Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em trong điều kiện hiện nay ở việt nam...

Tài liệu Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em trong điều kiện hiện nay ở việt nam

.PDF
125
528
94

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ LIÊN THANH TRA VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ LIÊN THANH TRA VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Hoàng Anh HÀ NỘI - 2014 2 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch­a tõng ®­îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n TrÇn ThÞ Liªn 3 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng Danh mục các sơ đồ MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN 7 TRẺ EM VÀ THANH TRA VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM 1.1. Khái niệm trẻ em, quyền trẻ em và bảo vệ quyền trẻ em 7 1.1.1. Khái niệm về trẻ em 7 1.1.2. Quyền trẻ em 9 1.1.3. Bảo vệ quyền trẻ em 12 1.1.4. Hệ thống bảo vệ trẻ em 13 1.2. 13 Pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em 1.2.1. Luật pháp quốc tế 13 1.2.2. Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền trẻ em 18 1.3. 23 Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em 1.3.1. Khái niệm thanh tra 23 1.3.2. Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em 26 1.4. 36 Mô hình thanh tra bảo vệ quyền trẻ em của một số quốc gia trên thế giới 1.4.1. Mô hình thanh tra viên vì trẻ em (Ombudsman for Children) 36 1.4.2. Hoạt động thanh tra vì trẻ em của tổ chức phi chính phủ (NGO) 37 1.4.3. Những kinh nghiệm về thanh tra quyền trẻ em trên thế giới có 38 thể được áp dụng ở Việt Nam 4 Chương 2: THỰC TRẠNG THANH TRA VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ 42 EM HIỆN NAY Ở NƯỚC TA 2.1. Tổ chức và hoạt động của thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em ở 42 Việt Nam 2.1.1. Giai đoạn 1990-2008 42 2.1.2. Giai đoạn từ khi Ủy ban Dân số, gia đình và trẻ em giải thể 44 đến nay (năm 2008-nay) 2.2. Kết quả thanh tra về quyền trẻ em của thanh tra Lao động - 47 Thương binh và Xã hội 2.2.1. Trong công tác tham mưu, tham gia xây dựng chính sách, 47 pháp luật liên quan đến lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em 2.2.2. Tiếp công dân, xử lý thư đơn và giải quyết khiếu nại, tố cáo 47 liên quan đến bảo vệ quyền trẻ em 2.2.3. Kết quả hoạt động thanh tra về quyền trẻ em 48 2.2.4. Đánh giá chung kết quả thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em 54 2.3. 56 Những hạn chế, bất cập trong thanh tra quyền trẻ em hiện nay 2.3.1. Hạn chế từ các quy định pháp luật 56 2.3.2. Hạn chế về nhận thức 74 2.3.3. Hạn chế về mô hình tổ chức của Thanh tra Lao động - Thương 77 binh và Xã hội 2.3.4. Hạn chế về nguồn nhân lực của thanh tra ngành Lao động - 79 Thương binh và Xã hội 2.3.5. Hạn chế về thẩm quyền của thanh tra Lao động - Thương binh 84 và Xã hội 2.3.6. Thiếu cơ chế phối hợp về thu thập thông tin, kiểm tra, thanh 85 tra về bảo vệ quyền trẻ em 2.4. Nguyên nhân của hạn chế, thiếu sót trên 87 Chương 3: 90 CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG THANH TRA VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM 3.1. Yêu cầu khách quan nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em 5 90 3.1.1. Bảo đảm thực hiện quyền, lợi ích trẻ em 90 3.1.2. Bảo đảm nguyên tắc pháp chế, kỷ luật, kỷ cương trong hoạt 91 động của thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội 3.1.3. Xuất phát từ những tồn tại, thiếu sót của hoạt động thanh tra 92 về bảo vệ quyền trẻ em 3.1.4. Phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính 92 3.2. 93 Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em 3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật 93 3.2.2. Hoàn thiện, đổi mới tổ chức Thanh tra Lao động - Thương 100 binh và Xã hội và hoạt động thanh tra bảo vệ quyền trẻ em 3.2.3. Tăng cường số lượng, nâng cao năng lực và đảm bảo điều 105 kiện làm việc đội ngũ công chức thanh tra ngành Lao động Thương binh và Xã hội 3.2.4. Phân định rõ thẩm quyền thanh tra, bảo vệ, chăm sóc trẻ em 109 giữa các cấp, các ngành 3.2.5. Tăng cường mối quan hệ phối hợp và trách nhiệm của các cơ 110 quan, tổ chức khác trong hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em KẾT LUẬN 112 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 114 6 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Tổng hợp kết quả tiếp công dân, xử lý đơn thư và giải 47 bảng 2.1 quyết khiếu nại, tố cáo về lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em từ 2011-2013 2.2 Tổng hợp kết quả thanh tra việc chấp hành quy định của 49 pháp luật đối với người lao động chưa thành niên tại doanh nghiệp của Thanh tra Bộ từ 2011-2013 2,3 Tổng hợp kết quả thanh tra việc chấp hành quy định của 50 pháp luật đối với người lao động chưa thành niên tại doanh nghiệp của Thanh tra Sở Lao động - Thương binh và Xã hội các tỉnh từ 2011-2013 DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ Số hiệu Tên sơ đồ Trang Tổ chức bộ máy Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh 45 sơ đồ 2.1 và Xã hội hiện nay 7 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trẻ em là chủ nhân tương lai của đất nước. Vị trí của trẻ em đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Ngày nay các cháu là nhi đồng. Ngày sau các cháu là người chủ của nước nhà, của thế giới" [28]. Ngày nay, tư tưởng đó của Bác Hồ vẫn tiếp tục được kế thừa, phát triển và hoàn toàn phù hợp với tư tưởng của thời đại "Trẻ em hôm nay - thế giới ngày mai". Vì vậy, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là một sự nghiệp lớn lao và hệ trọng. Sự nghiệp ấy đòi hỏi sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo của Nhà nước, kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Điều này được thể hiện trong từng bước xây dựng và hoàn thiện nhiều chính sách, pháp luật nhằm tạo một hành lang pháp lý cho công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Do đó, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở nước ta trong những năm qua có nhiều chuyển biến đáng khích lệ, các quyền của trẻ em đã và đang được cải thiện về nhiều mặt [17]. Trẻ em tự mình không thực hiện được các quyền mà phải dựa vào người lớn. Việc thực hiện quyền trẻ em chủ yếu phụ thuộc vào trách nhiệm của gia đình, nhà trường, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân. Mặc dù đã có sự nỗ lực rất lớn của các cấp, các ngành song sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc trẻ em đang đứng trước những thách thức cam go, nhất là các yếu tố nảy sinh do mặt trái của nền kinh tế thị trường mang lại. Khoảng cách giàu, nghèo, phân biệt về giới giữa các gia đình, giữa các vùng vẫn có xu hướng gia tăng làm cho nhiều trẻ em rơi vào cảnh thất học, nhiều trẻ em phải xa gia đình để kiếm sống; các áp lực về kinh tế, xã hội, lối sống thực dụng hay sự suy đồi của đạo đức làm tăng thêm nguy cơ trẻ em lang thang, trẻ em bị buôn bán, bị xâm hại tình dục, bị bóc lột sức lao động, bị bạo hành cả trong nhà trường, gia đình và ngoài xã hội. 8 Việt Nam là quốc gia có dân số trẻ với khoảng hơn 25 triệu trẻ em, chiếm khoảng gần 29% dân số. Trong đó, số trẻ mồ côi không nơi nương tựa và số trẻ em bị bỏ rơi là 126.248; số trẻ em khuyết tật là 326.327; số trẻ em là nạn nhân chất độc hóa học là 22.559; số trẻ nhiễm HIV/AIDS là 5.704 em; trẻ em làm việc xa gia đình là 6.056, số trẻ em bị tai nạn thương tích là 13.594... [5], [47], [48]. Chiếm tỷ lệ lớn trong tổng dân số với nhiều nhóm đối tượng trẻ em cần sự bảo vệ đặc biệt, trong khi đó, hệ thống bảo vệ, chăm sóc còn nhiều yếu kém, lạc hậu, kiến thức, trách nhiệm của những người chăm sóc trẻ em của gia đình và cộng đồng chưa bắt kịp thời tốc độ phát triển dẫn đến năng lực bảo vệ trẻ em trong gia đình, cộng đồng và những người chăm sóc trẻ em bị giảm sút; hệ thống quản lý nhà nước về bảo vệ quyền trẻ em liên tục điều chỉnh; mạng lưới cán bộ, cộng tác viên, tình nguyện viên tham gia công tác bảo vệ quyền trẻ em không ổn định nên việc cập nhật kiến thức và kỹ năng bảo vệ quyền trẻ em rất hạn chế; công tác kiểm tra, giám sát về bảo vệ quyền trẻ em còn rất ít... Tất cả các yếu tố đó đã và đang trở thành rào cản trong sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ trẻ em ở nước ta hiện nay; đồng thời, đây cũng là những thách thức không nhỏ đối với những người làm công tác bảo vệ trẻ em, trong đó có công tác thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em. Trước tình hình đó, thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em được xem là yêu cầu cấp thiết trong hoạt động quản lý nhà nước về chăm sóc và bảo vệ trẻ em. Là một trong các nhiệm vụ của Thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội, thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em thời gian qua đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận góp phần phát huy được những yếu tố tích cực, phát hiện được nhiều hiện tượng tiêu cực, từ đó có hướng xử lý kịp thời, nghiêm minh, đảm bảo pháp luật. Qua thanh tra cũng kiến nghị điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung nhiều chính sách trong công tác bảo vệ quyền trẻ em cho phù hợp. Tuy vậy, đây là một lĩnh vực quản lý rộng, liên quan đến nhiều cơ quan, tổ chức và mang tính "xã hội", nên thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em còn tồn tại nhiều 9 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi hạn chế, bất cập trong quá trình thực hiện. Bên cạnh hệ thống luật pháp, chính sách còn nhiều "lỗ hổng" thì thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hoạt động chưa hiệu quả, cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra về bảo vệ quyền trẻ em còn quá ít về số lượng, chưa đáp ứng về chất lượng so với yêu cầu quản lý nhà nước, các điều kiện để thực hiện công tác thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em còn nhiều thiếu thốn, chưa có cơ chế phối hợp nhằm tập hợp sức mạnh giữa các cơ quan, tổ chức trong hoạt động này… Do đó, việc nghiên cứu công tác thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em để góp phần điều chỉnh, sửa đổi cơ chế, chính sách nhằm đáp ứng với tình hình thực tiễn đất nước và nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp bảo vệ trẻ em càng trở nên cần thiết. Mặt khác, hiện nay ở nước ta, chưa có một công trình khoa học hay một đề tài nghiên cứu một cách toàn diện về thanh tra bảo vệ quyền trẻ em. Vì thế, trước yêu cầu cấp thiết của công tác quản lý nhà nước về bảo vệ, chăm sóc trẻ em, tôi chọn: "Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam" làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình với mong muốn làm sáng tỏ về lý luận và thực tiễn, đề ra các giải pháp nhằm nâng cao công tác thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em nói riêng, đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ trẻ em nói chung hiện nay ở nước ta. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trước đây, đã có một số nghiên cứu chuyên khảo về lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em như: "Pháp luật về quyền trẻ em ở Việt Nam", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1994); "Những điều cần biết về quyền trẻ em", của Vũ Ngọc Bình, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1996); Bộ tài liệu về lao động trẻ em của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2009); Bộ tài liệu thanh tra về lao động trẻ em - Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2012)... Một số công trình nghiên cứu về công tác thanh tra như: "Nâng cao năng lực hệ thống thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội", Đề án của Thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội (2013); "Các công 10 ước quốc tế về lao động trẻ em và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Hoàng Phương (2010); "Hoàn thiện pháp luật về lao động chưa thành niên trong điều kiện hội nhập quốc tế", Luận văn tiến sĩ Luật học, của Trần Thắng Lợi (2012). Hay một số bài viết: "Luật pháp quốc tế về quyền tham gia của trẻ em", Tạp chí Lao động - xã hội (2013); "Nâng cao nhận thức trong bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em", Tạp chí Gia đình - Trẻ em (2014)… Tuy nhiên, hầu hết các tác phẩm, các nghiên cứu mới chỉ mang tính chất chuyên đề, nghiên cứu chủ yếu về một vài nhóm quyền trẻ em, hoặc nghiên cứu ở tầm vĩ mô về hệ thống thanh tra ngành nói chung mà chưa có một nghiên cứu toàn diện, đầy đủ thuộc lĩnh vực thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em. Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn công tác thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em, từ đó đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em nói riêng và thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội là rất cần thiết. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài * Mục đích Luận văn dự kiến nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về thanh tra bảo vệ quyền trẻ em; đồng thời đánh giá thực trạng công tác thanh tra bảo vệ quyền trẻ em ở Việt Nam và gợi mở một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động này. * Mục đích Với mục đích nghiên cứu trên, các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể là: - Tổng hợp và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về quyền trẻ em, bảo vệ quyền trẻ em, thanh tra, tổ chức thanh tra và hoạt động của thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em nằm trong tổng thể Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội; có tham khảo mô hình tổ chức thanh tra vì trẻ em của một số nước trên thế giới. 11 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi - Phân tích thực trạng công tác thanh tra bảo vệ quyền trẻ em hiện nay ở Việt Nam, đánh giá những thành tựu đã đạt được và đặc biệt là những hạn chế, vướng mắc của công tác này, có lý giải các nguyên nhân cụ thể dẫn đến các hạn chế, vướng mắc đó. - Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra giải pháp hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động cùng các điều kiện để thực hiện mô hình đó nhằm mục đích cuối cùng là đổi mới, nâng cao hiệu lực và hiệu quả của công tác thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em nói riêng và quản lý nhà nước trong lĩnh vực Lao động - Thương binh và Xã hội nói chung. * Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: "Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam" - được nghiên cứu với tư cách là một trong những hoạt động thuộc phạm vi thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội trên phạm vi toàn quốc. - Về thời gian: Từ năm 2010 đến năm 2013. 4. Phương pháp nghiên cứu * Phương pháp luận Luận văn nghiên cứu vấn đề thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em một cách khách quan dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế và cải cách hành chính. * Phương pháp nghiên cứu cụ thể Để thực hiện mục đích và nội dung nghiên cứu trên, luận văn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp điều tra, khảo sát, so sánh, thống kê và một số phương pháp khác. Luận văn cũng kế thừa, tham khảo một số tài liệu, một số cuộc khảo sát, các báo cáo, kết luận thanh tra, báo cáo thống kê về nguồn nhân lực 12 Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Thanh tra Sở Lao động Thương binh và Xã hội các địa phương từ năm 2010 đến năm 2013. 5. Ý nghĩa và điểm mới của luận văn Với các kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn trong việc đúc kết một số vấn đề lý luận về thanh tra bảo vệ quyền trẻ em; đánh giá thực tiễn hoạt động thanh tra bảo vệ quyền trẻ em; đề xuất phương hướng và giải pháp đổi mới tổ chức và hiệu quả hoạt động của thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em nói riêng và tổ chức, hoạt động của Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội nói chung, đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý nhà nước trong tình hình mới. Đặc biệt, tác giả có tham khảo một số mô hình tổ chức bảo vệ quyền trẻ em trên thế giới, rút ra một số điểm có thể áp dụng tại Việt Nam, nhằm mục đích cuối cùng là nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em thuộc lĩnh vực mà tác giả luận văn đang công tác. Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho tất cả các cán bộ, công chức trong ngành Lao động - Thương binh và Xã hội hoặc bất kỳ ai quan tâm đến công tác thanh tra cũng như làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy lĩnh vực này. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em và thanh tra bảo vệ quyền trẻ em. Chương 2: Thực trạng thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay ở Việt Nam. Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em ở Việt Nam. 13 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM VÀ THANH TRA VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM 1.1. KHÁI NIỆM TRẺ EM, QUYỀN TRẺ EM VÀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM 1.1.1. Khái niệm về trẻ em Tùy vào góc độ tiếp cận của từng khoa học cụ thể, khái niệm trẻ em được hiểu ở nhiều cách khác nhau. Triết học xem trẻ em là một "khâu" tất yếu trong mối quan hệ biện chứng với tiến trình phát triển của xã hội. Con người sáng tạo ra lịch sử và trẻ em là con đẻ của thời đại, của xã hội. Sự phát triển của xã hội, tương lai của một quốc gia, dân tộc tùy thuộc vào việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em. Dưới góc độ tâm lý học, trẻ em là khái niệm được dùng để chỉ giai đoạn đầu của sự phát triển tâm lý, nhân cách của con người. Sự phát triển tâm lý, nhân cách của trẻ em giai đoạn từ lúc lọt lòng đến tuổi dậy thì là một trong những nội dung quan trọng trong nghiên cứu của các nhà tâm lý học. Theo đó, tâm lý học phân chia lứa tuổi trẻ em thành các giai đoạn khác nhau, ứng với sự phát triển và tiếp thu nhận thức khác nhau: Tuổi sơ sinh, tuổi hài nhi, tuổi mẫu giáo nhỏ, tuổi mẫu giáo lớn, tuổi nhi đồng, tuổi thiếu niên, tuổi thành niên mới lớn [21]. Xã hội học lại xác định trẻ em là người có vị thế, vai trò xã hội khác với người đã trưởng thành. Trẻ em là người chưa đạt đến sự phát triển đầy đủ về mặt thể chất và tinh thần để được coi là người lớn. Do đó, trẻ em được xã hội quan tâm, tạo điều kiện sinh thành, bảo vệ, nuôi dưỡng, chăm sóc để phát triển một cách toàn diện. Dưới góc độ pháp lý, khái niệm trẻ em thường được tiếp cận theo độ tuổi. Trên cơ sở độ tuổi, pháp luật xác định năng lực pháp luật và năng lực hành vi dành cho chủ thể đó. Điều này cũng đồng nghĩa với việc, một cá nhân được xem xét là người lớn hay trẻ em phụ thuộc vào ngày tháng năm sinh của 14 người đó tại thời điểm phát sinh quan hệ pháp luật. Hiện nay trên thế giới, độ tuổi để xác định một cá nhân là trẻ em có sự khác nhau, tùy thuộc vào mỗi quốc gia, mỗi nền văn hóa-xã hội. Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989 xác định: "Trẻ em là người dưới 18 tuổi". Tương tự, hầu hết các quốc gia Châu Âu, Bắc Mỹ đều xác định độ tuổi dưới 18 tuổi là trẻ em [48], [60]. Khoa học pháp lý Việt Nam hầu như chưa đưa ra một khái niệm cụ thể nào về sự điều chỉnh pháp luật chung đối với trẻ em mà chỉ một số ngành luật cụ thể đề cập đến các khái niệm liên quan đến trẻ em. Nhưng nhìn chung, tương đồng với các quốc gia trên thế giới, pháp luật Việt Nam cũng xác định một cá nhân là trẻ em thông qua độ tuổi tại thời điểm xác định. Theo quy định tại Điều 1 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì "Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi". Theo quy định này, trẻ em có hai đặc trưng, một là công dân Việt Nam và hai là độ tuổi được xác định là dưới 16 [5], [12], [38]. Như vậy, có thể rút ra khái niệm như sau: Trẻ em là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn phát triển của con người tính từ lúc sinh ra cho đến trước giai đoạn trưởng thành (thường dưới 18 tuổi), có thể chất, tâm sinh lý phát triển chưa đầy đủ cần được bảo vệ, chăm sóc, giáo dục để phát triển. Bên cạnh khái niệm trẻ em, trong khoa học pháp lý Việt Nam đã và đang sử dụng khái niệm người chưa thành niên. Hầu hết các ngành luật sử dụng khái niệm này như Luật Dân sự, Luật Hình sự, Luật Lao động, Luật Hành chính… Điều 18 Bộ luật Dân sự 2005 nêu định nghĩa về người chưa thành niên: "Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên". Trên cơ sở khái niệm được đã đưa ra, Bộ luật Dân sự cũng quy định năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên từ đủ mười sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi [39, Điều 20] và người chưa đủ mười sáu tuổi là người không có năng lực hành vi dân sự [39, Điều 21]. Bộ luật Hình sự trên cơ sở cách hiểu đồng nhất với quan điểm của Bộ luật Dân sự, tuy không đưa ra khái niệm thế nào là 15 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi người chưa thành niên, nhưng có quy định về trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên từ đủ mười bốn tuổi đến dưới mười sáu tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; từ đủ mười sáu tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm [37, Điều 12]. Như vậy trong pháp luật Việt Nam, để phân biệt hai khái niệm trên, có thể thấy rằng: Việc căn cứ để xác định một người là trẻ em hay là người chưa thành niên đều dựa vào độ tuổi được xác định của người đó. Cũng dựa vào độ tuổi được xác định đó, khái niệm trẻ em nằm trong khái niệm người chưa thành niên. Hay nói cụ thể hơn, trẻ em trong pháp luật Việt Nam nằm trong nhóm người chưa thành niên dưới mười sáu tuổi. Theo pháp luật quốc tế, cách hiểu người chưa thành niên được hiểu là đồng nhất với khái niệm trẻ em trên cơ sở xác định độ tuổi dưới 18. 1.1.2. Quyền trẻ em Quyền là một khái niệm được dùng để miêu tả một nguyên tắc có liên quan đến những lợi ích cơ bản mà con người được hưởng, không phân biệt đặc điểm hay hoàn cảnh của cá nhân đó [59]. Việc công nhận quyền của một cá nhân hay một nhóm cá nhân đồng nghĩa với trách nhiệm của những người khác trong việc hành động để thực hiện quyền của một cá nhân hay một nhóm cá nhân [12], [59]. Trước đây, quan niệm cho rằng, trẻ em do còn non nớt về thể chất và tinh thần, nên quyền trẻ em bao gồm những biện pháp nhằm che chở, bảo vệ khỏi mọi sự xâm hại; trẻ em cần phải được bảo vệ và chăm sóc một cách đặc biệt. Tuy nhiên, cách tiếp cận này vô hình chung đã coi trẻ em là đối tượng phụ thuộc, phải chịu sự chi phối hoàn toàn này không xuất phát từ góc độ "quyền của trẻ em" mà việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em như một sự bao dung, che chở, sự thương hại, ban ơn. Hiện nay, quan điểm về quyền trẻ em mang tính tiến bộ và tích cực hơn. Trẻ em được nhìn nhận là một chủ thể trong các mối quan hệ xã hội, mỗi 16 trẻ em là một cá thể được xã hội công nhận, do đó trẻ em cũng có quyền cơ bản của con người; các quyền của trẻ em được pháp luật tôn trọng và bảo vệ một cách đầy đủ hơn. Bên cạnh đó, trẻ em được hưởng một số quyền đặc thù mà chỉ trẻ em mới có như quyền được khai sinh, được áp dụng các biện pháp xử lý nhẹ hơn khi vi phạm hành chính hay được áp dụng mức hình phạt nhẹ hơn người đã trưởng thành khi có cùng một hành vi phạm tội…Trẻ em cũng có nhiều quyền ưu tiên hơn người lớn như quyền được chăm sóc sức khỏe ban đầu, được chăm sóc, được học tập, được bảo vệ, được tạo điều kiện để vui chơi… [19]. Theo cách hiểu của quốc tế, quyền trẻ em là quyền con người của trẻ em, bao gồm bốn nhóm quyền cơ bản là nhóm quyền sống còn, nhóm quyền phát triển, nhóm quyền được bảo vệ và nhóm quyền được tham gia. Nhóm quyền sống còn bao gồm quyền của trẻ em được sống và đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất để tồn tại như có mức sống no đủ, có nơi ở, dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe… Nhóm quyền phát triển bao gồm những điều kiện mà trẻ em cần có để phát triển đầy đủ nhất như quyền được hưởng giáo dục tiến bộ, vui chơi giải trí lành mạnh, tiếp cận thông tin, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, giữ gìn bản sắc dân tộc… Nhóm quyền được bảo vệ các quyền trẻ em được bảo vệ tránh mọi phân biệt đối xử, lạm dụng và bóc lột, được bảo vệ trước các tệ nạn xã hội như buôn bán trẻ em, xâm phạm tình dục, nghiện ma túy, bạo lực; bảo vệ trẻ em khỏi bị tra tấn, lạm dụng khi vi phạm pháp luật hình sự, không bị buộc phải tham gia vào các cuộc xung đột vũ trang, lao động nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm... Nhóm quyền tham gia bao gồm những điều kiện cho trẻ em nhiều cơ hội tham gia vào công tác xã hội, đóng vai trò tích cực trong cộng đồng và đất nước mình, bao gồm sự tự do diễn đạt, bày tỏ ý kiến và quan điểm về những vấn đề có liên quan đến cuộc sống của các em, được tự do tham gia hội họp hòa bình. Việt Nam là một trong số các quốc gia rất chú trọng đến bảo vệ quyền con người nói chung, trong đó có quyền trẻ em. Việt Nam cũng là nước thứ 17 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi hai trên thế giới, quốc gia đầu tiên tại Châu Á phê chuẩn Công ước quyền trẻ em. Các quyền trẻ em tại Việt Nam được ghi nhận khá đầy đủ, toàn diện và cụ thể hóa thông qua nhiều quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau và được cụ thể hóa bằng nhiều chương trình hành động, bao gồm các nhóm quyền: Quyền có quốc tịch và được khai sinh, quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, quyền sống chung với cha mẹ, quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự, quyền được chăm sóc sức khỏe, quyền được học tập, quyền vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch, quyền được phát triển năng khiếu, quyền có tài sản, quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã hội. Mỗi nhóm quyền lại được cụ thể hóa tại nhiều chế định pháp luật riêng nhằm cụ thể hóa các quyền đó thông qua việc quy định quyền của trẻ hoặc các hành vi cấm thực hiện để đảm bảo quyền của trẻ. Ví dụ, đối với nhóm quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự của trẻ em được cụ thể hóa bằng các quyền như: Trẻ em được pháp luật tôn trọng, bảo vệ tính mạng; cấm các hành vi xâm phạm đến thân thể, danh dự của trẻ như ngược đãi, đánh đập, bạo hành thể chất và tinh thần trẻ; cấm hành vi mua bán trẻ em dưới mọi hình thức; cấm sử dụng lao động trẻ em làm những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm…So sánh giữa cách hiểu về quyền trẻ em ở Việt Nam so với quốc tế, có thể thấy rằng, các quyền trẻ em tại Việt Nam là tương đối phù hợp và hài hòa với quyền trẻ em được quy định tại các công ước quốc tế. Đánh giá vấn đề này, Tổ chức Unicef tại Việt Nam nhận định: "Việt Nam đã có những nỗ lực đáng kể trong việc tạo khuôn khổ pháp lý thực hiện các quyền trẻ em, luật pháp và chính sách liên quan của Việt Nam ngày càng tương thích với các chuẩn mực quốc tế…" [48]. Như vậy, quyền trẻ em chính là những nhu cầu cơ bản của trẻ em được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trẻ em được hưởng mọi quyền và mọi tự do đã được nêu trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về quyền con 18 người mà không bị bất cứ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, nguồn gốc dân tộc và xã hội, tài sản, dòng dõi hoặc mối tương quan khác. Trẻ em là người chưa trưởng thành nên có quyền được chăm sóc và bảo vệ sự sống, tồn tại và phát triển. 1.1.3. Bảo vệ quyền trẻ em Bảo vệ quyền trẻ em là các biện pháp nhằm đảm bảo quyền trẻ em được thực hiện một cách đầy đủ. Do đặc điểm về sự phát triển chưa đầy đủ về cả tâm, sinh lý của trẻ em, nên việc bảo vệ quyền trẻ em chính là việc bảo vệ các quyền về chăm sóc, bảo vệ sự tồn tại và phát triển của trẻ từ khi sinh ra đến khi có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người trưởng thành. Ở cấp độ chung, bảo vệ quyền trẻ em là trách nhiệm của mọi công dân trong một xã hội đối với việc bảo vệ sự an toàn và chăm sóc trẻ em; những hành động giúp đỡ trẻ em khi một trẻ em có nguy cơ bị tổn hại hoặc đang bị tổn hại và loại trừ những yếu tố trong môi trường chăm sóc có thể gây tổn hại cho trẻ được coi là bảo vệ quyền trẻ em. Ở cấp độ cụ thể hơn, bảo vệ quyền trẻ em đề cập đến những dịch vụ được cung cấp bởi các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và các tổ chức phi chính phủ. Những dịch vụ này trực tiếp hướng tới việc giúp đỡ cho các gia đình và cộng đồng để thực hiện việc bảo vệ quyền trẻ em, đồng thời trực tiếp can thiệp khi một trẻ em bị tổn hại hoặc có nguy cơ bị tổn hại và cung cấp dịch vụ can thiệp được thiết kế để kiểm soát, thay đổi và hỗ trợ cho môi trường chăm sóc trẻ trong việc đáp ứng các nhu cầu chăm sóc của trẻ [12]. Như vậy, bảo vệ quyền trẻ em là một thuật ngữ đề cập đến trách nhiệm của cả cha mẹ, người chăm sóc, cộng đồng và hệ thống dịch vụ của chính phủ và phi chính phủ trong việc cung cấp dịch vụ để đảm bảo mọi trẻ em trong xã hội đều được đáp ứng sáu nhu cầu chăm sóc về thể chất, tình cảm, tâm lý, nhận thức, xã hội và đạo đức. 19 Ket-noi.com Ket-noi.com kho kho tai tai lieu lieu mien mien phi phi 1.1.4. Hệ thống bảo vệ trẻ em Hệ thống bảo vệ trẻ em bao gồm tất cả những thành phần của một xã hội được coi là có trách nhiệm đảm bảo an toàn, chăm sóc và bảo vệ cho trẻ em. Những thành phần chính trong một hệ thống bảo vệ, chăm sóc trẻ em là trường học, bệnh viện, trường mẫu giáo, các tổ chức của cơ quan chính phủ, phi chính phủ có trách nhiệm cung cấp các dịch vụ liên quan đến trẻ em, môi trường sống (môi trường tự nhiên, môi trường xã hội). Tất cả các thành phần trong hệ thống bảo vệ trẻ em cần phối hợp làm việc để đảm bảo rằng mọi trẻ em đều được chăm sóc, an toàn và bảo vệ. Hệ thống bảo vệ trẻ em còn bao gồm tất cả những đường lối, chính sách, pháp luật và kế hoạch hành động để định hướng cho việc đáp ứng các nhu cầu về chăm sóc, an toàn và bảo vệ của trẻ em trong một xã hội [12]. Trên cơ sở hệ thống chính sách, pháp luật đó, trong quá trình thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình, thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em cũng là một thành phần nằm trong hệ thống đó, góp phần bảo vệ, chăm sóc trẻ em. 1.2. PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM 1.2.1. Luật pháp quốc tế 1.2.1.1. Tuyên ngôn Giơnevơ, 1924 Quá trình công nghiệp hóa ở châu Âu (thế kỷ XVII - XIX) với sự khủng hoảng về lao động trong các công xưởng, hầm mỏ đã kéo theo tình trạng bóc lột sức lao động trẻ em một cách phổ biến. Thêm vào đó, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ I (1914 - 1918) đã đẩy hàng triệu trẻ em vào hoàn cảnh cùng khổ. Từ năm 1919, một số tổ chức cứu trợ trẻ em đã được thành lập ở Anh và Thụy Điển, Italia. Những năm tiếp theo, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã ban hành một số Công ước nhằm bảo vệ trẻ em trong các lĩnh vực lao động, việc làm và bảo trợ xã hội. Tuy nhiên, những văn kiện thời kỳ đó chưa đặt vấn đề dưới góc độ các quyền trẻ em. Đến năm 1924, khái niệm quyền trẻ em chính thức được đề cập trong luật pháp quốc tế, khi Tuyên ngôn Giơ-ne-vơ về quyền trẻ em được Hội Quốc 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan