Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP nhà Hà Nội...

Tài liệu Tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP nhà Hà Nội

.DOC
85
220
113

Mô tả:

Chuyên đề tốt nghiệp 1 GVHD: TS. Phan Hữu Nghị TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA NGÂN HÀNG – TÀI CHÍNH …………………………… CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP ĐỀ TÀI: TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP NHÀ HÀ NỘI Giảng viên hướng dẫn: TS. Phan Hữu Nghị Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN pháp Khóa: 48 Mã sinh viên: CQ482094 Hà Nội – 5/2010 Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp Chuyên đề tốt nghiệp 2 GVHD: TS. Phan Hữu Nghị LỜI MỞ ĐẦU Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống ngân hàng được ví như hệ thần kinh của cả nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng quốc gia hoạt động thông suốt, lành mạnh và hiệu quả là tiền đề để các nguồn lực tài chính luân chuyển, phân bổ và sử dụng hiệu quả, kích thích tăng trưởng kinh tế một cách bền vững. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường thì rủi ro kinh doanh là không thể tránh khỏi, mà đặc biệt là rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng có phản ứng dây chuyền, lây lan và ngày càng có biểu hiện phức tạp. Sự sụp đổ của ngành ngân hàng có ảnh hưởng tiêu cực tới toàn bộ đời sống – kinh tế - chính trị - xã hội của một nước và có thể lan rộng sang quy mô quốc tế. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vừa qua là minh chứng rõ ràng nhất cho sức ảnh hưởng của hoạt động ngành ngân hàng tới toàn bộ đời sống – kinh tế chính trị - xã hội trên quy mô toàn cầu. Sự sụp đổ của một loạt các ngân hàng lớn có thâm niên hàng trăm năm tại Mỹ đã làm rung chuyển hệ thống kinh tế không chỉ riêng nước Mỹ, mà nó đã ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế thế giới. Hậu quả của nó là suy thoái kinh tế ở mức trầm trọng, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao và kéo dài, kéo theo đó là một loạt các tệ nạn xã hội đi kèm. Đối với Hệ thống ngân hàng Việt Nam, kể từ khi chuyển đổi qua cơ chế thị trường, đã từng bước lớn mạnh không ngừng và thu được những thành tựu quan trọng, nhưng cũng trong quá trình đổi mới, hoạt động kinh doanh của các ngân hàng Việt Nam đã vấp phải không ít các khó khăn. Hoạt động kinh doanh trở nên phức tạp hơn và áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàng lớn hơn, cùng với nó, mức độ rủi ro cũng tăng lên. Vậy làm thế nào để quản lý rủi ro nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng trong môi trường kinh doanh mới và thị trường có nhiều biến động như hiện nay luôn là một bài toán khó đặt ra đối với mọi ngân hàng. Trong hoạt động của ngân hàng thương mại, mục tiêu lợi nhuận luôn được đặt lên hàng đầu, song song với nó là mức độ rủi ro phải chấp nhận cũng tăng theo. Hoạt động tín dụng là quan trọng nhất trong ngân hàng thương mại bao gồm hai mặt: sinh lời và rủi ro. Thực tế đã cho thấy, ảnh hưởng của rủi ro tín dụng tới nền kinh tế, tới bản thân ngân hàng là rất lớn. Nó có thể khiến một ngân hàng phá sản, khiến nền kinh tế lâm vào khủng hoảng. Rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi nhưng làm thế nào quản lý được nó, hạn chế được nó luôn là một câu hỏi lớn, một vấn đề được tất cả các nhà quản lý của ngân hàng quan tâm. Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp Chuyên đề tốt nghiệp 3 GVHD: TS. Phan Hữu Nghị Sau một thời gian thực tập tại Sở giao dịch Ngân hàng TMCP nhà Hà Nội, nghiên cứu, tìm hiểu thực tế về các hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng, em đã nhận thấy tầm quan trọng của công tác quản lý rủi ro tín dụng nên mạnh dạn chọn đề tài: “Tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP nhà Hà Nội” Mục đích nghiên cứu đề tài: Nghiên cứu đánh giá công tác quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP nhà Hà nội từ đó đề xuất ra các giải pháp nâng cao khả năng quản lý hoạt động này tại ngân hàng. Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP nhà Hà Nội vài 3 năm trở lại đây, kết quả và nguyên nhân. Phương pháp nghiên cứu: chủ yếu là thu thập , phân tích và đánh giá các tài liệu của NHTMCP nhà Hà Nội và các nguồn khác có liên quan. Kết cấu chuyên đề gồm 3 phần: Chương 1: Tổng quan về tín dụng trong hoạt động của NHTM Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại NHTMCP nhà Hà Nội Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại NHTMCP nhà Hà Nội. Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp Chuyên đề tốt nghiệp 4 GVHD: TS. Phan Hữu Nghị CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NHTM 1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại (NHTM) thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần, số lượng các ngân hàng. Ngân hàng thương mại thể hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của ngân hàng là huy động vốn và cho vay vốn. Đó là cầu nối giữa các cá nhân với tổ chức kinh tế, hút vốn từ nơi nhàn rỗi bơm vào nơi khan thiếu. Hoạt động của ngân hàng thương mại nhằm mục đích kinh doanh một hàng hóa đặc biệt: "vốn- tiền", trả lãi suất huy động vốn thấp hơn lãi suất cho vay vốn, phần chênh lệch lãi suất chính là lợi nhuận của ngân hàng thương mại.. Hoạt động của ngân hàng thương mại phục vụ cho mọi nhu cầu về vốn của mọi tầng lớp dân chúng, loại hình doanh nghiệp cũng như các tổ chức khác trong xã hội. Trong ngân hàng thương mại, tiền huy động được của người gửi gọi là tài sản "nợ", tiền cho công ty và các cá nhân vay cũng như tiền gửi ở các ngân hàng khác và số trái phiếu ngân hàng sở hữu gọi là tài sản "có" của ngân hàng. Phần tài sản có tính thanh khoản cao được giữ để đề phòng trường hợp tiền gửi vào ngân hàng bị rút đột ngột gọi là tỉ lệ dự trữ của ngân hàng. Toàn bộ số vốn của ngân hàng được chia làm hai loại vốn cấp 1 và vốn cấp 2. Vốn cấp 1 còn gọi là vốn nòng cốt, về cơ bản bao gồm vốn điều lệ, lợi nhuận không chia và các quỹ dự trữ lập trên cơ sở trích từ lợi nhuận của tổ chức như quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính và quỹ đầu tư phát triển. Vốn cấp 2 bao gồm: phần giá trị tăng thêm do định giá lại tài sản của tổ chức, nguồn vốn gia tăng hoặc bổ sung từ bên ngoài (như trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi và một số công cụ nợ khác). Tại các nước đang phát triển như Việt Nam, ngân hàng thương mại thực sự đóng một vai trò rất quan trọng, vì nó đảm nhận vai trò giữ cho mạch máu (dòng vốn) của nền kinh tế được lưu thông và có vậy mới góp phần bôi trơn cho hoạt động của một nền kinh tế thị trường còn non yếu. 1.2 Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại 1.2.1 Khái niệm về rủi ro tín dụng Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp Chuyên đề tốt nghiệp 5 GVHD: TS. Phan Hữu Nghị Quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế đã khiến môi trường cạnh tranh trong các lĩnh vực kinh doanh ngày càng gay gắt, hầu hết các doanh nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với những thua lỗ và quy luật đào thải khắc nghiệt của thị trường. Chính điều đó đã là cho tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng tăng lên trong những năm gần đây. Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng và các tổ chức kinh tế, cá nhân theo nguyên tắc hoàn trả. Việc hoàn trả được nợ gốc trong tín dụng có nghĩa là việc thực hiện được giá trị hàng hoá trên thị trường, còn việc hoàn trả được lãi vay trong tín dụng là việc thực hiện được giá trị thặng dư trên thị trường. Do đó, có thể xem rủi ro tín dụng cũng là rủi ro kinh doanh nhưng được xem xét dưới góc độ của ngân hàng. “Rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng và các tổ chức tín dụng” là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động của ngân hàng, của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết ( Điều 2- QĐ 493 Về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng và các tổ chức tín dụng ). Khi thực hiện một hoạt động cho vay cụ thể, ngân hàng không dự kiến là khoản cho vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản cho vay đó luôn hàm chứa rủi ro. Một số ý kiến cho rằng trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung. Do vậy khi tổn thất xảy ra dưới mức tỷ lệ dự kiến, ngân hàng coi đó là một thành công trong quản lý. 1.2.2 Phân lọai rủi ro tín dụng Phân loại theo phương diện quản lý - Rủi ro có thể kiểm soát được Là rủi ro tín dụng mà ngân hàng có thể phần nào dự đoán được chủ thể gây ra nó, ước tính được mức độ ảnh hưởng của nó, dự kiến được thời gian phát sinh ra nó, từ đó có những biện pháp hợp lý để phòng ngừa, hạn chế những tổn thất mà nó có thể gây ra xuống mức tối thiểu. Những rủi ro tín dụng loại này thường do chủ quan con người gây ra, cụ thể hơn là do khách hàng gây ra hoặc do chính bản thân ngân hàng tự gây ra cho mình. - Rủi ro không thể kiểm soát được Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp Chuyên đề tốt nghiệp 6 GVHD: TS. Phan Hữu Nghị Là loại rủi ro tín dụng mà các ngân hàng không thể dự đoán được trước, không thể biết chúng sẽ xảy ra khi nào, cũng không thể tính toán được một cách cụ thể, chính xác những ảnh hưởng mà chúng gây ra nà chủ yếu do những bất lợi thuộc về các yếu tố tự nhiên như hạn hán, mất mùa, lũ lụt, hỏa hoạn….. Các ngân hàng thương mại thường phải tập trung vào để ngăn chặn hạn chế những rủi ro có thể kiểm soát được, còn rủi ro không thể kiểm soát được thì chỉ có cách chống đỡ khi chúng xảy ra. Phân loại theo tính chất của rủi ro - Rủi ro sai hẹn: Là loại rủi ro xảy ra khi người vay vốn không hoàn trả gốc và lãi tiền vay đúng hẹn như trong hợp đồng. - Rủi ro mất vốn: Là loại rủi ro xảy ra khi người vay vốn không trả đươc gốc tiền vay một cách đầy đủ như trong hợp đồng. Dù là chia theo cách nào di chăng nữa thì rủi ro tín dụng cũng là một điều không mong muốn, luôn mang lại những tổn thất cho đối với tất cả các ngân hàng. Một khi có hoạt động ngân hàng thì còn tồn tại rủi ro trong hoạt động tín dụng. Việc tìm hiểu và đưa ra các biện pháp để quản lý tốt rủi ro tín dụng luôn được các ngân hàng quan tâm, chú trọng. 1.2.3 Bản chất của rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, hoạt động tín dụng. Khi thực hiện một loạt các hoạt động tài trợ cụ thể, ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn là cao nhất. Nhìn chung ngân hàng chỉ cho vay khi thấy rằng rủi ro tín dụng sẽ không xảy ra. Khả năng hoàn trả vốn vay của khách hàng có thể bị thay đổi do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa nhiều cán bộ ngân hàng không có khả năng phân tích tín dụng thích đáng. Do vậy, trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan. Nhiều quan điểm nhất trí rằng, rủi ro tín dụng là bạn đường trong kinh doanh, có thể đề phòng, hạn chế, chứ không thể loại trừ. Vì vậy, rủi ro dự kiến luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung của ngân hàng. 1.2.4 Các chỉ số thường được dùng để đánh giá rủi ro tín dụng Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp Chuyên đề tốt nghiệp 7 GVHD: TS. Phan Hữu Nghị Rủi ro tín dụng là khách quan song các ngân hàng luôn phải quản lý rủi ro tín dụng nhằm hạn chế tới mức thấp nhất các tổn thất co thể xảy ra. Những dấu hiệu chính phát sinh trong hoạt động tín dụng phản ánh rủi ro tín dụng: 1.2.4.1 Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn “Nợ” bao gồm: - Các khoản cho vay, ứng trước, thấu chi và cho thuê tài chính; - Các khoản chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác - Các khoản bao thanh toán - Các hình thức tín dụng khác “Nợ quá hạn” là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và / hoặc lãi đã quá hạn; hoặc ngân hàng phát hiện khách hàng sử dụng sai mục đích, hoặc tài sản đảm bảo bị giảm giá trị, hoặc khách hàng phá sản…. Tỷ lệ nợ quá hạn: Dư nợ quá hạn x 100% Tỷ lệ nợ quá hạn = Tổng dư nợ cho vay Theo quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà Nước thì dư nợ cho phép đối với các ngân hàng thương mại không được vượt quá 5%, điều đó có nghĩa trong 100 đồng vốn ngân hàng bỏ ra cho vay thì nợ quá hạn được phép tối đa là 5 đồng. Quy định này nhằm mục đích hạn chế tình trạng các ngân hàng cho vay ồ ạt, thiếu sự quản lý dẫn tới khả năng thanh khoản kém. .“Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ” là khoản nợ mà tổ chức tín dụng chấp thuận điều chỉnh kỳ hạn hoặc gia hạn nợ cho khách hàng do tổ chức tín dụng đánh giá khách hàng suy giảm khả năng trả nợ gốc hoặc lãi đúng thời hạn ghi trên hợp đồng tín dụng nhưng tổ chức tín dụng có đủ cơ sở để đánh giá khách hàng có khả năng trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo thời hạn trả nợ đã cơ cấu. 1.2.4.2 Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay: “Nợ xấu” (NPL) của ngân hàng được quy định là các khoản nợ thuộc nhóm 3, 4 và 5. Tức là nó bao gồm các nhóm nợ: nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn. Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp Chuyên đề tốt nghiệp 8 GVHD: TS. Phan Hữu Nghị Nợ xấu x 100% Tỷ lệ nợ xấu = Tổng dư nợ cho vay Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng tín dụng của tổ chức tín dụng. Theo quy định hiện hành thì tỷ này không vượt quá 3% Theo quyết định QĐ 18 về sửa đổi bổ sung một số điều của QĐ 493, tổ chức tín dụng thực hiện phân loại nợ theo năm nhóm như sau: a) Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn): - Các khoản nợ trong hạn và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn; - Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại; - Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 1 theo quy định tại Khoản 2 Điều này. b) Nhóm 2 (Nợ cần chú ý): - Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày; - Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là doanh nghiệp, tổ chức thì tổ chức tín dụng phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về khả năng trả nợ đầy đủ nợ gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu); - Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Khoản 3 Điều này. c) Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn): - Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày; - Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Điểm b Khoản này; - Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng; - Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại Khoản 3 Điều này. d) Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ): - Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày; Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp Chuyên đề tốt nghiệp 9 GVHD: TS. Phan Hữu Nghị - Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; - Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai; - Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại Khoản 3 Điều này. đ) Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn): - Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày; - Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; - Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai; - Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn; - Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý; - Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại Khoản 3 Điều này. Cũng theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN và Quyết định 18/2006/QĐNHNN thì dự phòng cụ thể được trích lập trên rủi ro tín dụng thuần của các khoản cho vay theo tỷ lệ tương ứng: Nhóm 1 2 3 4 5 Loại Nợ đủ tiêu chuẩn Nợ cần chú ý Nợ dưới tiêu chuẩn Nợ nghi ngờ Nợ có khả năng mất vốn Tỷ lệ dự phòng cụ thể 0% 5% 20% 50% 100% 1.2.4.3 Hệ số rủi ro tín dụng: Tổng dư nợ cho vay x 100% Hệ số rủi ro tín dụng = Tổng tài sản có Hệ số này cho ta thấy tỷ trọng khoản mục tín dụng trong tài sản có, khoản mục tín dụng trong tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận cũng lớn nhưng đồng thời rủi ro cũng cao. Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp Chuyên đề tốt nghiệp 10 GVHD: TS. Phan Hữu Nghị 1.2.4.4 Vòng quay vốn tín dụng: Doanh số thu nợ x 100% Vòng quay vốn tín dụng = Dư nợ bình quân Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ luân chuyển vốn tín dụng của một ngân hàng tức là nó thể hiện khả năng thu hồi vốn của ngân hàng cao hay thấp, chất lượng quản lý vốn tín dụng tốt hay xấu. Vốn tín dụng quay được một vòng tức là tính từ thời điểm cấp tín dụng đến thời điểm thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi khi đến hạn như trong hợp đồng. Vòng quay vốn tín dụng càng cao chứng tỏ nguồn vốn vay ngân hàng luân chuyển càng nhanh, được sử dụng để tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hóa. Với một số vốn nhất định, vòng quay vốn tín dụng nhanh, ngân hàng có thể tiếp tục đầu tư vào lĩnh vực khác để kiếm lời. Vòng quay vốn tín dụng cao chứng tỏ khả năng quản lý vốn tín dụng cũng như chất lượng tín dụng của ngân hàng tốt. Các chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các mức độ rủi ro tín dụng khác nhau. Đối với ngân hàng, việc khách hàng không trả đúng hạn có liên quan tới thanh khoản và các rủi ro thanh khoản: Chi phí gia tăng để tìm nguồn mới chi trả cho tiền gửi và tiền cho vay đúng hợp đồng. Nợ khó đòi là một lời cảnh báo cho ngân hàng: Hy vọng thu lại tiền vay cần có biện pháp hữu hiệu để giải quyết. 1.2.5 Yêu cầu điều kiện đối với khoản tín dụng của Ngân hàng Tình hình tài chính và phương án, môi trường hoạt động của người đi vay. Nếu tình hình tài chính của người đi vay tốt, phương án có hiệu quả cao và môi trường hoạt động thuận lợi thì rủi ro tín dụng sẽ thấp. Những yếu tố này xuất hiện xấu đi sẽ cấu thành các khoản nợ có vấn đề. Đảm bảo tiền vay Nhiều trường hợp ngân hàng đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo khi uy tín người vay không cao hoặc hoạt động có nhiều rủi ro. Như vậy tài sản đảm bảo càng cao trên tổng dư nợ cho thấy ngân hàng đang cấp tín dụng cho những khách hàng có rủi ro cao. Tuy nhiên tài sản đảm bảo sẽ góp phần làm giảm tổn thất cho ngân hàng khi khách hàng không trả được nợ. Vì vậy, khi xem xét yếu tố tài sản đảm bảo phải chú ý tới từng trường hợp cụ thể. Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp Chuyên đề tốt nghiệp 11 GVHD: TS. Phan Hữu Nghị Tính đa dạng hóa trong tài sản của ngân hàng Bên cạnh nợ quá hạn, nhà quản lý ngân hàng còn sử dụng các hình thức đo rủi ro tín dụng khác, gắn liền với chiến lược đa dạng hóa tài sản, lập hồ sơ khách hàng, trích lập quỹ dự phòng, đặt giá đối với khoản cho vay…. + Mất ổn định vĩ mô Chính sách thường xuyên thay đổi, lạm phát cao, tình hình chính trị mất ổn định, vùng thiên tai ,..đều tạo nên mất ổn định vĩ mô, tác động xấu tới người đi vay và do vậy ảnh hưởng tới khả năng thu nợ của ngân hàng, tạo nên rủi ro tín dụng trong ngân hàng. + Tính kém đa dạng tín dụng Đa dạng tín dụng là biện pháp hạn chế rủi ro. Những thay đổi trong chu kỳ của người đi vay là khó tránh khỏi. Nếu ngân hàng tập trung vào tài trợ cho một nhóm khách hàng của một ngành hoặc của một vùng hẹp thì rủi ro sẽ cao hơn so với đa dạng hóa. Để phản ánh rủi ro tín dụng, nhiều ngân hàng đã kết hợp phân loại nợ với giá trị tài sản. 1.2.6 Nguyên nhân dẫn tới rủi ro tín dụng Trong quan hệ tín dụng có hai đối tượng tham gia là ngân hàng cho vay và người đi vay. Nhưng người đi vay sử dụng tiền vay trong một thời gian, không gian cụ thể, tuân theo sự chi phối của những điều kiện cụ thể nhất định mà ta gọi là môi trường kinh doanh, và đây là đối tượng thứ ba có mặt trong quan hệ tín dụng. Rủi ro tín dụng xuất phát từ môi trường kinh doanh gọi là rủi ro do nguyên nhân khách quan. Rủi ro xuất phát từ người vay và ngân hàng cho vay gọi là rủi ro do nguyên nhân chủ quan. 1.2.6.1 Nguyên nhân khách quan từ bên ngoài Khi khách hàng nhận khoản giải ngân từ ngân hàng, họ sẽ dùng đồng vốn vào mục đích kinh doanh như: Đầu tư vào dây chuyền sản xuất, đầu tư mua nguyên vật liệu… Trong quá trình sản xuất kinh doanh tất yếu sẽ phát sinh những rủi ro không mong muốn mà đôi khi các doanh nghiệp không lường trước được như: - Rủi ro do nền kinh tế không ổn định. - Rủi ro do các thủ tục pháp lý ở các địa phương còn rườm rà. - Rủi ro do thị trường bị bóp méo bởi hàng hóa nhập lậu. Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp Chuyên đề tốt nghiệp 12 GVHD: TS. Phan Hữu Nghị Rủi ro do nền kinh tế không ổn định Khi tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh, bao giờ doanh nghiệp cũng tiến hành đánh giá tình hình thị trường cũng như đưa ra những dự báo phát triển thị trường, dự báo tăng trưởng doanh số. Nếu nền kinh tế thế giới cũng như nền kinh tế quốc nội vận hành theo quỹ đạo đã dự báo thì doanh nghiệp sẽ thực hiện tốt các kế hoach đề ra. Tuy nhiên, ta biết rằng: Nền kinh tế nước ta hiện giờ đang phụ thuộc nhiều vào các ngành sản xuất nông nghiệp và các ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp. Mà những ngành này lại phụ thuộc nhiều vào rủi ro thời tiết. Khi nền kinh tế thế giới bị khủng hoảng, tất yếu sẽ ảnh hưởng lớn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu. Những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh như dệt may, xuất khẩu hàng nông sản (xuất khẩu café, hạt điều, xuất khẩu cá basa,..) có nguy cơ không bán được khi nền kinh tế thế giới bị khủng hoảng. Hoặc một sự thay đổi trong chính sách nhập khẩu (tăng thuế, giảm hạn ngạch, thay đổi tiêu chuẩn nhập khẩu) tại các nước sở tại ảnh hưởng đến sản lượng xuất khẩu. Rủi ro do các thủ tục pháp lý Sự chậm trễ, rườm rà trong các thủ tục cấp giấy phép, các thủ tục hải quan… nhiều lúc ảnh hưởng lớn đến cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp. Ta biết rằng, cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp có tính thời điểm, nhưng nó sẽ không thể thực hiện nhanh chóng nếu không được “cởi trói” bởi các thủ tục pháp lý. Việc chậm trễ sẽ dẫn đến hệ quả của hàng loạt các hợp đồng kinh tế bị đình trệ, các dự án đầu tư “buộc lòng” phải “treo” trên giấy. Điều này gây tổn thất lớn về mặt kinh tế đối với các doanh nghiệp vay vốn. Rủi ro do hàng hóa nhập lậu tràn vào trong nước Hàng hóa nhập lậu vào Việt Nam qua các con đường vùng biên từ lâu đã là nỗi “ám ảnh” của các doanh nghiệp nội địa. Hàng hóa nhập lậu có ưu điểm rẻ hơn về giá, loại hình phong phú đánh mạnh vào nhu cầu của đại bộ phận người tiêu dùng có thu nhập thấp. Các mặt hàng về đồ điện tử, kim khí, quần áo, mỹ phẩm là một minh chứng cho hiện tượng trên. Các rủi ro cơ bản trên đã ảnh hưởng tới tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Một khi các đồng vốn mà doanh nghiệp đi vay đổ vào sản xuất kinh doanh mà không thu lại được, tất yếu sẽ đẩy doanh nghiệp tới việc mất dần Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp Chuyên đề tốt nghiệp 13 GVHD: TS. Phan Hữu Nghị khả năng trả nợ. Ngân hàng cũng đứng trước nguy cơ khó thu hồi lại khoản cho vay này. 1.2.6.2 Nguyên nhân thuộc về năng lực ngân hàng Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng: Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính thời gian vì nó nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Nhưng trong thời gian trước đây, công việc kiểm tra nội bộ của các ngân hàng hầu như chỉ tồn tại trên hình thức. Kiểm tra nội bộ cần phải được xem như hệ thống “thắng” của cỗ xe tín dụng. Cỗ xe càng lao đi với vận tốc lớn thì hệ thống này càng phải an toàn, hiệu quả thì mới tránh cho cỗ xe khỏi đi vào những ngã rẽ rủi ro vốn luôn luôn tồn tại thường trực trên con đường đi tới. Năng lực cán bộ còn hạn chế:: Một số vụ án kinh tế lớn trong thời gian vừa qua có liên quan đến cán bộ NHTM đều có sự tiếp tay của một số cán bộ ngân hàng cùng với khách hàng làm giả hồ sơ vay, hay nâng giá tài sản thế chấp, cầm cố lên quá cao so với thực tế để rút tiền ngân hàng. Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố tối quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng. Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay: Các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay mà nới lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý một cách chủ động để đảm bảo sẽ được hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Việc theo dõi hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ các điều khoản đề ra trong hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng nhằm tìm ra những cơ hội kinh doanh mới và mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên trong thời gian qua các NHTM chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này một phần do yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng của cán bộ ngân hàng, một phần do hệ thống Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp Chuyên đề tốt nghiệp 14 GVHD: TS. Phan Hữu Nghị thông tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà NHTM yêu cầu. Sự hợp tác giữa các NHTM quá lỏng lẻo, vai trò của CIC chưa thực sự hiệu quả: Kinh doanh ngân hàng là một nghề đặc biệt huy động vốn để cho vay hay nói cách khác đi vay để cho vay, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng là không thể tránh khỏi, các ngân hàng cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn chế rủi ro. Sự hợp tác nảy sinh do nhu cầu quản lý rủi ro đối với cùng một khách hàng khi khách hàng này vay tiền tại nhiều ngân hàng. Trong quản trị tài chính, khả năng trả nợ của một khách hàng là một con số cụ thể, có giới hạn tối đa của nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin, dẫn đến việc nhiều ngân hàng cùng cho vay một khách hàng đến mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ không chừa một ngân hàng nào. Trong tình hình cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gay gắt như hiện nay, vai trò của CIC là rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác để các ngân hàng có các quyết định cho vay hợp lý. Đáng tiếc là hiện nay ngân hàng dữ liệu của CIC chưa đầy đủ và thông tin còn quá đơn điệu, chưa được cập nhật và xử lý kịp thời. 1.2.6.3 Nguyên nhân thuộc về phía khách hàng Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay: Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác. Khả năng quản lý kinh doanh kém: Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế. Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch: Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp Chuyên đề tốt nghiệp 15 GVHD: TS. Phan Hữu Nghị Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nơ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây cũng là nguyên nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng. 1.2.7 Hậu quả của rủi ro tín dụng 1.2.7.1 Ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng Rủi ro tín dụng xảy ra tức là ngân hàng khi đó không thu được nợ gốc hoặc lãi hoặc đồng thời cả gốc và lãi. Trong khi đó các khoản phải trả cho vốn huy động của ngân hàng vẫn không thay đổi, điều này làm cho ngân hàng mất cân đối trong thu chi, vòng quay vốn tín dụng giảm, chi phí của ngân hàng tăng lên so với dự kiến, kết quả kinh doanh của ngân hàng không tốt. Nếu một khoản cho vay của ngân hàng bị mất khả năng thu hồi thì ngân hàng phải dùng tới các nguồn khác đê bù đắp cho khoản không thu hồi được này. Nếu ngân hàng sử dụng nguồn vốn để bù đắp, và tới chừng mực nào đấy nguồn vốn không còn đủ để bù đắp cho khoản tiền gửi của khách hàng thì ngân hàng sẽ lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán, có thể dẫn tới nguy cơ gặp phải rủi ro thanh khoản. Kết quả làm thu hẹp quy mô kinh doanh, năng lực tài chính giảm sút, uy tín, sức mạnh cạnh tranh trên thị trường giảm. Kết quả kinh doanh ngày càng xấu và có thể dẫn tới thua lỗ hoặc nặng hơn nữa là phá sản nếu không có biện pháp xử lý kịp thời. 1.2.7.2 Ảnh hưởng tới kinh tế xã hội Ngân hàng là tổ chức trung gian tài chính trong nền kinh tế, chuyên huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các tổ chức các cá nhân doanh nghiệp có nhu cầu vay lại. Như vậy thực chất quyền sở hữu của các khoản tiền này đã được chuyển từ người gửi tiền vào ngân hàng. Bởi vậy khi rủi ro tín dụng xảy ra thì không chỉ ngân hàng chịu thiệt hại mà quyền lợi của người gửi tiền cũng bị ảnh hưởng rất lớn. Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp Chuyên đề tốt nghiệp 16 GVHD: TS. Phan Hữu Nghị Khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản sẽ làm cho những người gửi tiền không chỉ ở ngân hàng đó mà cả các ngân hàng khác hoang mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt tới các ngân hàng để rút tiền, làm cho hệ thống ngân hàng gặp khó khăn thanh khoản trầm trọng. Ngân hàng phá sản sẽ làm cho tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khó khăn do ngân hàng là nguồn cung cấp vốn lớn cho các doanh nghiệp. Cùng lúc đó nếu doanh nghiệp chưa thu được tiền hàng tức là không có nguồn thu thì công nhân viên của doanh nghiệp sẽ không được trả lương, cuộc sống của công nhân viên gặp khó khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của các ngân hàng ảnh hưởng rất lớn tới nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế suy thoái, giá cả thay đổi liên tục, sức mua giảm, thất nghiệp gia tăng, kéo theo đó là hàng loạt các tệ nạn xã hội đi kèm. Điều này được phản ánh rất rõ trong cuộc khủng hoảng thế giới vừa qua. Sự sụp đổ của hàng loạt các ngân hàng lớn tai Mỹ đã làm rung chuyển nền kinh tế toàn cầu. Ngày nay, nền kinh tế của mỗi quốc gia đều phụ thuộc rất lớn vào kinh tế khu vực và kinh tế thế giới do vậy nếu nền kinh tế của một quốc gia có vấn đề thì các nước khác cũng sẽ bị ảnh hưởng, nên rủi ro tín dụng của một nước cũng sẽ ảnh hưởng tới các nước có liên quan. Như vậy, rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra ở nhiều mức độ khác nhau; nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận, không thu hồi được lãi vay, nặng nhất là ngân hàng không thu được vốn lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được ngân hàng sẽ bị phá sản gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh. 1.3 Quản lý rủi ro tín dụng 1.3.1 Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng Như chúng ta đều biết, quản lý thực chất cũng là một hành vi, đã là hành vi thì phải có người gây ra và người chịu tác động. Tiếp theo cần có mục đích của hành vi, đặt ra câu hỏi tại sao làm như vậy? Do đó, để hình thành nên hoạt động quản lý trước tiên cần có chủ thể quản lý: nói rõ ai là người quản lý? Sau đó cần xác định đối tượng quản lý: quản lý cái gì? Cuối cùng cần xác định mục đích quản lý: quản lý vì cái gì? Theo đó Quản lý rủi ro tín dụng trong ngân hàng chính là Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp Chuyên đề tốt nghiệp 17 GVHD: TS. Phan Hữu Nghị quản lý và điều hành các khoản huy động vốn và cho vay vốn trong hoạt động của ngân hàng; mục đích quản lý ở đây là làm cho chất lượng tín dụng của ngân hàng tốt hơn, hạn chế rủi ro và nâng cao lợi nhuận. 1.3.2 Sự cần thiết của công tác quản lý rủi ro tín dụng Bản chất tự nhiên của hoạt động ngân hàng là rủi ro. Quản trị rủi ro là hoạt động trung tâm của ngân hàng. Rủi ro chung đối với một ngân hàng có nghĩa là mức độ không chắc chắn liên quan tới một vài sự kiện. Các ngân hàng được coi là thành công khi mức độ rủi ro họ tham gia ở mức hợp lý, được kiểm soát trong phạm vi và năng lực tài chính của họ. Rủi ro có thể được đo lường cho các loại sản phẩm, dịch vụ khác nhau của ngân hàng. Rủi ro là những tình huống xảy ra ngoài dự kiến gây nên những tổn thất kinh tế, làm chi phí tăng lên, thu nhập giảm và lợi nhuận giảm đi so với dự kiến ban đầu. Ngân hàng là một doanh nghiệp. Vì là một doanh nghiệp, bản thân nó trước nhất phải tự trang bị cho mình những biện pháp, cách thức để sinh tồn trong môi trường kinh tế để phát triển, làm sao vừa đảm bảo tăng trưởng vừa đảm bảo an toàn. Đó chính là quản lý rủi ro ngân hàng, và trong hoạt động tín dụng thì đó được gọi là quản lý rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng không chỉ là nỗi ám ảnh của bản thân ngân hàng, nó còn là nỗi ảm ánh của cả hệ thống ngân hàng trên toàn thế giới. Những bất ngờ luôn xảy ra, ngay cả với ngân hàng giỏi nhất, nhiều kinh nghiệm nhất cũng khó phỏng đoán. Vì thế, rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng luôn luôn là vấn đề thời sự cho mỗi ngân hàng, mỗi nền kinh tế trong mỗi thời kỳ. 1.3.3 Phương pháp để quản lý rủi ro tín dụng -Phân tán rủi ro trong cho vay bằng cách không dồn vốn cho vay quá nhiều đối với một khách hàng hoặc không tập trung cho vay quá nhiều vào một ngành, lĩnh vực kinh tế có rủi ro cao. -Thực hiện tốt việc thẩm định khách hàng và khả năng trả nợ trước khi quyết định tài trợ. -Bảo hiểm tiền vay, nghĩa là ngân hàng chuyển toàn bộ rủi ro cho cơ quan bảo hiểm chuyên nghiệp. -Phải có chính sách tín dụng hợp lý và duy trì các khoản dự phòng để đối phó với rủi ro. Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp Chuyên đề tốt nghiệp 18 GVHD: TS. Phan Hữu Nghị -Trước khi quyết định cho vay đối với một khách hàng, ngân hàng phải xem xét các điều kiện sau: +Khả năng trả nợ của khách hàng phải lớn hơn hoặc bằng với mức cho vay. +Mức cho vay không được vượt quá 70% tài sản đảm bảo. +Tổng dư nợ cho vay một khách hàng không được phép vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng. 1.3.4 Các bước thực hiện quản lý rủi ro tín dụng Công tác quản lý rủi ro tín dụng là rất quan trọng đối với ngân hàng. Để đảm bảo cho công tác này được thực hiện tốt, ngân hàng cần có những bước thực hiện cụ thể: Tính toán xác định rủi ro + Thẩm định đánh giá rủi ro đối với từng khoản giải ngân: Tình hình tài chính của đối tượng xin vay vốn, phân tích đặc trưng ngành của doanh nghiệp vay, phân tích khả năng cạnh tranh, khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp so với các đối thủ cùng loại trên thị trường. Phân tích các rủi ro hệ thống, rủi ro tình hình kinh tế.. + Đánh giá năng lực lãnh đạo của các cán bộ doanh nghiệp. Lượng hóa rủi ro Sử dụng các công cụ phân tích, các chỉ báo phân tích để tính toán, đo lường những rủi ro được thể hiện qua các con số. Quản lý, giám sát + Quản lý và giám sát việc doanh nghiệp sử dụng vốn. Nếu có dấu hiệu doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích: Ngưng việc giải ngân, đề nghị doanh nghiệp giải trình và yêu cầu thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng giải ngân. Đưa ra các phương pháp giải quyết rủi ro + Không giải ngân đối với các hợp đồng không tuân thủ các điều kiện tài chính + Không chấp nhận các hợp đồng có độ rủi ro cao (tài sản thế chấp không đảm bảo, lĩnh vực đầu tư không rõ ràng…) 1.3.5 Mô hình xếp hạng tín dụng trong quản lý rủi ro tín dụng Hệ thống XHTD giúp NHTM quản trị rủi ro tín dụng bằng phương pháp tiên tiến, giúp kiểm soát mức độ tín nhiệm khách hàng, thiết lập mức lãi suất cho vay phù hơp với dự báo khả năng thất bại của từng nhóm khách hàng. NHTM có Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp Chuyên đề tốt nghiệp 19 GVHD: TS. Phan Hữu Nghị thể đánh giá hiệu quả danh mục cho vay thông qua giám sát sự thay đổi dư nợ và phân loại nợ trong từng nhóm khách hàng đã được xếp hạng, qua đó điều chỉnh nguồn lực vào nhóm khách hàng an toàn. Mô hình xếp hạng tín dụng: Mô hình đơn giản đơn giản nhất được sử dụng trong XHTD là mô hình một biến số. Chỉ tiêu đánh giá phải được thống nhất trong mô hình. Tỷ suất tài chính được sử dụng trong mô hình bao gồm các chỉ tiêu thanh khoản, các chỉ tiêu hoạt động, chỉ tiêu cân nợ, chỉ tiêu lợi tức, chỉ tiêu vay nợ và chi phí trả lãi. Các chỉ tiêu phi tài chính thường được sử dụng bao gồm thời gian hoạt động của Doanh nghiệp, số năm kinh nghiệm và trình độ của nhà quản trị cao cấp, triển vọng ngành. Nhược điểm của mô hình một biến số là kết quả dự báo khó chính xác nếu thực hiện phân tích và cho điểm các chỉ tiêu đánh giá một cách riêng biệt, hơn nữa mỗi người có thể hiểu các chỉ tiêu đánh giá theo cách khác nhau. Để khắc phục nhược điểm này các nhà nghiên cứu đã xây dựng các mô hình kết hợp nhiều biến số thành một giá trị để đánh giá thất bại của doanh nghiệp như mô hình phân tích hồi quy, phân tích logic, phân tích xác suất có điều kiện, phân tích phân tích nhiều biến số. NHTM áp dụng các mô hình khác nhau tùy theo đối tượng xếp loại cá nhân, doanh nghiệp hay tổ chức tín dụng. Các mô hình này có thể được điều chỉnh sau vài năm sử dụng khi thấy có nhiều sai sót lớn giữa xếp hạng với thực tế. Quy trình xếp hạng tín dụng: Căn cứ vào chính sách tín dụng và các quy trình có liên quan của từng ngân hàng nhằm xác lập quy trình XHTD. Một quy trình XHTD bao gồm các bước cơ bản sau: 1. Thu thập thông tin có liên quan đến các chỉ tiêu sử dụng trong phân tích đánh giá, thông tin xếp hạng của các tổ chức tín dụng khác có liên quan đến đối tượng xếp hạng. 2. Phân tích bằng mô hình để kết luận về mức xếp hạng . Mức xếp hạng cuối cùng được quyết định theo ý kiến của Hội Đồng xếp hạng. Trong xếp hạng tín dụng thì kết quả xếp hạng tín dụng không được công bố rộng rãi. 3. Theo dõi tình trạng tín dụng của đối tượng xếp hạng để điều chỉnh mức xếp hạng các thông tin điều chỉnh được lưu giữ. Tổng hợp kết quả xếp hạng so với Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp Chuyên đề tốt nghiệp 20 GVHD: TS. Phan Hữu Nghị thực tế rủi ro xảy ra, và dựa trên tần suất phải điều chỉnh mức xếp hạng đã thực hiên đối với khách hàng để xem xét điều chỉnh mô hình xếp hạng. Phương pháp xếp hạng tín dụng theo mô hình điểm số Mục đích của XHTD là để dự đoán những khách hàng có rui ro cao. Các phương pháp XHTD hiện đại bao gồm phương pháp nghiên cứu thống kê dựa trên sự hồi quy và cây phân loại hoặc các phương pháp vận trù học dựa trên toán học để giải quyết các bài toán tài chính bằng quy hoạch tuyến tính, qua đó nhà quản trị có quyết định hợp lý cho các hành động trong hiện tại và tương lai. XHTD theo mô hình điểm số là phương pháp khoa học kết hợp sử dụng dữ liệu để nghiên cứu thống kê và áp dụng mô hình thuật toán để phân tích, tính điểm cho các chỉ tiêu đánh giá trong mô hình một biến hoặc đa biến. Các chỉ tiêu sử dung trong XHTD được xác lập theo nhóm bao gồm phân tích ngành, phân tích hoạt động kinh doanh, phân tích hoạt động tài chính. Sau đó đưa vào mô hình để tính điểm theo trọng số và quy đổi điểm nhận được sang biểu xếp hạng tương ứng. 1.3.6 Nguyên tắc BASEL về quản lý rủi ro tín dụng Hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn luôn tiềm ẩn rủi ro, đặc biệt là hoạt động tín dụng. Do đó để đảm bảo mục tiêu hiệu quả, kiểm soát rủi ro, phát triển bền vững nhất thiết đòi hỏi các ngân hàng phải xây dựng một hệ thống để phòng ngừa rủi ro và đưa ra các biện pháp cần thiết để khắc phục, giảm thiểu những rủi ro tín dụng, tránh sự đổ vỡ cho ngân hàng. Trong xu hướng toàn cầu hoá hiện nay, đòi hỏi các nước phải tự do hoá, mở cửa thị trường trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng để hội nhập. Do vậy, trong các hoạt động ngân hàng cần được thực hiện và quản lý thông qua các tiêu chuẩn, tiêu chí có tính thông lệ quốc tế, đặc biệt trong quản lý nợ xấu, vì: - Quản lý nợ xấu theo chuẩn mực quốc tế hiện đại sẽ làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ của các NHTM do tạo thêm nguồn vốn từ việc tăng nhanh vòng quay vốn và thu hút thêm được nhiều khách hàng, bởi vì các hình thức của sản phẩm, dịch vụ, tạo ra một hình ảnh tốt về biểu tượng và uy tín của ngân hàng, làm cho khách hàng mong muốn gắn bó lâu dài với ngân hàng. - Tín dụng là một trong những hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng, việc ứng dụng các mô hình quản lý tài sản hiện đại, đặc biệt là quản lý nợ xấu sẽ hạn chế tổn thất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, tăng lợi nhuận bổ sung vốn đầu tư. Nguyễn Thị Nhiên Lớp: TCDN tiếng Pháp
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất