Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tăng cường khả năng tiếp cận và sử dụng hiệu quả vốn tín dụng của các hợp tác xã...

Tài liệu Tăng cường khả năng tiếp cận và sử dụng hiệu quả vốn tín dụng của các hợp tác xã nông nghiệp việt nam

.PDF
133
65801
186

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ --------------------------------------------- VŨ TRỌNG LỰC GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH SẢN PHẨM ÔTÔ CHỞ KHÁCH CỦA TỔNG CÔNG TY CÔNG NGHIỆP ÔTÔ VIỆT NAM Ngành: Quản trị kinh doanh Mã số: 60 34 05 LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN XUÂN QUANG Hà Nội - 2007 130 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ --------------------------------------------- VŨ TRỌNG LỰC GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH SẢN PHẨM ÔTÔ CHỞ KHÁCH CỦA TỔNG CÔNG TY CÔNG NGHIỆP ÔTÔ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH Hà Nội - 2007 131 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ --------------------------------------------- VŨ TRỌNG LỰC GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH SẢN PHẨM ÔTÔ CHỞ KHÁCH CỦA TỔNG CÔNG TY CÔNG NGHIỆP ÔTÔ VIỆT NAM Ngành: Quản trị kinh doanh Mã số: 60 34 05 LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN XUÂN QUANG Hà Nội - 2007 130 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ --------------------------------------------- VŨ TRỌNG LỰC GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH SẢN PHẨM ÔTÔ CHỞ KHÁCH CỦA TỔNG CÔNG TY CÔNG NGHIỆP ÔTÔ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH Hà Nội - 2007 131 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Ngành công nghiệp ôtô có vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của mỗi quốc gia trên thế giới, đặc biệt đối với những nước có nền công nghiệp phát triển. Đối với một quốc gia đang trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá như nước ta hiện nay thì vai trò của ngành công nghiệp ôtô lại càng được thể hiện rõ trong chiến lược phát triển kinh tế vì nó phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của xã hội, đó là nhu cầu về giao thông vận tải, an ninh quốc phòng. Mỗi một quốc gia có hệ thống giao thông hiện đại thì tương ứng thường có một ngành công nghiệp ôtô phát triển. Chế tạo, sản xuất ôtô đòi hỏi phải có công nghệ cao và phức tạp song lại thu hút rất nhiều lao động và phải có sự cung cấp kịp thời về nguyên nhiên, vật liệu và bán thành phẩm và như vậy nó cũng kéo theo sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ khác. Nhận thức được điều này, trên con đường phát triển kinh tế, các nước công nghiệp phát triển như: Mỹ, Nhật, Đức, Anh, Pháp… đã đặc biệt chú trọng phát triển ngành công nghiệp ôtô không những đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu sản phẩm ra thị trường quốc tế. Không nằm ngoài xu thế chung của các nước trong khu vực, Việt Nam cũng đang cố gắng xây dựng cho mình một ngành công nghiệp ôtô cho riêng mình với mục tiêu cho ra đời những chiếc ôtô mang thương hiệu Việt Nam. Với hàng loạt các biện pháp như: tăng cường đầu tư vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, đưa ra những chính sách ưu đãi để khuyến khích và thu hút các nhà sản xuất đầu tư vào sản xuất ôtô - phụ tùng ôtô, hình thành các rào cản thuế quan và phi thuế quan để hạn chế nhập khẩu ôtô nguyên chiếc, miễn thuế nhập khẩu cho các doanh nghiệp sản xuất ôtô,… Chính phủ Việt Nam đang tạo điều hết sức thuận lợi cho ngành công nghiệp ôtô phát triển và Tổng công ty công nghiệp ôtô Việt Nam là một ví dụ. Nhanh chóng tiếp thu công nghệ tiên tiến của các nước có nền công nghiệp ôtô phát triển, hình thành các dây chuyền sản xuất ôtô và nhanh chóng chiếm giữ 1 phần lớn thị phần ôtô phổ thông trong nước. Với những thành tựu đạt được, Tổng công ty công nghiệp ôtô Việt Nam đã được Chính phủ tin cậy giao trọng trách phát triển thành tập đoàn ôtô đầu tiên của Việt Nam, góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong những năm qua, Tổng công ty công nghiệp ôtô Việt Nam đã cung cấp cho thị trường cả nước khoảng trên 7.000 xe ôtô chở khách và dẫn đầu thị phần các Doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp ôtô trong nước. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế mới, xu thế hội nhập là tất yếu, Nhà nước không thể tiếp tục bảo hộ cho Doanh nghiệp nhà nước sản xuất ôtô, sự xuất hiện của một loạt các đối thủ cạnh tranh như: các nhà sản xuất ôtô tư nhân trong nước, các tập đoàn sản xuất ôtô nước ngoài,… Tổng công ty công nghiệp ôtô Việt Nam đang gặp phải rất nhiều khó khăn và thách thức. “Phải làm gì để có thể tiếp tục tồn tại và phát triển trong điều kiện nền kinh tế hội nhập?” đang là một câu hỏi được Tổng công ty đặc biệt quan tâm. Với tầm quan trọng như vậy, tôi chọn đề tài “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm ôtô chở khách của Tổng công ty công nghiệp ôtô Việt Nam” để góp phần tìm hiểu thực trạng đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm ôtô khách của Tổng công ty trong điều kiện nền kinh tế hội nhập kinh tế quốc tế. 2. Tình hình nghiên cứu: Trong thời gian qua, đã có những bài báo, đề tài nghiên cứu đưa ra những kinh nghiệm xây dựng và quản lý nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của nghành công nghiệp nói chung, những bài viết về vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm ôtô nhưng chưa có tài liệu nào nghiên cứu về nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm ôtô chở khách. Thường thì những tài liệu nghiên cứu mới chỉ dừng ở góc độ phân tích thực trạng sản xuất của ngành công nghiệp ôtô Việt Nam như: - Một số vấn đề của công nghiệp ôtô Việt Nam của tác giả Xuân Hồng trên Báo Thị trường – giá cả số 129 + 130 ngày 29 + 30/06/2006. 2 - Chiến lược phát triển công nghiệp ôtô Việt Nam đến 2010 của Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách công nghiệp – Bộ Công nghiệp tháng 11/2001…. - Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp ôtô Việt Nam đến 2010, tầm nhìn 2020 của Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách công nghiệp – Bộ công nghiệp tháng 08/2003…. - Một số Luận văn viết về nâng cao năng lực cạnh tranh cạnh tranh ngành công nghiệp ôtô Việt Nam như : + Khoá luận tốt nghiệp: „Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp ôtô Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế‟ của sinh viên Đoàn Minh Của Trường Đại học Ngoại thương. + Khoá luận tốt nghiệp: „Triển vọng phát triển ngành công nghiệp ôtô Việt Nam trong thời gian tới‟ của sinh viên Bùi Hữu Biên Trường Đại học Ngoại thương. 3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu, lựa chọn cơ sở lý thuyết, vận dụng phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh sản phẩm, năng lực cạnh tranh sản phẩm ôtô chở khách của Tổng công ty công nghiệp ôtô Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm của Tổng công ty công nghiệp ôtô Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế mới. 4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu */ Đối tượng nghiên cứu: - Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh sản phẩm ôtô. - Các nhân tố cơ bản tác động đến năng lực cạnh tranh hiện tại và khả năng nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm của Tổng công ty công nghiệp ôtô Việt Nam trong điều kiện mới của nền kinh tế. */ Phạm vi nghiên cứu: - Tập trung nghiên cứu cạnh tranh nhóm sản phẩm ôtô chở khách. 3 - Tập trung phân tích các khía cạnh thuộc phạm vi đề tài ở Tổng công ty công nghiệp ôtô Việt Nam trong thời gian từ 2002 – 2005 và xu hướng phát triển đến 2010. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác – Lênin, kế thừa nghiên cứu của nhiều tác giả trong đó đặc biệt chú ý đến các phương pháp hệ thống hoá, khái quát hoá, thống kê so sánh, phân tích thực chứng, mô hình và bảng biểu. 6. Những đóng góp của luận văn: Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh sản phẩm ôtô chở khách của Tổng công ty công nghiệp ôtô Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay. Đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm ôtô chở khách của Tổng công ty công nghiệp ôtô Việt Nam, kết quả nghiên cứu có thể dùng làm tài liệu tham khảo nghiên cứu, áp dụng cho các sản phẩm ôtô khác cũng như của các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp sản xuất ôtô Việt nam nói chung. 7. Kết cấu luận văn: Nội dung của luận văn bao gồm 03 chương: - Chương I: Lý luận cơ bản về năng lực cạnh tranh sản phẩm của các Doanh nghiệp sản xuất ôtô khách trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. - Chương II: Phân tích thực trạng sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh của sản phẩm ôtô chở khách của Tổng công ty công nghiệp ôtô Việt Nam. - Chương III: Giải pháp cơ bản nâng cao năng lực cạnh trạnh sản phẩm ôtô khách của Tổng công ty công nghiệp ôtô Việt Nam. 4 5 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH SẢN PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT ÔTÔ TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ. 1.1 Hội nhập kinh tế quốc tế và tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp sản xuất chế tạo ôtô 1.1.1 Hội nhập kinh tế quốc tế và xu hướng vận động của nền kinh tế. Ngay từ những năm cuối thế kỷ 20, sự phát triển của nền kinh tế đã chịu sự tác động sâu sắc của một loạt những xu thế mới. Đó là xu thế phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, quốc tế hoá, toàn cầu đời sống kinh tế thế giới và xu thế chuyển từ đối đầu sang đối thoại giúp cho lực lượng sản xuất được quốc tế hoá ở mức độ cao. Thương mại quốc tế phát triển mạnh mẽ và ngày càng giữ vai trò quan trọng trong việc tăng trưởng kinh tế thế giới. Khi toàn cầu hoá về kinh tế đang trở thành một xu hướng khách quan thì yêu cầu về hội nhập kinh tế ngày càng trở nên cấp bách. Toàn cầu hoá là một xu thế mới của quá trình phát triển kinh tế thị trường, phản ánh trình độ phát triển cao của trình độ sản xuất, phân công lao động quốc tế và quốc tế hoá sản xuất trở nên phổ biến Nhìn lại tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của ngành công nghiệp Việt Nam trong những năm vừa qua chúng ta đã thực hiện hàng loạt biện pháp nhằm tự do hoá các hoạt động kinh tế, chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước, xoá bỏ dần chế độ hai giá từng bước tiến hành chế độ một giá, mở cửa thị trường đẩy mạnh việc thu hút đầu tư cả trong và ngoài nước phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tiến hành sửa đổi bổ xung và điều chỉnh kịp thời các chính sách và các văn bản pháp quy tăng cường việc mở rộng hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư với nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Trong quá trình này, sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trên thế giới nói chung và các thành phần kinh tế của một quốc gia nói riêng 6 đang ngày một gia tăng, được thể hiện ở xu hướng tăng cường các hoạt động hợp tác song phương, đa phương và có cấp độ liên kết khu vực. Không nằm ngoài xu thế chung đó, ngành công nghiệp ôtô Việt Nam cũng có nhiều cơ hội nhưng cũng phải đương đầu với nhiều thách thức khi nền kinh tế hội nhập. 1.1.2 Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp sản xuất chế tạo ôtô. Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang diễn ra nhanh chóng, quyết liệt và trở thành xu thế phát triển không thể đảo ngược của nền kinh tế thế giới hiện nay . Có thể nói rằng cơ hội lớn nhất mà ngành công nghiệp ôtô Việt Nam nói chung và các Doanh nghiệp chế tạo ôtô khách nói riêng có thể có được trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 20 năm qua là đã mở thêm được nhiều thị trường mới. Với việc ký kết hiệp định tự do ASEAN, Việt nam có cơ hội tiếp cận với thị trường được đánh giá là năng động nhất thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm trên 7%. Thông qua chương trình hợp tác ASEAN các doanh nghiệp Việt Nam có thể có các ưu đãi về hưởng mức thuế quan ưu đãi từ 0 – 5% trong việc buôn bán các sản phẩm công nghiệp giữa các doanh nghiệp tham gia, được công nhận tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm và được hưởng các ưu đãi phi thuế quan khác do các nước nội khối quy định. Đặc biệt sự kiện Việt Nam ký hiệp định với Hoa Kỳ năm 2001 cũng đã đóng góp một phần tích cực vào việc mở rộng thị trường cho các sản phẩm công nghiệp ở Việt Nam . Hội nhập kinh tế quốc tế cũng đã tạo điều kiện cho ngành công nghiệp ôtô Việt Nam có điều kiện làm quen, tiếp cận và ứng dụng các kỹ thuật công nghệ cao cũng như phương thức, tác phong công nghiệp của các nước có nền công nghiệp ôtô phát triển như: Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc nhờ đó mà các doanh nghiệp chế tạo ôtô của chúng ta có thể nâng cao năng suất lao động tiết kiệm chi phí và nhân công, rút ngắn chu kỳ sản xuất của sản phẩm đồng thời 7 cũng tạo ra được các sản phẩm mới đáp ứng được các yêu cầu khắt khe về chất lượng và mẫu mã từ các nhà nhập khẩu, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm ôtô của công nghiệp Việt Nam. Về vấn đề nhân lực, hội nhập kinh tế quốc tế cũng mang lại cơ hội nâng cao tay nghề cho người lao động và trau dồi kiến thức, nâng cao kinh nghiệm cho người quản lý trong quá trình sản xuất. Tuy nhiên, công nghiệp ôtô Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp sản xuất ôtô khách nói riêng cũng đang đối mặt với không ít khó khăn, thách thức ở trong và ngoài nước. Việt Nam đang trong giai đoạn cuối của quá trình đàm phán gia nhập tổ chức kinh tế thế giới (WTO). Việc gia nhập WTO sẽ làm giảm đáng kể hàng rào bảo hộ từ phía Chính phủ, tăng áp lực cạnh tranh cho các mặt hàng ngành hàng và trong đó ôtô khách cũng là mặt hàng bị cạnh tranh khốc liệt bởi các sản phẩm cùng loại của Trung Quốc, Hàn Quốc, Đức... Mặt khác chúng ta sẽ phải đối mặt với các vụ kiện có thể xảy ra do quy định của WTO về thương mại hàng hoá, thương mại hoá dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ… Trên thực tế chúng ta còn thiếu nhiều kiến thức về thông tin về các tiêu chuẩn quốc tế (chất lượng, quy trình quản lý chất lượng, vấn đề quản lý môi trường..) cũng như về cách tiếp cận thị trường và các quy định điều chỉnh hoạt động kinh doanh từ các nước nhập khẩu nên sẽ hạn chế khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất ôtô khách Việt Nam Hạn chế về vốn và công nghệ cũng làm giảm khả năng cạnh tranh của các mặt hàng ôtô Việt Nam và giảm thiểu khả năng nắm bắt cơ hội thị trường của doanh nghiệp sản xuất ôtô trong nước. Hệ thống các ngân hàng tài chính của Việt Nam chưa phát triển đồng bộ và còn tồn tại nhiều yếu kém. Công nghiệp lắp ráp đang là chủ công của công nghiệp Việt Nam, trong khi công nghiệp chế tạo còn chưa có quy hoạch phát triển đồng bộ, bên cạnh đó, các sản phẩm ôtô của Việt Nam còn đang phải cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của các quốc gia khác không chỉ tại thị trường thứ ba, mà còn ở ngay trong thị trường nội địa do thua kém về chất lượng và mẫu mã thậm chí cả giá bán. Để có thể 8 tận dụng mọi cơ hội khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, ngành công nghiệp ôtô Việt Nam đã, đang và sẽ phát triển theo hướng có chọn lọc, tập trung phát triển các sản phẩm có khả năng cạnh tranh. Huy động tối đa mọi nguồn lực, đẩy mạnh đầu tư và đầu tư có trọng điểm, kết hợp đầu tư mới với đầu tư theo chiều sâu, đổi mới công nghệ, áp dụng rộng rãi các phương pháp quản lý tiên tiến để tăng năng suất lao động, giảm giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm… Như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế đem lại cho ngành công nghiệp ôtô Việt Nam nói chung, doanh nghiệp sản xuất ôtô khách nói riêng rất nhiều cơ hội nhưng bên cạnh đó cũng đi kèm nhiều khó khăn, thách thức tiềm tàng đòi hỏi các Nhà sản xuất ôtô phải xem xét để có thể nắm bắt cơ hội cũng như đương đầu với những thách thức để nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm, duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. 1.2 Năng lực cạnh tranh sản phẩm và vai trò của nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm trong hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp sản xuất chế tạo ôtô: 1.2.1 Khái niệm năng lực cạnh tranh sản phẩm: Trước khi đi vào nghiên cứu và phân tích năng lực cạnh tranh sản phẩm cần tìm hiểu khái niệm về: cạnh tranh, năng lực cạnh tranh, sản phẩm và năng lực cạnh tranh của sản phẩm. 1.2.1.1. Khái niệm về cạnh tranh Khái niệm về cạnh tranh được xây dựng theo nhiều quan điểm khác nhau và chưa có sự nhất trí rộng rãi đối với việc định nghĩa khái niệm này bởi lẽ, thuật ngữ này được sự dụng để đánh giá trên nhiều phạm vi, lĩnh vực khác nhau như: một doanh nghiệp, một ngành, một quốc gia thậm trí là một khu vực. Trong khi đó những mục tiêu cơ bản lại được đặt ra khác nhau tuỳ thuộc vào góc độ xem xét là của một doanh nghiệp hay một khu vực. Đối với một doanh nghiệp thì mục tiêu của của cạnh tranh chủ yếu là để tồn tại và tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở cạnh tranh của quốc gia hoặc quốc tế, còn đối với một quốc 9 gia thì cạnh tranh là để phát triển kinh tế một cách bền vững và đạt thành tựu hơn các quốc gia khác. Theo Kalh Marx: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch”. Nghiên cứu về sản xuất tư bản chủ nghĩa, K.Marx đã khẳng định rằng quy luật cơ bản của chủ nghĩa tư bản là quy luật giá trị thặng dư, đồng thời còn chỉ rõ nhiều quy luật khác của phương thức sản xuất này trong đó có quy luật cạnh tranh. Theo Từ điển bách khoa Việt Nam (tập 1): “Cạnh tranh (trong kinh doanh) là hoạt động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối bởi quan hệ cung – cầu, nhằm giành giật các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất. Tại diễn đàn Liên hợp quốc, báo cáo về cạnh tranh toàn cầu năm 2002 đã định nghĩa cạnh tranh đối với một quốc gia được hiểu là” Khả năng của nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống, nghĩa là đạt được các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao được xác định bằng các thay đổi của Tổng sản phẩm quốc nội (GNP) tính trên đầu người theo thời gian”. Ngoài ra, còn có thể dẫn chiếu nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm cạnh tranh song qua các định nghĩa trên có thể tiếp cận khái niệm cạnh tranh như sau: - Thứ nhất: khi nói đến cạnh trạnh là nói đến sự ganh đua nhằm lấy phần thắng của nhiều chủ thể cùng tham gia. - Thứ hai: mục đích của cạnh tranh là một số đối tượng cụ thể nào đó mà các bên đều muốn giành giật (một cơ hội, một sản phẩm, một thị trường…) và mục đích cuối cùng là kiếm được lợi nhuận. - Thứ ba: cạnh tranh diễn ra trong một môi trường cụ thể, có các ràng buộc chung mà các chủ thể tham gia đều phải tuân thủ như: đặc điểm sản phẩm, điều kiện thị trường, các quy định của pháp luật và thông lệ kinh doanh trên thị trường… 10 - Thứ tư: trong quá trình cạnh tranh các chủ thể tham gia đều có thể sử dụng nhiều công cụ khác nhau như: đặc tính – chất lượng sản phẩm, giá bán sản phẩm, chiến lược tiếp thị, dịch vụ sau bán hàng, hình thức thanh toán… Với cách tiếp cận trên, khái niệm cạnh tranh có thể hiểu như sau: “Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể ganh đua nhau bằng mọi biện pháp để đạt được mục tiêu của mình mà thông thường đó là: chiếm lĩnh thị trường, giành giật khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất”. Mục tiêu cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi. Ngày nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã thừa nhận vai trò của cạnh tranh và coi cạnh tranh không chỉ là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển mà còn coi là yếu tố quan trọng việc lành mạnh hoá các quan hệ Kinh tế – Xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đem lại thì cạnh tranh cũng có những khuyết tật cố hữu mang đặc trưng của cơ chế thị trường. Một mặt nó thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, mặt khác cũng dẫn đến tình trạng phân hoá, cạnh tranh không lành mạnh hoặc phân hoá thị trường. Chính điều này đòi hỏi phải có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, trong đó có việc tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các Doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. 1.2.1.2 Khái niệm về năng lực cạnh tranh Năng lực cạnh tranh được xem xét ở ba cấp độ khác nhau: Năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh Doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ. */ Năng lực cạnh tranh quốc gia Theo định nghĩa của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF – World Economic Forum) thì “Năng lực cạnh tranh quốc gia là khả năng đạt và duy trì được mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế vững chắc và các đặc trưng kinh tế khác” 11 Năng lực cạnh tranh quốc gia có ý nghĩa rất lớn đối với việc thúc đẩy quá trình tự điều chỉnh, lựa chọn của các nhà kinh doanh và các doanh nghiệp theo các tín hiệu thị trường được thông tin đầy đủ; ngược lại, sự dịch chuyển cơ cấu ngành theo hướng ngày càng có hiệu quả hơn, tốc độ tăng trưởng, sự phồn thịnh kinh tế lại phụ thuộc vào sự phát triển năng động của doanh nghiệp. Theo VEF, năng lực cạnh tranh quốc gia được xác định bởi các nhân tố gồm: + Mức độ hội nhập: mức độ hội nhập của một nước và nền kinh tế thế giới xét về mặt định hướng và mức độ thuận lợi trong khuôn khổ pháp luật về chính sách để mở rộng trương thương mại quốc tế và chế độ đầu tư. + Chính phủ: vai trò của chính phủ, tác động của chính sách tài khoá (thu thuế và chi tiêu ngân sách), mức độ can thiệp của Chính phủ vào hoạt động của doanh nghiệp và chất lượng các dịch vụ của Chính phủ. + Tài chính, tiền tệ: trình độ phát triển, vai trò của thị trường tài chính – tiền tệ trong việc điều chỉnh tương quan tối ưu giữa tiêu dùng, tiết kiệm và hiệu quả của cơ quan trung gian tài chính trong việc đưa tiết kiệm vào đầu tư sản xuất. + Công nghệ: mức độ đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D), trình độ công nghệ và tích luỹ kiến thức công nghệ. + Cơ sở hạ tầng: số lượng và chất lượng của hệ thống giao thông, mạng viễn thông, cung cấp điện nước, kho tàng và các phương tiện vật chất – cơ sở hạ tầng nâng cao hiệu quả đầu tư. + Quản lý kinh doanh: chất lượng quản lý nói chung (của quá trình sản xuất, quản lý chất lượng, toàn diện, tiếp thị, xu hướng khách hàng, kinh doanh) bao gồm chiến lược cạnh tranh, phát triển sản phẩm, kiểm tra chất lượng, hiệu quả của các tổ chức tài chính, nguồn nhân lực và tiếp thị. + Lao động: số lượng và chất lượng lao động, hiệu lực và tính linh hoạt của thị trường lao động. 12 + Thể chế: hiệu lực của pháp luật và thể chế xã hội đặt nền móng cho nền kinh tế hiện đại mang tính cạnh tranh, bao gồm quy định của pháp luật và đảm bảo quyền sở hữu. Năng lực cạnh tranh của một quốc gia có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, đến thu hút đầu tư nước ngoài. Việc nâng cao và duy trì khả năng cạnh tranh quốc gia là một yêu cầu cấp bách với mỗi nền kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. */ Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng vượt qua đối thủ cạnh tranh để duy trì và phát triển doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được hiểu là tổng hợp các khả năng và nguồn lực: tài chính, kỹ thuật công nghệ, marketing, tổ chức quản lý, đội ngũ lao động của doanh nghiệp … để duy trì và phát triển thị phần, lợi nhuận và định vị những ưu thế của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước và nước ngoài. Có nội lực là điều kiện hết sức cần thiết, tuy nhiên doanh nghiệp còn phải biết cách sử dụng và phát huy tất cả các nội lực đó để phục vụ cho tạo ra các lợi thế hơn hẳn các đối thủ cạnh tranh khác. Như vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là toàn bộ năng lực nội tại của doanh nghiệp và việc sử dụng các năng lực đó để tạo ra lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh khác nhằm thoả mãn đến mức tối đa các nhu cầu của thị trường. Có nhiều phương pháp khác nhau phân tích khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhưng thông thường người ta phân tích theo ba cách sau đây: Thứ nhất: phân tích theo cấu trúc thị trường. Theo cách phân tích này, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp được xem xét theo các nhân tố như sau: - Sự tham gia của các công ty mới vào lĩnh vực kinh doanh - Các sản phẩm hay dich vụ thay thế. - Sức mạnh của doanh nghiệp cung ứng sản phẩm dịch vụ trên thị trường. - Mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. 13 Thứ hai: phân tích lợi thế cạnh tranh trên cơ sở đánh giá lợi thế so sánh về chi phí hay khả năng sinh lợi trên một đơn vị sản phẩm. Các chỉ số chi phí (theo giá so sánh quốc tế) cho phép xác định được mức độ đóng góp của doanh nghiệp vào nền kinh tế. Các chỉ số đó cho biết khả năng cạnh tranh, duy trì sự tồn tại và phát triển doanh nghiệp trong môi trường mà giá cả xác định. Phân tích truyền thống lợi thế so sánh là phân tích tĩnh trong khi khả năng cạnh tranh là một khái niệm động. Hiện nay phương pháp phân tích theo lợi thế so sánh được bổ xung bằng phương pháp phân tích theo khả năng cạnh tranh động. Khi phân tích khả năng cạnh tranh động cần chú ý đến những dự báo về: - Biến động chu kỳ sản phẩm - Mức độ phổ biến công nghệ và tích luỹ kinh nghiệm - Chi phí đầu vào. - Những thay đổi về đặc điểm dân số và xu hướng nhu cầu - Vai trò sản phẩm thay thế và sản phẩm bổ sung - Những thay đổi trong chính sách của Chính phủ Chi phí thấp mới chỉ là một yếu tố khởi đầu để có thể cạnh tranh. Sự phát triển kinh doanh năng động sẽ tận dụng được lợi thế so sánh về chi phí từ đó nâng cao thêm khả năng cạnh tranh về chất. Các kỹ năng tổ chức, quản lý của nhà kinh doanh trong chu trình sản xuất kinh doanh, từ giai đoạn trước sản xuất, trong quá trình sản xuất và sau quá trình sản xuất cũng là các yếu tố quan trọng góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Thứ ba: phân tích theo quan điểm tổng thể yêu cầu giải đáp 3 vấn đề cơ bản khi nhiên cứu tính cạnh tranh của một doanh nghiệp, đó là: - Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp - Những nhân tố thúc đẩy và những nhân tố hạn chế việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp - Những tiêu chí đặt ra cho chính sách nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, những chính sách, chương trình và công cụ của Chính phủ để đáp ứng các tiêu chí đó. 14 Để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần phải nỗ lực tăng cường năng lực cạnh tranh của chính mình bằng cách thúc đẩy công tác nghiên cứu và thực hiện các biện pháp nâng cao trình độ quản lý kinh doanh, đa dạng hoá nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng hiệu quả hoạt động tài chính của doanh nghiệp, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao mặt bằng công nghệ tri thức nhất là đối với nghiên cứu và phát triển công nghệ… tạo điều kiện hạ giá thành sản phẩm từ đó hình thành nên năng lực cạnh tranh của sản phẩm 1.2.1.3 Khái niệm sản phẩm: Hiểu và mô tả đúng được sản phẩm của doanh nghiệp đưa ra bán trên thị trường là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh. Xác định được đúng sản phẩm có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tiêu thụ, khai thác thị trường và tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Để mô tả sản phẩm của mình, doanh nghiệp có thể lựa chọn nhiều cách tiếp cận khác nhau. Ở đây, xin được tiếp cận và mô tả sản phẩm trên quan điểm marketing từ góc độ người tiêu dùng. Tiếp cận và mô tả sản phẩm từ cách nhìn của người tiêu dùng là một tiến bộ và là một bước hoàn thiện hơn trong việc mô tả sản phẩm của doanh nghiệp khi doanh nghiệp muốn tăng cường khả năng cạnh tranh và thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm trong điều kiện của nền kinh tế thị trường hiện đại. Tiếp cận, mô tả sản phẩm theo quan điểm của khách hàng xuất phát từ việc phân tích nhu cầu, cách thức thoả mãn nhu cầu đó và có thể thấy rõ qua các khía cạnh sau: - Mục đích mua một sản phẩm phẩm của khách hàng là để thoả mãn một nhu cầu nào đó. Họ mua sản phẩm chính là mua sự thoả mãn, do đó, nên hiểu “sản phẩm là sự thoả mãn nhu cầu nào đó của khách hàng”. Trong trường hợp này, sản phẩm không chỉ là hiện vật (hàng hoá cứng) thuần tuý mà nó còn đi kèm theo đó là các dịch vụ (hàng hoá mềm). 15 - Nhu cầu của khách hàng được đòi hỏi thoả mãn ở nhiều mức độ khác nhau từ đơn giản cho đến mức độ cao và hoàn thiện. Một sản phẩm được xác định từ góc độ nhà sản xuất chưa hẳn đã là một sản phẩm được khách hàng mong đợi. Một sản phẩm tốt theo khách hàng chưa hẳn đã là một sản phẩm có chất lượng “cực tốt” mà là một sản phẩm có chất lượng “vừa đủ” đáp ứng được những mong muốn của họ khi sở hữu sản phẩm. Điều này đặc biệt quan trọng khi lựa chọn khả năng đáp ứng, chủng loại sản phẩm của doanh nghiệp cho khách hàng. - Khách hàng khi mua sản phẩm họ không chỉ quan tâm tới công dụng, đặc tính vật chất - kỹ thuật của sản phẩm mà họ quan tâm và mong muốn được thoả mãn toàn bộ nhu cầu. Theo khách hàng sản phẩm của doanh nghiệp bao gồm tất cả các yếu tố vật chất (hàng hoá cứng), phi vật chất (hàng hoá mềm) và các yếu tố khác có liên quan mà doanh nghiệp đã đưa ra để thoả mãn nhu cầu của họ. Như vậy để bán được hàng và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp phải thích ứng với quan điểm nhìn nhận sản phẩm từ góc độ khách hàng. Trong trường hợp này, khái niệm sản phẩm có thể được hiểu là: “Sản phẩm của doanh nghiệp là một hệ thống thống nhất các yếu tố có liên hệ chặt chẽ với nhau nhằm thoả mãn đồng bộ nhu cầu của khách hàng bao gồm sản phẩm vật chất (hiện vật), bao bì, nhãn hiệu hàng hoá, cách thức bán hàng, cách thức phân phối, dịch vụ sau bán hàng…”. Ở đây, sản phẩm của doanh nghiệp phải thoả mãn đồng bộ nhu cầu khách hàng từ nhu cầu cơ bản đến các nhu cầu bổ sung ở các thứ bậc khác nhau của nhu cầu. 1.2.1.4 Khái niệm năng lực cạnh tranh sản phẩm: Một sản phẩm muốn có vị trí vững chắc trên thị trường và ngày càng được khẳng định và mở rộng độ bao phủ thì tất yếu phải có điểm mạnh và có khả năng cạnh tranh. Xuất phát từ góc độ người tiêu dùng, từ khái niệm cạnh tranh, năng lực cạnh tranh, khái niệm sản phẩm thì năng lực cạnh tranh sản phẩm có thể được 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng