Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thế chấp phần vốn góp trong công ty theo pháp luật việt nam chuyên ngành luật dâ...

Tài liệu Thế chấp phần vốn góp trong công ty theo pháp luật việt nam chuyên ngành luật dân sự và tố tụng dân sự

.DOCX
60
503
100

Mô tả:

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận vănlà công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.Tôi xin chân thành cảm ơn!NGƢỜI CAM ĐOANTrần Thị Vân Trang ivMỤC LỤC MỞ ĐẦU.................................................................................................................1 CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THẾ CHẤP PHẦN VỐN GÓP TRONG CÔNG TY...............................................................................................................7 1.1. Khái quát chung về thế chấp phần vốn góp......................................................7 1.1.1. Các khái niệm liên quan đến thế chấp phần vốn góp.....................................7 1.1.2. Bản chất của hoạt động thế chấp phần vốn góp trong công ty....................13 1.1.3. Đặc điểm pháp lý của tài sản thế chấp là phần vốn góp theo pháp luật Việt Nam........................................................................................................................15 1.2. Vai trò của hoạt động thế chấp tài sản là phần vốn góp đối với doanh nghiệp.......................................................................................................................... ......20 1.3. Hệ thống pháp lý về hoạt động thế chấp phần vốn gópcủa doanh nghiệp trong nền kinh tế Việt Nam.............................................................................................22 CHƢƠNG2. THỰC TRẠNGÁP DỤNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THẾ CHẤP PHẦN VỐN GÓP TRONG CÔNG TY.................................................27 2.1. Tổng quan nền kinh tế Việt Nam từ khi gia nhập WTO đến nay...................27 2.2. Pháp luật Việt Nam hiện hành về thế chấp phần vốn góp trong công ty.......29 2.2.1. Đối tượng thế chấp phần vốn góp trong công ty..........................................33 2.2.3. Nội dung hợp đồng về thế chấp phần vốn góp............................................36 2.2.4. Quyền, nghĩa vụ của bên thế chấp và bên nhận thế chấp phần vốn góp trong công ty....................................................................................................................39 2.2.5. Hệ quả của thế chấp và Xử lý tài sản thế chấp là phần vốn góp..................43 2.3. Đánh giá thực trạng thế chấp phần vốn góp trong công ty tại Việt Nam....... .3.1. Những kết quả đạt được...............................................................................54 2.3.2. Hạn chế........................................................................................................56 2.3.3. Nguyên nhân...............................................................................................63 CHƢƠNG3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA VIỆT NAM VỀ THẾ CHẤP PHẦN VỐN GÓP TRONG CÔNG TY..........................................................................................................................66 v3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về thế chấp tài sản là phần vốn góp và hoạt động xử lý tài sản...................................................................................................66 3.1.1. Các yêu cầu cải cách, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo định hướng của Đảng và nhà nước...................................................................................................66 3.1.2. Hoàn thiện quy định về thế chấp phần vốn góp nhằm đảm bảo nhu cầu phát triển nền kinh tế, phù hợp với sự phát triển trong và ngoài nước..........................69 3.2. Phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về thế chấp phần vốn góp trong công ty tại Việt Nam.....................................................................................71 3.3. Kiến nghị với các cơ quan quản lý..................................................................77 KẾT LUẬN...........................................................................................................80 TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................8311............................... .............................................................................................83 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài và tình hình nghiên cứuNgày nay cùng với quá trình toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại đã và đang đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi cho các quốc gia phải tăng cường mở cửa, hợp tác kinh tế quốc tế trên tất cả các mặt. Hội nhập và tham gia vào sân chơi của thế giớilà xu thế không thể đảo ngược đối với mỗi quốc gia trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế -xã hội của từng nước. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường hiện nay khi mà các giao dịchdân sự, thương mại được xác lập ngày càng nhiều thì cáctranh chấp, kiện tụng cũng theo đó ngày một gia tăng. Theo đó, hoạt động thế chấp quyền tài sản nói chung và thế chấp phần vốn góp nói riêng được xem là một trong những công cụ pháp lý căn bản, mang hiệu quả cao nhằm hạn chế nhưng rủi ro phát sinh từ những giao dịch vay vốn, tín dụng. Đồng thời, hoạt động này có tác động mạnh mẽ đối với doanh nghiệp nhằm góp phần giúp doanh nghiệp có sự linh động trong nguồn vốn để có thể vận hành một cách dễ dàng hơn.Những năm gần đây, khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 150của Tổchức Thương mại Thế giới (WTO) đã tạo tiền đề cho việc phát triển các mối quan hệ có liên quan đếnthế chấp trong nhữnggiao dịch dân sự, thương mại, đặc biệt trong các quan hệ cấp tín dụng. Vậy hành lang pháp lý cho các quan hệ thế chấpnói chung và thế chấp phần vốn góp của doanh nghiệp nói riêngđã thực sự an toàn, hiệu quả. Đồng thời, quyền và lợi ích hợp pháp của bên có quyền trong quan hệ đã được bảo đảm hay chưa? Cho đến thời điểm này, các văn bảnpháp luật đã được ban hành như: BLDS năm 2015, Luật Doanh nghiệp 2014, Đất Đai năm 2013, Luật kinh doanh Bất động sản năm 2014...và đặc biệt sự ra đời của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm vàNghị định số 11/2012/NĐCPngày22tháng2năm2012củaChínhphủvềsửađổi,bổsungmộtsốđiềucủaNghịđịnhsố1 63/2006/NĐ-CPngày29tháng12năm2006củaChínhphủvềgiaodịchbảođảm,đã đánh một dấu mốc quan trọng trong lĩnh vực giao dịch bảo đảm nói chung và quan hệ thế chấp nói riêng. Các dự thảo Luật Đăng ký giao dịch bảo đảm, Luật đăng ký Bất động sản đang trong quá trình hoàn thiện.Tuy nhiên,thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật về phần vốn góp và thế chấp phần vốn góp của doanh nghiệp còn phát sinh mâu thuẫn, không mang tính thống nhất. Từ thực trạng nêu trên, nghiên cứu một cách có hệ thống, khoa học các quy định của pháp luật về thế chấp phần vốn gópđể hiểu đúng và thựchiện đúng, cũng như phát hiện những điểm bất cập nhằm hoàn thiện chúng là một công việc thực sự cần thiết vàcấp bách. Liên quan đến nội dung giao dịch đảm bảo nói chung và thế chấp phần vốn góp nói riêng thì đã có nhiều đề tài khoa học, luận văn, bài viết trên tạp chí đã đề cập một cách trực tiếp hoặc lồng ghép vào những nội dung liên quan. Đối với giao dịch đảm bảo thì có sự nghiên cứu tương đối nhiều, có thể kể đến như: Sách chuyên khảo của tập thể tác giả do Tiến sỹ Lê Thị Thu Thủy làm chủ biên (2006), Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ chức tín dụng, NXB Tư pháp, Hà Nội. Sách của Tiến sĩNguyễn Ngọc Điện (1999), Một số suy nghĩ về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự trong luật dân sự Việt Nam, NXB Trẻ Thành phố Hồ ChíMinh. Sách chuyên khảo của PGS.TS Đỗ Văn Đại (2012), Luật nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ -Bản án và bình luận bản án, Tập 1&2, NXB Chính trịquốc gia. Đề tài khoa học, 2010, Lý luận và thực tiễn về biện pháp thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay trong các hợp đồng tín dụng của Trường Đạihọc Luật Hà Nội, do Thạc sĩ Vũ Thị Hồng Yến làm chủ nhiệm đề tài. Nhận tài sản bảo đảm là phần vốn góp: Từ quy định pháp luật đến thực tiễn củaThạc sĩ Bùi Đức Giang-Công ty Luật Audier and Partners Vietnam LLC & NCS khoa Luật, Đại học Paris 2 Panthéon Assas, Pháp.Thạc sĩ Nguyễn Quang Hương Trà, 2011, "Bàn về khái niệm giao dịchbảo đảm nhìn từ giác độ đối tượng của hoạt động đăng ký", Tạp chí Dân chủ vàpháp luật, số chuyên đề Pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm....trong đó các công trình này ít nhiều đều đề cập đến vấn đề thế chấp phần vốn góp trong công ty. Tuy nhiên,công trình nghiên cứu triển khai trực tiếp về nội dung thế chấp phần vốn góp cònkhá khiêm tốn. Với mục đích làm phong phú thêm nội dung nghiên cứu về thế chấp phần vốn góp, tôi lựachọn đề tài:"Thế chấp phần vống góp trong công ty theo pháp luật Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu luậnvăn thạc sỹ luật học vớimong muốn sẽ góp phần hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đềthế chấp phần vốn góp nhằmkhẳng định tầm quan trọngcủa biện pháp thế chấp này đối với doanh nghiệp nói chung trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay.Đồng thời, qua đó nhằm góp phần phát hiện những hạn chế của pháp luật về thế chấp nói chung và thế chấp phần vốn góp nói riêngcũng như những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi ở Việt Nam. Từ đó, đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về thế chấp phần vốn gópnói riêng và hệ thống pháp luật kinh tế nói chung, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về giao dịch đảm bảoở nước ta trong giai đoạn hiện nay. 2. Phạm vi và mục đích nghiên cứu Pháp luật về thế chấp phần vốn góp là một lĩnh vực tương đối rộng và phức tạp thuộc phạm vi điều chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau. Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, phạm vi nghiên cứu luận văn thạc sĩ được giới hạn trong các văn bản pháp luật về thế chấp phần vốn góp như: BLDS năm 2015, Luật Doanh nghiệp 2014, Đất Đai năm 2013, Luật kinh doanh Bất động sản năm 2014...và một số văn bản có liên quan như: Nghị định số 163/2006/NĐCP ngày 29 tháng 2 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm vàNghị định số 11/2012/NĐCPngày22tháng02năm2012củaChínhphủvềsửađổi,bổsungmộtsốđiềucủaNghịđịnhsố 163/2006/NĐ-CPngày29tháng12năm2006củaChínhphủvềgiaodịchbảođảm... Nội dung luận văn giới hạn trong vấn đề lý luận vềthế chấp phần vốn góp được pháp luật Việt Nam quy định. Giới hạn khảo sát của luận văn là quá trình áp dụng pháp luật thế chấp phần vốn góp tại Việt Nam.Thông qua việc nghiên cứu trong phạm vi được đề ra ở trên, tác giả mong muốn cung cấp cho người đọc một cách tổng thể các quy định về hoạt động thế chấp phần vốn góp trong công ty. Trên cơ sở đó, nghiên cứu thực trạng,tình hình thế chấp phần vốn góp tại Việt namđể có thể đánh giá được mức độ bảo vệ của các quy định pháp luật trong thực tế. Đồng thời,dựa vào thực trạng đó để nghiên cứu về nguyên nhân của thực trạng trên từ đó đưa ra những giải pháp để tháo gỡ vướng mắc còn tồn tại. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tàiĐể có thể đạt được mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, đòi hỏi luận văn phải giải quyết các vấn đề sau:Thứ nhất, đề cập khái quát về nội dung về quyền tài sản, thế chấp tài sản, thế chấp phần vốn góp trong công ty và trình bày tổng quát việc hình thành việc thế chấp tài sản trong quy định của pháp luật Việt Nam.Thứ hai, phân tích, đánh giá, các quy định về thế chấp phần vốn góp trong công ty được hệ thống pháp luật Việt Nam quy định. Thứ ba, nêu và phân tích thực trạng thi hành pháp luật Việt Nam về thế chấp phần vốn góp trong công ty. Trên cơ sở đó phân tích nguyên nhân của thực trạng trên và đưa ra các giải pháp, đề xuất để đảm bảo tốt việc thực hiện những quy định về thế chấp phần vốn góp trong công ty.Những năm trở lại đây, thế chấp phần vốn góp trong công ty là vấn đề đang được nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều đối tượng quan tâm. Chọn hoạt động thế chấp phần vốn góp trong công ty làm đối tượng nghiên cứu, chúng ta có điều kiện đi sâu phân tích những vấn đề lý luận chung và các quy định của pháp luật của Việt Namvề vấn đề này, khẳng định tính tất yếu khách quan của việc thế chấp phần vốn góptrong quá trình phát triển kinh tế của thế giới và ở Việt Nam hiện nay. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứuluận văn đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam. Theo đó, người viết đặt các vấn đề về thế chấp phần vốn góp trong mối liên hệ, quan hệ với nhau,không nghiên cứu một cách riêng lẻ đồng thời có sự so sánh với các quy định đã hết hiệu lực cũng như sắp được áp dụng.Một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu được áp dụng:Phương pháp phân tích, phương pháp diễn giải: Những phương pháp này được sử dụng phổbiến trong việc làm rõ các quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm nói chung và thế chấp phần vốn góp nói riêng. Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh: Những phương pháp này được người viết vận dụng để đưa ra ý kiến nhận xét quy định của pháp luật hiện hành có hợp lý hay không, đồng thời nhìn nhận trong mối tương quan so với quy định liên quan hoặc pháp luật của các nước khác...Phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch: Được vận dụng để triển khai có hiệu quả các vấn đề liên quan đến thế chấp phầnvốn góp, đặc biệt là các kiến nghị hoàn thiện. Cụ thể như trên cở sở đưa ra những kiến nghị mang tính khái quát, súc tích người viết dùng phương pháp diễn dịch để làm rõ nội dung của kiến nghị đó... 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận vănKết quả đạt được của luận văn góp phần làm sáng tỏ phương diện lý luậntrong khoa học pháp lý của vấn đề thế chấp phần vốn góp trong công ty. Cụ thể:Xây dựng được khái niệm và đưa ra những tiêu chí cơ bản nhất để xác định thế chấp tài sản vốn góp trong công ty, phân tích thực trạng điều chỉnh pháp luật đối vớivấn đề này, chỉ ra những bất cập của pháp luật và đưara phương hướng hoàn thiện pháp luật về thế chấp phần vốn góp tại Việt Nam.Ngoài ra, những giải pháp hoàn thiện pháp luật là cơ sở quan trọng để các cơquan chức năng trong phạm vi, thẩm quyền của mình sửa đổi, bổ sung, hoàn thiệnpháp luật trong lĩnh vực tương ứng. Bên cạnh đó, luận vănsẽ là tài liệu tham khảo hữu ích không chỉ với đội ngũ giảng viên, sinh viên mà còn có giá trị đối với các cán bộ đang làm công tác hoạch định chính sách và xây dựng pháp luật về giao dịch bảo đảm ở Việt Nam. 6. Cơ cấu của luận văn Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văngồm 3 chương, cụ thể: Chương 1: Cơ sở lý luận về thế chấp phần vốn góp trong công ty. Chương 2: Thực trạng pháp luật về thế chấp phần vốn góp đối với doanh nghiệp hiện nay. Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam về thế chấp phần vốn góptrong công ty CHƢƠNG 1.CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THẾ CHẤP PHẦN VỐN GÓP TRONG CÔNG TY 1.1. Khái quát chung về thế chấp phần vốn góp 1.1.1. Cáckhái niệm liên quan đến thế chấp phần vốn gópHiện nay, đa phần người ta thường hiểu một cách đơn giản rằng: Thế chấpphần vốn góp trong công tycó nghĩa là dùng quyền lợi của chủ thể đã tiến hành góp vốn được ghi nhận trong điều lệ hay bút toán, sổ ghi củacông tyđể bảo đảm cho việc vay nợ nếu không trả đúng hạn. Tuy nhiên, xét trong quan hệ thương mại như hiện nay thì cách hiểu như trêncó phầnkhông chính xác.Xét dưới góc độ ngôn ngữ, xét về định nghĩa thì "Thế chấp" là một từ có nguồn gốc Hán Việt: "Thế là bỏ đi, thay cho" [13, tr.154], còn "Chấp là cầm, giữ, bắt" [2, tr. 394]. Trong khi đó, phần vốn gópđược xem là tài sản của cá nhân, tổ chức và được nhắc đếnlàcủa cải vật chất dùng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng. Khi phân loại tài sản theo chu kỳ sản xuất, ta có tài sản cố định và tài sản lưu động. Còn khi phân loại tài sản theo đặc tính cấu tạo của vật chất, ta có tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Như vậy, phần vốn góp được xem như là tài sản của các cá nhân, tổ chức dùng khi tham gia vào các mối quan hệ được pháp luật kinh tế điều chỉnh. Để có thể đưa ra một khái niệm cơ bản, từ điển tiếng Việt giải thích: "Thếchấp phần vốn góp là việc dùng [tàisản] dùng làm vật bảo đảm, thay thế cho số tiền vay nếu không có khảnăng trả đúng kỳ hạn"[23].Xuất phát từ ngữ nghĩa cơ bản của từ thế chấpphần vốn gópnhư trên thì chúng ta có thể hiểu đólà một cách thức mà bên có quyền và bên có nghĩa vụđã lựa chọnđể bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ thông qua phần vốn góp trong công ty; giá trịcủa phần vốn gópcó khả năng thay thế cho nghĩa vụ bị vi phạm. Từ đó, ta nhận thấy, thế chấp phần vốn góplà việc một bên dùng phần vốn góp trong công tymà chủ thể này đã tiến hành góp vốn bằng tài sản trước đóđể bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia vànếu bên thế chấp phần vốn góp không thực hiện nghĩa vụ dân sự thì sẽ phảichuyển giao phần vốn góp trong công tyđócho bên nhận thế chấp. Phần vốn góp trong công ty làm đối tượng củahoạt độngthế chấp do bên thế chấp đứng tên với tư cách là chủ sở hữu bị giới hạn quyền sở hữu (Quyền định đoạt), các bên cũng có thể thỏa thuận giao cho người thứ ba giữ tài sản thế chấp. Thế chấptài sản nói chung là một biệnpháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đã xuất hiện từ thời La Mã cổ đại. Theocác học giả La Mã, Luật về Cầm cố và Thế chấp là luật thứ hai xuất hiện sau Luậtvề quyền dụng ích. Hình thức đầu tiên của cách thức bảo đảm có tên gọi là FiduciaCum Creditore (còn được gọi là bán đợ). Người có nghĩa vụ chuyển giao một phầnquyền sởhữu đối với một số tài sản của mình (quyền định đoạt -Abusus)cho bên có quyền, khi người có nghĩa vụ thựchiện xong nghĩa vụ thì bên có quyền hoàn trả lại tài sản. Đây là biện pháp bảo đảmchuyển giao tài sảncùng với chuyển giao quyền sở hữu vật.Mặc dù vậy, hiện nay khái niệm chưa thể hiện rõ đượcmục đích cũng như bản chất của thế chấp tài sản nói chung và thế chấp phần vốn góp nói riêng trong các hoạt động kinh tế.Đồng thời, những khái niệm trên chưa được đề cập đến dưới phương diện là một khái niệm pháp lý trong bất kỳ văn bản pháp luật nào.Dướigóc độ pháp lý, phần vốn góp trong công ty theo quy định của BLDS 2015 là tài sản vô hình. Vậy nên thế chấp tài sản vô hìnhkhông phảilà một biện pháp bảo đảm mới ở Việt Nam, song trong thực tế không ít ngân hàng thương mại còn lúng túng khi xác lập các hợp đồng bảo đảm đối với loại tài sản này. Không chỉ các ngân hàng thương mại mà với nhiều nhà đầu tư nước ngoài trong đó có các ngân hàng không phải là người cư trú (offshore banks), cũng không đơn giản khi xác định được nhận thế chấp loại tài sản vô hìnhnào từ doanh nghiệp hay tổ chức tín dụng Việt Nam là bên vay vốn và đưa ra các điều khoản phù hợp nhất để bảo vệ quyền lợi của mình cho phù hợp với pháp luật Việt Nam hiện hành.Để có cái nhìn tổng quan về thế chấp phần vốn góp thì cần tìm hiểu một số khái niệm có liên quan. Theo đó, tại khoản 13 Điều 4 Luật doanh nghiệp năm 2014 đã đưa ra khái niệm về góp vốn, cụ thể:“Góp vốnlà việc góp tài sản để tạothành vốn điều lệ của công ty. Góp vốn bao gồm góp vốn để thành lập doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lập.”Như vậy, tài sản để tham gia vào việc góp vốn là rất đa dạng. Tuy nhiên, để tài sản góp vốn trở thành phần vốn góp, thì những tài sản trên phải đượctiến hành các thủ tụcđịnh giáđể xác định giá trị của tài sản góp vốn. Cụ thể, tại khoản 1 Điều 35 LDN quy định “Tài sản góp vốn có thể là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam...”. Từ những quy định trên cho thấy có sự phân biệt rõ ràng giữaphần vốn gópvàtài sản góp vốn.Tại khoản 21 Điều 4 LDNgiải thích về phần vốn góp như sau: “Phần vốn góplà tổng giá trị tài sản của một thành viên đã góp hoặc cam kết góp vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh. Tỷ lệ phần vốn góp là tỷ lệ giữa phần vốn góp của một thành viên và vốn điều lệ của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh...”. Theo các quy định của pháp luật, chủ sở hữu phần vốn góp (người góp vốn) có các quyền sau:Quyền tài chính: được phân chia lợi nhuận của doanh nghiệptương ứng với tỷ lệ giá trị phần vốn góp; gánh chịu phần lỗ tương ứng với tỷ lệ giá trị phần vốn góp nếu doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, khi đang hoạt động cũng như khi doanh nghiệp kết thúc hoạt động; nhận phần tài sản còn lại tương ứng với tỷ lệ phần vốn gópsau khi đã thanh toán hết các nghĩa vụ của doanh nghiệp khi doanh nghiệp bị giải thể, phá sản...Quyền phi tài chính như quyền biểu quyết, quyền thông tin...Ngoài ra, phần vốn góp với tư cách là một tài sảnvô hìnhcó thể giá trịđược bằngtiềnnên chủ sở hữu được tự do chuyển giao trong giao dịch dân sự. Tuy nhiên, việc chuyển giao này bị hạn chế bởi một số quy định theo LDN nhằm bảo đảm sự hoạt động lành mạnh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.Như vậy, phần vốn góp là một tài sản đặc biệt, được hình thành thông qua việc góp vốn vào doanh nghiệp và tồn tại song song với sự tồn tại của doanh nghiệp. Phần vốn góp không phải là tài sản cụ thể như những tài sản khi đem góp vốnmà là các quyền và mang tư cách pháp nhân khi tham gia hoạt động dân sự nói chung.Tài sản khi được người góp vốn đem góp vào doanh nghiệp theo một trình tự, thủ tục nhất định thì nó đã trở thành tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp (pháp nhân). Do đó, cá nhân người góp vốn không còn quyền sở hữu đối với tài sản đã góp vốn. Đổi lại, họ được công nhận là chủ thể sở hữu phần vốn gópcủa công ty được ghi trong điều lệ, bút toán sổ ghivà có các quyền lợi như đã nêu trên.Đối với hoạt động thế chấp quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp: Bộ luật dân sự 2005 thì tại Bộ luật dân sự 2015 đã hướng đến giao dịch bảo đảm có đối tượng theo hướng mở, tức là không quy định rõ ràng nhằm tránh việc bỏ sót một số đối tượngtài sảncó thế trở thành đối tượng trong giao dịch. Điều đó được quy định cụ thể như sau:Điều 317 quy định Thế chấp tài sản“ 1. Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp). 2. Tài sản thế chấp do bên thế chấp giữ. Các bên có thể thỏa thuận giao cho người thứ ba giữ tài sản thếchấp.” [3].Vì vậy,với những quy định trênBLDS năm 2015 đã thể hiện rõ việc thế chấp phần vốn góp chỉ là một bộ phận nhỏ trong hoạt động thế chấp tài sảnnói chungvà mang hầu hết các nét đặc trưng của hoạt động thế chấp tài sản. Đây là một khái niệm mang tính chất bao quát trên tất cả mọi phương diện của hoạt động thế chấp tài sản. Điều đó đã khẳng định một bước tiến trong hành lang pháp lý điều chỉnh về hoạt động thế chấp nói chung và thế chấp phần vốn góp trong công ty nói riêng trong mối quan hệ Dân sự. Ngoài ra, BLDS 2015 quy định về tài sản đảm bảo, không liệt kê chi tiết nhằm tránh tình trạng bỏ sót những loại hình tài sản khác trong các giao dịch đảm bảo nói chung và thế chấp nói riêng, cụ thể: Quy định tại Điều 295 về Tài sản bảo đảm: “1. Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu.2. Tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung, nhưng phải xác định được.3. Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai.4. Giá trị của tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm”.Nhưng tại BLDS 2015 cũng như LDN 2014 không đưa ra khái niệm về thế chấp phần vốn gópmà chỉ đề ra quy định chung.[36]Thông qua hoạt động của phần vốn góp trong công ty thì việc xác định phần vốn góp là một quyền tài sản đã có nhiều ý nghĩa quan trọng. Trong số các văn bản dưới luật, có thể dẫn chiếu tới Điều 10 của Hệ thống tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam (tiêu chuẩn số 12 về Phân loại tài sản) ban hành kèm theo Quyết định số 129/2008/QĐ-BTC của Bộ Tài chính về việc ban hành 06 tiêu chuẩn thẩm định giá ngày 31/12/2008. Theo đóquyền tài sản là một khái niệm pháp lý bao hàm tất cả quyền, quyền lợi và lợi tức liên quan đến quyền sở hữu, nghĩa là người chủsở hữu được hưởng một hay những quyền lợi khi làm chủ tài sản đó. Quyền sở hữu tài sản là một nhóm những quyền năng mà mỗi quyền năng có thể tách rời với quyền sở hữu và chuyển giao trong giao dịch dân sự, bao gồm: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt.Quyền tài sản gắn với lợi ích thu được từ quyền tài sản được gọi là tài sản thực và là đối tượng thẩm định giá. Quyền tài sản là tài sản vô hình.Quy định này đã công nhận quyền tài sản là một loại tài sản vô hình, khẳng định quyền sở hữu của chủ sở hữu quyền tài sản, đồng thời nhấn mạnh tới khía cạnh lợi ích kinh tế của quyền tài sản.Tuy nhiên, trên thực tế, quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp là một khái niệm khá trừu tượng, phần vốn góp trong công ty là quyền tài sản (tài sản vô hình) và do đó không thể giao được về mặt vật chất cho chủ nợ có bảo đảm.[31]Hơn nữa, chúng thể thiện quyền chủ nợ của người nắm giữ (chủ sở hữu) cổ phần hay phần vốn góp đối với công ty dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng chế định này. Do đó, thế chấplà biện pháp bảo đảm phù hợp nhất đối với phần vốn góp và cổ phần bởi vì thế chấp không đặt ra yêu cầu chuyển giao tài sản thế chấp cho bên nhận thế chấp và pháp luật Việt Nam công nhận thế chấp là biện pháp bảo đảm duy nhất đối với quyền đòi nợ. Trong khi Luật doanh nghiệp năm 2014 chỉ quy định về chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố,... đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp (khoản 6 Điều 50, điểm e khoản 1 Điều 182). Với quy định như trên thì BLDS, LDN đã điều chỉnh một cách tương đối hợp lý các vấn đề liên quan đến việc áp dụng những quy định về thế chấp phần vốn gópcủa quan hệ thương mại trong và ngoài nước, phù hợp với thực tiễn áp dụng tại Việt Nam. Tạo ra nền tảng pháp lý cơ sở cho các hoạt động nhằm hạn chế và kiểm soát các giao dịch bảo đảm ở nước ta trong tiến trình hội nhập kinh tế -quốc tế. Tuy nhiên, thông qua thực tiễn và những quy định về thế chấp thì có thế đưa ra khái niệm như sau: Thế chấp phần vốn góp là một hoạt động giao dịch bảo đảm được pháp luật dân sự kinh tếđiều chỉnhmà ở đó, bên thế chấp mang tài sản vô hình là phần vốn góp của mình (quyền lợi được quy định trong điều lệ hay bút kí, sổ ghi của công ty mà bên thế chấp đã tiế hành góp vốn trước đó) để đảm bảo cho một nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận thế chấp. Trong trường hợp, bên thế chấp không thực hiện nghĩa vụ dân sự đã cam kết trước đó thì tài sản đảm bảo là phần vốn góp sẽ do bên nhận thế chấp tiến hành các thủ tục xử lý tài sản đảm bảo theo quy định của pháp luật. 1.1.2. Bản chất của hoạt động thế chấp phần vốn góp trong công tyVới nhiều cách tiếp cận khác nhau khi tìm hiểuvề bản chất của thế chấpnói chung và thế chấp phần vốn góp đã giúp cho chúng ta hiểu được bản chất của hoạt động này.Dưới góc độ là một giao dịch dân sự nói chung thì:Bản chất của quan hệ thế chấp phần vốn góp trong công ty nhằmđảm bảo thực hiện hợp đồng tíndụngvà làquan hệ hợp đồng..." . Với cách tiếp cậnnày đã làm rõ được mối quan hệ giữa bên thế chấp với bên nhận thế chấp về việc:bên thế chấp dùng tài sảnlà phần vốn góp trong một công tycủa mình để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ đối vớibên nhận thế chấp. Theo đó, bên nhận thế chấp có quyền kiểm tra việc khai thác, sửdụng tài sản thế chấp của bên thế chấp để tránh trường hợp tài sản đó bị tiêu hủy,giảm sút giá trị, có quyền yêu cầu giao tàisản thế chấp để xử lý khi có sự vi phạm.Tuy nhiên, các quyền trên của bên nhận thế chấp đối với tài sản thế chấp mang tính"gián tiếp" thông qua hành vi thực hiện nghĩa vụ của bên thế chấp theo hợp đồng đãký kết mà không có quyền trực tiếp trên tài sản thế chấp. Nếu có hoạt động vi phạm diễn ra thì các nghĩa vụ đã cam kết thì bên nhận thế chấp chỉ có thể khởi kiện ra Tòa áncó thẩm quyềnđể yêu cầubên thế chấp thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ. Từ đó,ta nhận thấy,tính "bảo đảm" củahoạt động thế chấp phần vốn góp trong công ty sẽ diễn ra hoàn toàn phụ thuộc vào một bên. Trong trường hợp thế chấp là phần vốn góp thì việc này có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của các thành viên khác trong công ty.Từ đó,làm cho thế chấp phần vốn góp trong công ty trở thảnh đối tượng của nhiều mối quan hệ phức tạp khác.Khác với các loại hình giao dịch bảo đảm khác, thế chấp phần vốn góp trong công ty chịu sự điều chỉnh của nhiều mối quan hệ khác nhau và mang tính đa phương, đa chiều. Trong hoạt động này, phần vốn góp trong công ty được đưa ra thế chấp không gây ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của công ty.Ngoài ra, khi tiếp cận dưới góc độ là quyền bảo đảm thì "Thế chấp phần vốn góp trong công ty được xem là một biện pháp bảo đảmđược pháp luật ghinhận và bảo đảm thực hiện đối với các bên trong quan hệ thế chấp" [12].Theo đó, với bản chất là một biện pháp bảo đảm được pháp luật ghi nhận đãcho phép bên nhận thế chấp có quyền tác động trực tiếp đến tàisản thế chấp mà không phụ thuộc vào ý chí của bất kỳ chủ thể nào. Cụ thể,bênnhận thế chấp có quyền truy đòi tài sản đảm bảotừ sự chiếm giữ của bất kỳ ai (trừtrường hợp pháp luậtcó quy định khác) để xử lý và có quyền ưu tiên thanh toántrước từ số tiền thu được khi xử lý tài sản thế chấp.Trên cơ sở phân tích bản chất của hoạt động thế chấp phần vốn góp trong công ty cho chúng ta thấy rõ đây là một biện pháp bảo đảm và cónội hàm bao quát cả hai cách tiếp cận nêu trên, đó là biện pháp thế chấp vừa có yếutố vật quyền và yếu tố trái quyền.Như vậy, trên cơ sở hợp đồng thế chấp phần vốn góp trong công ty đượcxác lập (là quan hệ cótính trái quyền), bên nhận thế chấpphần vốn góptiến hành hoàn thiện quyền của mình trên tài sảnthế chấp để có quyền truy đòi và quyền ưu tiên thanh toán (là quan hệ có tính vậtquyền). Như vậy, thế chấp phần vốn góp là một biện pháp chứa đựng cả yếu tố trái quyền và cảyếu tố vật quyền, chúng tương hỗ cho nhau để thực hiện tốt nhất chức năng bảođảm của mình mà không có sự đối lập với nhau.Hợp đồng thế chấpphần vốn góp trong công ty chịu sự điều chỉnh của BLDS, LDN và một số văn bản có liên quan. Đồng thời, hoạt động nàycòn có mối quan hệ phụ thuộc về hiệu lựcđối với hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ cần được bảo đảm thực hiện.Tuynhiên, trong xu thế phát triển của nền kinh tế theo hướng minh bạch hóa tình trạngpháp lý của tài sản, đăng ký công khai phải được coi là căn cứ để xác định quyền ưutiên giữa các chủ thể cùng có lợi ích liên quan đến thế chấp phần vốn góp trong công ty đã và đang tạo tiền đề cho sự phát triển của doanh nghiệp nói chung.1.1.3. Đặc điểm pháp lý của tài sản thế chấp là phần vốn góp theo pháp luật Việt NamTheo PGS. TS Ngô Huy Cương, thế chấp nói chung có bốnđặc điểm chủ yếu như sau:Đặc điểm thứ nhất: Thế chấp là một vật quyền.Đặc điểm thứ hai: Thế chấp là một quyền phụthuộc.Đặc điểm thứ ba: Thế chấp đối kháng với người thứ ba.Đặc điểm thứ tư: Thế chấp không thể bị phân chia.[Ngô Huy Cương, “Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”, Bài giảng điện tử, 2015].Xét từ các đặc điểm chung này cho thấy: (1) Thế chấp phần vốn góplà một vật quyền phụ thuộc mặc dù phần vốn góp là tài sản vô hình. Thông thường tài sản hữu hình liên quan tới vật; còn tài sản vô hình liên quan tới quyền. Tuy nhiên quan niệm về vật từ thời La Mã cổ đại đã được các luật gia mở rộng tới cả các tài sản vôhình. Khẳng định thế chấp phần vốn góp là một vật quyền phụ thuộc có ý nghĩa lớn trong việc áp dụng luật, có nghĩa là các qui tắc thế chấp có thể áp dụng chung tất cả cácthế chấp không kể đối tượng của thế chấp là tài sản vô hình hình hay hữu hình. Tuy nhiên khi bắt giữ tài sản để lấy nợ trên giá bán, thì buộc phải có các qui chế pháp lý khác nhau để áp dụng riêng cho việc bắt giữ hay xử lýtài sản vô hình. Đối với tài sản vô hình cũng có những qui chế pháp lý khác nhau trong việc xử lý tài sản thế chấp, chẳng hạn việc xử lý tài sản thế chấp là phần vốn góp có sự khác biệt với xử lý tài sản là quyền sở hữu trí tuệ... (2) Thế chấp phần vốn góp đối kháng lại với người thứ ba. Điều này có nghĩa là khi người nhận thế chấp phần vốn góp đã đăng ký thế chấp thì có quyền theo đuổi phần vốn góp chống lại các chủ nợ khác và có quyền ưu tiên lấy nợ trên giá bán phần vốn góp đó. (3) Thế chấp phần vốn góp không thể bị phân chia, có nghĩa là người nhận thế chấp có quyền lấy nợ trên toàn bộ các phần của phần vốn góp đó dùphần vốn góp đó bị phân chia ra cho những người khác. Pháp luật Việt Nam hiện hành không có đầy đủ các qui tắc để bao quát toàn bộcác đặc điểm nói trên của thế chấp bằng phần vốn góp. Vì vậy nếu xuất phát từ các qui định của Bộ luật Dân sự năm 2015 chúngta có thể thấy những hệ quả có thể khác phần nào.Qua nghiên cứu, phân tích một số khái niệm cũng như bản chất của hoạt động thế chấp phần vồn góp trong công ty theopháp luật Việt Nam, có thể rút các đặc điểm pháp lý cơ bản sauvềthế chấpphần vốn góp trong công ty:Thứ nhất, hoạt động thế chấp tài sản nói chung và thế chấp phần vốn góp nói riêng phải đặt trong sự chi phối có tính lôgicvới chếđịnh về quyền sở hữu và được đặt bằng những nền tảng cơ bản củahọc thuyết về sởhữunói chung. Và phần vốn góptrong công ty có chủ sở hữu mang tính tập thể và là của doanh nghiệp. Quyền sở hữutheo quy định của pháp luậtlà căn cứ cơ bản để hình thành nên hoạt động thế chấp phần vốn góp của doanh nghiệp, bởi lẽ, chỉ có chủ sở hữu của tài sản mới có quyền dùng tàisản của mình thế chấp bảo đảm choviệc thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc của người khác.Thêm vào đó, trong phạm vi quyền sở hữucủa mình, chủ sở hữu của tài sản thông qua hợp đồng thế chấp phần vốn góp trong doanh nghiệp có thể chuyển giao quyền định đoạttài sản cho bên nhận thế chấp trong thời hạn bảo đảmthực hiện nghĩa vụ và chỉ còn giữ lại quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản. Chỉ có chủ sởhữu hay người được chủ sở hữu ủy quyền mới có thể thế chấp tài sản, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. BLDS năm 2015 của Việt Namkhoản 1, Điều 295 quy định: “ Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu...”Điều đó có nghĩa là chỉ có chủ sở hữu mới có quyền quyết định đưa tài (trong trường hợp này là phần vốn góp trong công ty) tham gia vào hoạt động thế chấp và trường hợp khác theo quy định của pháp luật Việt Nam. Tóm lại, việc xác định tài sản thế chấp đều xuất phát từ những nguyêntắc cơ bản của chế định tài sản và quyền sở hữu. Hai là, phần vốngóp trong công ty được đưa rathế chấp là đối tượng của hợp đồng thế chấp, là tài sản vô hình không thể chuyển giao cho các bên. Do vậy phảituân thủ các điều kiện nói chung của đối tượng hợp đồng là tính xác định (cụthể, chi tiết) và có thể chuyển giao trong các giao lưu dân sự. Tính xác định của tài sản thếchấp thể hiện ở hai giác độ: tính xác định về pháp lý và tính xác định về vật lý. Đốivới tài sản là vật, các bên phải xác định được vật đó là động sản hay bất động sản,người đang thực tế chiếm giữ là ai (nếu người chiếm giữ không đồng thời là chủ sởhữu đối với tài sản thì họ có mối quan hệ như thế nào với bên thế chấp), xác địnhđược giá trị của tài sản đó. Ngoài ra, phần vốn góp trong công typhảiđáp ứng tính xác định về chủ sở hữu của tài sản, tình trạng pháp lý của tài sản như:Được LDN quy định rõ ràng; có thểchuyển giao tronghoạt động thương mạibị chi phối bởi hai yếu tố: không bị pháp luậtcấm không phải là tài sản có gắn với yếutố nhân thân, có giá trị lịch sử, có giá trị tín ngưỡng, tâmlinh.Yếu tố có thể chuyển giao trong hoạt động kinh doanhcó thể giảithích là phần vốn góp trong công tycó thể chuyển nhượngđược, có thể chuyển dịch quyền sở hữu chongười khác để khấu trừ cho giá trị của nghĩa vụ mà biện pháp thế chấp bảo đảm.Ba là, phần vốn góp trong công tylà tiền đề để các bên xác lập hợp đồng thế chấpnhưng giá trị của phần vốn gópmới là nội dung mà bên nhận thế chấp hướng tới vìchỉ có giá trị của phần vốn gópmới bù đắp được giá trị của nghĩa vụ bị vi phạm.Theo quy định củapháp luật Việt Nam thì phần vốn góp của các cá nhân, tổ chức là tổng giá trị tài sản của một thành viên đã góp hoặc cam kết góp vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danhvà cả cổ phần chủ thể đó tham gia đóng góp vào các công ty cổ phần. Tỷ lệ phần vốn góp là tỷ lệ giữa phần vốn góp của một thành viên và vốn điều lệ của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty cổ phần.[35]Phần vốn góp trong công ty được thể hiện thông qua hoạt động góp vốn. Tài sản góp vốn theo quy định của LDN [5] luôn đa dạng và ởtrong tình trạng luôn có sự thay đổi chuyển hóa từdạng này sang dạng khác. Có thể tài sản góp vốnở giai đoạn giao kết hợp đồng thếchấp chưa hình thành nhưng sau đó đã hình thành và xác lập quyền sở hữu cho bênthế chấp; tài sản thế chấpcó thể là vật hữu hình tại thời điểm giao kết hợp đồng thếchấp nhưng sau đó bị tiêu hủy, mất mát, bán, trao đổi với người khác thì số tiền bảohiểm hay tiền thanh toán được coi như thuộc về tài sản thế chấp hoặc tài sản đó cóthể tăng hay giảm sút giá trị do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan tác động.Chính đặcđiểm này giúp cho bên nhận thế chấp cần có các biện pháp phù hợp để quản lý tàisản thế chấp, đúng hơn là quản lý giá trị của thế chấpphần vốn góp trong công tytrong suốt thời hạn thếchấp hoặcphải đưa vào hợp đồng các điều khoản thỏa thuận về hậu quả pháp lý củaviệc thay đổi tài sản góp vốn.Nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của bên nhận thế chấpthì pháp luật cũng cần có các quy định về thủ tục đăng ký thế chấp coi như là mộtcách thức để côngbố tình trạng pháp lýhạn chếđối với tài sản, để có tác dụng cảnh báo đốivới chủ thể khác có ý định xác lập các giao dịch tiếp theo.Bốn là, phần vốn góp trong công ty khi đem ra thế chấp vẫnlà tài sản vô hìnhthuộc quyền sở hữu củabên thế chấp. Chínhbởi vậy, trong thời hạn thế chấp, bên thế chấp vẫn có quyềnsử dụng, quyền hưởng lợi, cho thuê, thế chấp tiếpnếu có sự đồng ý từ bên nhận thế chấphay thực hiện các giao dịch khác đối với phần vốn góp này.Điều 2398 thuộc quyền IV phần các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ củaBLDS Pháp có quy định: "Động sản không thể trở thành đối tượng của thế chấp"[12],điều đó trên thực tế có thể ảnh hưởng đến việc đưa phần vốn góp là bất động sản ra thế chấp. Trong khi đó, tại Điều 369 của BLDS Nhật Bản [16] thìlạiquy định đối tượng củathế chấp làđộng sản. Tuy nhiên, nếu xét từ giác độ kinh tế của tài sản và tínhkhả thi trong việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bên thế chấp thì một số loại độngsản có tính đặc thù như phương tiện giao thông vận tải cơ giớihay các hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanhcũng có thể trở thành đốitượng của hoạt động thế chấp. Pháp luật của các nước theo hệ thống luật án lệ như Anh, Mỹcũng đã phát triển theo hướng động sản cũng có thể trở thành tài sản thế chấp thôngqua việc phát triển và hoàn thiện hệ thống đăng ký thế chấp động sản qua mạnginternet. BLDS năm 2005và nay là BLDS 2015của Việt Nam cũng quy định cả bất động sản và động sảnlà phần vốn góp trong công ty đều có thể dùng khi tham gia vào hoạt động thế chấp.Năm là, các quyền của bên nhận thế chấp đối với tài sản là phần vốn góp khi thế chấp không bịchấm dứt hoặc vô hiệu bởi các giao dịch được thiết lập sau đó liên quan đến tài sảnthế chấp. Mọi sự thay đổi đối với phần vốn góp trong công tyban đầu không làm mất đi tínhbảo đảm của nó đối với bên nhận thế chấp bởi bên nhận thế chấp hướng tới giá trịcủa tài sản thế chấp chứ không phải là các hình thức tồn tại của tài sản thế chấp.Sáu là, phần vốn góp trong công ty khi được đưa rathế chấp luôn có xu hướng xuất hiện những loại tài sảnmới bởi bản chất tài sản là một khái niệm "động"-Theo PGS.TS Ngô Huy Cương, ông cho rằng: Tài sản là một phạm trù động mà phạm vi của nó có thể thay đổi theo các giai đoạn phát triển kinh tế -xã hội nhất định. [28] Do đó, trong thực tiễn luôn xuất hiện những tàisản mới theo sự phát triển của kinh tế, kỹ thuật và khoa học như tài sản ảo trênmạng internet, uy tín, các dòng năng lượng, các khả năng đặc biệt của con người...Do vậy, bên cạnh những tài sản là phần vốn góp trong công tytruyền thống như nhà cửa, đất đai, ô tô, kho hàng... thì những loại tài sản góp vốn dùng để thế chấp mới đang được xuất hiện tạo điều kiện cho sựphát triển của hoạt động này ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. 1.2. Vai trò của hoạt động thếchấp tài sản là phần vốn góp đối với doanh nghiệpTrong sự phát triển kinh tế ở nước ta trong giai đoạn hiện naythì hoạt động thế chấp tài sản là phần vốn góp đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển doanh nghiệp. Cụ thể:Đối với chủ sở hữu phần vốngópkhi tham gia vào hoạt động thế chấp là hình thức đem phần vốn góplàm tài sàn đảm bảo để vay vốn tại các tổ chức tín dụng. Đó là hình thức huy động vốn nhanh chóng và hiệu quả đối với các cá nhân và tổ chức. Điều này rất thuận lợi vì chủ sở hữu vẫn sửdụng phần vốn góp của mìnhcủa mình trong thời gian vay vốn thế chấp đồng thời lại có thêm lượng vốn để phục vụ mục đích của mình. Nhưng hiện nay, lượng vốn mà các cá nhân và tổ chức vay được thấp hơn so với giá trị thực của phần vốn gópmà họ đem thế chấp, đa số các tổ chức tín dụngđều chỉ cho vay theo nguyên tắc 7/7, tức là 70% của 70% giá trị phần vốn góp. Điều đó có nghĩa người đi vay chỉ được vay trên dưới 50% giá trị. Điều này rất thiệt thòi cho người thế chấp phần vốn góp nói chung.Đối với các tổ chức tín dụngĐối với mỗi ngân hàng thì hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất. Khi cho vay, ngân hàng luôn kỳ vọng sẽ lựa chọn được khách hàng thực hiện các dự án của họ tốt để có thể hoàn trả cả gốc và lãi. Tránh rủi ro trong kinh doanh thì các tổ chức tín dụng đưa ra những tiêu chuẩn lựa chọn khách hàng để cho vay. Ví dụ: đánh giá mức độ tín nhiệm của khác hàng, khả năng tài chính của khách hàng, xác định các tài sản hữu hình khác của khách hàng. Để đảm bảo an toàn thì các tổ chức tíndụng yêu cầu thế chấp các tài sản có giá trị để đảm bảo các khoản vay. Các tài sản có giá trị lớn và tính thanh khoản cao thì việc cấp tín dụng của các ngân hàng càng đảm bảo. Vì vậy đem thế chấp phần vốn góp trong công tylà nguồn huy động vốn hiệu quả và nhanh chóng đối với các cá nhân và tổ chức khi cần vốn.Đối với các tổ chức kinh doanh tài chínhthì việc luân chuyển tiền tệ là hoạt động chủ yếu. Vì vậy việc nhận thế chấp là phần vốn góp trong công tyvà các tài sản đảm bảo khác là một trong những hoạt động giúp cho các tổ chức tín dụng đó hoạt động bình thường.Nhận phần vốn góp trong công ty làm tài sản để thế chấp có thể làm tăng lợi nhuận cho ngân hàng (thông qua lãi vay) và tăng lượng vốn dự trữ bằng tài sản của ngân hàng (phần vốn góp của công ty). 22Nhận thế chấp phần vốn góp trong công tynói riêng và các tài sản bảo đảm nói chung đều nâng cao trách nhiệm thực hiện cam kết trả nợ của bên vay, phòng tránh được những rủi ro có thể xảy ra.Ngoài ra, với hoạt động đưa tài sản vốn góp trong công ty tham gia hoạt động thế chấp đã góp phần kích thích sự phát triển của thị trường tài chính của Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thông qua đó, góp phần hình thành nên một thị trường tài chính vững mạnh ở nước ta khi tham gia vào sân chơi tài chính trong khu vực và trên thế giới.1.3. Hệ thống pháp lý về hoạt động thế chấp phần vốn góp của doanh nghiệp trong nền kinh tế Việt NamTrong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thì vấn đề huy động vốn giữ vai trò quan trọng của doanh nghiệp. Vốn của doanh nghiệp luôn luôn phải trong tình trạng linh động để cho doanh nghiệp có thể giữ vững và phát triển hoạt động của mình. Do vậy, để có thể huy động vốn thì hoạt động thế chấp giữ vai trò vô cùng quan trọng. Với sự phát triển của nền kinh tế hiện nay thì pháp luật sẽ điều chỉnh hoạt động thế chấp phần vốn góp ngày một hoàn thiện và chặt chẽ hơn, đồng thời với đó thì việc triển khai những quy định gọn, nhẹ trong các giao dịch tài chính bảo đảm nói chung và thế chấp nói riêng sẽ đảm bảo hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có sự chuẩn bị tài chính vững mạnh nhất khi tham gia vào những mối quan hệ thương mại trong nước và quốc tế. [29]Hoạt động thế chấp tài sản nói chung và thế chấp phần vốn góp nói riêng đóng vai trò quan trọng việc luân chuyển nguồn vốn cho doanh nghiệp và giúp doanh nghiệp định hướng hoạt động trongnhững điều kiện, hoàn cảnh thay đổi của nền kinh tế trong và ngoài nước. Hoạt động thế chấp phần vốn góp sẽ đưa ra các giải pháp tối ưu để doanh nghiệp lựa chọn khi có các vấn đề liên quan đến 23tài chínhvà nhằm mục đích đưa hoạt độngkinh doanh vận hành trong hành lang pháp lý, nắm bắt cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp trong tình hình mới.Hoạtđộngthếchấpphầnvốngóplà một công cụ hiệu quả để tái cơ cấu doanh nghiệp. Quan trọng hơn, đó là cách thức chủ yếu để các doanh nghiệp mở rộng và phát triển hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và đem lại thu nhập cho chủ sở hữu và các bên có liên quan. Nguyên tắc thế chấp phần vốn góp đó là việctạo ra giá trị cho cổ đông khi đứng trước những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải.Hoạt động thế chấp phần vốn gópở Việt Nam được quy định rải rác ở các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau và hiện chưa có một khung pháp luật hoàn chỉnh và thống nhất điều chỉnh lĩnh vực này. Các giao dịch thế chấp phần vốn góptùy từng trường hợp cụ thể, có thể liên quan và chịu sự điều chỉnh của các quy phạm pháp luật của Bộ luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản...Hoạt động thểchấp tài sản dưới sựđiều chỉnh cuảBộluật Dân sự2015: Theo đó, hoạt động thế chấp phần vốn góp nói riêng và hoạt động thế chấp nói chung được quy định từ điều 317 đến điều 327 và dưới phần quy định chung về phần bảo đảm thực hiện nghĩa vụ (từ điều 292 đến 308). Việc quy định chung về các giao dịch bảo đảm và quy định riêng về thế chấp tài sản đã hình thành nên cơ sở pháp lý về thế chấp tài sản nói chung cho doanh nghiệp. Khác với quy định của BLDS 2005 thì tại BLDS 2015 không quy định cụ thểnhững tài sản nào có thể đưa ra thế chấp. Việc không quy định rõ như trên đã mở rộng phạm vi tài sản có thể trở thành tài sản cho hoạt động thế chấp cho các tổ chức tín dụng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.Hoạt động thếchấp tài sản được quy định dưới góc độLuật doanh nghiệp 2014, những quy định tại khoản 13, 21 Điều 4 LDN về vốn góp và phần vốn 24góp; quy định về thế chấp phần vốn góp tại khoản 6 Điều 50, điểm e khoản 1 Điều 182 LDN 2014.Ngoài ra, tại Luật đất đai 2013, Luật kinh doanh bất động sản... đều có những quy định về thế chấp tài sản nói chung và tài sản là phần vốn góp trong công ty. Với việc quy định rõ ràng như trên đã phần nào hình thành nên nền tảng pháp lý cơ bản cho hoạt động thế chấp phần vốn góp trong công ty, tạo điều kiện để cho doanh nghiệp phát triển ở nước ta hiện nay.Hoạt động ban hành các văn bản hướng dẫn nêu trên đã giúp cho quá trình áp dụng những quy định của pháp luật về thế chấp phần vốn góp trong công tyở nước ta được thực hiện một cách hoàn thiện hơn. Trên cơ sở tuân thủ quy định của pháp luật Việt Namvà áp dụng trực tiếp trong hoạt động thương mại đãvà đang hình thành nên hệ thống pháp lý căn bản nhằm điều chỉnh vấn đề thế chấp phần vốn góp của doanh nghiệp phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn ở nước ta. Hình thành nền tảng pháp lý cơ bản trong việc thực thi pháp luật thế chấp tài sản nói chung và thế chấp phần vốn góp nói riêng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay,góp phầnhình thành nên thị trường tài chính và hoạt động của doanh nghiệp ở Việt Namhiện nay và trong tương lai.TIỂU KẾT CHƢƠNG ICó thể nói, BLDSlà cơ sở pháp lý quan trọng trong việc thiết lậphoạt động thế chấp nói chung trong nền kinh tế Việt Nam. Việc xác định đặc điểm có liên quan đến hoạt động thế chấp phần vốn góp trong công ty sẽ hỗ trợrất lớnlớn trong việc thiết lập các quy phạm pháp luậtchặt chẽ nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật về thế chấp tài sản nói chung và thế chấp phần vốn góp trong công tytại Việt Nam. Đây việc làm cần thiết cho nước ta khi các doanh nghiệp mở rộng thị trường, tăng nguồn ngoại tệ từ nước ngoài. Đồng thời, còn bảo vệ 25quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể khi tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế.Ngày nay, trong cơ chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, những quy định về thế chấp tài sản nói chungđã phần nào phát huy vai trò góp phần cho sự phát triển cho kinh tế thế giới trong việc tái cơ cấu doanh nghiệp và hình thành nên thị trường tài chính ở Việt Nam. Trong tương lai, pháp luật về thế chấp phần vốn gópvới những quy định rõ ràng hơn sẽ tạo thuận lợi cho các bên, tạo ra sự chủ động trong việc xây dựng và áp dụng một cách hoàn chỉnh vào từng quốc giatrong khu vực và trên thế giới.Thế chấp phần vốn góp trong công ty là một biện pháp có tính chất trao đổi trong quan hệ hợp đồng. Biện pháp thế chấp phần vốn góp được tạo lập từ hợp đồng thế chấp và bên nhậnthế chấp sẽ hoàn thiện quyền trên tài sản thế chấp thông qua việc đăng ký. Hiệnnay, dưới góc độ học thuật cũng như dưới góc độ pháp luật thực định đều không cókhái niệm chính thống về tài sản bởi tài sản luôn xuất hiện các dạng mới đa dạngvàphức tạp hơn. BLDS năm 2015 đã có những quy định đổi mới về quy định về tài sản một cách chung chung so với BLDS 2005 quy định dưới dạng liệt kê các dạng tồntại của chúng như vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Quy định này đãphần nào khắc phục nhữngbất cập dưới góc độ lý luận và thực tiễn áp dụng khi đã phần nào đãchỉ ra được bảnchất và những đặc trưng pháp lý của tài sản. Hệ thống pháp luật của nhiều nước trênthế giới đều thừa nhận: Tài sản là vật hoặc quyền mà con người có thể kiểm soátđược, trị giá được thành tiền.Xác định các điều kiện của tài sản thế chấp (thuộc quyền sở hữu của bên thếchấp, có thể chuyển giao trong các giao lưu dân sự), xác định phạm vi tài sản có thểthế chấp (tài sản thế chấp cần được xác định dưới dạng vật hoặcquyền, những tàisản không được dung làm tài sản thế chấp), tìm hiểu về cơ chế để hình thành nên hoạt độngthế chấpphần vốn góp trong 26doanh nghiệpnhằm khẳng định về tư cách chủ thể có quyền xử lý tài sảnlà phần vốn góp đã đem rathếchấp và các phương thức cơ bản để xử lý tài sản thế chấplà phần vốn góp, nguyên tắc xác định thứtự ưu tiên thanh toán... là những nội dung mang tính cốt yếu về mặt lý thuyết để tạocăn cứ cho việc phân tích đánh giá pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng liênquan đến nội dung của luận vănở chương 2
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan