Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tham luận Thực trạng và giải pháp về công tác phòng, chống tham nhũng trong lĩnh...

Tài liệu Tham luận Thực trạng và giải pháp về công tác phòng, chống tham nhũng trong lĩnh vực giáo dục

.DOC
11
1547
81

Mô tả:

THAM LUẬN CỦA BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TẠI ĐỐI THOẠI VỀ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG LẦN THỨ 7 VỚI CHỦ ĐỀ “PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC” Thực trạng và giải pháp về công tác phòng, chống tham nhũng trong lĩnh vực giáo dục 1. Thực trạng về công tác phòng, chống tham nhũng trong giáo dục Ở Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo được (GDĐT) Chính phủ giao trọng trách quản lý nhà nước về giáo dục, bao gồm gần 40.000 cơ sở giáo dục (từ mầm non đến đại học) với hơn 1 triệu cán bộ, giáo viên và 23 triệu học sinh, sinh viên. Xác định công tác phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ quan trọng, vừa cấp bách, vừa lâu dài trong quá trình triển khai các nhiệm vụ chính trị của toàn ngành. Vì vậy, ngay sau khi Luật Phòng, chống tham nhũng (PCTN) được Quốc hội thông qua (ngày 29/11/2005), Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Chương trình hành động của Bộ thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng, trong đó xác định rõ mục đích, yêu cầu, nội dung, cách thức và phương pháp tổ chức thực hiện; có văn bản hướng dẫn toàn ngành thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến Luật PCTN; đồng thời thành lập Ban chỉ đạo thực hiện PCTN do Bộ trưởng làm Trưởng ban. Trong thời gian qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều nỗ lực và thể hiện rõ ý chí quyết tâm đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong lĩnh vực giáo dục bằng những hành động cụ thể như sau: 1.1. Nhằm ngăn chặn và đẩy lùi tiêu cực làm phát sinh tham nhũng, Bộ GDĐT đã tập trung chỉ đạo các đơn vị triển khai cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, qua đó đã tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm, chính, chí công, vô tư trong đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, viên chức, học sinh, sinh viên. Từ năm học 2006-2007 đến nay, toàn ngành tích cực triển khai Chỉ thị số 33/2006/CT-TTg ngày 8/9/2006 của Thủ tướng Chính phủ về chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục gắn với cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”; cuộc vận động “Mỗi thầy giáo, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” và phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực”. Các cuộc vận động và phong trào thi đua này mang dấu ấn đặc thù của ngành Giáo dục, do có sự chỉ đạo quyết liệt từ Trung ương đến địa phương, sự đồng lòng ủng hộ của toàn xã hội, cùng với quyết tâm cao của các nhà trường, nhờ đó, trật tự kỷ cương trong toàn ngành đã có sự chuyển biến căn bản, môi trường sư phạm lành mạnh được thiết lập lại, tạo bước đột phá để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. 1.2. Để triển khai các văn bản pháp luật về phòng, chống tham nhũng, Bộ GDĐT đã tiến hành rà soát và hoàn thiện các văn bản chỉ đạo của ngành, từ năm 2006 đến nay, Bộ GDĐT đã soạn thảo trình cơ quan có thẩm quyền ban hành và ban hành theo thẩm quyền 347 văn bản (2 Luật; 01 Nghị quyết của Quốc hội; 6 Nghị định; 1 Nghị quyết của của Chính phủ; 21 Quyết định và 4 Chỉ thị của Thủ tướng; 35 văn bản liên tịch; 277 văn bản của Bộ trưởng). Một số lĩnh vực có nguy cơ cao phát sinh tham nhũng như: công tác tuyển sinh, tuyển dụng, sử dụng nhà giáo và cán bộ quản lý, việc thành lập cơ sở giáo dục, phân bổ kinh phí, các khoản thu trong nhà trường, dạy thêm, học thêm... đã được Bộ GDĐT chú trọng ban hành các văn bản quy định cụ thể như: Quy định dạy thêm, học thêm (ban hành theo Quyết định số 03/2007/QĐBGDĐT ngày 31/01/2007), trong đó quy định rõ trách nhiệm của UBND các cấp, của các cơ quan quản lý giáo dục và của người đứng đầu cơ sở giáo dục trong việc quản lý dạy thêm, học thêm; Quy định về đạo đức nhà giáo (ban hành theo Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT ngày 16/4/2008) đã đưa ra những yêu cầu chuẩn mực rõ ràng về: phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, lối sống, tác phong, truyền thống đạo đức nhà giáo; Quy chế thực hiện công khai đối với cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân (ban hành kèm theo Thông tư số 09/2009/TT-BGDĐT ngày 07/5/2009) yêu cầu các cơ sở giáo dục: công khai cam kết chất lượng giáo dục và chất lượng thực tế, công khai điều kiện đảm bảo chất lượng cơ sở giáo dục và công khai thu, chi tài chính; kiểm tra mức chi cho giáo dục từ ngân sách địa phương, kiểm tra việc thu và sử dụng học phí, kiểm tra sử dụng ngân sách cho giáo dục, kiểm tra việc thực hiện kiên cố hóa trường, lớp và xây nhà công vụ. Các quy định trên đã góp phần tích cực ngăn ngừa các hành vi vi phạm đạo đức nhà giáo và các hành vi tham nhũng xảy ra trong đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Ngoài ra, Bộ GDĐT đã ban hành Chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học (Quyết định số 14/2007/QĐ-BGDĐT ngày 04/05/2007), Chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non (Quyết định số 02/2008/QĐ-BGDĐT ngày 22/01/2008) và hướng dẫn thực hiện theo chuẩn. Đặc biệt, Bộ GDĐT đã đề xuất với Chính phủ, Quốc hội để đưa vào Luật Giáo dục các quy định cụ thể về thành lập, đình chỉ hoạt động, sáp nhập, chia tách, giải thể trường; về công khai minh bạch trong hoạt động của các cơ sở giáo dục; về học bổng, học phí; về đạo đức nhà giáo; về những hành vi nhà giáo không được làm. Đồng thời, tích cực triển khai xây dựng chương trình và biên soạn tài liệu để đưa nội dung phòng, chống tham nhũng vào giảng dạy trong các trường trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, cao 2 đẳng và đại học từ năm học 2012-2013 theo Đề án của Chính phủ đã phê duyệt tại Quyết định số 137/2009/QĐ-TTg ngày 02/12/2009 của Thủ tướng Chính phủ. 1.3. Trong lĩnh vực công tác cán bộ, để phòng ngừa tham nhũng, Bộ GDĐT đã sắp xếp lại bộ máy tổ chức của Bộ; hoàn thiện quy định về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Bộ và các đơn vị thuộc Bộ; chú trọng đến công tác quy hoạch, bổ nhiệm, luân chuyển, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; triển khai trong toàn ngành Nghị định số 158/2007/NĐ-CP về chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức tại các cơ sở giáo dục và trong cơ quan Bộ; thực hiện trả lương qua tài khoản đối với 100% cán bộ công chức tại cơ quan Bộ và các đơn vị trực thuộc Bộ; đồng thời, thực hiện nghiêm túc việc kê khai tài sản, thu nhập cá nhân tại cơ quan Bộ và chỉ đạo toàn ngành thực hiện đối với các đối tượng theo quy định của Chính phủ về minh bạch tài sản và thu nhập. 1.4. Thực hiện công khai, minh bạch góp phần hạn chế và đẩy lùi tham nhũng, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã giao nhiệm vụ cho các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ thực hiện dự toán theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính; xây dựng và thực hiện Quy chế chi tiêu nội bộ theo quy định của Bộ Tài chính để quản lý và sử dụng kinh phí hoạt động thường xuyên đảm bảo công khai, minh bạch. Đồng thời, Bộ đã tăng cường công tác quản lý tài chính kế toán về quản lý sử dụng nguồn thu học phí, lệ phí; sử dụng ngân sách, tiền, tài sản nhà nước; quản lý, sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản; quản lý và sử dụng vốn, tài sản tại các công ty khi tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp. Trong 2 năm qua, Kiểm toán Nhà nước đã thực hiện kiểm toán sử dụng ngân sách nhà nước của Bộ GDĐT và đánh giá Bộ GDĐT đã sử dụng tốt việc phân bổ, quản lý kinh phí, không có sai sót phải đề nghị xử lý. 1.5. Để công tác phòng, chống tham nhũng có hiệu quả, hàng năm, Thanh tra Bộ xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra công tác phòng, chống tham nhũng trên cơ sở hướng dẫn của Thanh tra Chính phủ và lồng ghép một số nội dung khác như: thực hiện Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Luật Khiếu nại, tố cáo; thực hiện “Quy chế thực hiện công khai đối với cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân”. Ngoài việc xây dựng và thực hiện kế hoạch thanh tra phòng, chống tham nhũng, Thanh tra Bộ còn triển khai kế hoạch thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành, thanh tra trách nhiệm của Thủ trưởng đơn vị, tập trung vào một số lĩnh vực như: sử dụng vốn cấp cho các dự án, việc tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, quản lý và sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng, mua sắm thiết bị trường học; công tác tuyển sinh, công tác tổ chức đào tạo và thực hiện các khoản thu, chi. Riêng năm 2009, Thanh tra Bộ đã tiến hành thanh tra hành chính, phòng, chống tham nhũng được 24 đơn vị; từ đầu năm 2010 đến nay đã tiến hành thanh tra được 10 đơn vị và hàng chục các cuộc thanh tra chuyên ngành. Nhìn chung, các 3 cuộc thanh tra đã góp phần giúp các cơ sở giáo dục thấy rõ được những kết quả đã làm được và những hạn chế, thiếu sót, trên cơ sở đó chấn chỉnh các hoạt động ở tất cả các khâu trong quá trình tổ chức giáo dục đào tạo tại đơn vị, kịp thời khắc phục những sai sót và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật. Công tác phòng, chống tham nhũng đã được thực hiện có hiệu quả ngay từ cơ sở trong ngành. 1.6. Thực hiện đẩy mạnh cải cách hành chính, thực hiện Quy chế công khai đối với cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân, cùng với việc triển khai mạnh mẽ cải cách hành chính, thực hiện cơ chế hành chính “một cửa”, đặc biệt là cải cách, đơn giản hoá thủ tục hành chính nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan chức năng thuộc Bộ và các cơ sở giáo dục, nhờ đó đã hạn chế và từng bước đẩy lùi tiêu cực làm phát sinh tham nhũng trong giáo dục. Đến tháng 5/2010, 100% các cơ sở giáo dục (gồm 376 trường đại học, cao đẳng) đã công khai thực hiện 3 công khai trên mạng thông tin của trường và gửi báo cáo về Bộ. Báo cáo của các trường đã cung cấp những thông tin cơ bản về số lượng và cơ cấu đội ngũ giảng viên theo trình độ; về quy mô đào tạo; về diện tích đất đai; về diện tích sàn xây dựng phục vụ trực tiếp công tác giảng dạy và học tập; về tình hình tài chính; về chuẩn đầu ra... Đây là những thông tin rất thiết thực cung cấp cho học sinh và các bậc cha mẹ học sinh biết, đồng thời cũng là kênh quan trọng để các cơ sở giáo dục chịu sự giám sát của xã hội. Bộ GDĐT đã triển khai áp dụng thí điểm cơ chế “một cửa” tại cơ quan Bộ, bao gồm 9 nhóm công việc, bắt đầu từ tháng 5/2007; ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý, điều hành (thiết lập ổn định hệ thống địa chỉ email, giao dịch văn bản điện tử, đăng tải văn bản quy phạm pháp luật lên Website của Bộ, tổ chức hội nghị qua mạng) được tăng cường. Bộ đã ban hành Bộ thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực giáo dục và đào tạo (bao gồm 145 thủ tục, trong đó, số thủ tục hành chính do Bộ trực tiếp giải quyết là 67, do UBND cấp tỉnh giải quyết là 45, do UBND cấp huyện giải quyết là 29 và do UBND cấp xã giải quyết là 4). Bộ thủ tục hành chính này được đăng tải tại chuyên mục Cải cách hành chính trên Website của Bộ Giáo dục và Đào tạo. 1.7. Ban Cán sự Đảng Bộ GDĐT ra Nghị quyết về Đổi mới quản lý giáo dục đại học 2010-2012 và Bộ GDĐT tạo ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết của Ban Cán sự Đảng. Đến nay, các trường ĐH, CĐ đã tổ chức thảo luận công khai, dân chủ về hiện trạng chất lượng giáo dục của nhà trường, trên cơ sở đó đã ban hành Chương trình hành động của nhà trường, trong đó đề ra những nhiệm vụ cụ thể, phân công trách nhiệm của mỗi tổ chức, cá nhân và những việc cần làm ngay để khắc phục những yếu kém kéo dài trong nhà trường. Đây cũng là giải pháp quan trọng để khắc phục những tồn tại, hạn chế của giáo dục đại học hiện nay, góp phần thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng trong bậc học này. 4 1.8. Công tác phát hiện, xử lý các hành vi tham nhũng, lãng phí tại các cơ sở giáo dục đã được thực hiện một cách nghiêm túc, đúng quy định. Từ năm 2006 đến nay có 08 cơ sở trực thuộc Bộ, 02 cơ sở thuộc quản lý của các Bộ, ngành khác và 13 cơ sở thuộc quản lý của địa phương đã xử lý kỷ luật hoặc đề nghị các cơ quan pháp luật xử lý theo quy định hiện hành. 2. Một số hạn chế, tồn tại Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác phòng, chống tham nhũng trong lĩnh vực giáo dục còn một số hạn chế, tồn tại sau: 2.1.Trong dạy thêm, học thêm: Quản lý về dạy thêm, học thêm trước đây chưa được chặt chẽ, dẫn đến dạy thêm, học thêm tràn lan ở nhiều địa phương, nhất là ở khu vực thành phố, thị xã. Cá biệt, có một số nhà giáo đã cắt giảm chương trình chính khóa theo quy định để đưa vào dạy thêm, bắt ép học sinh phải học thêm để vụ lợi. Sau khi Bộ GDĐT có văn bản Quy định dạy thêm, học thêm, trong đó quy định rõ nguyên tắc tổ chức, trách nhiệm quản lý của UBND các cấp, của các cơ quan quản lý và của người đứng đầu các cơ sở giáo dục, nhờ đó, công tác quản lý về dạy thêm, học thêm đã có nhiều tiến bộ, tuy nhiên, vẫn cần phải tiếp tục chấn chỉnh, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm theo quy định của Bộ. 2.2. Trong lĩnh vực tuyển sinh đầu cấp: Tuyển sinh nói chung và tuyển sinh đầu cấp nói riêng cũng là một lĩnh vực đã nảy sinh tiêu cực, tham nhũng. Các hành vi vi phạm thường xảy ra ở các khâu: có gian lận về hồ sơ; tiêu cực trong việc tuyển sinh trái tuyến ở khu vực thành phố, thị xã; gian lận về các điều kiện xét tuyển đặc biệt trong công tác cử tuyển ở một số tỉnh miền núi và tuyển sinh các lớp hệ không chính quy ở các cơ sở giáo dục và các địa phương. Có hiện tượng tổ chức ôn luyện thi vào đại học, vào các lớp đầu cấp trái phép, thu học phí cao tạo ra tâm lý lo âu đối với các bậc cha mẹ học sinh và học sinh trước dư luận muốn thi vào trường nào thì phải học thêm các lớp dạy thêm do giáo viên hoặc trường đó mở. 2.3. Trong lĩnh vực thực hiện các khoản thu: Đây là lĩnh vực cũng đang gây nhiều bức xúc trong xã hội đối với một số cơ sở giáo dục từ giáo dục mầm non đến đại học. Qua một số vụ việc có hành vi vi phạm đã được phát hiện và xử lý cho thấy các vi phạm chủ yếu là: tự đặt ra các khoản thu đầu năm, đầu cấp ngoài quy định; mượn danh nghĩa Hội cha mẹ học sinh và gây quỹ các đoàn thể để ép các bậc cha mẹ học sinh và học sinh đóng góp; thực hiện thu học phí của các lớp không chính quy… việc quản lý và sử dụng các nguồn kinh phí này vẫn còn tồn tại những bất hợp lý. 2.4. Một số hành vi tham nhũng xảy ra trong lĩnh vực giáo dục tuy không phổ biến, thiệt hại về kinh tế không nhiều, song đã gây nên hậu quả xấu về nhiều 5 mặt, phần nào làm giảm uy tín của ngành, cũng như uy tín và danh dự của các nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, giảm sút lòng tin của nhân dân đối với một số cơ sở giáo dục, tạo nên những vật cản cho quá trình phát triển của giáo dục nước nhà như: mua bằng, bán điểm trong giáo dục đại học và giáo dục nghề; mua bán chứng chỉ... Bên cạnh đó, ở một số cơ sở giáo dục, đấu tranh phòng, chống tham nhũng chưa trở thành trách nhiệm tự giác và thường trực của mỗi cá nhân, tập thể, còn mang tính hình thức, đối phó, vì vậy hiệu quả của công tác này chưa cao. 3. Nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế 3.1. Việc triển khai thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng và Chương trình phòng, chống tham nhũng ở một số cơ sở giáo dục còn chưa đáp ứng yêu cầu, chưa tạo được ý thức chủ động, tự giác của các tập thể và cá nhân trong phòng ngừa, đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực, tham nhũng trong giáo dục. 3.2. Một bộ phận nhà giáo, cán bộ trong ngành trình độ quản lý còn hạn chế, ý thức tự học, tự bồi dưỡng và rèn luyện còn thấp; tác động của mặt trái của cơ chế thị trường, cộng với cuộc sống khó khăn một số cán bộ giáo viên đã chạy theo lợi ích trước mắt dẫn đến những hành vi, việc làm vi phạm những quy định của ngành, quy định của pháp luật làm nảy sinh tham nhũng. 3.3. Hệ thống chính sách, pháp luật về giáo dục chưa đầy đủ, chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được những đòi hỏi đang đặt ra đối với giáo dục; thiếu phối hợp, phân công chặt chẽ giữa Bộ GDĐT, các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trong quản lý các cơ sở giáo dục dẫn đến hiệu lực quản lý nhà nước còn hạn chế. Đánh giá chung: Công tác phòng, chống tham nhũng của ngành Giáo dục trong 4 năm qua đã được thực hiện một cách nghiêm túc với nhiều giải pháp đồng bộ, toàn diện và đã thu được một số kết quả tích cực trên cả hai phương diện phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng. Công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng đã được tổ chức triển khai toàn diện ở tất cả các cơ sở giáo dục. Do làm tốt công tác phòng ngừa, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và kịp thời phát hiện xử lý các hành vi tham nhũng; đồng thời Bộ đã ban hành các văn bản quy định khắc phục các yếu kém, sơ hở trong quản lý, nên đã hạn chế đáng kể các hành vi tham nhũng. Các vụ việc tham nhũng xảy ra trong lĩnh vực giáo dục không nhiều và quy mô không lớn. Đặc biệt, trong các lĩnh vực đầu tư xây dựng, mua sắm thiết bị giáo dục, các chương trình mục tiêu quốc gia được nhà nước đầu tư với số lượng tài chính rất lớn nhưng công tác kiểm toán hàng năm cho thấy chưa phát hiện có những sai phạm đáng kể phải xử lý hình sự. 4. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng trong lĩnh vực giáo dục 6 4.1. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng để nâng cao nhận thức và phát huy vai trò chủ động của toàn ngành trong công tác phòng, chống tham nhũng. 4.2. Tiếp tục xây dựng, rà soát, bổ sung hoàn thiện và đồng bộ hệ thống chính sách, pháp luật về giáo dục làm cơ sở pháp lý để góp phần đẩy mạnh công tác PCTN trong lĩnh vực giáo dục. 4.3. Đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục theo hướng đẩy mạnh phân cấp, trao quyền tự chủ cho cơ sở, địa phương. Hoàn thiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục trên cơ sở thực hiện Quy chế thực hiện công khai đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. 4.4. Đẩy mạnh hơn nữa cải cách thủ tục hành chính, tăng cường công khai, minh bạch trong tất cả các hoạt động giáo dục, đào tạo và tuân thủ nghiêm túc các quy định của pháp luật. Thực hiện nghiêm túc trách nhiệm giải trình trong các cơ sở giáo dục và các cơ quan quản lý nhà nước của Bộ GDĐT; nâng cao tính trách nhiệm, giải trình của cá nhân trong việc thực hiện các nhiệm vụ được giao. 4.5. Xây dựng và thực hiện cơ chế đảm bảo trách nhiệm cung cấp thông tin và quyền tiếp cận thông tin của công dân đối với hoạt động giáo dục đào tạo, trong đó có phần thư mục phản ánh về các hành vi tiêu cực, tham nhũng trong giáo dục trên trang Web của Bộ và Báo Giáo dục và Thời đại điện tử. 4.6. Cụ thể hoá các quy định về công vụ, công chức để nâng cao hiệu quả thực thi công vụ của cán bộ công chức trong toàn ngành. Tiếp tục bồi dưỡng Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng các trường Phổ thông và Đại học nhằm nâng cao trình độ quản lý. Tăng cường giáo dục đạo đức nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục thông qua cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. 4.7. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra trong phát hiện, kiến nghị xử lý các hành vi tham nhũng. 4.8. Tiếp tục kiến nghị với Đảng và Nhà nước có chính sách ưu tiên đầu tư cho giáo dục, đặc biệt là các chính sách đãi ngộ với đội ngũ cán bộ giáo viên trong ngành để họ có điều kiện yên tâm cống hiến cho sự nghiệp trồng người. Các giải pháp trên phải được tiến hành đồng thời, tuy nhiên cần tập trung thực hiện theo lộ trình ưu tiên như sau: - Trước mắt trong năm 2010 và năm 2011, triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó, tập trung vào các giải pháp nhằm thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình ở tất cả các khâu trong các cơ sở giáo dục thuộc hệ 7 thống giáo dục quốc dân, rà soát những việc, những khâu dễ nảy sinh tiêu cực, tham nhũng để có biện pháp ngăn chặn kịp thời. - Những năm tiếp theo, tập trung thực hiện các giải pháp về xây dựng và hoàn thiện các quy định về trách nhiệm thực thi công vụ và chuẩn đạo đức nghề nghiệp của cán bộ giáo viên trong ngành đồng thời tiếp tục kiến nghị Đảng, Nhà nước có cơ chế và chính sách ưu tiên phát triển giáo dục và từng bước nâng cao đời sống cán bộ giáo viên. Cuối cùng, thay mặt lãnh đạo Bộ GDĐT xin trân trọng cảm ơn các nhà tài trợ, trong thời gian qua, đã giúp đỡ cho ngành Giáo dục Việt Nam trong việc tăng cường nguồn lực, chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ Bộ GDĐT thực hiện các nhiệm vụ của ngành nói chung, trong công tác phòng, chống tham nhũng nói riêng. Tôi cũng xin được trân trọng cảm ơn các cơ quan thông tấn báo chí, đã thường xuyên quan tâm đến các hoạt động của ngành, chủ động phát hiện, phản ánh những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng trong ngành, giúp Bộ kịp thời chấn chỉnh và xử lý. Xin kính chúc các quý vị sức khoẻ, hạnh phúc. 8 Phụ lục Các hành vi tham nhũng đã được phát hiện và xử lý trong lĩnh vực giáo dục từ 2006 đến nay I. Các cơ sở giáo dục thuộc quản lý của Bộ GDĐT 1. Tại ĐHSPKT Hưng Yên: 01 giáo viên nhận tiền của sinh viên để photo bài giải thi hết môn (với số tiền: 24.200.000đ), hình thức buộc thôi việc (hành vi mua bán điểm). 2. Tại Đại học Quy Nhơn: 01 vụ lạm thu chi quỹ xe đạp, xe máy. Cơ quan điều tra khởi tố 01 Hiệu trưởng và 03 cán bộ nhân viên. 3. Tại Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương: 01 giáo viên yêu cầu sinh viên nộp tiền để chạy điểm, đã xử lý kỷ luật cảnh cáo (hành vi mua bán điểm). 4. Tại Đại Học Kinh tế quốc dân: 01 giáo viên yêu cầu sinh viên nộp tiền trong khi đang thực hiện nhiệm vụ hướng dẫn sinh viên làm đồ án môn học, đã bị xử lý kỷ luật cảnh cáo và chuyển làm công tác khác 01 năm. 5. Tại Đại học Sư phạm thuộc Đại học Đà Nẵng: Đã xử lý kỷ luật cảnh cáo 01 cán bộ văn thư qua tố cáo của sinh viên lợi dụng nhiệm vụ được giao có sai phạm trong công tác để vụ lợi. 6. Tại Trung tâm tin học Kinh tế thuộc Đại học Kinh tế HCM: Một nhóm người có hành vi vi phạm trong việc quản lý tài chính sai quy định để vụ lợi. Đã xử lý kỷ luật và chuyển công tác khác 04 người gồm: cảnh cáo giám đốc Trung tâm; khiển trách 01 Phó giám đốc và 02 nhân viên. 7. Tại Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh: Năm 2009, đã xử lý kỷ luật 01 trưởng khoa vì có sai phạm trong việc quản lý kinh phí các lớp đào tạo liên kết tại đơn vị. 8. Tại cơ quan Bộ: Đã kỷ luật cảnh cáo 01 cán bộ công chức vì hành vi lợi dụng trách nhiệm được phân công có vi phạm trong việc quản lý chứng chỉ. II. Các cơ sở thuộc quản lý của Bộ, ngành khác 1. Tại Đại học khoa học và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia HCM Đã kỷ luật khiển trách 01 tập thể và cảnh cáo 03 cá nhân vì có sai phạm về tài chính trong việc tuyển sinh và tổ chức đào tạo. 2. Tại Trung tâm Hỗ trợ phát triển ứng dụng công nghệ tin học ngoại ngữ thuộc Hội khuyến học Việt Nam: đã tổ chức một số lớp đào tạo không đúng quy định; đã tổ chức thi cấp chứng chỉ ngoại ngữ, tin học không đúng quy định để thu lời bất chính (310 chứng chỉ). Hình thức xử lý: đã thu hồi giấy phép hoạt động và đề nghị Hội khuyến học ra Quyết định giải tán Trung tâm. III. Các cơ sở thuộc quản lý của địa phương 1. Tại Sở Giáo dục đào tạo (GDĐT) Bến Tre: Trường Tiểu học Bình Thạnh, Thạnh Phú: Hiệu trưởng, kế toán, thủ quỹ đã có hành vi tham ô tiền của Nhà nước, đã xử lý: cách chức đối với Hiệu trưởng, hạ ngạch viên chức đối với kế toán và thủ quỹ đồng đồng thời thu hồi về ngân sách số tiền đã tham ô. 2. Tại Sở GDĐT An Giang: Xử lý kỷ luật 04 Hiệu trưởng, 03 kế toán, 04 thủ quỹ đã vi phạm trong quản lý tài chính để vụ lợi; đề nghị khởi tố 01 vụ tham ô trên 700 triệu đồng tại trường Trung học phổ thông (THPT) Xuân Tô, An Giang. 3. Tại Sở GDĐT Kon Tum: Đã xử lý kỷ luật cách chức Hiệu trưởng trường THPT Bán công Duy Tân vì đã chỉ đạo thu tiền của học sinh không đúng quy định. 4. Tại Sở GDĐT Nam Định: Đã xử lý kỷ luật và thu hồi 3,8 triệu đồng của nhóm giáo viên dạy lớp 10A2, Trường THPT Nghĩa Hưng B vì đã tổ chức thu tiền và dạy thêm học sinh không đúng quy định. 5. Tại Sở GDĐT Cà Mau: Vi phạm trong quản lý tài chính, đã xử lý kỷ luật cách chức Hiệu trưởng và cảnh cáo Phó hiệu trưởng, thu hồi toàn bộ số tiền chi sai (hơn 110 triệu đồng) tại trường THPT Cái Nước, Cà Mau. 6. Tại Yên Bái: Vi phạm trong quản lý tài chính, đã cách chức Hiệu trưởng, Hiệu phó và hạ ngạch viên chức kế toán, thu hồi hơn 27 triệu đồng đã chi sai tại trường cấp II, III Cẩm Nhân, Yên Bái. 7. Tại Sở GDĐT Hải Phòng: Đã xử lý kỷ luật cách chức 02 Hiệu trưởng và 01 Phó hiệu trưởng (THPT Lý Thường Kiệt; THPT Nguyễn Đức Cảnh; THPT Tô Hiệu) vì có hành vi tiêu cực trong công tác quản lý. 8. Tại Sở GDĐT Đăk Lắk: Đã xử lý kỷ luật khiển trách 02 Hiệu trưởng, 01 Giám đốc Trung tâm vì có biểu hiện tiêu cực trong công tác quản lý. 9.Tại Sở GDĐT Quảng Trị: Xử lý kỷ luật 01 cán bộ quản lý vì có hành vi tham nhũng và thu hồi hơn 37 triệu đồng vào ngân sách nhà nước. 10. Tại Sở GDĐT Thái Bình: Năm 2006 cơ quan điều tra truy tố Giám đốc sở GDĐT vì hành vi tham nhũng. 11. Tại Sở GDĐT Tiền Giang: Kỷ luật cảnh cáo 01 Hiệu trưởng vì hành vi tham nhũng và thu hồi hơn 36 triệu đồng vào ngân sách nhà nước. 10 12. Tại Sở GDĐT Hà Nội: Đã xử lý kỷ luật Hiệu trưởng và một số cán bộ giáo viên tại trường Tiểu học Nguyễn Khả Trạc vì có hành vi gian lận, bớt xén chế độ của học sinh bán trú để vụ lợi. 13. Tại Sở GDĐT Bạc Liêu: Năm 2006, cơ quan điều tra đã truy tố Giám đốc, 01 Phó giám đốc và một số cán bộ công chức tại cơ quan Sở vì có hành vi tổ chức mua bán điểm thi tốt nghiệp THPT. 11
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan