Luận văn tốt nghiệp
ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 2
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - VĂN VÀ NGƯỜI
1.1. Cuộc đời, con người và quan niệm sáng tác
1.1.1. Cuộc đời
1.1.2. Con người
1.1.3. Quan điểm văn chương
1.2. Đặc điểm thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu
1.2.1. Kế thừa tư tưởng nhân nghĩa của cha ông
1.2.2. Sử dụng thơ văn làm vũ khí chiến đấu
1.3. Tác phẩm Lục Vân Tiên
1.3.1. Xuất xứ tác phẩm
1.3.2. Tóm tắt tác phẩm
1.3.3. Giá trị tác phẩm
CHƯƠNG 2
TÂM SỰ VÀ ƯỚC MƠ CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
TRONG TÁC PHẨM LỤC VÂN TIÊN
2.1. Thể hiện qua nội dung thơ văn
2.1.1. Lý tưởng nhân nghĩa
2.1.2. Đạo lý nhân dân
2.1.3. Từ một ước mơ đến với lý tưởng xã hội
2.2. Thể hiện qua nghệ thuật
2.2.1. Thuộc thể loại truyện thơ Nôm
2.2.2. Sử dụng yếu tố biểu cảm
2.2.3. Xây dựng nhân vật
CHƯƠNG 3
CBHD: LÊ THỊ NGỌC BÍCH
Trang 2
SVTH: LÊ ÁNH DƯƠNG
Luận văn tốt nghiệp
ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TRUYỆN THƠ LỤC VÂN TIÊN
CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
3.1. Ngôn ngữ mang sắc thái Nam bộ
3.1.1. Ngôn ngữ bình dân
3.1.2. Sử dụng phương ngữ
3.1.3. Việt hóa từ gốc Hán
3.2. Mang tính chất dân gian
3.2.1. Kết hợp độc đáo giữa truyện dân gian và tự truyện của tác giả
3.2.2. Vận dụng thành ngữ, ca dao, tục ngữ
3.3. Sử dụng điển cố
C. PHẦN KẾT LUẬN
CBHD: LÊ THỊ NGỌC BÍCH
Trang 3
SVTH: LÊ ÁNH DƯƠNG
Luận văn tốt nghiệp
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Có thể nói, khi đến với các danh nhân văn học nửa sau thế kỉ thứ XIX, thì chúng
ta không thể không nhắc đến cái tên Nguyễn Đình Chiểu. Một ngôi sao sáng trong bầu
trời văn nghệ dân tộc. Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu là tấm gương sáng cho người
đương thời và cả những thế hệ tiếp theo. Vì vậy, cái mà ngày nay chúng ta cần phải
luôn luôn ghi nhớ là khẳng định địa vị của ông trong lĩnh vực tư tưởng và văn học
nước nhà thế kỉ XIX, đó là những giá trị cao đẹp của di sản tinh thần mà ông để lại cho
đời sau, những giá trị về đạo đức, nhân nghĩa ở đời.
Như chúng ta đã biết, vấn đề tuyên truyền, phổ biến sâu rộng những giá trị tinh
thần ấy của những bậc tiền nhân là một điều hết sức khó khăn. Trong cả hai thời đại,
từ trung đại đến hiện đại, đặc biệt là thời đại ngày nay, một thời đại mà xã hội phát
triển khá mạnh hầu hết trên mọi lĩnh vực, trong đó vấn đề đạo đức nhân nghĩa trong
đời sống tinh thần cũng theo đó mà ảnh hưởng dần. Những truyền thống tinh hoa của
dân tộc không còn ràng buộc như trước nữa, con người sống có phần vô tư, phóng
khoáng hơn theo tiến độ ấy. Đây cũng là vấn đề đáng lo ngại đối với cuộc sống ngày
nay. Nhưng cũng không phải vì thế mà những nét đẹp truyền thống dần bị quên lãng
đi, đâu đó vẫn còn nhiều.
Ngày nay, hầu hết trên các phương tiện truyền thông cũng đề cập rất nhiều đến
vấn đề này. Hơn thế nữa, những tác phẩm mang đậm giá trị đạo đức, nhân nghĩa vẫn
còn sống và tồn tại đến mãi bây giờ, đặc biệt cũng được đưa vào trường để giảng dạy.
Chính nó giúp cho xã hội nhận thức được cuộc sống cần đến giá trị tinh thần ấy như
thế nào, và cũng giúp cho mỗi chúng ta có một vốn sống và thái độ ứng xử ra sao để
trở thành con người có ích cho gia đình, cho xã hội. Nhất là xã hội ngày nay, một xã
hội đầy cám dỗ.
Chính vì những vấn đề trên, mà tôi quyết định chọn đề tài “Tâm sự và ước mơ
của Nguyễn Đình Chiểu trong tác phẩm Lục Vân Tiên” để làm đề tài nghiên cứu. Nói
đến văn chương Đồ Chiểu, đây không phải là vấn đề hoàn toàn mới lạ đối với những
người nghiên cứu Đồ Chiểu, Với tư cách là một người tìm tòi, học hỏi và không
chuyên sâu, do mê say mà chọn để làm đề tài nghiên cứu, không chắc có phát hiện
điều chi mới mẻ. Dù vậy, với lòng mong muốn của chính mình, và được sự cổ vũ của
CBHD: LÊ THỊ NGỌC BÍCH
Trang 4
SVTH: LÊ ÁNH DƯƠNG
Luận văn tốt nghiệp
bạn bè, đặc biệt là sự hỗ trợ của thầy cô, nên đã cố gắng tìm hiểu và chọn lọc những
kiến thức có liên quan đến đề tài để hoàn chỉnh tốt nhất bài nghiên cứu của mình với
ước mong được góp phần nhỏ nhoi vào tiếng nói chung của xã hội, khơi dậy thêm
những gì tốt đẹp của truyền thống văn hóa dân tộc, để góp phần vào việc phát triển xã
hội, đưa xã hội đến một thế giới an bình, hạnh phúc sống chan hòa đoàn kết, cũng
giống như những gì mà Nguyễn Đình Chiểu thể hiện trong tác phẩm Lục Vân Tiên.
2. Lịch sử vấn đề
Trong những ngày mà Nho học đi vào con đường suy tàn, những giá trị tinh thần
đang bị thời cuộc làm cho đảo lộn gần như muốn sụp đổ, trước sự thúc đẩy của thời
cuộc, Nguyễn Đình Chiểu viết Lục Vân Tiên để bênh vực cho giáo lý cổ truyền, chống
đỡ cho cái lâu đài xây dựng trên nền móng Nho học đang lung lay trước cơn gió lốc.
Đọc Lục Vân Tiên ta nhận thấy rất rõ cái lý tưởng của tác giả, cùng những tình cảm
thương ghét đối với nhiều hạng người trong xã hội. Thương những kẻ đã hoạt động
đúng theo phương châm tinh thần mà tác giả đã nêu lên, ghét những kẻ đã đi ngược lại
những phương châm ấy, chính những điều đó đã làm nên một giá trị tinh thần bất diệt
trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu. Trong quyển “Đến với thơ Nguyễn Đình Chiểu”
nhà xuất bản Thanh niên, bài viết của Hà Như Chi có viết: “Nguyễn Đình Chiểu viết
Lục Vân Tiên vừa làm cái công việc giáo hóa, truyền bá tư tưởng Nho học đang bị lu
mờ dưới ảnh hưởng của thời thế, lại vừa gửi vào tác phẩm một tâm sự. Tâm sự ấy ta
có thể tìm thấy trong nhân vật chính là Lục Vân Tiên và trong cái xã hội làm nền cho
cuộc sống của chàng [15;193]. Hay trong quyển này, bài viết của Tạ Văn Ru cũng đề
cập đến “người ta thường nói: xem văn biết người. Tư tưởng và tâm trạng một cá nhân
thường được bộc lộ ra ở lời nói hay lời văn” [15;217].
Có thể nói, một trong những tác phẩm ưu tú của nền văn học Việt Nam có ảnh
hưởng sâu sắc đến văn hóa dân gian các tỉnh phía Nam từ Bình Trị Thiên trở vào là
truyện thơ Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Nhờ tiếp thu được những tinh hoa
của văn hóa dân gian, từ cách cảm, cách nghĩ đến lời ăn tiếng nói của người dân lao
động, nên Lục Vân Tiên đã trở nên gần gũi với dân gian, đồng thời cũng đã để lại
nhiều giá trị tinh thần cho dân tộc. Trước hết, nó như nguồn chất liệu thẩm mỹ cho dân
ca. Quyển “Nguyễn Đình Chiểu, tác phẩm và dư luận”, bài viết của Nguyễn Qúy
Thành có viết: “ Có thể nói được rằng, trong nền văn học nước nhà không ít những
CBHD: LÊ THỊ NGỌC BÍCH
Trang 5
SVTH: LÊ ÁNH DƯƠNG
Lu
truyện Nôm có quan hệ qua lại với thơ ca dân gian như Truyện Kiều, Phan Trần,
Thạch Sanh… Nhưng có lẽ sau Truyện Kiều, khó mà tìm thấy một tác phẩm nào có
ảnh hưởng tới mức sâu sắc, rộng rãi đến thơ ca dân gian trong đó có hát hò Nam
Trung Bộ như Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu” [13;402].
Bên cạnh đó là những giá trị giáo huấn con người. Trong quyển “Nguyễn Đình
Chiểu toàn tập” (tập1), có những nhận định về Nguyễn Đình Chiểu thể hiện qua tác
phẩm Lục Vân Tên: “ Tác phẩm Lục Vân Tiên đã đáp ứng được tinh thần dũng cảm,
trọng nghĩa khinh tài, ghét gian ác. Kiến nghĩa bất vi vô dũng dã của người nông dân
miền Nam mà cũng là của mọi người dân Việt Nam chúng ta” [14;35], hay “những con
người tốt bụng trong Lục Vân Tiên kế tục những truyền thống cao quý của dân tộc về
nhân nghĩa, đó là những con người trong sạch, bình thường, làm việc nghĩa như một
nhu cầu mà không nghĩ đến lợi danh, ơn huệ” [14;35] . Và “ Lục Vân Tiên là nhân vật
lý tưởng của nhà thơ mang đầy đủ những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của con người
mà Nguyễn Đình Chiểu mơ ước” [14;35].
Cũng từ quyển sách này, tác phẩm Lục Vân Tiên còn đem đến một giá trị không
thể thiếu đối với cuộc sống của chúng ta, nó tác động đến việc hình thành và phát triển
nhân cách tốt đẹp góp phần làm cho cuộc sống ngày thêm hoàn thiện hơn: “Lục Vân
Tiên có tác dụng giáo dục mạnh mẽ ở một mức độ và một khía cạnh nhất định, con
người Lục tỉnh nhất là tầng lớp thanh niên, lấy Vân Tiên làm nhân vật lý tưởng, ước
mơ làm một Vân Tiên trong cuộc đời, coi mối tình Vân Tiên - Nguyệt Nga là tuyệt đẹp,
coi tình bạn giữa Vân Tiên, Hớn Minh, Tử Trực là cao quý” [14;36].
Tác phẩm không chỉ dừng lại ở việc nêu cao tính giáo dục mà còn được nâng lên
ở tầm cao hơn, đó là đạo lý của dân tộc. Nguyễn Đình Chiểu đã gửi gắm qua tác phẩm,
những phẩm chất tốt, xấu, chính nghĩa, phi nghĩa đã được nhà thơ nói qua rất rõ. Bài
viết của Dương Quảng Hàm trong quyển “Lục Vân Tiên, tác phẩm và lời bình”, có
nói: “ là một cuốn sách tác giả viết ra để gửi gắm tâm sự của mình vào đó, truyện là
một cuốn tâm lý tiểu thuyết cốt dạy người ta đạo làm người” [18;108]. Hay cũng trong
quyển này, Huỳnh Ngọc Trảng cũng có viết: “Từ trước đến nay đã có nhiều nhà
nghiên cứu đề cập đến sự giống và khác nhau giữa cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu và
nhân vật Lục Vân Tiên, giữa những sự kiện trong quãng đời thanh xuân của tác giả
với những tình tiết trong truyện. Có nhiều cách lý giải và chứng minh, nhưng không
phải ngẫu nhiên mà hiện tượng này được nhiều người chú ý. Việc gửi gắm tâm sự vào
CBHD: LÊ THỊ NGỌC BÍCH
Trang 6
SVTH: LÊ ÁNH DƯƠNG
Luận văn tốt nghiệp
tác phẩm văn học là một chuyện thường tình, nhưng Lục Vân Tiên rõ ràng là hình
bóng của Nguyễn Đình Chiểu” [18;184].
Chính từ ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu, lúc nào cũng thể hiện rõ tư tưởng của
một người trung quân ái quốc, hình thành nên tính cách của ông là một người cương
trực, có tinh thần lạc quan yêu đời, luôn vượt qua mọi hoàn cảnh vươn lên trong cuộc
sống và ngày càng tỏ sáng một tấm lòng của một con người khiêm tốn. Nguyễn Đình
Chiểu không cam bó gối khoanh tay, tuy mù lòa, nhưng ông làm việc rất nhiều cho đất
nước. Trong công trình nghiên cứu của Bảo Định Giang. “Những ngôi sao sáng trên
bầu trời văn học Nam Bộ nửa sau thế kỉ XIX”, viết về Nguyễn Đình Chiểu: “Ngoài
việc dạy học, làm thầy thuốc - những nghề cao quý, ông mở đầu cuộc tiến công các tệ
nạn đương thời bằng tác phẩm văn học. Không chút ồn ào, Nguyễn Đình Chiểu đi vào
con đường này với tinh thần đầy khiêm tốn, nhưng cái điều không ngờ - ngay cả đối
với ông - là những hiệu quả mà tác phẩm mang lại là sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của
chúng trong đông đảo nhân dân ở thời ông và sau ông” [1;80].
Trong quyển “Nguyễn Đình Chiểu, tác phẩm và dư luận”, Phạm Văn Đồng có
viết: “Ngôi sao Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ lớn của nước ta, đáng lẽ ra phải
sáng tỏ hơn nữa trong bầu trời văn nghệ của dân tộc, nhất là trong lúc này” [13;191].
hay “trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, nhưng con mắt của chúng ta
phải chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn thì càng sáng” [13;191].
Như vậy các công trình phần nào đã đề cập đến tấm lòng của Nguyễn Đình Chiểu
đối với sự nghiệp trồng người của dân tộc, cũng như phần nào nói lên được tâm sự của
Nguyễn Đình Chiểu về đạo lý ở đời. Qua tác phẩm của chính mình, Nguyễn Đình
Chiểu mong muốn một trật tự xã hội tốt đẹp hơn. Với lời mở đầu câu truyện thơ, ông
tha thiết kêu gọi người đời “lẳng lặng mà nghe” để tự răn mình. Tác phẩm của Đồ
Chiểu có tính chất giáo huấn rất cao, chẳng những thể hiện ở tính cách mà trong tác
phẩm của Nguyễn Đình Chiểu cũng bộc lộ được tư tưởng đạo lý nhân nghĩa của dân
tộc. Qua đây có thể thấy rằng Nguyễn Đình Chiểu không nhìn cuộc đời bằng nhãn
quan trực tiếp của mình mà ông cảm nhận đời bằng cả trái tim và tấm lòng chính
nghĩa.
CBHD: LÊ THỊ NGỌC BÍCH
Trang 7
SVTH: LÊ ÁNH DƯƠNG
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu chính của tôi khi thực hiện đề tài này là được hiểu rõ và sâu
hơn về Nguyễn Đình Chiểu, đặc biệt nhất là về tâm sự và ước mơ của Nguyễn Đình
Chiểu trong tác phẩm Lục Vân Tiên, đồng thời để biết thêm những giá trị mà Nguyễn
Đình Chiểu đã đóng góp cho dân tộc, cho đất nước. Qua đó giúp cho xã hội cũng như
mỗi cá nhân trong mọi thời đại thấy rằng Nguyễn Đình Chiểu là một người cao cả, một
con người thể xác tuy “tàn” nhưng tâm hồn không “phế”. Đồng thời qua đây nó cũng
giúp cho chính bản thân tôi nắm rõ hơn về tác phẩm nhằm vun đắp thêm vốn kiến thức
của mình để sau này tôi có thể thực hiện ước mơ giảng dạy được tốt hơn, nhờ đó tôi có
thể truyền đạt kiến thức một cách đầy đủ và tốt nhất.
4. Phạm vi nghiên cứu
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ yêu nước, một nhà thơ với sự nghiệp văn
chương đồ sộ, thơ văn của ông mãi là tấm gương sáng cho mọi thời đại. Với công việc
nghiên cứu về đề tài “Tâm sự và ước mơ của Nguyễn Đình Chiểu trong tác phẩm Lục
Vân Tiên”, tôi tập trung tìm hiểu và ghi nhận những kiến thức về thơ văn yêu nước của
Nguyễn Đình Chiểu đặc biệt là những nội dung liên quan đến tâm sự và ước mơ của
Nguyễn Đình Chiểu được thể hiện trong tác phẩm Lục Vân Tiên. Ngoài ra tôi còn tìm
hiểu thêm một số phạm vi khác như các bài viết, bài phê bình, dư luận, bài nhận xét
của nhiều tác giả. Đồng thời tôi cũng tìm hiểu một số nội dung có liên quan đến đề tài
trên mạng điện tử để tham khảo cũng như là bổ xung thêm kiến thức cho đề tài và để
có thể hoàn chỉnh đề tài một cách tốt nhất.
5. Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp nghiên cứu, trên tinh thần tìm hiểu, học hỏi, tôi đã tiếp thu và kế
thừa những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài nhằm dựa trên cơ sở đó mà
phân tích, tổng hợp đồng thời rút ra kết luận khái quát cho nội dung đề tài. Bài nghiên
cứu còn sử dụng phương pháp phân loại để tìm hiểu nhiều phương diện mà Nguyễn
Đình Chiểu thể hiện, bên cạnh đó là việc khảo sát những nhân vật trong tác phẩm để
thấy được tâm sự và ước mơ mà Nguyễn Đình Chiểu đã thể hiện khi xây dựng nhân
vật của mình. Cuối cùng là việc phân tích ngôn ngữ mà Nguyễn Đình Chiểu đã sử
dụng trong tác phẩm Lục Vân Tiên.
CBHD: LÊ THỊ NGỌC BÍCH
Trang 8
SVTH: LÊ ÁNH DƯƠNG
Luận văn tốt nghiệp
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 2
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - VĂN VÀ NGƯỜI
1.1. Cuộc đời, con người và quan niệm sáng tác
1.1.1. Cuộc đời
Nguyễn Đình Chiểu 阮 廷 沼 (1/7/1822), tại làng Tân Thới, huyện Bình Dương,
phủ Tân Bình, Gia Định. Tự là Mạnh Trạch, hiệu là Trọng Phủ và sau bị mù hiệu là
Hối Trai, Nuyễn Đình Chiểu mất ngày 3/7/1888 tại Ba Tri, Bến Tre. Nguyễn Đình
Chiểu là con cụ Nguyễn Đình Duy và bà Trương Thị Thiệt. Cụ Nguyễn Đình Duy quê
gốc ở làng Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên, khi tả Lê Văn Duyệt vào trấn Gia Định, cụ
theo vào làm việc và cưới thêm người vợ là bà Trương Thị Thiệt. Cuộc đời của
Nguyễn Đình Chiểu sớm trải qua những ngày gia biến và quốc biến hãi hùng, tác động
đến nhận thức Nguyễn Đình Chiểu.
Ngay từ nhỏ Nguyễn Đình Chiểu đã theo cha chạy giặc, từ một cậu ấm con quan,
bỗng chốc trở thành một đứa trẻ thường dân, sống trong cảnh chạy loạn, trả thù chém
giết. Lớn lên bị bệnh mù mắt, bị gia đình giàu có bội ước, công danh dang dở. Mặc dù
cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu gặp nhiều bất hạnh nhưng lúc nào ông cũng gắn bó với
nhân dân. Tuy sống trong cảnh mù lòa nhưng Nguyễn Đình Chiểu đã tiến thân thành
danh bằng con đường hành đạo của mình. Ông đã mở lớp dạy học, viết văn và hốt
thuốc chữa bệnh cho dân. Từ đó tiếng thơ Đồ Chiểu cũng bắt đầu vang khắp miền Lục
tỉnh.
Khi giặc Pháp đánh vào Gia Định (1859), người trí thức yêu nước Nguyễn Đình
Chiểu đã đứng vững trên tuyến đầu của cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, cùng các
lãnh tụ nghĩa quân bàn mưu tính kế đánh giặc và sáng tác những vần thơ cháy bỗng
căm hờn, sôi sục ý trí chiến đấu. Nam kì mất, ông ở lại Ba Tri (Bến Tre). Thực dân
Pháp tìm đủ mọi cách dụ dỗ, mua chuộc, nhưng ông khảng khái khước từ tất cả, giữ
chọn tấm lòng thủy chung son sắt với nước, với dân cho đến hơi thở cuối cùng.
CBHD: LÊ THỊ NGỌC BÍCH
Trang 9
SVTH: LÊ ÁNH DƯƠNG
1.1.2. Con người
Nguyễn Đình Chiểu là người có nhiều nghị lực và phẩm chất, phải có nghị lực
phi thường, khí phách cứng cỏi thì Nguyễn Đình Chiểu mới vượt qua những bất hạnh
của cá nhân và thời cuộc để đứng vững trước cơn binh lửa hãi hùng của lịch sử mà
không sờn lòng nản trí. Theo thường tình lẽ ra Nguyễn Đình Chiểu đui mù, có quyền
sống yên thân trong gia đình, đồng bào sẽ giúp đỡ, không đòi hỏi ông làm nhiệm vụ gì.
Nhưng đây, trái lại sau khi mang tật nguyền, Nguyễn Đình Chiểu vẫn phấn đấu tự
mình trở thành người có ích cho xã hội. Và sau khi đất nước bị họa xâm lăng, ông lại
tự đặc cho mình nhiệm vụ phải tham gia chống giặc cứu nước, tham gia đấu tranh bảo
vệ phẩm giá con người, nêu cao đạo đức nhân nghĩa truyền thống của dân tộc. Đó là
lòng đạo, và chính lòng đạo này đã tạo nên sự nghiệp vẻ vang của nhà thơ mù Lục
tỉnh. Sự nghiệp văn học yêu nước, yêu dân của một nhà thơ chân chính, sự nghiệp giáo
hóa của một kĩ sư tâm hồn, sự nghiệp làm thuốc cứu người của một lương y bác học.
Cái lớn trong cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu là một đời sống thanh bần, giữ tiết tháo:
“Nguyễn Đình Chiểu chủ trương sống thanh bần nhất là trong khi nước mất nhà tan. Ở
nước loàn há sợ chữ thiên ương, nay nước ta mất thì thân ta như cá núp trong nò, như
én nằm trên gác. Qúy không phải ở cái miệng, cái bụng, mà quý ở thân danh, danh
phải sáng để có uy tín hòng được dân tin theo. Vinh, tuyệt đối không phải là chiếu
bông gối dựa, quần nhiễu áo sô. Thời loạn mà chạy theo chiếu bông gối dựa, quần
nhiễu áo sô là nhục chớ không phải là vinh. Đã thanh bần lại phải tiết tháo, càng chịu
sống thanh bần, càng dễ giữ tiết tháo” [15;142]. Có thể nói Nguyễn Đình Chiểu là hiện
thân cho nhiều phẩm chất cao đẹp làm người. Trong ứng xử cá nhân, Đồ Chiểu là tấm
gương sáng về đạo hiếu nhân nghĩa, tất cả cô đúc lại thành khí tiết của nhà nho yêu
nước Việt Nam tiêu biểu cho giai đoạn nửa cuối thế kỉ thứ XIX.
1.1.3. Quan điểm văn chương
Nguyễn Đình Chiểu vốn là một nhà nho, nhưng sinh trưởng ở đất Đồng Nai hào
phóng, lại sống giữa lúc nước nhà lâm nguy, vua nhà Nguyễn cam tâm bán nước, để
giữ ngai vàng, nhưng khắp nơi nhân dân và sĩ phu anh dũng đứng lên đánh giặc cứu
nước. Vì mù cả hai mắt, hành động của chiến sĩ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu chủ yếu
là thơ văn. Những tác phẩm của ông ngoài giá trị văn nghệ nó còn quý ở chỗ nó soi
CBHD: LÊ THỊ NGỌC BÍCH
Trang 10
SVTH: LÊ ÁNH DƯƠNG
Luận văn tốt nghiệp
sáng tâm hồn trong sáng và cao quý lạ thường của Nguyễn Đình Chiểu, nó ghi lại lịch
sử của một thời khổ nhục nhưng vĩ đại:
Sự đời thà khuất đôi tròng thịt
Lòng đạo xin tròn một tấm gương
Lời thơ khẳng định “lòng đạo” và sự quyết tâm của Nguyễn Đình Chiểu: thà là
đui mù, đôi mắt không còn nhìn thấy thế sự nữa, nhưng tư tưởng, tình cảm, tấm lòng
của ông vẫn sống với đời, vẫn lo cho đời, cho dân, cho nước. “Lòng đạo” là sức mạnh
tinh thần thúc đẩy Nguyễn Đình Chiểu coi thường bệnh tật, thể xác ốm đau không
ngăn nổi ông kiên quyết thực hiện “lòng đạo” thực hiện tư tưởng nhân nghĩa yêu nước
chống ngoại xâm mà ông đã khẳng định từ lâu.
Nguyễn Đình Chiểu tuy không nghị luận về văn chương, nhưng ông có quan
điểm văn chương riêng. Quan điểm “văn dĩ tải đạo” của ông khác với quan niệm nhà
nho, càng khác với quan niệm chính thống lúc bấy giờ. Nhà nho quan niệm “ đạo” là
đạo của trời, còn Đồ Chiểu cũng nghĩ đến nhưng có khác:
Đạo trời nào phải ở đâu xa
Gẫm ở lòng người mới thấy ra.
Hay:
Mến nghĩa sao đành làm phản nước,
Có nhân nào nỡ phụ tình nhà.
Trên nguyên tắc, đạo trời được đề cao, nhưng trong thực tế đạo làm người đáng
quý hơn nhiều, đó là quan niệm bao trùm văn chương Đồ Chiểu. Quan điểm văn
chương Đồ Chiểu tuy không được “tuyên ngôn” nhưng đây là quan điểm tiến bộ và
gần gũi với văn chương dân tộc: văn chương chiến đấu vị nhân sinh đầy tinh thần tiến
công và tinh thân nhân ái.
1.2. Đặc điểm thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu
1.2.1. Kế thừa tư tưởng nhân nghĩa của cha ông
Dưới chế độ cũ, với hệ tư tưởng phong kiến lạc hậu phản dân, hại nước, Nguyễn
Đình Chiểu đã thấm nhuần nhân nghĩa truyền thống, tư tưởng ông đã vươn cao đến
chủ nghĩa nhân đạo thực tiễn gần gũi với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản là sự kiện nổi
bật thời bấy giờ như một ngôi sao sáng thật đáng ca ngợi. Nguyễn Đình Chiểu đã chịu
ảnh hưởng sâu sắc của những quan niệm đạo đức, của những truyền thống văn hóa tốt
CBHD: LÊ THỊ NGỌC BÍCH
Trang 11
SVTH: LÊ ÁNH DƯƠNG
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
Luận văn tốt nghiệp
đẹp của dân tộc. Nguyễn Đình Chiểu đã khắc phục được những hạn chế, những khó
khăn, cay nghiệt. Tư tưởng trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu là tư tưởng yêu
nước, tư tưởng nhân nghĩa nó là tư tưởng tiến bộ và cách mạng. Nguyễn Đình Chiểu
kế thừa tưởng nhân nghĩa của cha ông trong kháng chiến chống ngoại xâm, tiêu biểu là
tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Trong thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu tư tưởng nhân nghĩa còn được
mở rộng thành lời kêu gọi động viên, kêu gọi cứu nước, ông từng tâm niệm:
Hễ làm người chớ ở hai lòng
Đã vì nước phải theo một phía
Cùng với một tấm lòng đầy cảm xúc, thấm nhuần tư tưởng nhân nghĩa truyền
thống mạnh mẽ thì bên cạnh đó ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu cũng ngày càng
khẳng định “lòng đạo” của mình và thủy chung giữ vững:
Sự đời thà khuất đôi tròng thịt
Lòng đạo xin tròn một tấm gương
Tấm gương nhân nghĩa và yêu nước của ông quả là trong sáng, suốt đời không
chút bụi mờ, không danh lợi nào có thể làm hoen ố, ông đã sống thanh bạc, cao cả, con
người tiết tháo và trung dũng ấy đã khiến cho kẻ thù phải khâm phục.
1.2.2. Sử dụng thơ văn làm vũ khí chiến đấu
Bằng ngòi bút của mình, Nguyễn Đình Chiểu đã suốt đời chiến đấu không mệt
mỏi cho đạo đức, cho chính nghĩa, cho độc lập tự do của dân tộc.
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đăm mấy thằng gian bút chẳng tà
Ngòi bút và khối óc thao lược của ông vẫn luôn hoạt động cho công cuộc kháng
chiến cứu nước. Người đọc yêu văn thơ Đồ Chiểu không chỉ vì nội dung mà còn yêu
vì nghệ thuật, ngòi bút rất sắc của Nguyễn Đình Chiểu những khi đâm thẳng vào các
hạng người phản phúc, lừa bịp. Trước cảnh đất nước bị xâm lăng, ngòi bút của Nguyễn
Đình Chiểu từ lời ca cũng chuyển theo hướng khác, từ chỗ ca ngợi tình bạn bè, tình
chung thủy chuyển sang chủ yếu ca ngợi những người hy sinh cứu nước. Ngoài những
lời kêu gọi trong nhiều tác phẩm của ông thì tiếng thơ trong Lục Vân Tiên cũng có thể
CBHD: LÊ THỊ NGỌC BÍCH
Trang 12
SVTH: LÊ ÁNH DƯƠNG
Luận văn tốt nghiệp
coi đó là tiếng nói chiến đấu, một tiếng nói lạc quan, ông thể hiện rất rõ thái độ của
mình. Thông qua ngòi bút nói lên những vấn đề đạo đức của con người, đồng thời
cũng là lẽ ghét thương đối với con người và xã hội.
1.3. Tác phẩm Lục Vân Tiên
1.3.1. Xuất xứ tác phẩm
Truyện Lục Vân Tiên 僇 雲 仙 là tác phẩm đầu tiên của văn chương Nam bộ
có tiếng vang và được đón nhận mang tầm cả nước, nó cũng là một tác phẩm mà văn
bản có một lịch sử sáng tác và phổ biến khá độc đáo và phức tạp. Theo ý kiến chung
của nhiều nhà nghiên cứu hiện nay, tập truyện có thể được sáng tác vào những năm
1850 trở đi, lúc Nguyễn Đình Chiểu đã bị bệnh mù và đã về Bình Vi (Gia Định) mở
trường dạy học năm 1851. Như vậy, có thể thấy tập truyện chỉ được hình thành trong
trí nhớ và tác giả đã đọc cho những người thân cận của mình ghi chép lại.
1.3.2. Tóm tắt tác phẩm
Đây là câu truyện thơ lục bát dài 2082 câu, cốt truyện được tóm tắt như sau:
Lục Vân Tiên, nhân vật chính của cuốn truyện, là một học trò nghèo, có đức, có tài,
văn võ kiêm toàn. Một hôm trên đường lên kinh đô đi thi chàng gặp bọn cướp bắt Kiều
Nguyệt Nga, chàng đánh tan lũ cướp cứu thoát Kiều Nguyệt Nga. Cuộc gặp gỡ tình cờ
này đã làm cho hai bên gắn bó với nhau. Tuy vậy, liền sau đó hai bên đành tạm chia
tay Nguyệt Nga đi về ly sơ theo cha, Lục Vân Tiên tiếp tục lên kinh đi thi. Thế rồi,
hôm sắp vào trường thi thì Vân Tiên nhận được tin mẹ mất, chàng vội vã bỏ thi trở về
chịu tang. Dọc đường về, vì đau buồn nên ốm nặng và bị mù cả hai mắt. Trước cơn
nguy biến, chàng gặp anh bạn xấu Trịnh Hâm lập mưu đẩy xuống sông, Vân Tiên may
được vợ chồng một ngư ông cứu sống. Vân Tiên tìm đến nhà người vợ đính ước trước
khi đi thi là Võ Thể Loan mong có chỗ nương nhờ cho qua cơn hoạn nạn. Nhưng cha
con Võ Thể Loan nhẫn tâm bội ước, đem chàng vứt vào hang núi. Một lần nữa Vân
Tiên lại được ông tiều cứu thoát và đến ở nhờ một ngôi chùa giữa rừng.
Kiều Nguyệt Nga từ khi gặp Vân Tiên không lúc nào quên được người ân nhân
khôi ngô đã cứu mình thoát nạn. Trong khi cảm xúc vì tình yêu, nàng đã có thể vẽ một
bức chân dung của Vân Tiên ra, quyết sẽ không yêu một người nào khác. Nhưng rồi
một hôm nghe tin Vân Tiên bị nạn chết, nàng quyết tâm thủ tiết với người chồng mà
mình đã tự ý lựa chon. Trong khi đó, tên thái sư trong triều muốn hỏi nàng cho con
CBHD: LÊ THỊ NGỌC BÍCH
Trang 13
SVTH: LÊ ÁNH DƯƠNG
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
Luận văn tốt nghiệp
hắn nhưng nàng từ chối. Bây giờ đang có giặc Ô Qua, hắn bèn trả thù, tâu vua xin đưa
nàng đi cống Ô Qua, trên đường đi nàng nhảy xuống sông tự vẫn, quyết giữ trọn lòng
chung thủy với Lục Vân Tiên. Nhưng nàng được Phật Quan Âm cứu sống và cho trôi
dạt vào vườn nhà Bùi Kiệm. Thấy Nguyệt Nga xin đẹp, Bùi Kiệm muốn quyến rũ
nàng làm vợ, Nguyệt Nga lại bỏ trốn vào rừng và ở nhờ nhà một bà lão.
Lục Vân Tiên về sau được thuốc tiên chữa cho sáng mắt, đi thi đỗ trạng nguyên
và được Vua cử đi đánh giặc Ô Qua. Trên đường thắng trận trở về, chàng gặp Nguyệt
Nga, từ đấy hai người sum hợp hạnh phúc, còn những bọn gian ác phải đền tội.
1.3.3. Giá trị tác phẩm
Tác phẩm Lục Vân Tiên đã để lại một giá trị to lớn về mặt tinh thần cho các thế
hệ mai sau, những điều răn dạy về các mối quan hệ giao tiếp trong gia đình cũng như
ngoài xã hội. Tác phẩm mang một giá trị hết sức thiết thực đối với chính bản thân của
mỗi con người. Đồng thời nâng cao tinh thần truyền thồng tương thân, tương ái của
dân tộc ta. Quan trọng hơn hết tác phẩm còn đóng góp to lớn làm phong phú thêm kho
tàn văn chương Việt Nam.
Tác phẩm Lục Vân Tiên là tác phẩm cuối cùng kết húc một giai đoạn văn học,
được kế thừa nhiều mặt truyền thống của văn học dân gian, của truyện thơ Nôm bình
dân, tác phẩm đã thể hiện tính trữ tình đạo đức và thể hiện tính nhân dân hết sức sâu
sắc.
CBHD: LÊ THỊ NGỌC BÍCH
Trang 14
SVTH: LÊ ÁNH DƯƠNG
Luận văn tốt nghiệp
CHƯƠNG 2
TÂM SỰ VÀ ƯỚC MƠ CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
TRONG TÁC PHẨM LỤC VÂN TIÊN
2.1. Thể hiện qua nội dung thơ văn
2.1.1. Lý tưởng nhân nghĩa
Khái niệm nhân nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu bắt nguồn từ tư tưởng nhân nghĩa
của Nho giáo và trong thâm tâm, ông từng khẳng định và ca ngợi đạo nho “theo đường
nhân nghĩa chi bằng đạo nho”, viết tác phẩm Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu nêu
lên tấm gương về luân lý đạo đức kiểu “Nhị thập tứ hiếu” nhằm mục đích giáo huấn
cải tạo xã hội. Mở đầu truyện Lục Vân Tiên, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu viết:
Hỡi ai lẳng lặng mà nghe,
埃
宜,
Giữ răn việc trước, lành dè thân sau.
役 畧,苓 提 身 婁.
Trai thời trung hiếu làm đầu,
時 忠 孝 濫 投,
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.
時 節 行 纙 句 撈 命.
Nó như là sợi chỉ đỏ về nội dung tư tưởng xuyên suốt tác phẩm mà Nguyễn Đình
Chiểu muốn gửi tới người đọc. Nguyễn Đình Chiểu là nhà nho mang nặng tư tưởng
Nho giáo mà gốc là tư tưởng của Khổng Tử, Mạng Tử, Trang Tử. Đồng thời, ông còn
là người con của quê hương Nam Bộ, giàu tình yêu thương, sống gắn bó với người dân
lao động. Việc học hành, thi cử không thành, ông quay về bốc thuốc chữa bệnh, cứu
người, dạy học để truyền tri thức và đạo lý cho con cháu. Chính vì thế mà nội dung tư
tưởng “trung - hiếu - tiêt - nghĩa” theo tư tưởng của Nho giáo lại rất gần với đạo lý
“nhân nghĩa” ở đời của dân tộc ta. Nguyễn Đình Chiểu sáng tác Lục Vân Tiên trước
khi thực dân Pháp xâm lược nước ta nhằm tuyên truyền cho đạo lý tốt đẹp ấy. Nhân
CBHD: LÊ THỊ NGỌC BÍCH
Trang 15
SVTH: LÊ ÁNH DƯƠNG
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
Luận văn tốt nghiệp
nghĩa là đạo đức của nhân dân, nó được Nguyễn Đình Chiểu tải vào trong truyện thơ,
vẻ đẹp tư tưởng ấy được toát lên, tỏa sáng qua nội dung tác phẩm.
Lời thơ giản dị, rành rẽ như một tuyên ngôn, định hướng cho bước đi của toàn bộ
tác phẩm. Với nhà thơ xứ dừa ấy, sáng tác văn chương không phải vì sự nghiệp văn
chương mà trước hết, quan trọng hơn hết là vì mục đích giáo dục, truyền bá đạo lý,
nhân cách con người, “ở ông, gốc cội nhân nghĩa truyền thống dân tộc như hòa trong
nhựa sống chảy khắp trong cội cành sum sê của cổ thụ Việt Nam” [14;53].
Với Nguyễn Đình Chiểu, nhân nghĩa là đạo đức của nhân dân ta, là căn cốt, gốc
rễ để trau giồi, rèn giũa con người. Vào đầu tác phẩm, ở đoạn “Lục Vân Tiên cứu Kiều
Nguyệt Nga” nhà thơ đã hào hứng giới thiệu hai con người trẻ tuổi, biết hướng theo
lòng nhân, biết hành động theo việc nghĩa. Đó là Lục Vân Tiên - chàng trai dũng cảm,
có lòng “nhân” sẵn sàng làm việc “nghĩa”. Vân Tiên vốn con nhà thường dân, nhưng
học giỏi văn võ kiêm toàn. Chàng đang háo hức trên đường lên kinh ứng thi, vậy mà
gặp cướp, không phải chúng gây sự với chàng, mà chúng đang quấy nhiểu nhân dân.
Lục Vân Tiên nhanh nhẹn “ghé lại bên đàng, bẻ cây làm gậy”, xông thẳng vào giữa
bọn cướp, lực lượng thật quá trên lệch, bên kia là cả lũ lâu la đông như ong, như kiến,
bên này chỉ một mình chàng trai dũng cảm, với một lời hứa chân thành “cứu người ra
khỏi lao đao buổi này”. Với vũ khí giản dị “cây gậy bên đàng”, vậy mà chàng không
chút nao núng:
Vân Tiên tả đột hữu xông,
雲 仙 左 突 右 衝,
Khác nào Triệu Tử giải vòng Đương Dang.
恪 芾 趙 子 觧
揚.
Bằng mấy dòng thơ ngắn gọn, một câu so sánh với những từ đặc sắc: “tả đột, hữu
xông, khác nào Triệu Tử…” Vân Tiên được ví như một dũng tướng, sánh ngang với
Triệu Tử Long thời Tam Quốc trong trận phá vây quân Tào Tháo ở nhà Hán, vì bảo vệ
ấu chúa A Đẩu, dù sao vẫn là nghĩa vụ của một bầy tôi chung thành. Còn ngày nay,
Lục Vân Tiên chiến đấu vì người dân gặp nạn, cứu dân, trừ ác, xuất phát từ lòng nhân,
giản dị vô tư mà trong sáng cao đẹp biết bao. Xuất phát từ lòng nhân, Lục Vân Tiên đã
làm được một việc “nghĩa”, một việc xứng đáng được gọi là anh hùng. Tự nguyện dấn
thân vào vùng nguy hiểm, chiến đấu hết mình, thắng lợi rực rỡ. Tất cả điều vì nhân
nghĩa, nên sau thắng lợi, Lục Vân Tiên không một chút kêu ngạo. Trái lại, chàng thật
CBHD: LÊ THỊ NGỌC BÍCH
Trang 16
SVTH: LÊ ÁNH DƯƠNG
Luận văn tốt nghiệp
khiêm nhường chính trực. Chàng đã hành động vì lòng nhân, vì nghĩa lớn, vì kẻ ác bảo
vệ người lương thiện. Chàng chỉ mong Nguyệt Nga - cũng như mọi người “rõ đặng
nguồn cơn”, nghĩa là hiểu rõ, cảm thông với hành động của chàng. Sau nữa, chàng
nhắc tới sử sách, nhắc lời các bậc hiền nhân xưa. Người xưa nói: “Kiến ngãi bất vi vô
dũng dã” - nghĩa là: Thấy việc nghĩa mà không làm, không phải người dũng cảm.
Cách nói của chàng giản dị hơn:
Có câu kiến ngãi bất vi,
固 句 見
不 爲
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng
濫
世 意 拱
英 雄
“Phi anh hùng” là những kẻ tiểu nhân, hèn nhác. Lời của Vân Tiên chắc nịch, vừa để
đối chứng phê phán những kẻ tầm thường, vừa khẳng định việc làm là đúng đắn, là tất
yếu, hiển nhiên thuộc căn cốt gốc rễ trong lẽ sống của mình. Đó cũng là lẽ sống của
biết bao hiền nhân quân tử ngày xưa, bao con người chân chính ngày nay. Lục Vân
Tiên là một chàng trai dũng cảm, trọng nghĩa khinh tài, tiêu biểu cho những chàng trai
Nam Bộ hảo hán của một thời.
Còn Kiều Nguyệt Nga, nàng cũng là một cô gái biết trọng nghĩa tình. Sau khi
được cứu thoát khỏi tay bọn bất nhân, độc ác, nàng vô cùng xúc động. Nàng đã nói
những lời đẹp nhất để cảm ơn ân nhân:
Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,
臨 危
及 解 危,
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.
節
年 拱 補多
回.
Trước xe quân tử tạm ngồi,
畧 車 君 子 暫 坐,
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa.
吀 朱 賤 妾 礼 耒 仕 疎.
Nói “tiết trăm năm” là nói việc hệ trọng của cả một đời người con gái. “Lạy rồi sẽ
thưa” cũng là một thái độ kính nễ, thiêng liêng trong quan hệ của con người. Nguyệt
Nga là tiểu thư con quan tri phủ, nhưng được giáo dục chu đáo, nàng gắn bó với những
người dân, nên tiếp nhận được đạo đức của nhân dân. Đạo đức ấy là chữ “ân”, chữ
CBHD: LÊ THỊ NGỌC BÍCH
Trang 17
SVTH: LÊ ÁNH DƯƠNG
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
Luận văn tốt nghiệp
“nghĩa”. Sau đó nàng thẳng thắng bày tỏ ý nguyện đền đáp công lao cứu mạng của Lục
Vân Tiên. Thái độ và lời nói của nàng có cái gì đó như lúng túng, ngượng ngập nhưng
chất phát:
Gặp đây đương lúc giữa đàng,
及 低 當 六
塘,
Của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không.
錢 庄 固 泊 鐄 拱 空.
Gẫm câu báo đức thù công,
句 報 德 酬 功,
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.
礼 之 朱 匪
共
.
Nguyệt Nga nói tới “của tiền, vàng bạc” để giãy bài sự thiếu hụt về vật chất. Lại
nói tới “báo đức thù công” - đền đáp ơn đức, công lao. Rồi than thở “lấy chi cho phỉ
tấm lòng” để giãi bày sự lúng túng về tinh thần, những xúc động có thật của một tâm
hồn trong trắng. Sau đó Nguyệt Nga cố mời Vân Tiên về nhà mình để tạ ơn, nhưng
chàng từ chối, nàng băn khoăn, day dứt khôn ngôi. Chỉ đến khi thấy “Vân Tiên nghe
nói mỉm cười…” và an ủi “có câu kiến ngãi bất vi, làm người thế ấy cũng phi anh
hùng”, Nguyệt Nga mới khuây khỏa, hỏi thăm gia cảnh, tuổi tên của ân nhân. Cuối
cùng, nàng đã rút cây trâm cài đầu tặng Vân Tiên kỷ vật, cũng là gửi gắm một tính
hiệu của tình yêu chung thủy sau này.
Ngay phút gặp gỡ ban đầu với Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga đã tỏ rõ một tâm
hồn trung hậu, nết na. Tâm hồn ấy bắt nguồn từ đâu nếu không phải từ đạo lý nhân
nghĩa của nhân dân ta, nhất là nhân dân Nam Bộ - quê hương Nguyễn Đình Chiểu.
Bên cạnh việc ngợi ca Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga, Nguyễn Đình Chiểu
còn đề cao nghĩa khí của Hớn Minh, cũng là một người sống theo lý tưởng nhân nghĩa,
yêu ghét rạch ròi, không sợ gian nguy, không sợ cường quyền, dám hành động giúp
đời cứu dân. Cũng với Vương Tử Trực, đại diện cho việc đứng lên phê bình cái xấu,
mắng nhiếc những kẻ ăn ở hai lòng, một con người trọng nghĩa khí, dám mạnh dạng
lên tiếng đứng lên bảo vệ lẽ công bằng chính nghĩa.
Truyện Lục Vân Tiên là bài ca về chữ “nghĩa”, ca ngợi lòng thủy chung, bên cạnh
đó còn nói đến tình bạn, nói đến tình người, nói lên sự thương ghét khen chê… Tất cả
CBHD: LÊ THỊ NGỌC BÍCH
Trang 18
SVTH: LÊ ÁNH DƯƠNG
Luận văn tốt nghiệp
các nhân vật tích cực cửa truyện điều là người nghĩa, người làm việc nghĩa. Vì nghĩa là
đức tính phổ biến của người Việt Nam xưa nay, đức tính ấy khi tỏ khi mờ nhưng hằng
có, có nhiều ở mức cá nhân, gia đình, xã hội… Một xã hội, nếu con người biết lấy việc
nghĩa mà xử thế với nhau, thì xã hội sẽ hưng thịnh, đất nước sẽ an hòa. Qua đây ta
thấy, Nguyễn Đình Chiểu đã rất thành công khi xây dựng nhân vật anh hùng, đồng
thời cũng là nhân vật lý tưởng đại diện cho công lý, cho những tư tưởng nhân nghĩa,
những hình tượng ấy đáng được cho những thế hệ thanh niên lấy làm chuẩn mực để
học hỏi, rèn luyện mình, sống xứng đáng và có ích cho xã hội.
2.1.2. Đạo lý nhân dân
Nếu người Pháp đã sớm nhận biết được giá trị bình dân nhưng hấp dẫn của tác
phẩm Lục Vân Tiên thì đối với người Việt Nam, đặc biệt người dân Nam Kỳ, truyện
Lục Vân Tiên, đã làm rung động lòng người bởi lẽ, quần chúng đã tìm thấy thân phận,
suy tư và ước mơ của mình qua các nhân vật của truyện kể. Với dân Nam Kỳ lục tỉnh,
Nguyễn Đình Chiểu không phải chỉ là một nhà giáo, một người rao giảng đạo thánh
hiền, mà còn là mẫu mực cho đạo làm người, một nhà chí sĩ chống Pháp. Ông là bó
đuốc soi đường, là thần tượng của dân miền Nam.
Từ lúc nhỏ cho đến khi trưởng thành, được rèn luyện qua cửa Khổng sân Trình,
tiếp thu những yếu tố tích cực của Nho giáo. Nguyễn Đình Chiểu muốn đem những
hiểu biết của mình ra “phò đời giúp nước”. Chẳng may bị mù, nên chí nguyện không
thành. Nhưng một người có chí như Nguyễn Đình Chiểu thì không dễ gì mà ông chịu
lùi bước trước nghịch cảnh. Không thể hiện được lý tưởng của mình một cách trực
tiếp, nên ông đã gửi gắm vào chính tác phẩm của mình. Truyện Lục Vân Tiên là một
minh chứng cho lý tưởng ấy. Hai nhân vật chính là Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga
là những hình ảnh hào hùng mà cụ Đồ Chiểu đã gởi gắm trọn cái nhân sinh quan đạo
làm người mà ông muốn phổ biến trong dân gian. Lục Vân Tiên cứu Nguyệt Nga khi
thấy chuyện bất bình, mù lòa vì hiếu với mẹ, đối với Nguyễn Đình Chiểu ông cũng
vẫn yêu đời và cứu đời với nghề dạy học, hốt thuốc dù trong cảnh mù lòa. Cuộc tình
của Kiều Nguyệt Nga với Lục Vân Tiên là tấm lòng thủy chung dù phải trải qua bao
gian truân, cách trỡ. Ngay khi nhân vật Kiều Nguyệt Nga trong những mối quan hệ
giữa vua và tình yêu, Nguyễn Đình Chiểu đã thoát khỏi những giá trị cố hữu của luân
lý đạo Nho. Nguyễn Đình Chiểu đã không để cho Nguyệt Nga cam tâm tuân teo lệnh
CBHD: LÊ THỊ NGỌC BÍCH
Trang 19
SVTH: LÊ ÁNH DƯƠNG
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
Luận văn tốt nghiệp
vua, làm vật cống cho giặc Ô Qua, mà ông đặc “báo chúa” ngang với “sự phu” để cho
nhân vật lựa chọn nhưng cuối cùng thì tình yêu lại đặc lên trên cả vua. Việc “báo
chúa” chỉ bằng thể xác, còn đối với người yêu thì bằng tất cả tấm lòng. Sự tranh đấu
của Kiều Nguyệt Nga trong các nghịch cảnh vừa làm rung động lòng người, vừa gần
gũi với người phụ nữ Nam Kỳ bởi lẽ nàng tượng trưng cho nghị lực rắn rỏi của người
phụ nữ Nam bộ.
Cái bản chất trượng phu, hào phóng, trọng nhân nghĩa của các nhân vật như Hớn
Minh, Tử Trực, ông Quán, ông Ngư, ông Tiều, Lão Bà là những hình ảnh hào hùng
đánh đúng cái khát vọng vươn lên đạo làm người của nhân dân. Hớn Minh là người
trực tính, khi đi giữa đường thấy Đặng Sinh là con một tên quan huyện, ỷ thế cha, hãm
hiếp con gái người ta thì nổi nóng đánh ngay dù biết rằng sau đó sẽ bị tù tội :
Tôi bèn nổi giận một khi,
碎 卞 浽 陣 沒 欺,
Vật chàng xuống đó bẻ đi một giò.
勿 払
妬 把 多 沒 蓗.
Tử Trực là người bạn tốt, trọn tình chung thủy với bạn bè, không ngán sợ bạo lực
khi mắng Võ Công vì ông ta đem Võ Thể Loan gả cho mình khi biết Vân Tiên bị mù
lòa . Tiểu Đồng nêu lên tấm gương tình nghĩa thầy trò đã hết lòng giúp đỡ Vân Tiên
khi chủ mình đau ốm và khi tưởng là Vân Tiên đã mất thì ngày đêm ngồi bên nấm mồ
để tưởng nhớ.
Ngay đến những người dân lao động như ông Quán, ông Tiều, ông Ngư cũng
chuyên chở những tư tưởng thanh cao về đạo làm người. Cũng như ông Quán đã chẳng
sợ mất thực khách khi ông đã ngạo nghễ chê cười hai ông khách nhiều tiền là Trịnh
Hâm và Bùi Kiệm :
Trực rằng: ông Quán cười chi,
直 浪: 翁 舘 唭 之,
Vỗ tay dậm đất, nổi khi cười dài.
坦,浽 欺 唭 曳.
Tiên rằng : ông Quán cười ai?
仙 浪: 翁 舘 唭 埃?
Quán rằng : Cười kẻ bất tài đồ thơ.
舘 浪: 唭 几 不 才 圖 初.
CBHD: LÊ THỊ NGỌC BÍCH
Trang 20
SVTH: LÊ ÁNH DƯƠNG
Luận văn tốt nghiệp
Cũng không phải ngẫu nhiên mà nhân vật ông Quán xuất hiện trong tác phẩm để
nói ra những điều “thương, ghét”, mà ông Quán chính là hiện thân của Nguyễn Đình
Chiểu để cho nhân vật nói lên tâm huyết của mình. Ở đây nhân vật lấy cuộc sống của
dân để làm chuẩn, đánh giá một triều vua đi đôi với việc lên án một bọn “hôn quân vô
đạo”. Ông ca ngợi những người hiền triết, những bậc tài danh bị vua chúa vùi dập, “Vì
chưng hay ghét cũng là hay thương”. Quan điểm và tình cảm của ông Quán đã thể
hiện rất rõ tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu.
Quán rằng: ghét việc tầm phào
舘 哴: 恄 役 尋 抛,
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.
恄 咳,恄 蹬,恄
羡 心.
Hay:
Thương là thương đức thánh nhân
怆 罗 怆 德 圣 人
Khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần, lúc Khuông.
敧 坭 宋 卫 六 陳 六
.
Hóa ra đây không phải là một ông Quán bình thường, toan tính lời lỗ, chuyên
buôn bán để mưu sinh, mà chính là người trí thức có hoài bão lớn, tình cảm lớn. Thái
độ của ông Quán rất rõ ràng, nói đến cái thương thì ông nhắc đến các nhà hiền triết,
những người tài giỏi mà không thực hiện được mộng bình sinh vì dân vì nước. Tất cả
các mối căm ghét của ông Quán cũng chính là của Nguyễn Đình Chiểu, ông đã lên án
tất cả, những cái gì hại đến dân ông đều cho là xấu, là tà, là đáng khinh, đáng ghét và
cái gì ích lợi cho dân thì đó là tốt, là chính, là đáng kính, đáng thương.
Truyện còn thể hiện tư tưởng nhân quả. Tình cảm thương, ghét của Nguyễn Đình
Chiểu không chỉ thể hiện ở việc minh họa những hành động dũng cảm, lòng nhân ái,
hay bằng những lời phê bình, xem thường của các nhân vật tốt đối với những kẻ xấu,
mà Nguyễn Đình Chiểu còn mượn hình ảnh của thần linh, để cứu giúp những con
người tốt trong tác phẩm và trừng phạt những kẻ “lòng lang dạ sói”, sống thiếu tình
người. Luật “nhân quả” mang tư tưởng Phật giáo nhưng “nhân quả” trong Lục Vân
Tiên rất gần với cuộc sống và mơ ước của nhân dân. Tư tưởng phật giáo là khổ kiếp
này, kiếp sau được hưởng hạnh phúc. Còn với Lục Vân Tiên, kẻ ác thì bị trừng trị đích
đáng còn người tốt thì được đền đáp và hưởng hạnh phúc xứng đáng. Tác phẩm kết
CBHD: LÊ THỊ NGỌC BÍCH
Trang 21
SVTH: LÊ ÁNH DƯƠNG
- Xem thêm -