Số 13 - Tháng 12/2015
NNVN đánh giá
Âm thanh » 90%
Thiết kế » 90%
Tính năng » 90%
Xu hướng
Giá trị » 90%
2016: Đĩa Vinyl tiếp tục
tăng trưởng mạnh
Thử máy
Audio Technica
ATH-W1000Z, Dynaudio Xeo 2,
Chord Electronics MoJo,
Jeff Rowland Continuum S2,
Blue Horizon Burnin Proburn...
Đời sống
Mở cửa phòng nghe
Tháng 12
Ra mat
an ban
in
Stereo
tÙ thÁn
g
1/2016
Phong cách
sống
Mini Clubman 2016,
Nhà thờ
chính tòa Đà Lạt
Thường thức
Edvard Grieg,
Franz Schubert
Solo Piano,
Album nhạc hay
Tháng 12
LÍi d…n
Quý độc giả kính mến,
N
hư vậy, thời gian Stereo đồng hành cùng quý
độc giả trong và ngoài nước đã tròn một năm.
Stereo trân trọng cảm ơn độc giả đã gắn bó
cùng chúng tôi từ số đầu tiên, với số lượng người
đọc, ý kiến phản hồi ngày một nhiều, góp phần
tích cực vào việc điều chỉnh nội dung để Stereo
ngày một đáp ứng tốt hơn nhu cầu thưởng thức của những
người yêu nhạc, chơi máy trong và ngoài nước.
Các bài viết, sản phẩm của Stereo đã không còn bó hẹp trong
cách thể hiện dành riêng cho những người am tường về thiết bị,
mà đã được mở rộng ra để sao cho những người không rành, và
không có nhiều thời gian chỉ cần đọc các bài viết cũng cũng có
thể đi đến những kế hoạch mua sắm từ ngắn hạn, cho tới trung
và dài hạn một cách hợp lý, hiệu quả.
Nhân tiện, chúng tôi cũng vui mừng thông báo, để đáp ứng nhu
cầu của đại đa số độc giả, bắt đầu từ tháng 1/2016, Stereo sẽ
chính thức phát hành ấn bản giấy trên toàn quốc. Ấn bản được
phát hành vào cuối tháng với trên một trăm trang in được trình
Tháng 12/2015 STEREO
bày bắt mắt bằng giấy đẹp. Độc giả vui lòng xem thông tin đặt
báo được đăng tải riêng trong số này.
Trở lại nội dung của số báo cuối năm, chúng tôi có dịp giới thiệu
tới độc giả một loạt các thiết bị lần đầu tiên xuất hiện tại Việt
Nam cũng như trên thị trường audio thế giới như hệ thống dây
dẫn ultra hi-end Nordost Odin 2, cặp loa đầu bảng Ultimatium
XL10 của Neat Acoustics, đôi loa không dây liền ampli đa năng
Dynaudio Xeo 2, chiếc DAC mini Mojo của Chord Electronics…
Chúc độc giả có những giây phút thư giãn với cuốn tạp chí của
chúng tôi.
Trân trọng,
STEREO
Merry
Christmas
& Happy
New Year!
Stereo Channel
Phụ trách nội dung:
Hoàng Nguyên
Biên tập viên chính:
Công Tiến
Mỹ thuật - thiết kế:
CrabARTS
Nhóm chuyên gia audio:
Huy Anh, Thế Bằng, Như Dũng,
Nam Phong, Thế Anh, Mai Quân,Thụy Miên
và các CTV.
Nhóm chuyên gia âm nhạc:
Như Dũng, Hoàng Cương.
Liên hệ nội dung và quảng cáo:
[email protected]
Website:
www.stereo.vn
* Bản quyền thuộc NewAge Media Group
Tháng 12/2015 STEREO
MÙc LÙc
Xu hướng
Phong cách sống
8
56
62
> 2016: Đĩa Vinyl
tiếp tục tăng trưởng mạnh
8
> Mini Clubman 2016
>
Nhà thờ Chính tòa Đà Lạt (*)
56
Thử máy
20
16
20
26
30
36
41
47
50
Đời sống
> Chord Electronics MoJo
68
> Dynaudio Xeo 2
>
Totem Wind Design
>
Jeff Rowland Continuum S2
>
Furman Stable Power Regulator SPR - 16Ei
>
Nordost Odin 2
> Blue Horizon - Burnin Proburn
> Audio Technica ATH-W1000Z
> Mở cửa phòng nghe tháng 12:
Neat Acoustics Ultimatum XL10
68
Thường thức
74
76
82
> Giới thiệu nguồn nhạc hay:
Franz Schubert Solo Piano
> Edvard Grieg: Nhạc sĩ
xuất sắc nhất nền âm nhạc Na Uy
> Album nhạc hay tháng 12
82
Xu h≠Ìng
2016
ßèa vinyl ti⁄p t|c
t°ng tr¶ông mÑnh
Liên tiếp trong những năm qua, thị trường âm nhạc chứng kiến sự
tăng trưởng mạnh mẽ của đĩa vinyl (đĩa nhựa) với 49% năm 2014, 55% năm 2015.
Trong năm 2016, dự báo tăng trưởng của đĩa nhựa còn tiếp tục gia tăng, đồng
thời, dòng sản phẩm mâm quay đĩa cũng nở rộ ở nhiều phân khúc.
8
Tháng 12/2015 STEREO
Tháng 12/2015 STEREO
9
Xu h≠Ìng
Chỉ tính riêng thị trường Mỹ,
doanh số bán năm 2015 ước đạt 20 triệu chiếc,
chạm ngưỡng cao nhất trong vòng 26 năm
qua, tương đương mức đỉnh năm 1989, trước
thời điểm bùng nổ của đĩa CD.
Các nhà sản xuất đĩa nhựa còn rất nhanh nhạy
trong việc xuất bản album của các ngôi sao
đương đại để thu hút lượng
fan khổng lồ.
nhựa loại tự động 3 tốc độ được thiết kế
theo hình dáng máy chơi nhạc vali thường
thấy trong các thập kỷ trước. Đặc biệt là sản
phẩm này đi kèm kết nối USB để chuyển các
đĩa nhựa thành nhạc số vào máy tính.
Lại nói về tính phổ thông của thú nghe nhạc
bằng đĩa nhựa, thời gian gần đây, hàng loạt
nhà sản xuất thiết bị audio đã cho ra mắt
những mâm quay đĩa giá cực “mềm”, chỉ từ
một, vài trăm USD là đã có một bộ nghe đĩa
nhựa đầy đủ, hát tốt. Có thể kể đến như
loạt sản phẩm giá rẻ như Denon DP-300F,
Pioneer’s PL30, Stanton’s T.92 USB, RP-2000
DJ hay Audio Technica AT-LP120 USB…
C
10
Tháng 12/2015 STEREO
Một chi tiết khác cho thấy sự thức thời của
các nhà sản xuất mâm đĩa nhựa là việc họ
tích hợp cả cổng đọc USB vào máy, vừa giúp
cho người chơi lưu những bản nhạc hay và
hiếm trên đĩa nhựa sang file nhạc số, vừa
sử dụng như một nguồn phát USB để nghe
nhạc. Chính những tính năng “kim - cổ” này
hỉ tính riêng thị trường Mỹ, doanh số bán năm
2015 ước đạt 20 triệu chiếc, chạm ngưỡng cao
nhất trong vòng 26 năm qua, tương đương
mức đỉnh năm 1989, trước thời điểm bùng nổ
của đĩa CD. Như vậy, thị trường đĩa nhựa tăng
trưởng mạnh không còn là một xu hướng, nó là
hiện thực tế và ổn định.
Một số yếu tố khiến đĩa nhựa trở lại ngoạn
mục đến thế, có thể kể đến như chất lượng âm
thanh vẫn tốt hơn hầu hết CD (xét trên góc độ
trải nghiệm nghe), đĩa nhựa không thể copy và
không thể in lậu như CD, giá trị sưu tầm và trưng
bày cao. Đặc biệt, khi nhịp sống ngày càng được
đẩy nhanh thì nhu cầu quay về những giá trị căn
bản, mang dấu ấn của lịch sử ngày một nhiều.
Nói cách khác, chơi đĩa nhựa vừa thỏa mãn sở
nguyện hoài cổ, vừa thỏa mãn nhu cầu về âm
nhạc, âm thanh.
Thú vui này thậm chí cũng không còn dành riêng
cho các audiophile mà đã được nhân rộng và
đã thu hẹp khoảng cách giữa người nghe
nhạc trẻ tuổi tới dòng sản phẩm có vẻ như
hoài cổ này. Nó giúp cho giới trẻ dễ tiếp
nhận món thiết bị có gốc gác từ thời ông
bà, cụ kỵ của họ mà không cảm thấy bị tụt
hậu.
Không chỉ có vậy, các nhà sản xuất đĩa nhựa
còn rất nhanh nhạy trong việc xuất bản
album của các ngôi sao đương đại để thu
hút lượng fan khổng lồ. Và ngược lại, các
nghệ sỹ cũng tỏ ra đầy hứng thú với định
dạng này. Nó khiến cho tên tuổi của họ “có
vẻ” trở nên kinh điển hơn, ít ra cũng về mặt
hình thức, có được bản ghi trên định dạng
tương tự của những ngôi sao ca nhạc hàng
đầu mà tên tuổi của họ gắn liền với những
album được xuất bản trên đĩa nhựa ở thời
kỳ đỉnh cao của sự nghiệp như Nat King
Cole, Frank Sinatra, Nana Mouskouri, Elvis
Presley…
Cụ thể, những ngôi sao hàng đầu như
Adele, Lana Del Rey, Carrie Underwood hay
Coldplay… đều có sản phẩm âm nhạc xuất
bản dưới dạng đĩa nhựa. Với nhiều người,
việc ra mắt một album trên định dạng đĩa
nhựa cũng giống như thể đạt được một
ngôi sao trên Đại lộ Danh vọng. Đây là dạng
lưu trữ mà thường chỉ có những bản nhạc
chất lượng tốt và hàm lượng nghệ thuật
cao mới xứng đáng để được ghi lên. Do vậy,
việc ra mắt album trên đĩa nhựa cũng được
xem như một cách để khẳng định tên tuổi
và đẳng cấp của các nghệ sĩ, mặt khác cũng
cung cấp thêm lựa chọn thưởng thức âm
thanh chất lượng cao cho khán thính giả.
phổ biến trong các gia đình. Nhiều người đã
coi máy quay đĩa như một thiết bị điện tử giải
trí thông thường trong nhà, ngay cả với phụ nữ
và trẻ em. Đó là lý do tại sao Jack White, một
nhà sáng chế đã tạo ra một máy quay đĩa hoàn
chỉnh dành cho thiếu nhi. Dự án này của ông
đã nhận được sự ủng hộ nhiệt liệt từ các hãng
thu âm Third Man Records và Light in the Attic
records.
Trong bộ sản phẩm này có sẵn một mâm đĩa
Tháng 12/2015 STEREO
11
Xu h≠Ìng
Alex Gaskarth, thủ lĩnh của nhóm pop-punk
All Time Low có album đang đứng đầu bảng
xếp hạng tuần trong năm 2015 thể hiện
sự lạc quan trước tương lai của đĩa than:
“Người ta có thể yêu thích đĩa than dưới
nhiều góc độ khác nhau. Với các audiophile
thì không có gì thay thế được âm thanh từ
đĩa than. Và chúng cũng mang tới cho họ
giá trị sưu tầm cao. Còn với người hâm mộ
của chúng tôi, việc mua một chiếc đĩa than
chỉ đơn giản là để treo lên tường mà ngắm
cũng đủ khiến họ thỏa mãn!”
Mới đây, Tesco - chuỗi siêu thị bán lẻ lớn
nhất Anh quốc cũng đã chính thức thêm đĩa
nhựa vào danh mục hàng hóa bày bán của
mình. Điều này đồng nghĩa với việc lần đầu
tiên sau 96 năm kể từ ngày thành lập và hầu
như chỉ bày bán các sản phẩm đồ tiêu dùng
cùng nhu yếu phẩm thiết yếu, hệ thống
siêu thị thuộc sở hữu của tập đoàn lớn thứ 3
thế giới đã bán ra những chiếc đĩa nhựa đầu
tiên trong lịch sử hoạt động của mình.
Lý giải cho điều này, đại diện của hệ thống
cho biết, sự phục hưng nhanh đến mức
không ngờ tới của đĩa nhựa đã khiến cho
nhiều người biết tìm đến hơn, và thậm chí
điều này đang trở thành một trong những
xu hướng quà tặng được nhiều người quan
tâm nhất trong dịp cuối năm 2015. Một
thống kê được thực hiện gần đây cho thấy,
thị trường đĩa nhựa tại Anh vào năm 2014
đạt giá trị hơn 26 triệu bảng Anh, tăng
866% so với con số 3 triệu bảng vào năm
2009 trước đó.
Chừng ấy thực tế cũng đủ để thấy đĩa nhựa
đã vượt qua giai đoạn hồi sinh và đang
trong thời kỳ phục hưng mạnh mẽ. Nếu so
với thị phần của các định dạng nhạc khác
(nhạc lossless, nhạc trực tuyến, CD) thì thị
phần của đĩa nhựa vẫn còn cực kỳ khiêm
tốn. Nhưng nếu so với chính nó trong lịch
sử phát triển, thì những người yêu thứ âm
thanh mộc mạc, giản dị nhưng cũng đầy
ma mị từ nguồn phát analog này lại rất đỗi
hoan hỉ vì tương lai phát triển bền vững của
đĩa nhựa khá rõ ràng. Tùng Thiện
12
Tháng 12/2015 STEREO
Thˆ m∏y
Thiết kế
Khẩu hiệu của Mojo là “The game has changed Cuộc chơi mới”, nhưng nó làm tôi thấy giống như
một phiên bản giản lược của Hugo nhiều hơn là một
sản phẩm mới hoàn toàn. Theo tôi được biết, Mojo
là viết tắt của cụm từ Mobile Joy - niềm vui di động.
Theo gu thẩm mỹ cá nhân, tôi thấy lớp vỏ nhôm
bóng của Hugo vẫn đẹp hơn so với kiểu sơn đen mờ
của Mojo, dù là mức hoàn thiện là rất tốt. Lớp sơn
đen này không bị bám dấu vân tay nhiều, song vẫn
khiến tôi lo ngại về khả năng bị xước. Tên sản phẩm
cũng là sơn vẽ lên thân vỏ, chứ không còn là khắc
chìm như trước đây. Thực chất, Mojo vẫn được làm
theo dạng nhôm nguyên khối, cắt gọt bằng máy
CNC với độ chính xác cao. Sự khác biệt không ở bộ
vỏ, mà nằm ở tính thẩm mỹ và đương nhiên là linh
kiện điện tử bên trong.
Mặc dù Made in China từ lâu đã không thành vấn đề
với tôi, nhưng khi được cầm trên tay các sản phẩm
Made in USA, German... thì tôi vẫn luôn có cảm tình
đặc biệt. Mojo được sản xuất tại Anh Quốc quả là đồ
hiếm hiện nay trong giới âm thanh di động. Các nhà
sản xuất trước nay thường có xu hướng chuyển nơi
sản xuất về Trung Quốc để tận dụng nguồn nhân
công giá rẻ, và linh kiện cũng khá sẵn. Ở quan điểm
của tôi, đây chỉ là vấn đề về tâm lý, nhưng đa số thì
vẫn sẵn sàng chi tiền cho những sản phẩm Made in
England hơn Made in China.
16
Tháng 12/2015 STEREO
Tôi từng xem một bài viết tiếng Đức về đàn anh
của Mojo là Hugo, trong đó có đoạn video quay
lại cảnh Hugo bị một chiếc xe quân sự AFV chèn
quá mà vẫn hoạt động tốt. Cá nhân tôi không hề
nghi ngờ khả năng bền bỉ tương đương trên chiếc
Mojo.
Kích thước của Mojo khá nhỏ, chỉ nằm trong lòng
bàn tay, mà vẫn đầy đủ các tính năng ăn chơi. Đầu
tiên, tôi phải nhắc đến 3 cổng nhận tín hiệu kỹ
thuật số, bao gồm USB, đồng trục coaxial và cổng
quang Optical. Đặc biệt, Chord đã tách chức năng
sạc và truyền dữ liệu ra 2 cổng Micro USB. Vậy nên,
ngay cả khi cắm với máy tính thì pin cũng không
cần phải sạc liên tục. Không cần làm khảo sát cũng
biết rằng rất hiếm DAC di động có nhiều cổng kết
nối như vậy.
Đồng nghiệp tôi còn trêu chọc rằng, Mojo là sản
phẩm dành cho đôi yên ương, bởi nó được thiết
kế với 2 cổng xuất âm 3,5mm hoạt động song
song với cùng mức âm lượng. Tôi không nghĩ rằng
đây là một tính năng cần thiết, nhưng nếu có thì
tại sao không dùng. Thử tưởng tượng, đặt Mojo
ở giữa, cắm 2 chiếc tai nghe vào rồi cùng người
yêu thưởng thức nhạc, vẫn riêng tư và vẫn lãng
mạn… À, xin lỗi các bạn đọc vẫn đang cô đơn!
Vận hành
Khi hoạt động, nhất là khi chơi nhạc DSD, Mojo
có xu hướng tỏa nhiệt ở mức ấm. Điều này
không ảnh hưởng nếu bạn sử dụng trong mùa
đông, nhưng nếu ở Sài Gòn thì không nên để
Mojo trong túi quần khi sử dụng dù nó khá nhỏ.
Khi mở Mojo ra, tôi có nhìn thấy một phần mạch
nhỏ có tác dụng đo nhiệt độ và tự động tắt máy
khi quá nóng, do vậy không cần lo lắng về độ
bền của máy khi sử dụng.
Chord Electronics
Mojo
Với một thương hiệu “đắt” có tiếng như Chord Electronics (các sản phẩm thường
ở mức 8.000 bảng Anh trở lên), việc ra mắt một bộ giải mã DAC và ampli dành
cho smartphone với giá chỉ từ 400 bảng Anh dường như là một bước ngoặt.
Để kết nối Mojo với điện thoại, người dùng sẽ
cần mua thêm cáp Apple Camera Connection
Tháng 12/2015 STEREO
17
Thˆ m∏y
Thông số kỹ thuật
Công suất đầu ra:
600 ohms 35mW hoặc 8 ohms
720mW @ 1kHz
Trở kháng đầu ra:
0.075 ohms
Dynamic Range:
125dB
THD @ 3v - 0.00017%
Giá tham khảo:
14,5 triệu đồng
Kit (với iPhone, iPad), hoặc cáp USB OTG (với các
thiết bị Android), sau đó nối thêm một cáp USB
to microUSB. Tin mừng là Chord Electronics hứa
hẹn sẽ ra mắt 1 loại cáp (bán rời) để thay cho
việc sử dụng 2 cáp cùng lúc như trên. Còn để
chơi với laptop thì có sẵn cáp Micro USB đi kèm.
Trong bộ phụ kiện, tôi chỉ thấy cảm thấy thiếu
một vỏ cao su hay bao vải, bao da để bọc Mojo,
tránh xây xước. Nếu có thì mọi việc sẽ trở lên
hoàn thiện hơn.
Thoạt nhìn, tôi cứ nghĩ trên thân Mojo có 3
chiếc đèn khá đặc biệt, song thực ra đây cũng
là 2 nút điều khiển chính của sản phẩm, bao
gồm nút nguồn và tăng giảm âm lượng. Ngay
khi bật máy lên, 3 nút này cũng đều sáng dậy,
tạo sự tương phản so với vỏ đen. Nút nguồn sẽ
kiêm luôn đèn báo mức tần số lấy mẫu (sample
frequencies) từ 44.1kHz ở màu đo, cho tới
786kHz chuyển sang tím nhạt, và cuối cùng là
DSD gần như trắng. Hai nút âm lượng cũng sẽ
thay đổi màu khi điều chỉnh. Việc kiểm soát tần
số lấy mẫu khá quan trọng để biết được tín hiệu
đầu vào đạt chất lượng ra sao, song đèn báo
âm lượng thì có lẽ để vui mắt hơn. Dù sao đây
cũng là một điểm độc đáo, rất riêng của Chord
Electronics.
Ba chiếc đèn này được thiết kế dưới dạng 3 khối
cầu nhỏ có đèn LED đa sắc phía dưới, và đôi khi
tôi “buồn tay” xoay tròn chúng để giết thời than.
Có thể tôi lo sợ hơi quá, song kiểu thiết kế này có
thể làm bụi lọt vào trong quá trình sử dụng, lâu
ngày ảnh hưởng tới linh kiện bên trong chăng?
Nhỏ xíu, nhưng công suất của Mojo khá lớn. Nếu
chỉ sạc bằng cổng USB thông thường thì điện
áp đầu vào không đủ dùng cho Mojo. Theo kinh
nghiệm của tôi, nên sử dụng cục sạc tốt với đầu
ra cỡ 5v 1A để sạc cho Mojo. Nếu chỉ sạc chứ
không sử dụng song thì thường sẽ mất khoảng
4 giờ để Mojo đầy pin. Nhưng nếu vừa sạc vừa
dùng thì có thể mất tới 6-8 giờ.
Ăn nguồn như vậy, nên khả năng “kéo” các tai
nghe trở kháng cao là rất tốt. Chord cho biết
Mojo có thể chơi cả các tai nghe có trở kháng
lên tới 800Ohm, và chúng tôi cũng cảm thấy
Beyerdynamic DT990 phiên bản 600Ohm vẫn là
khá thường so với ampli này. Ở mức độ cao hơn,
LCD-2 cũng không hẳn đã làm khó được Mojo, và
được tạo cơ hội để chơi dải trầm khá tốt.
Chord vẫn tiếp tục sử dụng chip DAC FPGA dựa
trên nền tảng Xilinx Artix 7 cho sản phẩm này
thay vì các chip DAC có sẵn. Dự án Mojo thực
chất được Chord Electronics khởi động từ năm
2012, song mất gần 3 năm sau thì sản phẩm
mới được hoàn thiện. Nhờ đó, Mojo có thể xử lý
được cả nhạc DSD256 hoặc PCM 32bit/786kHz.
Tôi không nghĩ rằng mọi người sẽ nghe nhạc
với tiêu chuẩn cao như vậy, song thông số vẫn
khá ấn tượng.
Rob Watts, một trong số kỹ sư chính của Chord
Electronics, đồng thời là cha đẻ của Hugo, cho
biết: Thực tế là Mojo được chia sẻ bộ mã gần
như hệt so với Hugo, song được chỉnh sửa để
đáp ứng tần số lấy mẫu 768kHz nhờ bộ lọc
Watts Transient Aligned mới. Mạch ampli của
Mojo vẫn ở dạng Class A, nhưng sử dụng 6 tụ
nhỏ thay vì 3 tụ lớn như Hugo.
Trải nghiệm âm thanh
Ở gu cá nhân, tôi không phải là fan của Mojo
cũng như Hugo trước đây. Tôi chưa được nghe
kỹ các bộ giải mã DAC và ampli hi-end dành
cho loa của Chord Electronics, nhưng chất âm
của Mojo và Hugo khá gần nhau. Mojo rõ ràng
là một trong những bộ DAC kiêm ampli di
động tốt nhất tôi từng thử, song nó lại hơi ngả
ấm và dày một chút khi so với chiếc máy nghe
nhạc Astell & Kern Ak100 mkII của tôi.
Còn lại thì Mojo rất tuyệt. Lần này, tôi thử với
cáp USB đi kèm (với chất lượng cơ bản), tai
nghe inear Custom Art Music Two và trình nghe
nhạc Foobar 2000 trên nền Windows 10. Có
rất nhiều điểm mà Mojo thuyết phục được tôi
ngay cả ở mức giá không hề thấp, mà đầu tiên
là tốc độ. Mojo đáp ứng nhanh như laser vậy.
Âm thanh gọn, chính xác và dứt khoát khi tôi
nghe Tears in Heaven của Eric Clapton. Và chủ
yếu tôi nghe với album The Wall của Pink Ployd.
Nếu bạn nghe thử các bản thu không tốt với
Mojo, đó không phải là một trải nghiệm dễ
chịu. Điển hình là album “25” của Adele được
phát hành trong thời kỳ đầu luôn có cảm giác
không được sạch. Đã khá lâu tôi không nghe
Centrance M8, song với các máy nghe nhạc ở
cùng tầm giá như Astell & Kern AK100 II hay
AK120 II thì độ chi tiết của Mojo nhỉnh hơn.
Cần phải nhấn mạnh rằng, Mojo thực sự có độ
18
Tháng 12/2015 STEREO
chi tiết tốt, chứ không phải cố tình đẩy một
vài đoạn lên nổi bật hơn để tạo cảm giác chi
tiết giả như phần lớn các sản phẩm bình dân
và trung cấp. Do vậy, cảm giác nghe ban đầu
trên Mojo có thể không gây ấn tượng mạnh,
cần thời gian để nhận ra rằng âm thanh của
Mojo đi theo hướng tự nhiên, không gây méo
bản nhạc. Đầu tiên, tôi cảm thấy Mojo không
gây mệt mỏi, rồi sự thích thú cứ tăng dần
theo chiều hướng tốt đẹp.
Chi tiết và đầy đặn thể hiện ở dải trầm, là
điều không hề dễ dàng với các thiết bị ở tầm
dưới 1.000 USD. Bass của Mojo không nhiều
để chơi EDM đủ “ép phê”, nhưng Chord làm
ra thiết bị này để nghe được hầu hết dòng
nhạc, chứ không cho một nhóm đối tượng
duy nhất. Nó chơi dứt khoát, lan tỏa vừa đủ
để không bị vón cục, nhưng lại không bị kéo
đuôi và dính lại.
Nói là vậy, nhưng Mojo khó có thể thực sự
hoàn hảo. Đôi khi tôi vẫn cảm thấy dải trung
âm của hơi nổi lên có phần thái quá, tùy
thuộc vào bản nhạc và thiết bị phối ghép.
Nhưng đó vẫn chỉ là cảm giác thoáng qua,
chứ không gây khó chịu, hay nói một cách
tích cực thì là lọt tai, dễ ưa. Nó kết hợp cả
treble thoáng, mượt, không hề gai góc.
Nhưng treble vẫn có thể đẹp hơn nếu đánh
tơi, có nét hơn.
Tôi chỉ có Hugo trong một khoảng thời gian
không thật dài để so sánh, nhưng dường
như Mojo thậm chí còn có nền sạch sẽ hơn
cả đàn anh của mình. Do đó, việc dùng
tai nghe inear với Mojo cũng là lựa chọn
không tồi. Với mức dòng (line level) của cả
2 sản phẩm từ Chord khá cao thì độ động
và chi tiết khi chơi ở ngưỡng công suất 5070% sẽ tốt hơn, nên vẫn phù hợp sử dụng
kèm các tai nghe trùm đầu trở kháng cao
hơn các tai nghe inear độ nhạy tốt. Và như
một lẽ dĩ nhiên, âm trường của Mojo không
được rộng rãi lắm, cho dù âm hình là khá
tốt, rõ ràng.
Nếu chưa ưng ý với CEntrance HiFi-M8 thì
cũng đừng vội buồn, bởi đó là quá khứ. Giờ
đây, chúng ta có một lựa chọn khác, mà
theo tôi thì toàn diện hơn, và được chăm
chút kỹ lưỡng hơn. Đó không phải chuyện
lớp sóng sau xô lớp sóng trước, mà là kẻ
thức thời hơn. Minh Đức
Tháng 12/2015 STEREO
19
Thˆ m∏y
Dynaudio Xeo 2
Được thiết kế hướng tới xu hướng gọn gàng, đa năng và tích hợp tất cả trong một, hãy
cùng xem liệu một bộ loa bookself nhỏ nhắn như Dynaudio Xeo 2 có thể làm được những
gì với mức giá tương đương với cả một hệ thống dàn phối ghép tầm trung hoàn chỉnh.
Thiết kế
Xeo 2 là một trong số 3 đại diện mới thuộc dòng Xeo
mới được Dynaudio ra mắt như một sự nâng cấp và
thay thế cho dòng Xeo số lẻ cũ (Xeo 3/5/7) đã có từ
cách đây 2 năm.
Về cơ bản, nếu như bạn đã từng được tiếp xúc với
những thế hệ Xeo trước đây thì sẽ thấy Xeo 2 có khá
nhiều điểm tương đồng về mặt thiết kế. Toàn bộ
thùng loa được gia công từ gỗ MDF và mặt trước được
đúc từ nhôm tấm nguyên khối. Logo Dynaudio được
khắc laser chìm trực tiếp lên trên bề mặt kim loại và
ngay bên cạnh đó là 2 đèn báo hoạt động kiêm nhiệm
đầu thu tín hiệu từ remote kèm theo máy.
Phần mặt nhôm phía trước được gia công khá cầu kì
và cẩn thận với độ dày lên đến 10mm để đảm bảo độ
cứng cần thiết. Đây cũng là nơi cố định của hai driver
woofer 14cm và tweeter 27mm. Tất cả đều được kết
nối với hệ thống DAC và khuếch đại tích hợp ngay bên
trong loa với công suất 65W.
Xeo 2 cung cấp khá đa dạng
các giao thức kết nối không dây chất
lượng cao thông qua Bluetooth với codec
apt-X tân tiến nhất, hoặc thông qua đường
truyền cao tần 2.4/5.0 GHz với Xeo Connect, đem lại khả năng truyền dải dữ liệu
số đến DAC của loa trực tiếp với chất lượng
tối đa 24-bi /96 kHz.
20
Tháng 12/2015 STEREO
Thùng loa Xeo 2 khá dễ chịu, khi chạm vào sẽ không
có cảm giác như sờ vào các thớ gỗ thô, do nhà sản
xuất đã phủ lên đó một lớp vật liệu bề mặt đặc biệt
với bề mặt nhám mờ và có khả năng chống xước khá
tốt. Trong quá trình sử dụng, bề mặt này khá dễ bám
bụi và dấu tay, dễ thấy nhất ở màu đen. Song tin vui
là chẳng ai suốt ngày chạm vào loa cả nên đây không
phải vấn đề quá đáng bận tâm.
Xeo 2 xuất hiện lẻ loi chứ không cùng lúc với Xeo 4
và Xeo 6 nên thiết kế cũng có phần khác biệt. Toàn
bộ cụm 3 nút điều khiển âm lượng, bật tắt nguồn và
kết nối không dây được đặt ngay phía trên đỉnh dưới
dạng phím cảm ứng. Tôi đánh giá rất cao tính thẩm
mĩ với giải pháp này thay vì nhô lên trên đầu như Xeo
4 và Xeo 6.
Toàn bộ cổng kết nối được đưa hết về phía sau với
2 đầu vào analog dạng RCA và 3,5mm tối ưu cho
các thiết bị di động. Ngoài ra, người dùng cũng có
thể cấp tín hiệu số trực tiếp đến loa thông qua cổng
Toslink với chất lượng tối đa có thể lên đến 24 bit/192
kHz.
Điểm đáng tiền nhất của dòng Xeo nói chung và bộ
loa Xeo 2 nói riêng này nằm ở việc kết nối tự động
thông qua tín hiệu không dây, không cần sử dụng bất
cứ dây tín hiệu vật lý nào (vốn là điểm yếu về thẩm
mỹ và tính tiện dụng của đa phần loa không dây
“chưa tới tầm” như Audioengine). Do đó, quá trình lắp
đặt, bố trí vị trí Xeo 2 cực kỳ thuận tiện, dễ dàng.
Trải nghiệm sử dụng & chất lượng âm
thanh
Do dáng vẻ khá nhỏ con và thấp bé của mình, Xeo 2
rất hay bị “xem thường” và đánh đồng với những bộ
loa monitor cùng kích thước mà lại quên đi đẳng cấp
Tháng 12/2015 STEREO
21
Thˆ m∏y
Chúng tôi khuyến cáo nên
sử dụng Dynaudio Connect để kết nối và
truyền dữ liệu số trực tiếp tới loa thay vì sử
dụng các cổng analog truyền thống. Còn
nếu bạn chưa có sẵn Dynaudio Connect
thì có thể sử dụng cổng Toslink với chất
lượng tối đa lên đến 24 bit/192 kHz.
hi-fi thực thụ của nó. Điều này đã dẫn đến
sự sai lầm và thiếu nghiêm túc trong quá
trình set up ban đầu - điều mà chính chúng
tôi cũng đã mắc phải với bộ loa này.
Thoạt đầu, Xeo 2 được đặt thẳng lên bàn
làm việc bằng ván gỗ ép với hai loa cách
nhau tầm 1,5m và cách mặt đất khoảng
0,8m, toàn bộ không gian hai bên và phía
sau loa khá thoáng và đặt cách xa tường.
Sử dụng máy nghe nhạc AK100 làm nguồn
phát và kết nối với loa qua cổng 3.5mm với
dây cáp đi kèm mặc định từ nhà sản xuất.
Ngay từ khi những nốt nhạc đầu tiên vang
lên, chúng tôi đã không khỏi bất ngờ vì
22
Tháng 12/2015 STEREO
thứ âm thanh dở tệ đang được thể hiện từ
một bộ loa giá hơn 30 triệu đồng ngay trước
mắt. Đó là không gian tạo bởi những nhịp
bass rất lùng bùng, ù đặc và kéo đuôi rất khó
chịu, phần dải tần số cao như thể bị giam lỏng
trong tweeter và không thể nào thoát ra ngoài
được, tạo cảm giác bị cắt rất mạnh và gần như
chìm nghìm giữa các dải còn lại.
Không đành lòng chấp nhận kết quả tồi tệ
như vậy, chúng tôi quyết định thử thay đổi
môi trường đặt loa và thực hiện lại toàn bộ
quá trình set up ban đầu trong một căn phòng
mới với diện tích xấp xỉ 25m2. Hai loa được đặt
trên chân loa SolidSteel và cách nhau khoảng
4 mét. Mỗi loa được đặt gần sát vách và cách
tường phía sau khoảng 20 cm. Nút cân chỉnh
vị trí loa (Speaker Position) được đặt về chế
độ Neutral mặc định.
Toàn bộ quá trình đánh giá âm thanh được
thực hiện với nguồn phát là Macbook Pro
kết nối với bộ hub Dynaudio Connect thông
qua cổng USB 2.0 và streaming dữ liệu PCM
ở mức 24 bit/96 kHz trực tiếp đến bộ phận
DAC tích hợp đặt bên trong loa để giải mã
và khuếch đại tín hiệu ra ngoài. Cuối cùng,
trước khi được đem ra đánh giá chính thức,
hệ thống được cho chạy rà (burn-in) trong 2
tuần với thời gian tổng cộng khoảng 100 giờ
đồng hồ.
Trong quá trình nghe thử, chúng tôi dần
nhận ra rằng phần giải mã tín hiệu (DAC)
được trang bị trên Xeo 2 có chất lượng
không hề tồi, và đủ sức để đáp ứng tốt gần
như mọi yêu cầu từ phần còn lại của hệ
thống. Tất nhiên, người dùng hoàn toàn có
thể nâng cấp bằng cách đầu tư một bộ DAC
rời, tuy nhiên chi phí bỏ ra không nhỏ, vả lại
không chắc chắn rằng âm thanh sẽ thay đổi
tới ngưỡng mà bạn muốn.
Bắt đầu quá trình thử nghiệm với một số vài
bài nhạc thường nghe của tôi như American
Idiot của Green Day, một vài bản soul nhẹ
nhàng của Adele và cuối cùng là một chút
Electronic dance của Empire of the Sun,
bộ loa khiến chúng tôi khá thích thú với sự
thay đổi mạnh mẽ của dải âm trầm. Nhờ có
không gian đủ rộng, hiện tượng ù, rền và
kéo đuôi được giảm thiểu đi rất nhiều với
set up mới, từng tiếng trầm được đánh ra
rõ, tròn với lực đánh khá mạnh và tương đối
sâu. Từng beat đánh được tái tạo gọn gàng,
uy lực và đầy dứt khoát dẫn dắt nhịp độ của
cả bản nhạc với tốc độ nhanh, chính xác và
có độ tách bạch tốt.
Những tiếng bass điện tử được tạo ra bởi
Synthesizer trên các bản Electronic và EDM
cũng được Xeo 2 thể hiện với độ nảy, mềm
và lan tỏa khá đặc trưng, và trong phần lớn
trường hợp lực đánh đủ để khiến người nghe
phấn khích nhưng vẫn kiểm soát và đảm bảo
sự hài hòa với hai dải còn lại tương đối tốt.
Ngay từ những lần nghe thử đầu tiên và kể
cả sau này khi đã bố trí hoàn chỉnh rồi, dải
âm bass của chiếc Xeo 2 này luôn khiến tôi
liên tưởng đến hình ảnh của một con ngựa
bất kham chưa được thuần hóa một cách
cẩn thận và thường trốn chạy sự kiểm soát
khi có cơ hội. Đây cũng là lý do mà tôi đã nói
“trong phần lớn trường hợp” ở phía trên. Bình
thường thì mọi thứ có vẻ khá tốt đẹp, nhưng
khi gặp phải một số bài pop cổ điển với kiểu
Tháng 12/2015 STEREO
23
Thˆ m∏y
bass chậm và lâu tắt, Xeo 2 có xu hướng
cường điệu hóa lên một chút, và bị ù và kéo
đuôi không cần thiết.
Về cơ bản thì Dynaudio Xeo 2 được xây
dựng trên cơ sở mô hình loa 2 đường tiếng
- 2 driver với crossover được thiết lập tần
số cắt tại 3,1 kHz. Như vậy là woofer sẽ phải
gánh lây sang cả một phần dải midrange,
còn tweeter thì sẽ có khá nhiều việc để làm
khi phải gánh nguyên toàn bộ phần dải tần
còn lại.
Tuy vậy, việc trải nghiệm bộ loa này với một
vài bản vocal nhẹ nhàng lấy từ album The
Essential Collection của Celine Dion với chất
lượng thu âm tốt và được đầu tư một cách
nghiêm túc, Xeo 2 không bỏ lỡ cơ hội thể
hiện chất riêng trong dải midrange thông
qua việc tái tạo chất giọng full lirico soprano
đặc trưng không thể nhầm lẫn của nữ diva
này: trong - nhẹ như mây nhưng đầy nội lực,
và chan chứa tình cảm.
Không gian âm nhạc sạch sẽ và tự nhiên có
công lớn thuộc về chất lượng thiết kế của
crossover, các dải tần số chuyển đổi rất uyển
chuyển và mượt mà, gần như tôi không
thể cảm nhận thấy được bất cứ một sự bất
thường vào trong quá trình thể hiện giọng
hát ca sĩ của bộ loa này.
Suốt từ đầu buổi nghe trải nghiệm đến giờ,
24
Tháng 12/2015 STEREO
Xeo 2 tỏ ra vẫn khá thoải mái và chưa thực sự
gặp nhiều khó khăn, do vậy chúng tôi quyết
định chuyển qua một số bản nhạc với mức độ
phức tạp cao hơn với thể loại classical và một
chút crossover phá cách.
Khởi đầu là bản độc tấu Storm với sự thể hiện
của violinist lừng danh Vannesa Mae. Đây có
thể nói là một bản thu rất đặc biệt với giai
điệu violin chính mang đặc trưng không thể
lẫn của loại đàn gỗ cổ điển, nhưng lại được
chơi trên nền nhạc được hòa âm phối khí với
tiết tấu nhanh, dồn dập, mạnh mẽ với một
chút hơi hướm của rock và kết hợp phức tạp
của nhiều nhạc cụ khác nhau.
Xeo 2 vẫn giữ vững phong độ khá tốt vào
nửa đầu của bài và gây ấn tượng mạnh với
cá nhân tôi qua tiếng violin được tái tạo một
cách sắc nét và bay cao vút tưởng như không
có giới hạn. Tuy nhiên, khi càng gần về phía
cuối bài, đặc biệt là những đoạn tiết tấu được
đẩy lên cực nhanh và dồn dập bởi một số
lượng lớn các nhạc cụ hòa thanh cùng lúc với
âm lượng lớn thì bộ loa này bắt đầu tỏ ra hụt
hơi một cách rõ ràng, mọi thứ bắt đầu trở nên
rối rắm và không còn giữ được sự tách bạch
vốn có trước đó nữa.
Bên cạnh đó, với kích thước thùng loa xếp
vào hàng nhỏ con như Xeo 2 thì việc bắt bộ
loa này phải gắng sức thể hiện những bản
giao hưởng kinh điển chơi ở tiết tấu nhanh
có sự tham gia của một số lượng lớn các nhạc
vụ, đặc biệt là những đoạn có dính dáng đến
những “khắc tinh của loa trầm” như contrabass trống định âm thì thật sự, gần như là
điều bất khả thi. Tôi có cảm giác rằng Xeo 2
dường như vẫn chưa đủ nội lực và độ động
cần thiết để có thể hiện được độ hùng tráng
cần thiết trong những bản nhạc như thế này.
Nếu nhìn vào mức giá 1.599 USD của Xeo 2,
nhiều người sẽ có thiên về phương án lựa
chọn mua sắm và phối ghép một hệ thống
ampli, nguồn phát và loa rời với hy vọng
sẽ thể hiện tốt hơn. Tôi không dám chắc về
điều đó, bởi khi ráp một hệ thống lớn cần
thỏa mãn nhiều yếu tố hơn, đặc biệt là tính
tương thích, tối ưu của từng thiết bị với nhau.
Nhưng nếu có thời gian dành cho đam mê,
tìm ra từng món đồ mình yêu thích thì cũng
là cái hay. Nếu chọn kiểu chơi nà, bạn cũng
phải xác định chấp nhận rủi ro và trả giá
nhiều hơn.
Dynaudio Xeo 2 là một lựa chọn lý tưởng
dành cho những người nghe hiện đại có nhu
cầu sở hữu dàn nghe nhạc với chất lượng âm
thanh đủ tốt, nhưng chú trọng kết nối không
dây và thân thiện hơn với smartphone, laptop
và không cần phải đau đầu với việc lựa chọn
dây dẫn sao cho … phù hợp về âm thanh, tối
ưu về thẩm mỹ, hài hòa về giá tiền…!
Tiến Dương
Thˆ m∏y
Totem Wind Design
Tiến lên một bước xa hơn so với bản gốc Wind
Floorstanding, The Wind Design đã được tinh chế, dễ làm
xiêu lòng người nghe.
T
otem Acoustic được thành lập từ năm 1987
bởi nhà thiết kế âm thanh tên tuổi Vince
Bruzzese. Ông có hai đam mê: âm nhạc và
“những tác phẩm âm thanh” - loa Totem có khả năng lay động hồn người. Âm nhạc đối với Totem
là điều vô cùng quan trọng, do vậy Totem đầu tư sâu vào
thiết kế và chú trọng đến từng chi tiết nhỏ bé nhất của
đôi loa.
Loa Wind Design là cặp loa điển hình cho triết lý sản xuất
của Totem Acoustic với kỹ thuật linh hoạt và giàu tính
sáng tạo. Nhà thiết kế Vince Bruzzese thực hiện loa Wind
Design với chủ trương “không thỏa hiệp” vì ông coi Wind
Design như một tác phẩm nghệ thuật cả về âm thanh và
mỹ thuật.
Loa Wind Design được thiết kế và chế tác theo phong
cách Avant-Garde (tiên phong) - đi trước thời đại -với
phần vỏ thùng được thiết kế dựa trên kỹ thuật âm học
kết hợp với nghệ thật điêu khắc siêu thực để tạo dáng
Wind Design thành một khối gỗ lập phương, hình tháp
nhiều góc cạnh nổi bật 3 chiều nom rất độc đáo.
Từ cấu trúc bên ngoài, Wind Design đã gây ấn tượng với
4 củ loa gồm 1 tweeter, 2 mid và 1 woofer khá lớn với
dáng dấp vừa hiên ngang vừa thanh nhã. Phảng phất
trong thiết kế này là sự pha trộn giữa loa Wilson Audio
Maxx và Avalon Time với phần đáy vững chắc, rồi càng đi
cao lên càng thon gọn. Ở eo loa, từ giữa thân loa trở lên
có một số bề mặt vát góc không chỉ làm nổi bật mà còn
tối ưu hóa khả năng biểu diễn cho các củ loa của Totem
Wind Design.
Cách xử lý bên ngoài của Totem là yếu tố chính tạo nên
vẻ đẹp cho đôi loa Wind Design: người dùng có quyền
chọn 3 mầu căn bản là xanh dương cobalt, trắng và đen
nhưng cũng có thể yêu cầu mầu khác nhưng sẽ phải
trả thêm chi phí. Loa được sơn sáu lớp theo tiêu chuẩn
sơn của các siêu xe Porsche, Ferrari vì mỗi quy trình sơn
được làm rất kỹ lưỡng, mỗi lớp sơn sau khi đã khô hẳn,
26
Tháng 12/2015 STEREO
sẽ được mài bằng tay đến mức nhẵn bóng
và tiếp tục sơn cho đến lớp thứ 6. Ở lớp sơn
hoàn thiện này, loa Wind Design sẽ phải qua
kiểm tra trong phòng ánh sáng để đảm bảo
mọi góc cạnh đồng nhất về tông mầu và độ
bóng.
Loa Totem Wind Design thế hệ mới nhất có
bộ phân tần đáng giá hơn loa Wind cả ngàn
USD và một bộ chân làm bằng nhôm máy
bay cào xớ xi mạ đẹp mắt. Chân trước là
một móng nhôm kiểu mới có thể điều chỉnh
cho loa đứng xiên một góc nhỏ. Hệ thống
chân đỡ phía sau loa là một tấm nhôm giúp
cân bằng vững chắc và phóng thích nhiễu
rung động ở đáy loa. Về tính năng kỹ thuật,
The Wind Design là hệ thống 4 loa 3 đường
tiếng độc quyền với 1 loa woofer, 1 tweeter
và 2 loa mid. Bên trong thùng loa Wind
Design là nơi để hãng Totem thể hiện trình
độ chế tác: các khớp nối được thực hiện
theo kiểu thợ mộc cổ điển với mộng, giằng
cứng cáp và phun cát thủy tinh để chống
sóng đứng hay cộng hưởng vang rền…
Để nghe ổn định, theo khuyến cáo từ nhà
sản xuất, loa cần một thời gian chạy rà tối
thiểu trước khi cho thưởng thức nhạc thực
sự. Trong thời gian chạy rà, chúng tôi hạn
chế không chơi ở mức độ âm lượng quá lớn.
Sau gần giờ, âm thanh được cải thiện rõ rệt
so với khi mới lấy từ thùng ra, tới lúc này,
chúng tôi mới bắt đầu tiến hành các hoạt
động nghe trải nghiệm chính thức.
Trải nghiệm âm nhạc
Chúng tôi dùng một bộ dàn máy có cấu
hình tương xứng để nghe kiểm tra loa Wind
Design gồm bộ pre – đèn ModWright LS36.5
có supply DS-36.5 (giá 10.500USD) và power
ampli ModWright KWA Signature150SE
(9.000USD). Dây nguồn, dây tín hiệu và dây
loa Atmosphere Level Two của Synergistic
Research. Đầu phát là CD CEC CD5 chạy
bộ cơ cu-roa có DAC USB DSD (3000 USD).
Bàn kê Segue của Symposium, chân kê
AudioPrism Isobearing.
Đầu tiên, chúng tôi nghe CD 1962 Hi-Fi
Violin của Western Electric Sound do Sidney
Hartb (1925 - 2011) chơi violin. Bài 1 là La
Campanella của Paganini, tiếng nhạc lên
cực kỳ sạch sẽ, trong như pha lê, rõ ràng,
rành mạch từng âm sắc trầm trung bổng.
Bài 2 Melodie No.3 trong Souvenir d’un lieu
cher Op.42 của P.Tchaikovsky. Những luyến
láy nghe sống động như đang được chơi ở
bên ngoài trên nền nhạc trong, sạch, đẹp.
Trong khi đó, bài 5 Traumerei Op.15-7 của
Schumann là một khúc nhạc đầy trữ tình do
cây violin đảm nhiệm phần solo và piano
chơi phần đệm. Bản nhạc nổi tiếng của
thời kỳ đầu chủ nghĩa lãng mạn trong âm
nhạc cổ điển châu Âu này được đôi loa The
Wind Design thể hiện với sự mềm mại, uyển
chuyển cùng khả năng ứng biến tốt. Ở bài
12 Vũ khúc Tây Ban Nha No.5 của Granados,
violin độc tấu trên nền nhạc đệm của piano
sống động.
Chúng tôi chuyển sang nghe CD 1963
Hi-Fi Cello Western Electric Sound do Pierre
Fournier (1906 - 1986) chơi Cello. Bài 1, trích
tổ khúc Pictures At An Exhibition (Những
bức tranh trong phòng triển lãm) của
Modest Mussorgsky, âm nhạc hòa quện giữa
cây đàn cello và dàn nhạc chơi đượm chất
Nga. Bài 2 trong CD này là Mozart Fantasia
của Nicolo Paganini và cũng là một tác phẩm
rất hay. Tiếng cello được chơi bởi Fournier
thoạt nghe như gợi nhớ tiếng violin của
Paganini hiển thánh vậy. Phải nghe vài nhịp
mới nhận ra nhạc đang nghe ở cữ giai điệu
thấp hơn đàn violin. Đó chính là tiếng đàn
cello chơi ở âm vực cao của cây đàn này.
Đoạn giữa rất nổi tiếng của Mozart Fantasia
được Fournier chơi đầy bóng bảy. Trong khi
đó, bài 3 của CD này là một điệu Flamenco
điển hình của tác giả Tageli. Cây cello chơi
nhiều kỹ thuật đa dạng và thoải mái. Bài 4
The Swan của SaintSaens là một vũ khúc trữ
tình đặc biệt nổi tiếng. Cây cello trong tay
Fournier như cất tiếng ca bài hát về tình yêu
và hạnh phúc. Âm nhạc của Fournier thật
dịu ngọt. Ở bài 5 Serenade của Schubert,
Fournier chơi trên nền nhạc đệm thật tuyệt
vời của một cây guitar cổ điển. Những bản
nhạc trong Hi-Fi Cello phần lớn nhẹ nhàng,
trữ tình, sâu lắng. Chúng góp phần cho thấy
The Wind Design là loa nghe nhạc trữ tình
tuyệt vời.
Thông số kỹ thuật
Thời gian chạy rà:
200h - 250h
Vị trí cách tường sau:
90cm - 200cm - tùy phòng
Khoảng cách giữa 2 loa:
Từ 1,8m đến 4,2 m
Tần số đáp ứng:
24Hz - 21kHz ± 3dB (trong phòng)
Trở kháng:
4 Ohm
Độ nhạy:
87dB
Công suất đề nghị:
80 watt – 250 watt
Thành phần củ loa (4):
1 Loa trầm Bass 21cm khung đúc
bằng gang, xử lý thấm âm, lực tải
cao; 2 trung /trầm Mid-Bass:
7,6cm với khung đúc bằng
gang, cuộn dây lớn, nam châm
neodymium mạnh chịu lực tải cao;
1 Treble vòm có đường kính 2,54cm
màng hợp kim nhôm độ động
cao và tuyến tính đồng thời cộng
hưởng cực thấp với vỏ thùng loa.
Chỉ số âm lượng SPL (sound
pressure level):
Trong phòng nghe 4m x 6m lên
đến 114 dB
Kích thước:
27,1 x 112,5 x 35,5 cm (RxCxS).
Giá tham khảo:
317.800.000 đồng
"Totem Wind Design
sÎ h˜u ch†t ©m Æ∆c
tr≠ng cÒa Totem: ng‰t
ngµo, m“m mπi vµ giµu
t›nh tr˜ t◊nh."
Chuyển sang nghe CD Linn Records – The
Tháng 12/2015 STEREO
27
Thˆ m∏y
Ưu điểm: Trong trẻo, sáng sủa,
mềm mại, sạch đẹp
Nhược điểm: Chỉ hợp với gout
thưởng thức theo lối trữ tình,
lãng mạn
Super Audio Collection Volume 5. Chúng tôi
nghe bản 1 Barb Jungr ca Sara thật điệu đà.
Những tiếng piano và bass đệm cho bài hát
này thật nét và sạch, chúng quện với giọng ca
làm nên một màn trình diễn đẹp, chi tiết, cho
cảm giác như nghe nhạc sống. Trong khi đó, bài
2 là một độc tấu guitar cổ điển Three Minuets
Op.11 No.7 in A minor – Andante của F.Sor. Nghe
những độc tấu đơn giản như thế này mới càng
thấy bộ dàn có âm thanh thật tinh khiết, sạch
sẽ. Tiếp theo là bài 3, Carol Kidd & Nigel Clark
hát Moon Blue, nhạc lên rất đẹp. Giọng ca thiên
thần của Kidd được hệ thống hỗ trợ hết cỡ. Phần
nhạc đệm là guitar mắc dây nylon chơi giàu tình
cảm và linh hoạt. Đây là một trong những tiết
mục nhạc nghe thú vị nhất. Chuyển sang bài 7,
chúng tôi nghe nhóm nhạc The Prince Consort
hát bài Early in the morning của Ned Rorem với
giọng nam cao trong và khỏe. Bài 8 Artur Pizarro
chơi bản El Puerto trong Iberia Book 1 – 2 của
I.Albeniz, một độc tấu piano sôi nổi, sâu sắc. Bộ
dàn tái tạo một màn trình diễn trong sáng, mạch
lạc ngay cả ở những khu vực sử dụng những
hòa âm nhiều nốt. Ở bài 14, Classical Opera
Company trình bày Artaxerxes, No. 28, Air: The
soldier, tir’d of war’s alarms. Ấn tượng nhất là độ
sạch sẽ, mềm mại của hệ thống có nhiều tiếng
kèn trumpet và những nốt cao do soprano hát.
Chuyển sang nghe một CD nhạc Jazz, Diana Krall
- The Girl in The Other Room. Bài 1, Stop This
World, tiếng hát của giọng nữ trung trầm trên
nền nhạc đệm từ bộ gõ và cây piano nghe rất
mạch lạc. Bài 2, The Girl in The Other Room, nhạc
đệm là cây guitar điện, bộ gõ nhạc nhẹ và piano.
Giọng ca nữ mềm mại, chuyển động nhẹ nhàng,
uyển chuyển, điêu luyện. Bài 3, Templation cho
thấy không khí nhạc Jazz khác hẳn những thứ
nhạc đã nghe trước đó và loa The Wind Design
đã chứng tỏ nó hoàn toàn có thể dùng để nghe
nhạc Jazz hay. Bài 6, Love Me Like a Man là một
bài hát Jazz ở tốc độ cao, âm lượng lớn. Đôi loa
thể hiện chi tiết các dải trầm, trung, bổng với
bass sâu, rền, tròn, sạch; mid thật, sáng; treble
tơi, mịn, dịu, ngọt. Treble ở đây chủ yếu do hiệu
ứng gõ chổi sắt lên mặt trên chũm chọe tạo nên.
Đây cũng là hiệu ứng mở màn cho bài 8 Black
Crow, chổi sắt quẹt nhẹ lên mặt trên chũm chọe
dẫn dụ ca sĩ bắt vào nội dung bài hát. Sau này,
chổi sắt còn phát huy cường độ để nâng đỡ
giọng ca, nghe rất thích. Bài 8 cũng là bài dùng
nhiều đến bộ gõ để đệm hát.
Chúng tôi nghe thêm một CD nhạc đồng quê
là Don Williams - Audiophile Selection. CD
có 13 bài hát do Don Williams trình bày. Bài 2
Where Are You, nhạc dập dìu, mềm mại, hòa
quện nghe thật mê đắm. Những tiếng gõ
cạnh trống buông nhẹ, dàn dây và bộ nhạc
cụ chạy điện hòa vào nhau mang lại một hiệu
ứng tuyệt vời. Bài 3 When Im With You có lối
hát như nói và có vẻ như ít nhạc đệm ở đầu
bài. Sau đó, nhạc đệm nhiều lên, giữa bài là
một đoạn nhạc dạo dài rất hay. Bài 5 You’re
My Best Friend là một ca khúc đồng quê ở
tốc độ vừa phải, giọng người được nâng đỡ
bởi nhạc đệm từ bộ gõ nhạc nhẹ, dàn dây và
các nhạc cụ điện tử. Dù thế nào thì tính chất
mềm mại của bài hát vẫn là chủ đạo. Bài số
13 It Must Be Love là một ca khúc nhạc đồng
quê ở tốc độ hơi nhanh. Các giọng người hát
bè được đệm bởi bộ gõ là chính và các nhạc
cụ điện tử như guitar lead và guitar bass.
Trước khi kết thúc phiên khảo sát, chúng tôi
còn kịp nghe CD Leonard Cohen – Ten New
Songs. Đây là một CD hay. Nó cho thấy hệ
thống chơi đầy ung dung với bass xuống sâu,
rền; trung âm thật như thấy ca nhạc sỹ chính
và dàn bè đang biểu diễn trước mặt; âm cao
tơi dịu, ngọt.
The Wind Design là loa cột loại lớn, có thể
chơi hoành tráng và đĩnh đạc trong không
gian rộng từ 30-50m2, thậm chí hơn. Song
ngay cả khi bố trí trong không gian nhỏ hơn,
loa vẫn thể hiện được sự tinh tế và linh hoạt
chứ không quá phụ thuộc vào phòng nghe
mà trở nên ì ạch, chậm chạp.
Đôi loa này sở hữu chất âm đặc trưng của
Totem: ngọt ngào, mềm mại và giàu tính trữ
tình. Trung âm của loa hơi đượm hơn một
số dòng loa khác, thiên về chất âm trung
tính như Dynaudio, Scan Sonic hay Devore
Fidelity, hợp với những tác phẩm âm nhạc có
xu hướng lãng mạn.
Cặp loa phù hợp với những đôi tai và những
tâm hồn chuộng sự ve vuốt, chiều chuộng
bởi những giai điệu đẹp, tròn trịa và ấm áp.
Ngược lại, với những gout nghe “gồ ghề” theo
kiểu nghe direct hay âm thanh studio đòi hỏi
độ trung thực và mộc mạc thật cao (ít làm
màu), hoặc với những thứ âm thanh thô ráp,
xù xì thì đây không phải là đôi loa phù hợp.
Khang Nguyễn
28
Tháng 12/2015 STEREO
Tháng 12/2015 STEREO
29
Thˆ m∏y
Jeff Rowland
Continuum S2
Không nhiều ampli tích hợp ở đẳng cấp hi-end có khả năng ung dung
kiểm soát hầu hết những dòng loa lớn như Continuum S2. Song tất nhiên, chiếc
ampli class D mạnh mẽ này cũng không phải để dành cho tất cả các đôi tai, đặc biệt
với những đôi tai quá quen thứ âm thanh được “nấu” sao cho màu mè, lòe loẹt.
Thông số kỹ thuật
Công suất cực đại ở 8 Ohms:
400 watt/kênh
Công suất cực đại ở 4 Ohms:
800 watt/kênh
Đáp tuyến tần số:
5 Hz - 70 kHz, -3 dB @ 8 ohms
THD & Nhiễu < 0.05%, 20 Hz - 20
kHz
Trọng lượng:
15,9 kg
Kích thước:
135 x 394 x 380 mm (CxRxS)
Giá tham khảo:
231.600.000 đồng
Thiết kế
Jeff Rowland làm một trong những tên
tuổi mà giới chơi audio có nghề thường
thích dùng để “thể hiện” với những người
không rành về audio bởi lẽ, nó đẹp, lịch
lãm. Cái cách mà công ty thiết kế sản
phẩm không khiến người ta phải bật ra
câu hỏi: “món này có mắc lắm không vậy”?!
Đây là câu cửa miệng của dân amateur khi
được tiếp xúc với các thiết bị hi-end. Máy
mang vẻ đẹp đặc trưng của những thiết kế
kinh - điển - bền - vững, không phụ thuộc
vào trào lưu, với bộ khung sườn kim loại
phủ màu đen bóng cùng tấm nhôm mạ
bạc bóng láng dập hình vỏ sò. Toàn bộ
khung máy được làm từ hợp kim nhôm
cao cấp 6061-T6. Phong cách sản phẩm
của Jeff Rowland không khoe khoang mà
đi vào chất lượng, kiểu như Leica đầu tư
nhiều tiền vào công nghệ xử lý kim loại và
thủy tinh để làm ống kính. Nhiều người chỉ
có thể cảm nhận được giá trị của thiết bị
khi được ngắm tận mắt, sờ tận tay.
Continuum S2 là thế hệ sản phẩm thứ 4
của Jeff Rowland thuộc dòng ampli tích
hợp. Tuy nhiên, với tầm giá trên 10.000
USD, giới audiophile thường nhắm tới
những power mono kích thước lớn nổi
tiếng khác. Còn ở tầm giá này, thường
những người “chịu chơi” mới đủ bản lĩnh
30
Tháng 12/2015 STEREO
Tháng 12/2015 STEREO
31
Thˆ m∏y
Jeff Rowland không tự gắn “chết” công
nghệ của mình vào một kiểu mạch
khuếch đại nào đó. Các model ra đời
trong vài chục năm qua đều mang
dấu ấn của mỗi thời kỳ, như một biểu
đồ thời gian của ngành công nghiệp
audio thu nhỏ.
xài đồ tích hợp. Bên cạnh thiết kế đậm chất
xa hoa, có lẽ Jeff Rowland cũng là thương
hiệu nổi nhất và là một trong những nhà
sản xuất đồ hi-end chế tạo ampli công suất
sử dụng mạch khuếch đại class D. Một điểm
thú vị là Jeff Rowland không tự gắn “chết”
công nghệ của mình vào một kiểu mạch
khuếch đại nào đó. Các model ra đời trong
vài chục năm qua đều mang dấu ấn của
mỗi thời kỳ, như một biểu đồ thời gian của
ngành công nghiệp audio thu nhỏ. Lối thiết
kế có phần thực dụng của hãng đã mang
lại những dấu ấn riêng về mặt âm thanh,
sự tăng tiến có thể nhận biết qua các đời
model, nhưng không đi trệch triết lý thiết
kế cốt lõi.
Ampli tích hợp Continuum S2 vận hành ở
chế độ class D để đạt tới công suất thực ở
mức tối đa 400 watt tại trở kháng 8 Ohm
trong một kích thước vừa phải với trọng
lượng chỉ 15,9 kg. Một trong những chỉ số
cho thấy Jeff Rowland có nghề với mạch
class D là công suất của ampli tăng lên
đúng gấp đôi với trở kháng 4 Ohm. Ngược
lại, hầu hết các mạch class D thông thường
khác đều chơi khá ấn tượng ở tải loa 8
Ohm, nhưng nhanh chóng hụt hơi khi phải
“hầu hạ” những đôi loa có trở kháng thấp.
Thiết kế tiêu chuẩn của Continuum S2 chỉ
có mạch khuếch đại line thông thường với
5 đường tín hiệu vào, hoặc chỉ còn 4 nếu
người dùng sử dụng tính năng home cinema by-pass. Tuy nhiên, ngõ nhận tín hiệu
số 1 có thể tương thích với nhiều mạch xử
lý khác nhau, từ một bo DAC cho đến một
bo mạch Phono. Các bản mạch này có thể
được thực hiện bởi các nhà phân phối (đã
32
Tháng 12/2015 STEREO
được ủy quyền), đặc biệt thuận lợi trên lãnh
thổ Hoa Kỳ. Về mặt kỹ thuật, mỗi bo mạch
mới phải có một chốt hãm và một vít định vị
trên bộ giá chờ. Những thao tác này không
quá phức tạp và có thể được xử lý bởi các kỹ
thuật viên tại các nhà phân phối. Nếu có cơ
hội chứng kiến các kỹ thuật viên dỡ nắp máy
để bổ sung bo mạch mới, người chơi sẽ cảm
nhận được ngay triết lý “không thỏa hiệp” ở
thiết kế của Jeff Rowland từ trong ra ngoài.
Linh kiện bên trong máy được bố trí khoa học,
mạch lạc theo tư duy tối thiểu hóa đường
truyền tín hiệu để tránh can nhiễu và tối đa
hóa tốc độ đáp ứng. Trong bối cảnh vòng đời
một sản phẩm hi-end audio kéo dài từ 3-5
năm thì Continuum S2 được Jeff Rowland tạo
ra cho một cuộc chơi dài hơi, chắc hẳn nó vẫn
còn sức hấp dẫn trong vòng một vài thập niên
sau khi ra đời.
Hiện có hai trường phái khá rõ ràng, hoặc sử
dụng nguồn nhạc analog từ đầu đĩa nhựa,
hoặc nghe nhạc lossless và Continuum S2
có khả năng đáp ứng một trong hai sở thích
này. Tuy nhiên, có thể những người sở hữu
Contiuum S2 sẽ có thiên hướng lắp thêm bo
mạch RIAA hơn là bo giải mã để chơi nhạc số,
bởi đơn giản là nó thiếu cổng kết nối Ethernet
và cổng USB, ngay cả khi Jeff Rowland đã
cẩn thận gợi ý người chơi nên dùng kèm bộ
chuyển USB qua RCA để cho âm thanh hay
nhất. Ở một góc độ khác, mạch Phono MM/
MC là lựa chọn không tồi cho giới audiophile,
nhất là khi đĩa nhựa đang có sự trỗi dậy mạnh
mẽ trong những năm gần đây. Tất nhiên việc
chơi một mạch phono trong máy khó mà
sánh được về độ tinh tế, cầu kỳ và cả chất
lượng âm thanh nếu ta dùng một pre-phono
đẳng cấp riêng. Song thực tế cũng chứng
minh rằng mạch theo máy của Jeff Rowland
rất ổn.
Cũng giống như hầu hết các sản phẩm khác
của Jeff Rowland, Continuum S2 có cổng kết
nối balanced nhưng cũng chơi tốt với kết nối
single-ended. Kết nối balanced thường được
đánh giá là lựa chọn tối ưu, trong khi đó, chỉ
có 2 kết nối single-ended (RCA), người chơi
có thể chọn lấy một cổng dành cho kết nối
Phono. Một số chuyên gia âm thanh nhận có
nhận định rằng, Continuum S2 chơi nhạc qua
kết nối single-ended xuất sắc hơn nhiều ampli
có cổng balanced khác trong cùng khung giá.
Dẫu sao, nếu có thể sử dụng đường balanced
để kết nối với nguồn phát thì hãy nên tận
dụng ưu thế của cổng này.
Âm thanh
Continuum S2 là kiểu ampli không “hét vào
tai” người nghe. Một thực tế khá phổ biến là
nhiều hệ thống audio hiện nay có âm thanh
theo xu hướng “tươi” và “tiến”: giàu chi tiết
ở dải cao và âm trường nhô ra phía trước.
Kiểu trình diễn này rất dễ gây ấn tượng và
lấy lòng người nghe. Ví như đàn ông dễ xiêu
lòng trước phụ nữ gợi cảm và dễ dãi. Nhưng
sau khi tất cả những ấn tượng ban đầu qua đi
(cũng rất nhanh) thì cảm xúc cũng trôi tuột
theo. Việc phải lòng liên tục với tuýp phụ nữ
như vậy chỉ cuốn đi thời gian và tiền bạc còn
cảm xúc thì ngày một chai sạn. Thưởng thức
âm nhạc từ các hệ thống tái tạo cũng tương
tự, dễ đến thì dễ đi, âm thanh kiểu gây ấn
tượng sẽ khó tạo được cảm hứng nghe lâu
dài. Các thiết bị tái tạo âm thanh theo kiểu
gây ấn tượng đang ngày một trở nên phổ
biến, thậm chí nó làm sai lệch nhận thức của
người nghe về âm nhạc, bởi âm nhạc trên
thực tế không lấn lướt thính giả, nó thẩm
thấu và đồng nhất với thính giả dưới nhiều
góc độ. Trên thực tế, sau khi nghe Continuum
S2 một thời gian, tôi càng nhận thấy nhiều
chiếc ampli khác của mình thực ra có xu
hướng tái tạo âm thanh hơn là âm nhạc.
Ngoài khía cạnh nổi bật là chất âm tự nhiên,
việc chỉ ra các đặc tính âm học khác của
Continuum S2 là điều không dễ dàng, nhưng
phần lớn đều có chiều hướng tích cực. Âm
thanh của thiết bị này không phải là loại có
thể tóm lược vắn tắt trong một vài câu, thực
ra, đó là sự hạn chế của ngôn từ chứ không
phải là khuyết điểm của công nghệ điện tử.
Xét trên góc độ một hệ thống khuếch đại 2
Tháng 12/2015 STEREO
33
Thˆ m∏y
Đàn ông có thể phải lòng liên tục với
tuýp phụ nữ gợi cảm và dễ dãi nhưng
chỉ để cuốn đi thời gian và tiền bạc,
còn cảm xúc thì ngày một chai sạn.
Việc thưởng thức âm nhạc từ các hệ
thống tái tạo cũng tương tự, dễ đến thì
dễ đi, âm thanh kiểu gây ấn tượng sẽ
khó tạo được cảm hứng nghe lâu dài.
kênh stereo, âm thanh phát ra từ loa khi
chơi cùng Continuum S2 cho tôi cảm giác
kéo dài tới khoảng không gian xung quanh
vị trí nghe. Không đơn thuần là âm thanh
holographic (không gian 3 chiều) mà nó
nhặt từng thứ âm thanh trong bản ghi, đặt
vào một vị trí nào đó trong phòng theo
kiểu khiến bạn nghĩ rằng mình đang ngồi
ở một chỗ nào đó khác mà nghe nhạc, rất
kỳ lạ!
Chiếc ampli này cũng có độ trong sáng
đáng nể, nhưng vừa đủ chừng mực, không
tới mức mổ sẻ, phân tách bản ghi thành
những gói âm thanh vô hồn. Ampli sở hữu
một độ tĩnh nền âm vừa đủ thấp để các chi
tiết âm thanh nổi lên rõ ràng, người nghe
không bao giờ có cảm giác bị làm phiền
34
Tháng 12/2015 STEREO
bởi tiếng ồn từ hệ thống, trừ khi bạn đang
nghe nhạc trong một môi trường hoàn toàn
biệt lập với thế giới bên ngoài và có đôi tai
thật thính nhạy. Tuy nhiên đặc tính này cũng
là con dao hai lưỡi, bởi một số thiết bị âm
thanh không phủ màu lên bản thu và có âm
nền tĩnh thường khiến thính giả nghe được
rất nhiều chi tiết, và Continuum S2 cũng chơi
nhạc theo hướng này, đôi khi, bạn cũng có thể
phải định hướng lại cách nghe của mình để
hiểu rằng âm nhạc thực chất là thế nào.
Một chiếc ampli class D công suất lớn không
có nghĩa là trình diễn phải theo xu hướng “bạo
lực, tấn công”, trừ khi người chơi cố tình đẩy
hệ thống của mình trình diễn theo kiểu đó.
Continuum S2 không chỉ là một ampli class
D tốt, nó còn là “ampli Jeff Rowland” hay, thú
vị, giàu chi tiết nhưng âm thanh không “tiến”,
đĩnh đạc và tự nhiên. Điều đáng trách nhất ở
chiếc ampli này là cọc đấu loa chỉ tương thích
với jack càng cua, ngay cả khi hãng đã cung
cấp bộ chuyển 4mm, nhưng được cắm trực
tiếp cáp loa vào ampli thì vẫn hay hơn. Điểm
đáng thất vọng thứ hai là mặc dù máy có giá
trên mười ngàn USD nhưng chiếc remote đi
kèm lại hơi “bèo”, nó khiến người ta liên tưởng
đến một chiếc điều khiển nhựa tầm tầm của
các món đồ điện tử vài chục năm trước. Tron
khi đó, với giá tiền này, thậm chí thấp hơn
nhiều, một số hãng dám đầu tư cho remote
rất ổn từ kiểu dáng, tính năng đến chất liệu.
Tôi thích Continuum S2 bởi cùng một triết
lý mà hãng chia sẻ với Conrad Johnson: âm
thanh thong thả, đĩnh đạc không gượng ép
và “thật”, nhưng không quá chi tiết theo kiểu
phân tích và bị cảm giác “lạnh”.
Trong giới nghe nhạc, chơi đồ hiện có hai xu
hướng chính mà sản phẩm của Jeff Rowland
có thể phục vụ tốt cả hai nhóm này. Nhóm
thứ nhất gồm những người từng theo đuổi
nghiệp audio nhưng vì một số lý do nào đó
mà rời khỏi cuộc chơi mươi năm, khi quay
lại họ thường nâng cấp thiết bị để thỏa mãn
đôi tai. Theo cách này, họ không ngừng
khám phá vẻ đẹp mới của âm nhạc - âm
thanh và có xu hướng liên tục mua sắm đĩa
nhạc, file nhạc. Nhóm thứ hai gồm những
audiophile thủ cựu nhưng có xu hướng tìm
kiếm đến cái mới mẻ, những hệ thống tái
tạo âm thanh thực sự chất lượng mà không
cồng kềnh và thân thiện. Continuum S2 đáp
ứng ổn thỏa cả hai xu hướng này.
Trường Giang
Thˆ m∏y
Furman Stable Power
Regulator SPR - 16Ei
Với kinh nghiệm 1/3 thế kỷ, Furman là công ty tiên phong về các sản phẩm ổn định điện áp và lọc
điện tuyến tính cho các đài phát thanh, phòng ghi âm, các dàn nhạc nhỏ và lớn. Thiết bị chúng tôi trải
nghiệm lần này là chiếc máy Stable Power Regulator SPR-16Ei, máy ổn áp và lọc điện chuyên dụng
cho dàn high-end.
36
Tháng 12/2015 STEREO
Furman gần đây đưa các công nghệ chuyên
nghiệp vào phục vụ hệ thống nghe nhạc,
xem phim gia đình bằng 2 thiết bị được giới
chế tạo thiết bị audio đáng giá cao có tên
Reference IT 16Ei và Reference SPR 16Ei. SPR
16Ei là máy ổn áp đa năng với nhiều công
nghệ ưu việt của công ty Furman Sound Hoa
Kỳ.
Khi được hỏi tại sao lại chọn Furman, một
thiết bị có xuất xứ từ nhà sản xuất hàng Pro
để phục vụ cho người chơi tại Việt Nam, nhà
phân phối Audio Choice cho biết, do những
lần dự triển lãm âm thanh tại Hoa Kỳ, thấy
nhiều hãng audio sử dụng Furman để bảo vệ
thiết bị của mình nên ông đã chủ động tìm
hiểu. Các thiết bị của Furman tuy dùng cho
dàn hi-end dân dụng nhưng được trang bị
những tính năng chuyên nghiệp như lọc điện,
chống nhiễu, cách ly và đặc biệt là có khả
năng ổn định điện áp cùng chức năng bảo vệ
quá tải.
Thiết bị trang âm dùng cho biểu diễn vốn rất
phức tạp, gồm nhiều chủng loại máy móc
khác nhau. Để một buổi biểu diễn được thành
công, điều kiện tiên quyết là nguồn điện
phải thật ổn định cả về chất lượng lẫn dòng.
Ngoài ra, phải sử dụng cả những mạch bảo
vệ để tránh cho những dàn âm thanh hàng
triệu USD không bị quá tải, shock điện để
xảy ra những sự cố đáng tiếc gây gián đoạn
sự kiện và hư hỏng thiết bị.
Bên cạnh đó, tại các nước Bắc Mỹ, dù điện
áp rất ổn định nhưng giới chuyên nghiệp và
người cầu toàn vẫn nghĩ đến vấn đề trên. Lý
do, với nhu cầu sử dụng điện ngày một gia
tăng nên điện thường giảm 10% đến 15%
Tháng 12/2015 STEREO
37
Thˆ m∏y
Ưu điểm: Lọc sạch điện, nâng cấp bộ dàn ngay lập tức, đem lai sự an tâm cho chủ nhân
dàn máy.
Nhược điểm: Là một thiết bị cơ bản có mức đầu tư khá lớn.
vào ban ngày và “dân pro” muốn âm thanh
tuyệt đối thì vẫn sắm ổn áp để giúp dàn phát
huy hết khả năng.
Còn có cần một lọc điện cho dàn máy không?
Hẳn là ai cũng cần vì dòng điện luôn chứa đầy
tạp âm và muốn âm thanh hay, hình ảnh đẹp
thì sắm lọc điện là điều cần làm. Bên cạnh đó,
sự cố sốc điện, tăng vọt điện thế, sét đánh
vào lưới điện cũng là một hiểm hoạ tiềm ẩn…
Do đó, để giải quyết 3 vấn đề trên cùng một
lúc, Furman đã đưa ra giải pháp ổn áp kiêm
lọc điện và bảo vệ dàn máy SPR 16Ei.
Đặc điểm của Furman SPRi 16Ei
Trước tiên, SPRi 16Ei có chức năng ổn áp,
cấp điện 230V ổn định và liên tục với lực tải
3.300watt RMS. Kỹ thuật ổn áp công nghệ
mạch điện tử cao cấp nhận điện thế đi vào
và chọn điện áp xuất ra đúng định mức. Hoạt
động tốt nhất ở khoảng điện thế từ 210 245V với sai số 5%. Ngoài ra, Furman SPR 16
sẽ tự động bảo vệ thiết bị và cắt nguồn nếu
điện bất ngờ vọt lên 275V.
Chứ năng thứ hai, không kém quan trọng khi
sử dụng ở môi trường điện kém ổn định như
tại Việt Nam chính là hệ thống bảo vệ đa tầng
SMP + Serie Multi Stage Protection và cắt
nguồn khẩn cấp Extreme Voltage Shutdown.
Trong khi các loại ổn áp cơ học thông dụng
chỉ lắp mạch bảo vệ thô sơ, ổn áp Furman do
nhiệm vụ thiết kế dành cho đài phát thanh,
38
Tháng 12/2015 STEREO
truyền hình, phòng ghi âm nên cung cấp mức
độ bảo vệ cao nhất, cùng lúc máy chạy mát,
không có tiếng ồn công nghệ cho phép đặt
ở ngay tại dàn máy. Hệ thống SMP là thiết
kế bản quyền nổi tiếng của Furman bảo vệ
thiết bị an toàn cho dù sốc điện lên tới 600V.
Furman cho biết đã bán được hơn 3 triệu bo
mạch SMP cho các nhà sản xuất điện công
nghiệp khác.
Tính năng cuối cũng khiến nhiều audiophile
quan tâm là công nghệ lọc tuyến tính (LIFT
Linear Filtering Technology). Trong khi các ổn
áp cơ học hầu như không lắp hệ thống lọc
điện mà còn tạo thêm nhiễu điện thì Furman
cung cấp công nghệ LIFT giúp thiết bị cắm
vào SPR 16 hưởng lợi dòng điện tinh sạch,
khiến dàn máy xuất âm thanh trong trẻo hơn
và chi tiết, âm trường nổi rõ hơn.
Âm thanh mạnh mẽ, sạch sẽ
Chúng tôi nghe thử Furman Stable Power
Regulator SPR – 16Ei với cấu hình gồm CDP
CEC CD5; ampli Synthesis Roma 37DC và
loa mành Magnepan 1.7i. Dây tín hiệu và
dây loa của Synergistics Research serie mới
nhất Atmosphere Level Two. Dây nguồn của
Furutech. Các thiết bị đều sử dụng điện cấp
từ Furman SPR – 16Ei.
Chúng tôi nghe CD Diana Krall – The Girl in
The Other Room. Giọng ca trung thực, nữ ca
sĩ ngồi đàn piano và hát phía trên ban nhạc.
Bài hát The Girl in The Other Room lên chậm
rãi. Ban nhạc, đặc biệt là bộ trống chơi rất
hay. Giữa bài là một dạo nhạc dài “no say”.
Máy SPR-16Ei thật sự là một thành phần của
bộ dàn chứ không còn là một thiết bị phụ trợ
nữa. Trong quá trình nghe kiểm tra, chúng tôi
nhận thấy bộ dàn đơn giản này đã chuyển tải
đầy đủ các dải âm từ trầm đến bổng. Trầm sâu,
trung rõ, cao tơi mịn. Ở bài 3 trong CD Diana
Krall là Templation có những tiếng bass sâu,
dày và những âm trung của bộ trống và tiếng
đàn piano ngọt ngào. Nguồn điện sạch còn
cho chúng tôi thấy một sân khấu rất tĩnh lặng,
mặc dù có lúc đứng gần loa cũng hầu như
không nghe thấy có tiếng ù xì.
Chúng tôi chuyển sang nghe CD 1962 – Hi-Fi
Violin – Western Electric Sound, một đĩa tuyển
chọn các bản nhạc hay cho violin của ABC
Records thu thanh analog từ 1962 (do Sidney
Hartb chơi Violin). Bài 1 là bản La Campanella
của Nicolo Paganini do Kreisler chuyển soạn
cho violin, Sidney Hartb chơi violin. Tiếng
đàn violin của Sidney Hartb sâu, mượt, tiềm
ẩn nhiều năng lượng để có thể bay xa. La
Campanella là tiếng chuông và bài nhạc đã
được trình diễn như muôn vàn tiếng chuông
trung thực, thức tỉnh, quyến rũ. Nhờ có SPR16Ei mà nền âm của cây đàn violin vô cùng
trong trẻo, “những tiếng chuông” vì thế rất
đẹp, nổi bật. Bài 2 trong CD này là Melodie
No.3 from Souvenir d’ un lieu cher, Op.42
của Tchaikovsky có giai điệu miên man, trữ
tình, trong sáng, dễ nghe. Bài 5 của CD Hi-Fi
Violin là bản Traumerei Op.15-7 (Giấc mơ)
của Schuman là một tác phẩm rất nổi tiếng.
Chúng tôi thấy bài nhạc đã được chơi rất cuốn
hút, thu thanh tốt và tái hiện đáng nể thông
qua bộ dàn.
năng lực cải thiện bộ dàn từ máy SPR-16Ei là
rõ rệt. Đó là một nền âm thanh cực kỳ tĩnh
lặng. Giọng ca sĩ và những người hát bè mượt,
mịn, dịu dàng. Sang bài 2 là 3 tiểu phẩm
(Minuets) cho guitar cổ điển Op.11, No.7 in A
minor, Andante cho thấy hòa âm êm dịu của
cây đàn guitar cổ điển mới mê hoặc làm sao.
Bài 3 Carol Kidd và Nigel Clark hát bài Moon
Blue thu hút và quyến rũ. Tiếng cây guitar cổ
điển đệm hát mịn mượt, dễ chịu. 16 bài nhạc
nhẹ và cổ điển của CD Linn Records này đều
rất hay và rất phù hợp với công việc thẩm
định bộ dàn hay thiết bị. Được như vậy là do
từng bài đã được thu thanh kỹ, biên tập tốt.
Bài 12 Magnificat của Philippe Rogier – Missa
Domine Dominus Noster – Agnus Dei là một
ví dụ. Hợp xướng hát cực nhuyễn. Bản nhạc về
chủ đề tôn giáo toát lên một vẻ thành kính vô
biên. Bài 13, nhạc sĩ Peter Harvey trình bày tác
phẩm của Schubert trong Winterreis Op.89,
D.911 – Der Lindernbaum cho thấy giọng
nam cũng được hỗ trợ như giọng nữ, đều mịn
mượt cả.
đúng với vai trò điểm xuyết tuyệt vời trong
những bản nhạc cần đến nhạc cụ này.
Kết luận
Cuối cùng, chúng tôi nghe CD Traditionals,
Classics, Jazz – Heartfelt do Arne Domnérus
(Sax, Clarinet); Gustaf Sjökvist (Organ) và Rune
Gustafsson (Guitar Classical). Bài 1 O God,
Source Of Truth (Trad. Choral) cho Clarinet/
Organ là một bài nhạc dân gian được phối và
chơi rất hay. Bài 2, By The Frog Pond (Trad. Arr.
Rune Gastafsson) cho Sax và Guitar Classical
cũng vậy. Đó là những kết hợp hiếm thấy
giữa các nhạc cụ nhưng lại mang đến hiệu
quả ấn tượng. CD Traditionals, Classics, Jazz
– Heartfelt có 16 bài, là một tuyển chọn hay.
Tiếng Organ dày, trầm xuống rất sâu (sâu
hơn cả Contrabass) và đầy uy lực. Kèn Saxo và
Clarinet phát huy tốt khả năng ở dải âm cao
hơn Organ còn Guitar là nhạc cụ rất trữ tình
Giải pháp của Furman dựa trên công nghệ,
kỹ thuật chuyên môn sâu rộng và chất lượng
chế tạo cao, đồng thời có chức năng bảo
vệ tuyệt đối nên đây là thiết bị phù hợp với
những người cẩn trọng, với chủ nhân của
những dàn máy hi-end. Tuy giá của nó khá
cao nhưng là một thiết bị rất đáng để xem
xét vì có Furman SPR 16Ei, các món đồ mắc
tiền khá sẽ không bị hư hỏng do các sự cố về
điện. Đồng thời, với SPR 16Ei, âm nhạc tĩnh
lặng và trong sáng hơn, hạn chế việc phụ
thuộc vào quan niệm nghe truyền thống –
“nghe nhạc ban đêm hay hơn ban ngày”.
Hoàng Tùng
Chúng tôi nghe tiếp CD Linn Records – The
Super Audio Collection Vol. 5. Bài 1 là Sara
do nữ ca sĩ Barb Jungr trình bày cho thấy một
"Furman thi’t bfi phÔ hÓp
vÌi nh˜ng ng≠Íi c»n tr‰ng,
vÌi chÒ nh©n cÒa nh˜ng
dµn m∏y hi-end."
Tháng 12/2015 STEREO
39