝑖,𝑡 (3.8) 3.1.2 Mô hình thực nghiệm và lựa chọn biến nghiên cứu Mô hình 1: 𝑇𝐹𝑃𝐺𝑖𝑡 = 𝛼0 + 𝛽1 𝑇𝐹𝑃𝐺𝑖𝑡−1 + 𝛽2 𝐼𝑁𝑆𝑖𝑡 + 𝑍′𝑖𝑡 𝛽3 + 𝜂𝑖 + 𝜉𝑖𝑡 (3.10) Mô hình 2: ∆𝑌𝑖𝑡 = 𝛼0 + 𝛽1 𝑌𝑖𝑡−1 + 𝛽2 𝑇𝐹𝑃𝐺𝑖𝑡 + 𝛽3 𝐼𝑁𝑆𝑖𝑡 + 𝛽4 𝐼𝑆𝑁 × 𝑇𝐹𝑃𝐺𝑖𝑡 + 𝑍 ′ 𝑖𝑡 𝛽5 + 𝜂𝑖 + 𝜉𝑖𝑡 (3.11) 3.2 Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu 3.3.1 Phương pháp ước lượng 3.2.2 Dữ liệu nghiên cứu và đo lường biến 3.2.3 Phân tích thống kê, mô tả dữ liệu 3.2.3.1 Đánh giá chung về thực trạng thể chế, TFP và tăng trưởng của các quốc gia 3.2.3.2 Phân tích thống kê dữ liệu nghiên cứu Bảng 3.1: Thống kê mô tả các biến ở mẫu gộp 16 Các biến Obs Mean Std.Dev. Min Max GDP bình quân đầu người 1349 4773.001 6616.97 129.782 46856.84 TFPG 1349 0.7738 3.82831 -22.18 22.70 Kiểm soát tham nhũng 1349 -0.3045 0.63649 -1.5513 1.7647 Hiệu quả chính phủ 1349 -0.1731 0.61308 -1.4949 1.5957 Ổn định chính trị 1349 -0.3431 0.78595 -2.8120 1.3468 Chất lượng luật pháp 1349 -0.1048 0.67809 -2.1492 1.6749 Tuân thủ pháp luật 1349 -0.2877 0.65907 -1.8895 1.4509 Tiếng nói và giải trình 1349 -0.2838 0.76462 -2.0986 1.4729 Đầu tư trong nước 1349 22.033 6.15636 5.3853 45.869 Chi tiêu chính phủ 1349 28.177 9.38335 0.552 54.549 Lực lượng lao động 1349 62.333 7.34750 46.792 85.963 Độ mở thương mại 1349 75.719 35.0479 15.58 220.40 Lạm phát 1349 10.477 34.2120 -8.484 1058.3 Cơ sở hạ tầng 1349 14.031 12.3451 0.1026 52.922 Nguồn: Tính toán từ phần mềm Stata 13 3.2.3.3 Kiểm định về sự khác biệt về thể chế giữa các nhóm mẫu Bảng 3.2: Kết quả kiểm định sự khác biệt về chất lượng thể chế INS1 INS2 INS3 INS4 INS5 INS6 ≤ -.282 *** ≤ -.073*** ≤ -.364*** ≤ -.04*** ≤ -.325*** ≤ -.267*** ≤ .322*** ≤ .429*** ≤ .312*** ≤ .491*** ≤ .357*** ≤ .184*** Nhóm thu nhập trung bình thấp với thu nhập trung bình khá Giữa nhóm thu nhập trung bình khá với thu nhập cao Nguồn: Tính toán từ phần mềm Stata 13 17 Kết quả tại Bảng 3.6 cho thấy chất lượng thể chế tại ba nhóm mẫu là hoàn toàn khác biệt. Điều này cho thấy theo phân loại của WB dựa trên thu nhập bình quân thì tại các quốc gia có thu nhập bình quân đầu người càng cao thì tương ứng với chất lượng thể chế càng tốt. CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 4.1 Tác động của thể chế tới tăng trưởng TFP 4.1.1 Mô hình ước lượng 4.1.2 Kết quả nghiên cứu và bàn luận 4.1.2.1 Kết quả cho mẫu gộp Bảng 4.3: Kết quả ước lượng GMM sai phân Arellano-Bond cho mẫu gộp Biến phụ thuộc: TFPG INS1 TFPG (-1) INS2 * INS3 -0.179 ** INS4 INS5 INS6 0.068 0.975 0.135* -0.150 0.159 Thể chế 27.21*** 14.94** 10.30*** 8.161** 9.015*** 5.367** Đầu tư trong nước -0.686*** -0.025 -0.542*** -0.352 0.000 -0.365*** Chi tiêu chính phủ -0.842*** -0.226*** -0.789*** -0.218*** -0.818*** -0.198*** Lực lượng lao động 0.391 -0.328 -0.124 -0.440*** -0.408** -0.031 Độ mở thương mại 0.138*** 0.08*** 0.234*** 0.149*** 0.146*** 0.086*** Lạm phát -0.124*** -0.075*** -0.254*** -0.439 -0.080*** -0.045*** Cơ sở hạ tầng 0.041 -0.017 0.020 0.008 -0.003 0.007 Obs 1065 1065 994 1065 1136 1136 AR(2) test 0.102 0.718 0.112 0.113 0.74 0.904 Sargan test 0.311 0.101 0.146 0.111 0.208 0.143 18 *** ** , ,* lần lượt là các mức ý nghĩa ở 1%, 5% và 10% Nguồn: Tính toán từ phần mềm Stata 13 Thực hiện ước lượng D-GMM cho lần lượt từng biến đo lường chất lượng thể chế, có thể thấy ở tất cả sáu ước lượng giá trị p của chỉ số Sargan và Arellano – Bond đều có ý nghĩa thống kê lớn hơn 10%. Kết quả cho thấy cả sáu biến chất lượng thể chế đều có tác động dương tới tăng trưởng TFP. 4.1.2.2 Kết quả ước lượng cho từng nhóm mẫu Thực hiện kiểm định trêm ba nhóm quốc gia phân loại theo tiêu chí thu nhập. Kết quả chỉ ra tại nhóm quốc gia thu nhập trung bình khá và thu nhập cao là đồng nhất với kết quả mẫu gộp, còn tại các quốc gia có thu nhập trung bình thấp thì chất lượng thể chế có tác động âm tới tăng trưởng TFP. 4.2 Tác động của tăng trưởng TFP, thể chế và tương tác của chúng tới tăng trưởng kinh tế 4.2.1 Mô hình ước lượng 4.2.2 Kết quả nghiên cứu và bàn luận 4.2.2.1 Kết quả ước lượng cho mẫu gộp Bảng 4.8: Kết quả ước lượng GMM sai phân Arellano-Bond cho mẫu gộp Biến phụ thuộc: Δ GDP INS1 INS2 INS3 INS4 INS5 INS6 -0.166*** -0.167*** -0.153*** -0.134*** -0.171*** -0.106*** TFPG 1.022*** 0.935*** 1.017*** 0.933*** 0.907*** 1.068*** Thể chế 4.861** 1.691* 5.121** 1.575* 7.707** 6.528** Thể chế*TFPG 0.262*** 0.162*** 0.136** 0.875* 0.152** 0.146** Đầu tư trong nước 0.166*** 0.176*** 0.132*** 0.141*** 0.118*** 0.416*** GDP bình quân (-1)
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan