ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ QUỲNH NGA
THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI QUYẾT YÊU CẦU
PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP LUẬT KINH TẾ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ QUỲNH NGA
THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI QUYẾT YÊU CẦU
PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP LUẬT KINH TẾ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ QUỲNH NGA
THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI QUYẾT YÊU CẦU
PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: Ts. Bùi Ngọc Cƣờng
Hà Nội – 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ QUỲNH NGA
THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI QUYẾT YÊU CẦU
PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: Ts. Bùi Ngọc Cƣờng
Hà Nội - 2012
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN 1 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 6 MỞ ĐẦU 7
CHƢƠNG 1: KHAI LUẬN VỀ PHA SẢN VA THẨM QUYỀN CỦA
TÒA AN TRONG GIẢI QUYẾT YÊU CẦU PHA SẢN 13
1.1. Khái quát về phá sản doanh nghiệp 13
1.1.1. Giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiê êp – Thủ tục thanh toán nợ
13
1.1.1.1. Thủ tục phá sản là thủ tục thanh toán nợ tâ p thể 17
ê
1.1.1.2. Thủ tục thanh toán nợ trong phá sản được tiến hành thông qua
cơ quan đại diện có thẩm quyền 19
1.1.1.3. Thủ tục thanh toán nợ trong vụ phá sản được tiến hành trên cơ
sở số tài sản còn lại của doanh nghiệp 20
1.1.1.4. Thủ tục thanh toán nợ trong giải quyết yêu cầu phá sản chỉ được
tiến hành sau khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền 21
1.1.1.5. Thanh toán nợ trong phá sản là thủ tục pháp lý có tính chất tổng
hợp 22
1.1.2. Các chủ thể tham gia quan hê ê tố tụng phá sản 23
1.1.2.1. Chủ thể yêu cầu giải quyết phá sản 23
1.1.2.2. Chủ thể có thẩm quyền giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
32
1.1.3. Các giai đoạn của giải quyết phá sản 40
1.2. Khái quát về thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá
sản doanh nghiệp 43
1.2.1. Cơ sở xác định thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết yêu cầu
phá sản doanh nghiê êp 43 2
1.2.1.1. Xuất phát từ bản chất của hiện tượng phá sản 44
1.2.1.2. Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của Tòa án trong hệ thống cơ
quan nhà nước 45
1.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến viê êc quy định thẩm quyền của Tòa
án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiê êp 46
1.2.2.1. Điều kiện kinh tế 46
1.2.2.2. Trình độ văn hóa và ý thức pháp luâ t của các chủ nợ và con nợ
ê
khi tham gia thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp 49
1.2.2.3. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của Tòa án mà đại diện là
Thẩm phán 49
1.2.3. Thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết phá sản theo quy định
pháp luật một số nước trên thế giới 50
1.2.3.1. Nhâ êt Bản 51
1.2.3.2. Hoa Kỳ 52
1.2.3.3. Pháp 53
CHƢƠNG 2: THẨM QUYỀN CỦA TÒA AN TRONG GIẢI QUYẾT
YÊU CẦU PHA SẢN DOANH NGHIỆP THEO QUY ĐỊNH PHAP
LUẬT VIỆT NAM HIỆN HANH – THỰC TIỄN AP DỤNG 56
2.1. Những quy định pháp luật hiện hành về thẩm quyền của Tòa án
trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp 56
2.1.1. Thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh
nghiê p 56
ê
2.1.2. Thẩm quyền của Tòa án trong giai đoạn thụ lý đơn yêu cầu và mở
thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiê êp 59
2.1.3. Thẩm quyền của Tòa án trong giai đoạn phục hồi hoạt động sản
xuất, kinh doanh 69
2.1.3.1. Về thành phần tham gia Hội nghị chủ nợ 70
2.1.3.2. Triệu tâ p và chủ trì Hội nghị chủ nợ 71 3
ê
2.1.3.3. Xem xét thông qua phương án phục hồi 73
2.1.3.4. Giám sát việc thực hiện phương án phục hồi 74
2.1.3.5. Đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh 75
2.1.4. Thẩm quyền của Tòa án trong giai đoạn thanh lý tài sản, các
khoản nợ 76
2.1.4.1. Các trường hợp Tòa án có thẩm quyền ra quyết định mở thủ tục
thanh lý 77
2.1.4.2. Giải quyết khiếu nại, kháng nghị 80
2.1.4.3. Xác định nghĩa vụ tài sản 81
2.1.4.4. Thẩm phán ra quyết định đình chỉ thủ tục thanh lý 83
2.1.5. Thẩm quyền của Tòa án trong giai đoạn tuyên bố doanh nghiê êp
phá sản 84
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về thẩm quyền của
Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp 87
2.2.1. Ap dụng quy định pháp luật về thẩm quyền của Tòa án trong giải
quyết yêu cầu phá sản doanh nghiê êp 87
2.2.2. Những hạn chế, thiếu sót trong viê êc áp dụng quy định pháp luật
về thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh
nghiê êp 92
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOAN THIỆN VA NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC THI PHAP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN CỦA TÒA
AN TRONG GIẢI QUYẾT YÊU CẦU PHA SẢN DOANH NGHIỆP
105
3.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện quy định pháp luật về thẩm quyền của
Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp 105 3.2. Một số
giải pháp cụ thể 108
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về phá sản doanh nghiê êp
nói chung và Thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản
doanh nghiê êp nói riêng 108
4 3.2.2. Về công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với ngành Tòa án để Tòa án
thực hiê ên có hiê u quả thẩm quyền của mình trong giải quyết yêu cầu
ê
phá sản doanh nghiê êp 114
3.2.3. Đối với cơ quan nhà nước 116
3.2.4. Hoàn thiê ên quy định pháp luật liên quan giúp Tòa án giải quyết
hiê êu quả yêu cầu phá sản doanh nghiê êp 117
KẾT LUẬN 119
DANH MỤC TAI LIỆU THAM KHẢO 121 5
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1. LPS : Luật phá sản
2. LPS 2004 : Luật phá sản năm 2004
3. LPSDN 1993: Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài Thủ tục phá sản thường chỉ được biết đến
như một thủ tục đòi nợ tập thể, trong đó mục tiêu quan trọng nhất là bảo
vệ và bảo đảm công bằng cho các chủ nợ, quyền lợi của doanh nghiệp bị
phá sản là vấn đề được cân nhắc sau, thậm chí pháp luật phá sản còn
trừng phạt đối với doanh nghiệp bị phá sản. Tuy nhiên, cùng với sự phát
triển của nền kinh tế thị trường, Viê êt Nam cũng như đa số các nước trên
thế giới , đều quan tâm xây dựng chế định pháp luâ êt về phá sản với mu
êc tiêu ha ên chế đế n mức thấ p nhấ t những hâ êu quả do phá sản gây ra,
bảo vệ quyền, lơ êi ić h hơ p ê pháp của các bên tham gia quan hê ê kinh tế
trước các rủi ro trong kinh doanh, từ đó góp phầ n ổ n đinh ê trâ êt tự xã
hô êi. Quá trình giải quyết phá sản là quá trình tương đối phức tạp với sự
tham gia của nhiều chủ thể khác nhau, trong số các chủ thể này, Tòa án
được biết đến như là một chủ thể có vị trí trung tâm, thẩm quyền quan
trọng ảnh hưởng đến việc giải quyết phá sản. Ý thức được tầm quan
trọng c ủa Luật phá sản (sau đây được viết tắt là LPS) nói chung và chế
định về thẩ m quyề n của Tòa án trong giải quy ết phá sản nói riêng , Đa
êo Luâ êt P há sản đầu tiên của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam được thông qua ngày 30 tháng 12 năm 1993 với tên go êi Luâ êt Phá
sản doanh nghiệp (sau đây viết tắt là LPSDN 1993) đã quy đinh ê cu ê thể
về thẩ m quyề n của Tòa án trong giải quyế t phá sản . Song trong quá
trinn h thực thi còn nhiều bất cập , không phù hơ êp với thực tế khách
quan , ngày 15 tháng 6 năm 2004 Luâ êt phá sản (sau đây được viết tắt là
LPS 2004) đã ra đời thay thế 7 LPSDN 1993. Tuy nhiên, do đươ êc ban
hành trong điề u kiê ên nước ta đang xây dựng nề n kinh tế thi êtrường
đinh ê hướng xã hô êi chủ nghiã , các quan hệ xã hội có nhiều biến động ,
hê ê thố ng pháp luâ êt lại chưa đồng bộ nên sau thời gian thực hiê ên , quy
đinh ê pháp luâ êt về thẩ m quyề n của Tòa án trong giải quyế t yêu cầ u
phá sản còn bô êc lô ê nhiề u bấ t câ. êp Để bảo vệ một cách có hiệu quả
nhất quyền và lợi ích chính đáng của các chủ nợ, người lao động, đồng
thời bảo vệ lợi ích của con nợ, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh
có hiệu quả, nâng cao vai trò chủ đa êo của Tòa án trong giải quyết phá
sản thì v ấn đề hoàn thiện pháp luật phá sản nói chung và các quy định
về thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản nói riêng
ngày càng trở nên cấp bách. Muốn thực hiện được những điều đó cần
phải có những nghiên cứu đánh giá tổ ng thể về lý luận cũng như thực
tiễn hoạt động của Tòa á n trong giải quyế t phá sả n từ đó tiế n hành điề
u chỉnh , bổ sung văn bản pháp luâ êt ta êo khung pháp lý nhằ m phát huy
mô êt cách có hiê êu quả nhất thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết phá
sản. Đó cũng chính là lý do người viết chọn đề tài: “Thẩm quyền của
Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiê êp” làm đề tài Luận
văn cao ho êc của minn h.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Từ khi được ban hành đến nay, LPS
đã được tìm hiểu, nghiên cứu dưới rất nhiề u góc đ ộ khác nhau. Tuy
nhiên, các công trình nghiên cứu trước đây thường mới chỉ đề cập, bàn
luận đến các vấn đề pháp lý cơ bản về phá sản hoặc nghiên cứu các thủ
tục cụ thể về quản lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản, về phục hồi doanh nghiệp, xử lý nợ của doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản v.v… 8 Chẳng hạn như: Bài viết “Đi tìm triết lý của Luâ êt
Phá sản”, của tác giả Phạm Duy Nghĩa trên Tạp chí nghiên cứu lập pháp
năm 2003 nêu lên sự cầ n thiế t của LPS, mô êt số kiế n nghị đối với
LPS; Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2004 của Tòa án nhân dân Tối cao:
“Cơ sở lý luâ ên và thực tiễn áp dụng các quy định của Luâ êt Phá sản về
thủ tục phá sản” Do Tiến sĩ Nguyễn Văn Dũng – Phó Viện trưởng Viện
khoa học xét xử Tòa án nhân dân Tối cao làm chủ nhiệm đề tài. Luận án
Tiến sĩ Luật học “Luâ t phá sản doanh nghiệp Việt Nam dưới góc độ
ê
Luâ t so sánh và phương hướng hoàn thiện” của tác giả Trương Hồng
ê
Hải bảo vệ năm 2004 tại Đại học Luật Hà Nội. Luận án đã có những
nghiên cứu, đánh giá LPSDN 1993 trong mối quan hệ so sánh với LPS
của các nước đồng thời rút ra những kết luận về những điểm tương đồng
hay khác biệt giữa các mô hình pháp luật phá sản này. Công trình nghiên
cứu “Pháp luâ êt phá sản của Việt Nam”, của PGS.TS Dương Đăng Huệ
là công trình nghiên cứu và đánh giá một cách đầy đủ và toàn diện về
các vấn đề liên quan đến phá sản, công trình đã có sự chú ý đến các chủ
thể tham gia thủ tục phá sản. Tuy nhiên, vì là một công trình bao quát
nên không thể nghiên cứu một cách chi tiết, sâu rộng về Thẩm quyền
của Tòa án với tư cách là một chủ thể đặc biệt trong tố tụng phá sản. Báo
cáo “Đánh giá thực trạng thực hiện, nghiên cứu, phân tích để khuyến
nghị hoàn thiện Luâ t Phá sản doanh nghiệp và các quy định pháp luâ t
ê
ê
có liên quan” của Bộ Tư pháp năm 2009 nêu lên vấ n đề ch ung về pháp
luâ êt phá sản , tình hình ban hành văn bản hướng dẫn và kết quả thực hiê
ên LPS 2004 và từ đó nêu lên kiến nghị hoàn thiện LPS 2004. Luận án
Tiến sĩ Luật học của Vũ Thị Hồng Vân bảo vệ tại khoa Luật – Đại học
Quốc gia Hà Nội với đề tài: “Quản lý và xử lý tài sản phá sản theo 9 quy
định của pháp luâ t phá sản Việt Nam”. Luận án đã tập trung nghiên cứu
ê
về thủ tục quản lý và xử lý tài sản phá sản, từ đó có phân tích, đánh giá
những bất cập, hạn chế của các quy định pháp luật. Tác phẩm: “Hoàn
thiện pháp luâ êt về thủ tục phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay”, là Luận văn Thạc sỹ Luật học năm 2009 của tác giả Trần
Thị Thu Trang. Luận văn cũng đã đề cập đến việc hoàn thiện quy định
pháp luật về vai trò của Tòa án trong giải quyết phá sản nhưng Luận văn
chưa nêu được cơ sở lý luận và thực trạng các quy định pháp luật về vấn
đề này. Ngoài ra, có nhiều công trình nghiên cứu, hội thảo khoa học có
liên quan đến vấn đề phá sản như: Hội thảo chuyên đề LPS – thực tiễn,
vướng mắc, kiến nghị của Tòa kinh tế - Tòa án nhân dân thành phố Hồ
Chí Minh năm 2006; Hội thảo đánh giá việc thực hiện Bộ luật tố tụng
dân sự và LPS của Tòa án nhân dân Tối cao năm 2007 v.v… Những
công trình nghiên cứu này tiếp cận LPS dưới nhiều góc độ (quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ tố tụng phá sản, nghiên cứu
các giai đoạn của thủ tục phá sản) nhưng việc tìm hiểu về thẩm quyền
của Tòa án trong giải quyết yêu cầ u phá sản còn rất ít hoặc chưa hệ
thống. Vì vậy, nằm trong yêu cầu sửa đổi, bổ sung các quy định của LPS
thì việc nghiên cứu đề tài này là rất cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn Mục đích nghiên cứu của đề tài
là nhằm làm sáng tỏ những cơ sở lý luận, sự cần thiết phải xây dựng quy
định pháp luật về thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết phá sản. Qua
đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị để xây dựng và hoàn thiện những quy
định về thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết yêu cầ u phá s ản với
mong muốn nhà làm luật sẽ tạo ra một chế định pháp lý để 10 Tòa án
phát huy được vai trò của mình trong giải quyết phá sản, nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích của các chủ thể liên quan cũng như duy trì trật tự xã
hội. Để thực hiện mục đích trên, Luận văn có những nhiệm vụ sau đây: Hệ thống hóa cơ sở lý luận của pháp luật Việt Nam về thẩm quyền của
Tòa án trong giải quyết yêu cầ u phá sản doanh nghiê êp; - Đánh giá thực
trạng pháp luật, thực tiễn thi hành quy định pháp luật Việt Nam hiện
hành về thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết yêu cầ u phá sản doanh
nghiê êp; - Kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về thẩm quyền
của Tòa án trong giải quyết yêu cầ u phá sản doanh nghiê êp.
4. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn LPS có nội dung đa dạng, phức tạp,
đề cập rất nhiều vấn đề, nhiều quan hệ tố tụng. Đề tài: Thẩm quyền của
Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp – Là đề tài hẹp,
do đó phạm vi nghiên cứu của Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những
vấn đề lý luận liên quan đến thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết phá
sản, còn về phương diện luật thực định chủ yếu tập trung nghiên cứu các
quy định về thẩm quyền của Tòa án và vấn đề thực thi các quy định đó
trên thực tế mà không nghiên cứu các mối quan hệ tố tụng khác.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu vấn đề Luận văn sử dụng phương pháp duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, những nguyên lý cơ bản của Chủ
nghĩa Mác - Lê Nin về kinh tế, quản lý nói chung và về pháp luật nói
riêng để giải quyết những vấn đề lý luận trên cơ sở điều kiện kinh tế - xã
hội của Việt Nam. Bên cạnh đó, Luận văn cũng sử dụng phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp phân tích, tổng hợp mang lại cho
Luận văn một cái nhìn 11 tổng quát về vấn đề nghiên cứu và làm cho
Luận văn có chiều sâu, có sự kết hợp lý luận và thực tiễn. Phương pháp
lịch sử, so sánh được sử dụng song hành trong quá trình nghiên cứu và
chỉ khi đặt quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền của Tòa án
trong giải quyết phá sản trong mối liên hệ với quy định pháp luật của
một số nước, pháp luật Việt Nam thời kỳ trước đó và với cả thực tiễn về
vấn đề thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết phá sản ta mới thấy được
những tiến bộ cũng như hạn chế của quy định pháp luật Việt Nam hiện
hành về quy định này.
6. Những đóng góp mới của Luận văn Đề tài nêu lên những vấn đề lý
luận và thực tiễn về thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết phá sản,
đồng thời đánh giá những tiến bộ và hạn chế của pháp luật Việt Nam liên
quan đến chế định này làm cơ sở cho việc hoàn thiện pháp luật phá sản
nói chung và pháp luật về thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết yêu
cầu phá sản doanh nghiệp nói riêng.
7. Nội dung Luận văn gồm các phần như sau: Ngoài lời mở đầ u , kế t
luâ ên và danh mu êc tà i liê êu tham khảo , Luận văn gồ m 3 chương và
đươ êc kế t cấ u như sau:
Chương 1: Khái luận về phá sản và thẩm quyền của Tòa án trong giải
quyết yêu cầ u phá sản doanh nghiệp
Chương 2: Thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản
doanh nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành – thực
tiễn áp dụng
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản
doanh nghiệp.
CHƢƠNG 1: KHAI LUẬN VỀ PHA SẢN VA THẨM QUYỀN CỦA
TÒA AN TRONG GIẢI QUYẾT YÊU CẦU PHA SẢN
1.1. Khái quát về phá sản doanh nghiệp
1.1.1. Giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiê êp – Thủ tục thanh toán nợ
Ý chí có vai trò rất quan trọng đối với giao dịch dân sự, kinh doanh
thương mại, là yếu tố cơ bản không thể thiếu để hình thành, thực hiện và
chấm dứt giao dịch dân sự, kinh doanh – thương mại, từ đó làm phát
sinh quyền, nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể trong giao dịch đó. Tự do ý
chí có giá trị nổi bật đó là sự hạn chế sự can thiệp của công quyền vào tự
do cá nhân và ý tưởng tự do ý chí ra đời thực sự nhằm tới mục tiêu mở
rộng tối đa các quyền tự do đối với tài sản, các lợi ích của cá nhân và thu
hẹp tối đa sự can thiệp của cơ quan nhà nước vào khu vực tư nhân. Tuy
nhiên, kinh tế sẽ không thể phát triển nếu các thỏa thuận được lập ra một
cách tự do, chính vì vậy nhà nước cần có sự can thiệp vào khu vực
quyền lợi tư. Sự can thiệp của nhà nước vào khu vực quyền lợi tư là rất
cần thiết bởi các lý do sau: Sự hạn chế bớt tự do ý chí xuất phát từ nhu
cầu bảo vệ người yếu thế trong xã hội trong một giao dịch cụ thể. Đây
cũng chính là lý do, mà việc giải quyết các tranh chấp trong dân sự, kinh
doanh – thương mại hầu hết cần có sự can thiệp của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền. Sự can thiệp của nhà nước vào khu vực quyền lợi tư là
do nhu cầu cân đối lợi ích của cá nhân với lợi ích chung của cộng đồng.
Một mặt con người 13 cần được tự do để phát triển đầy đủ và toàn diện
đúng với mục đích sống của chính mình, nhưng cộng đồng cũng cần
được duy trì và phát triển để trở thành cái nôi thực sự nuôi dưỡng cho
các ước mơ chung của con người và mỗi cá nhân. Ngoài ra, sự hạn chế
bớt tự do ý chí trong giao dịch dân sự, kinh doanh thương mại còn do
nhu cầu phát triển kinh tế có trật tự và đúng hướng theo sự lựa chọn
chung của toàn thể quốc gia. Mặt khác, theo Chủ nghĩa Mác – Lê Nin đã
khẳng định thì cái ý chí được nâng lên thành luật không phải từ trên trời
rơi xuống hay từ dưới đất mọc lên trong đầu các nhà làm luật một cách
ngẫu nhiên, tùy tiện mà bản thân nó được quy định bởi các điều kiện
sinh hoạt vật chất của giai cấp thống trị mà đại diện trực tiếp của nó là
nhà lập pháp. Điều này giải thích tại sao, cùng là quy định về việc Tòa
án có thẩm quyền đại diện cho nhà nước trong giải quyết yêu cầu phá
sản doanh nghiệp nhưng tên gọi, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
Tòa án ở các nước có nền kinh tế khác nhau được quy định là khác nhau.
Ngoài những lý do trên thì sự can thiệp của nhà nước trong giải quyết
phá sản doanh nghiệp còn xuất phát từ viê êc giải quyết yêu cầu phá sản
doanh nghiệp là vấn đề rất phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh
tế, xã hội khác nhau. Đó là việc: + Doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản
gây nên tình trạng thất nghiệp của những người làm công ăn lương ở các
doanh nghiệp bị phá sản đồng thời việc doanh nghiệp bị phá sản còn gây
ra rất nhiều hậu quả xấu cho xã hội. Mỗi khi doanh nghiệp bị phá sản thì
các doanh nghiệp làm ăn cùng doanh nghiệp phá sản đó cũng bị ảnh
hưởng theo phản ứng dây chuyền. + Bên cạnh đó, trong quá trình sản
xuất, kinh doanh mỗi khi thiếu vốn thì doanh nghiệp phải vay tiền của
ngân hàng, phải thế chấp tài sản, chính vì 14 vậy phá sản còn liên quan
đến lĩnh vực ngân hàng, lĩnh vực dân sự (cầm cố, thế chấp, kinh doanh
nhà đất) v.v… + Mỗi công dân muốn đứng ra kinh doanh cần phải xin
phép cơ quan nhà nước có thẩm quyền và phải chịu thuế theo luật định,
còn khi phá sản thì phải báo các cơ quan có trách nhiệm để khỏi phải
nộp thuế và chịu các nghĩa vụ xã hội khác. Việc pháp luật quy định điều
kiện để “khai sinh” doanh nghiệp nên cũng quy định cả những điều kiện
để “khai tử” chúng là hoàn toàn đúng đắn. Thanh toán nợ có nghĩa
chung nhất là bán tài sản của người mắc nợ để thanh toán cho các chủ
nợ. Chủ nợ và con nợ hoàn toàn có quyền thỏa thuận để dàn xếp việc trả
nợ và lấy nợ bằng nhiều cách khác nhau như xóa nợ, hoãn nợ, chuyển
đổi nợ thành vốn góp v.v… Một nguyên tắc chung trong giao dịch dân
sự là con nợ - nợ tài sản của chủ nợ thì phải có nghĩa vụ trả nợ và ngược
lại chủ nợ cho con nợ - vay thì có quyền đòi nợ. Tuy nhiên, thủ tục thanh
toán nợ trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp còn được xây
dựng trên quan niệm: Trong nền kinh tế cạnh tranh cao, một doanh
nghiệp không thể cạnh tranh sẽ mất vị trí và phải rời khỏi thương trường.
Dấu hiệu để xác định một doanh nghiệp mấ t khả năng cạnh tranh chính
là việc doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, để giải quyết việc phá
sản của doanh nghiêp này một cách nhanh chóng, hiệu quả thì thủ tục
thanh toán nợ đó vừa mang tính dân sự, kinh tế vừa phải mang tính tập
thể, các chủ nợ được đối xử công bằng, và quyết định đó có hiệu lực
ràng buộc với cả chủ nợ và con nợ. Khi phải giải quyết mối quan hệ nợ
nần giữa một con nợ với nhiều chủ nợ ở trạng thái mà sản nghiệp còn lại
của con nợ không còn đủ để thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với tất cả các chủ
nợ, thì thủ tục dân sự lại có một số khiếm khuyết như: 15 Thứ nhất,
trường hợp một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thường có rất
nhiều chủ nợ. Nếu sử dụng thủ tục lấy nợ trong dân sự thì sẽ có sự xuất
hiện đồng thời của nhiều vụ kiện dân sự trên thực tế và Tòa án không thể
thụ lý và giải quyết hết được, mặt khác chi phí đòi nợ lớn có thể làm tiêu
hao sản nghiệp vốn đã còn ít ỏi của con nợ và trực tiếp ảnh hưởng đến
lợi ích của các chủ nợ. Thứ hai, thủ tục đòi nợ trong dân sự chỉ cho phép
chủ nợ thực hiện quyền đòi nợ của mình khi khoản nợ đã đáo hạn. Vì
vậy, khi các khoản nợ không đáo hạn cùng một lúc sẽ dẫn đến tình trạng
“lo lắng” của các chủ nợ có các khoản nợ đáo hạn sau khi mà họ nhìn
thấy sản nghiệp của con nợ đã không còn hoặc còn rất ít và chắc chắn sẽ
không đủ để thực hiện nghĩa vụ thanh toán đối với mình. Ngay cả khi
các khoản nợ đáo hạn cùng một lúc thì theo thủ tục dân sự, cơ quan tài
phán cũng chỉ có thể ra phán quyết buộc con nợ có nghĩa vụ phải thanh
toán chứ không thể giải quyết thỏa đáng vấn đề con nợ không còn khả
năng thực hiện đồng thời tất cả các nghĩa vụ tài sản của mình. Tất cả
những khiếm khuyết đã phân tích của thủ tục thanh toán nơ ê trong dân
sự chỉ có thể được giải quyết bằng cơ chế lấy nợ của thủ tục phá sản,
trong điều kiện sản nghiệp của con nợ không còn đủ để đồng thời thanh
toán hết tổng số nợ, dù con nợ có trao toàn bộ sản nghiệp của mình cho
các chủ nợ thì rủi ro vẫn là quá lớn đối với các chủ nợ. Nếu có thể, bằng
một giải pháp nào đó và với sự trợ giúp của các chủ nợ, mà con nợ còn
có thể tiếp tục tồn tại thì cơ hội để thu hồi đủ số nợ cho các chủ nợ sẽ trở
nên hiệu quả hơn. Qua phân tích trên ta nhận thấy sự thiện chí của chủ
nợ có vai trò rất lớn, quyết định sự tồn tại của con nợ. Có thể nói, việc
thanh toán nợ trong thủ tục phá sản có nhiều ưu điểm hơn so với thủ tục
thanh toán nợ trong dân sự, đồng thời việc thanh toán nợ trong 16 thủ
tục phá sản khác với thanh toán nợ trong dân sự, kinh tế và điều đó được
thể hiện như sau:
1.1.1.1. Thủ tục phá sản là thủ tục thanh toán nợ tâ p thể Thứ nhấ t, tính
ê
tập thể của thủ tục phá sản được thể hiện ở chỗ tất cả các chủ nợ đều
được tham gia vào quá trình đòi nơ ê và thanh toán nơ ê . Khác với thanh
toán nơ ê trong dân sự l à các chủ nợ “ma ênh ai nấ y đòi”, trong thủ tu êc
phá sản các chủ nợ không thể tùy tiện đòi doanh nghiệp mắc nợ thanh
toán cho mình và doanh nghiệp mắc nợ cũng không đươ êc tự ý thanh
toán nơ ê cho riêng mô êt chủ nơ ê nào mà các chủ nợ đều phải gửi giấy
đòi nợ cho Tòa án trong thời hạn do luật quy định . Hế t thời ha ên do
pháp luâ êt quy đinh ê mà các chủ nợ không gửi giấ y đòi nơ ê đế n Tòa án
t hì coi như chủ nợ đã từ bỏ quyề n đòi nơ ê của mình, chủ nợ có tên
trong danh sách chủ nơ ê sẽ đươ êc chia thành các nhóm khác nhau và yêu
cầ u của c ủa các chủ nợ này sẽ được xem xét mô êt cách công bằ ng .
Thứ hai, thủ tục thanh toán nợ trong phá sản được thực hiện với sự tham
gia của một tổ chức có tính tập thể - Đó chính là Hội nghị chủ nợ. Đối
với các con nợ , họ không bao giờ mong muốn để doanh nghiệp mình bị
lâm vào tình trạng phá sản và họ luôn mong muốn khôi phụ c la êi đươ êc
khả năng hoạt động bình thường của mình để làm ăn có hiệu quả, đủ khả
năng trả nợ và tiếp tục tồn tại , phát triển. Còn các chủ sở hữu, các cổ
đông phải đối diê ên với nguy cơ mấ t hế t tài sản mà ho ê đã đầ u tư vào
doanh nghiê êp lâm vào tình trạng phá sản do họ là đối tượng được thanh
lý tài sản sau cùng. Bên ca ênh đó, khi một doanh nghiệp bị tuyên bố phá
sản là việc người lao động mất việc làm và kéo theo đó hàng l oạt hậu
quả như đói nghèo, tê ê na ên xã hô êi v .v…Vì vậy, viê êc chủ nơ ê và con
nơ ê cùng nhau tìm kiếm giải pháp để giải quyết khó 17 khăn cho doanh
nghiệp bị yêu cầu mở thủ tục phá sản vừa là nghĩa vụ vừa là quyền lợi
của doanh nghiệp và cả chủ nợ. Các giải pháp mà doanh nghiệp có thể
áp dụng để ra khỏi tình trạng phá sản rất nhiều như huy động thêm vốn,
bán các khoản nợ cho công ty mua bán nợ v.v… Nhưng dù là giải pháp
gì thì việc thương lượng với các chủ nợ về việc cơ cấu lại các khoản nợ,
phương án phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh có vai trò quan
trọng. Bởi các giải pháp khác chỉ có thể được thực hiện hiệu quả khi Hội
nghị chủ nợ thông qua phương án phục hồi hoạt động sản xuất, kinh
doanh. Chẳng hạn như, việc huy động thêm vốn của doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản là đi vay ngân hàng hoặc phát hành trái phiếu
hoặc huy động thêm vốn góp từ các tổ chức, cá nhân v.v… Tuy nhiên,
khi một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì khó có ngân hàng
nào dám cho vay vì ngân hàng lo sợ việc mình cho vay sẽ không thu hồi
được gốc và lãi là rất lớn, còn việc phát hành trái phiếu thì khó tìm được
nhà đầu tư nào mua. Bên ca ênh đó , khi doanh nghiê êp lâm vào tình
trạng phá sản nhưng doanh nghiệp có thiện chí trả nợ, xây dựng đươ êc
phương án phu êc hồ i hoa êt đô êng sản xuấ t kinh doanh thì cần được
pháp luật giúp đỡ để có thể rút lui khỏi thị trường, từ đó tìm cho mình cơ
hội mới. Pháp luật Phá sản thường có quy định Hội nghị chủ nợ có
quyền đề cử người đại diện tham gia vào Tổ quản lý, thanh lý tài sản; có
quyền thông qua hoặc không thông qua phương án phục hồi hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, pháp luật phá sản
không chỉ có nghĩa vụ bảo đảm việc thu hồi nợ một cách tối đa và công
bằng cùng lúc cho nhiều chủ nợ mà còn phải đảm bảo “tính nhân văn”
trong mối quan hệ giữa chủ nợ và con nợ. Thứ ba, việc thanh toán nợ
cho các chủ nợ trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp không
phải là việc thanh toán riêng lẻ mà là việc thanh toán chung. Khi bi êáp
du êng thủ tu êc thanh lý tài sản thì toà n bô ê tài sản của con nơ ê 18 đươ êc
đưa vào mô êt quỹ chung dùng để trả cho các chủ nơ ê d ựa trên số tài sản
còn lại của con nợ, tất cả các chủ nợ đều được thanh toán như nhau theo
một tỷ lệ tương ứng với khoản nợ của từng chủ nợ với mục đích đảm
bảo quyền lợi của các chủ nợ trên nguyên tắc công bằng và hợp lý.
1.1.1.2. Thủ tục thanh toán nợ trong phá sản được tiến hành thông qua
cơ quan đại diện có thẩm quyền Trong nền kinh tế thị trường, việc doanh
nghiệp phá sản là điều khó tránh khỏi, sự can thiệp của Nhà nước vào
hiện tượng này nhằm hạn chế tối đa những hậu quả tiêu cực và khai thác
những mặt tích cực của viê êc giải quyế t yêu cầ u phá sản doanh nghiê
êp. Thông qua pháp luật phá sản, Nhà nước có thể can thiệp vào quá trình
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, quá trình thanh toán nợ một
cách năng động và mềm dẻo. Để đảm bảo điều đó, thủ tục phá sản cũng
phải linh hoạt, mềm dẻo trong việc điều tiết mối quan hệ về lợi ích giữa
các chủ nợ và con nợ nhằm bảo vê ê quyề n lơ êi của các chủ thể tham gia
thủ tu êc phá sản, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tồn tại và duy trì
được trật tự kinh tế. Khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì
việc lấy nợ của các chủ nợ bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như sự tồn tại
cùng lúc của nhiều chủ nợ có quyền đòi nợ trên một sản nghiệp duy nhất
của con nợ và sản nghiệp đó không thể đồng thời thanh toán đủ cho tất
cả các khoản nợ hay chủ nợ lo sợ khi thương nhân kinh doanh thua lỗ
thường có xu hướng thực hiện hành vi tẩu tán sản nghiệp của mình.
Chính vì vậy, để đảm bảo tính hiệu quả cho việc thu hồi nợ của các chủ
nợ thì pháp luật phá sản phải chú trọng đến việc bảo toàn và phát triển
sản nghiệp của con nợ. Có sự khác biệt như vậy là do “nợ” trong vụ phá
sản thường là nợ khó đòi và con nợ thì đã mất khả năng thanh toán, nếu
cứ sử dụng các phương pháp đòi nợ thông thường thì không đạt kết quả,
19
- Xem thêm -