TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN NGỮ VĂN
Ket-noi.com
LÊ THỊ MỸ PHƯƠNG
MSSV:6095807
TÂM SỰ NGUYỄN DU QUA THƠ CHỮ HÁN
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ Văn
Cán bộ hướng dẫn: ThS. GV PHAN THỊ MỸ HẰNG
Cần Thơ, năm 2013
Phần 1: Phần mở đầu
1.Lí do chọn đề tài
2.Lịch sử vấn đề
3.Mục đích, yêu cầu
4.Phạm vi nghiên cứu
5.Phương pháp nghiên cứu
Phần 2: Phần nội dung
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1.Giới thiệu Nguyễn Du
1.1.1.Cuộc đời
1.1.2.Sự nghiệp
1.2. Khái quát nội dung và nghệ thuật thơ chữ Hán của Nguyễn Du
1.2.1. Khái quát nội dung
1.2.2. Khái quát nghệ thuật
1.3. Những sự kiện ảnh hưởng đến cuộc đời và tâm sự của Nguyễn Du
1.3.1. Sự kiện lịch sử
1.3.2. Sự kiện xã hội
Chương 2
NHỮNG NỖI NIỀM RIÊNG CỦA NGUYỄN DU
QUA THƠ CHỮ HÁN
2.1. Nỗi buồn cô đơn, nhớ nhà của Nguyễn Du qua thơ chữ Hán
2.1.1. Nỗi buồn cô đơn
2.1.2. Nỗi buồn nhớ nhà
2.2. Chán ngán lợi danh và thất vọng trước hiện thực quan trường của Nguyễn Du qua
thơ chữ Hán.
2.2.1. Chán ngán lợi danh
2.2.2. Thất vọng trước hiện thực quan trường
2.3. Ước nguyện được sống an nhàn và chí nguyện muốn dấn thân của Nguyễn Du qua
thơ chữ Hán.
2.3.1. Ước nguyện được sống an nhàn
2.3.2. Chí nguyện muốn dấn thân
Chương 3
NHỮNG BĂN KHOĂN VỀ SỐ PHẬN CON NGƯỜI
VÀ TRIẾT LUẬN VỀ CUỘC ĐỜI CỦA NGUYỄN DU
QUA THƠ CHỮ HÁN
3.1. Những băn khoăn về số phận con người của Nguyễn Du qua thơ chữ Hán
3.1.1. Đối với những người tài hoa bạc mệnh
3.1.2. Đối với người nghèo khổ tha hương
3.1.3.Đối với những kẻ xấu xa, bạc ác
3.2. Những triết luận về cuộc đời của Nguyễn Du qua thơ chữ Hán
3.2.1. Triết luận về thời thế
3.2.2. Triết luận về nhân sinh
Phần 3: Phần kết luận
Mục lục
Tài liệu tham khảo
Nhận xét của giáo viên
PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Nguyễn Du là một nhà thơ lớn của dân tộc, nhắc đến Nguyễn Du ta thường nghĩ
đến kiệt tác “ Truyện Kiều ”, nhưng ngoài những vần thơ Nôm tuyệt vời còn có những
áng thơ chữ Hán mượt mà, sâu sắc và nhiều ý nghĩa. Đọc thơ chữ Hán của Nguyễn Du
để thêm hiểu vị đại thi hào dân tộc, đó là một tâm hồn trĩu nặng, một tâm tư thầm kín,
một điều gì khó nói ra, khó bày tỏ cùng ai nên thi sĩ đã gởi lòng mình vào những trang
thơ chữ Hán. Tìm hiểu “Tâm sự Nguyễn Du qua thơ chữ Hán”, với mong muốn sẽ
biết được những tâm tư trăn trở và những phiền muộn ẩn kín trong lòng của nhà thơ.
Nghiên cứu “Tâm sự Nguyễn Du qua thơ chữ Hán” để có thể hiểu sâu về những
nỗi niềm riêng của tác giả, đó là nỗi buồn cô đơn, nỗi lòng thương nhớ quê hương của
kẻ
lữ khách, để biết được nỗi sầu đau của Nguyễn Du trước vòng danh lợi bon
chen, trước cuộc sống quan trường đầy nguy hiểm. Ngoài ra còn để thấy rỏ tấm lòng
nhân ái của thi sĩ đối với những số phận khổ đau trong cuộc đời và những triết lí về
cuộc sống vô cùng sâu sắc.
Tìm hiểu “Tâm sự Nguyễn Du qua thơ chữ Hán” là một đề tài thú vị, giúp chúng
tôi mở mang thêm vốn kiến thức của mình về thiên tài văn học Nguyễn Du, có thể
giúp ích cho công việc nghiên cứu về sau. Chúng tôi có thể dễ dàng nghiên cứu các
khía cạnh khác trong các tập thơ chữ Hán này khi đã nắm bắt được nội dung vấn đề,
ngoài ra khi tìm hiểu về tâm sự của nhà thơ chúng tôi mong muốn đóng góp công sức
của mình vào tìm hiểu một cây bút lớn của dân tộc.
2.lịch sử vấn đề
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du là một tòa lâu đài thứ hai của tác giả sau Truyện
Kiều, bởi thế từ trước tới nay đã có không ít nhà nghiên cứu đã tìm hiểu về những vần
thơ này với nhiều khía cạnh khác nhau:
2.1.Nghiên cứu bản dịch thơ
Có nhiều bản dịch thơ chữ Hán Nguyễn Du như:
1. Công trình “Thơ chữ Hán Nguyễn Du”. Bùi Kỷ - Phan Vỏ - Nguyễn Khắc Hanh
dịch, Nhà xuất bản văn hóa Hà Nội, 1959. Các tác giả sưu tầm được 102 bài.
Các tác giả chia 102 bài thơ theo ba thời kỳ:
- Thời kỳ nhà Lê gồm 28 bài.
- Thời kỳ làm quan triều Nguyễn gồm 24 bài.
- Thời kỳ đi sứ Trung Quốc gồm 50 bài.
2.Công trình “Thơ chữ Hán Nguyễn Du”. Lê Thước- Trương Chính dịch, Nhà xuất
bản Văn học, Hà Nội, 1965. Bản dịch gồm 249 bài.
Các tác giả chia các bài thơ thành ba tập:
- Thanh Hiên thi tập gồm 78 bài.
- Nam Trung tạp ngâm gồm 40 bài.
- Bắc Hành tạp lục gồm 131 bài.
Riêng tập Thanh Hiên được chia làm ba giai đoạn:
- Mười năm gió bụi (1786- 1795) gồm 27 bài.
- Dưới chân núi Hồng (1796- 1802) gồm 33 bài.
- Làm quan ở Bắc Hà (1802- 1804) gồm 18 bài.
3.Công trình “Tố Như Thi trích dịch”. Quách Tấn dịch, Nhà xuất bản An Tiêm,
Sài Gòn, 1973. Bản dịch gồm 72 bài.
Tác giả chia thành ba tập thơ:
- Thanh Hiên thi tập 30 bài.
- Nam Trung thi tập 20 bài.
- Bắc Hành tạp lục 22 bài.
Riêng tập Thanh Hiên tác giả chia ra ba thời kỳ:
- Mười năm đất khách (1786- 1975).
- Sáu năm quê nhà (1796- 1802).
- Làm quan Bắc Hà (1802- 1804).
4.Công trình “Thơ chữ Hán Nguyễn Du”. Đào Duy Anh dịch. Nhà xuất bản Văn
học Hà Nội, 1988. 249 bài.
Tác giả chia thơ thành ba tập:
- Tập Thanh Hiên thi tập gồm 79 bài.
- Tập Nam Trung tạp ngâm gồm 40 bài.
- Tập Bắc Hành tạp lục gồm 130 bài.
5.Công trình “Nguyễn Du toàn tập”. Mai Quốc Liên dịch với sự cộng tác của
Nguyễn Quảng Tuân - Ngô Linh Ngọc - Lê Thu Yến, Nhà xuất bản Văn học trung tâm
nghiên cứu quốc học, 1996. 250 bài thơ chữ Hán trong tập 1.
Các tác giả chia thành ba tập thơ:
- Thanh Hiên thi tập gồm 78 bài.
- Nam Trung tạp ngâm gồm 40 bài.
- Bắc Hành tạp lục gồm 132 bài ( trong tập Bắc Hành có thêm một bài do ông Mai
Quốc Liên phát hiện, đó là bài “ Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ 2”).
Vấn đề dịch thơ chữ Hán Nguyễn Du còn có nhiều nhà nghiên cứu phiên âm dịch
nghĩa, nhưng chúng tôi chỉ xin kể một số công trình ở trên, qua một số công trình trên
chúng ta cũng đã có thể có cái nhìn bao quát về thơ chữ Hán Nguyễn Du.
2.2. Nghiên cứu nội dung và nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du
Quyển “Đặc điểm thơ chữ Hán Nguyễn Du” [20] đã nêu lên nhiều đặc điểm nghệ
thuật về không gian, thời gian nghệ thuật, ngôn ngữ,... trong thơ chữ Hán Nguyễn Du.
Đây là một đóng góp có ý nghĩa trong việc nghiên cứu văn chương chữ Hán Nguyễn
Du.
Quyển “Viết về Nguyễn Du và Truyện Kiều” [16]. Tác giả Nguyễn Trí Tích có viết
nỗi lòng Nguyễn Du qua thi ca Hán văn như sau: “ Nguyễn Du tiên sinh đã để lại cho
hậu thế sự nghiệp thi ca chữ Hán rất đồ sộ, trong đó là nỗi niềm tâm sự, là bản ngã
xuất phát từ tâm hồn thi ca vĩ đại của thi nhân, mà người ta đã coi như nhật ký ghi lại
những kỷ niệm thăng trầm trong suốt cuộc đời Nguyễn Du”. [tr 559]
Quyển “Đến với thơ chữ Hán Nguyễn Du” [2] có bài: “ Thơ chữ Hán Nguyễn Du
và tâm sự của nhà thơ”, tác giả Nguyễn Lộc đã nhận định: “ Đọc thơ chữ Hán của
Nguyễn Du, một ấn tượng sâu sắc để lại cho người đọc là thơ rất buồn. Lúc nào cũng
buồn...Buồn thương như một tiếng đàn réo rắt, não ruột vang lên trong hầu hết thi
phẩm của ông.” [tr. 129]. Ngoài ra công trình còn giới thiệu các bài viết: “ con người
Nguyễn Du trong thơ chữ Hán ” của Xuân Diệu, hay bài “ Đôi nét về Nguyễn Du qua
ba tập thơ chữ Hán lưu thế ” của Quách Tấn, bài “ Nguyễn Du - trên đỉnh cao thơ chữ
Hán” của Mai Quốc Liên, bài “Nguyễn Du qua thơ chữ Hán” của Hà Minh Đức...các
tác giả cũng có nói qua tâm sự của đại thi hào Nguyễn Du trong thơ chữ Hán nhưng
chỉ mang tính sơ lược, đó là nỗi niềm của Nguyễn Du khi xa quê, bàn về thái độ của
nhà thơ đối với các triều đại, và cũng nói đến những năm tháng nghèo khó bệnh tật của
thi sĩ cũng như những tháng ngày làm quan bị chèn ép, và nỗi lòng nhà thơ trước
những kiếp đời bất hạnh…
Tóm lại những vần thơ chữ Hán của Nguyễn Du luôn là một bức tranh muôn màu
mà các nhà nghiên cứu vẫn đang khám phá, “Tâm sự Nguyễn Du qua thơ chữ Hán”
cũng là một đề tài hấp dẫn trong giới nghiên cứu văn học, nên sẽ còn có những công
trình nghiên cứu về thơ chữ Hán Nguyễn Du.
3.Mục đích yêu cầu
Tìm hiểu “ Tâm sự Nguyễn Du qua thơ chữ Hán” là tìm ra những trăn trở băn
khoăn của tác giả về các vấn đề của cuộc đời, tìm hiểu những suy nghĩ của nhà thơ
qua các vần thơ chữ Hán để phục vụ cho các đề tài nghiên cứu sau này hoặc có thể sử
dụng làm tư liệu giảng dạy ở các trường trung học phổ thông.
Chúng tôi tìm hiểu “ Tâm sự Nguyễn Du qua thơ chữ Hán” nhằm làm rõ những
nỗi niềm riêng của nhà thơ trước cuộc đời, làm sáng tỏ những tâm tư, những băn
khoăn của Nguyễn Du về kiếp nhân sinh, tìm hiểu những triết lí sâu sắc giàu ý nghĩa
của ông được bày tỏ qua thơ.
Chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ nghiên cứu thơ chữ Hán
Nguyễn Du để có thể giúp chúng ta hiểu về thơ chữ Hán Nguyễn Du một cách bao
quát để từ đây có cái nhìn toàn diện về sự nghiệp văn chương Nguyễn Du.
4.Phạm vi nghiên cứu
Trong giới hạn của đề tài, chúng tôi sẽ khảo sát tâm sự Nguyễn Du qua ba tập thơ
chữ Hán thông qua bản dịch của Mai Quốc Liên [13], để hiểu rõ hơn về những băn
khoăn và triết luận về cuộc đời Nguyễn Du. Ngoài ra chúng tôi còn tham khảo thêm
một số tài liệu khác có liên quan như: phê bình văn học, lý luận văn học, lịch sử văn
học…
Chúng tôi tìm hiểu “Tâm sự Nguyễn Du qua thơ chữ Hán” chủ yếu xoáy sâu vào
phần nội dung dựa trên văn bản dịch thơ, nghiên cứu từ khía cạnh tìm hiểu những nỗi
niềm riêng của nhà thơ được bày tỏ qua thơ chữ Hán, và những băn khoăn về số phận
con người, những triết luận về cuộc đời của thi sĩ thể hiện qua thơ.
Phần nghiên cứu chủ yếu dựa trên bản dịch nên giá trị nghệ thuật thơ chữ Hán của
Nguyễn Du chưa được phân tích kỹ trong luận văn.
5.Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu “Tâm sự Nguyễn Du qua thơ chữ Hán” chúng tôi sử dụng các phương
pháp:
Phân tích các bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du để tìm ra nội dung bài thơ từ đó suy
luận ra tâm sự của tác giả.
Trích dẫn, bình luận các câu thơ để chứng minh tâm sự của Nguyễn Du được gửi
gắm trong thơ.
Tổng hợp các luận điểm nhỏ để khái quát lên tâm sự của tác giả.
PHẦN 2: PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Giới thiệu Nguyễn Du
1.1.1.Cuộc đời
Nguyễn Du sinh ngày 3 - 1 - 1766, tại phường Bích Câu, Thăng Long (nay
thuộc Hà Nội). Tên húy là Du, tên chữ Tố Như, hiệu Thanh Hiên.
Quê quán: Làng Tiên Điền (nay là xã Xuân Tiên, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà
Tĩnh.)
Nguyễn Du thuộc một gia đình đại quý tộc có thế lực vào bậc nhất thời bấy giờ.
Dòng họ Nguyễn Tiên Điền của ông là một dòng họ nổi tiếng về tước vị và văn
chương. Dân gian địa phương thường truyền tụng câu ca dao:
“Bao giờ ngàn Hống hết cây
Sông Rum hết nước họ này hết quan”
Cha: Nguyễn Nghiễm (1708 - 1775), đỗ hoàng giáp, làm quan đến chức thị
tham tụng ở phủ Chúa, tương đương với chức tể tướng, có nghiên cứu sử học và làm
thơ. Ông Nghiễm có cả thảy tám vợ và 21 người con (12 trai, 9 gái). Nguyễn Du là con
thứ ba bà Tần, nhưng kể về con trai thì vào hàng thứ bảy, nên còn được gọi là cậu
Chiêu Bảy.
Mẹ: Trần Thị Tần (1740 - 1778), kém chồng 32 tuổi, bà là con gái một vị quan
nhỏ, coi việc kế toán, người làng Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn, trấn Kinh Bắc, nay là
huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, bà Tần là vợ thứ ba trong tám người vợ của Nguyễn
Nghiễm. Bà sinh được năm con, bốn trai và một gái.
Thuở nhỏ Nguyễn Du sống trong nhung lụa của sự giàu sang quyền quý. Nhưng
thời thế đổi thay cuộc sống này kéo dài không quá mười năm. Vì mười tuổi đã mồ côi
cha, năm mười ba tuổi mồ côi mẹ, các anh em cùng mẹ chưa ai đến tuổi trưởng thành
nên ông và các anh em ruột phải đến sống với người anh cả khác mẹ là Nguyễn Khản.
Lúc này, Nguyễn Khản đang làm Tả thị lang bộ Hình kiêm Hiệp trấn xứ Sơn tây
nhưng sau đó vì liên can đến việc ủng hộ Trịnh Tông nên bị cách chức và bị giam giữ.
Khi Trịnh Tông lên ngôi chúa, Nguyễn Khản lại được trọng dụng.
Năm 1783, Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường (tú tài) ở trường Sơn Nam,
sau đó không rõ vì lẽ gì không đi thi nữa. Về sau ông giữ chức Chánh thủ hiệu Thái
Nguyên kế chân của người cha nuôi.
Năm 1784 kiêu binh nổi dậy, kéo đến phá nhà Khản. Khản cải trang trốn lên
sơn tây và anh em Khản sau đó bỏ về quê Tiên Điền.
Năm 1786, Tây Sơn bắt đầu đưa quân ra Bắc Hà.
Năm 1787 Tây Sơn ra Bắc Hà lần hai. Chiêu Thống xin cầu viện quân Thanh,
Nguyễn Du đi theo nhà vua nhưng không kịp nên trở về quê vợ ở Thái Bình.
Năm 1788 Nguyễn Huệ lên ngôi vua hiệu Quang Trung. Nguyễn Huệ ra Bắc
lần ba để chống Thanh cứu nước
Năm 1789, Quang Trung đại thắng quân xâm lược nhà Thanh ở Đống Đa. Lê
Chiêu Thống cùng gia quyến chạy sang Trung Quốc, Nguyễn Du theo vua nhưng
không kịp, đành trở về quê vợ ở Quỳnh Côi, Thái Bình. Ông sống nhờ nhà người anh
vợ là danh sĩ Đoàn Nguyễn Tuấn khi ấy đã ra cộng tác với Tây Sơn.
Năm 1796 Nguyễn Du về Tiên Điền kết thúc “ mười năm gió bụi”, mùa Đông
năm ấy nghe tin ở Gia Định, chúa Nguyễn Ánh (1762 - 1819) đang hoạt động mạnh,
ông định vào theo, việc tiết lộ bị quân Tây Sơn do tướng Nguyễn Thận chỉ huy, bắt
giam mười tuần. Sau đó ông về Tiên Điền sống một thời gian dài.
Năm 1802 triều Tây Sơn mất, Nguyễn Ánh lên ngôi vua hiệu Gia Long.
Nguyễn Du được gọi ra làm quan cho nhà Nguyễn.
Năm 1802, ông nhậm chức Tri huyện Phù Dung (nay thuộc Khoái Châu, Hưng Yên).
Tháng 11 cùng năm, đổi làm Tri phủ Thường Tín (Hà Tây, nay thuộc Hà Nội).
Kể từ đó, Nguyễn Du lần lượt đảm đương các chức việc sau:
Năm 1803: đến cửa Nam Quan tiếp sứ thần nhà Thanh, Trung Quốc.
Năm 1804 Nguyễn Du xin từ chức về quê, lấy cớ là bị bệnh
Năm 1805: thăng hàm Đông Các điện học sĩ.
Năm 1807: làm Giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương.
Năm 1809: làm Cai bạ dinh Quảng Bình.
Năm 1813: thăng Cần chánh điện học sĩ và giữ chức Chánh sứ đi Trung Quốc.
Năm 1815 được đặt cách thăng Hữu Tham tri bộ Lễ
Năm 1819 Nguyễn Du được cử làm Đề điệu trường thi Quảng Nam
Năm 1820, Gia Long mất, Minh Mạng (1791 - 1840) lên ngôi, Nguyễn Du lại được cử
làm Chánh sứ đi Trung Quốc, ông chuẩn bị lên đường thì dịch bệnh hoành hành.
Nguyễn Du nhuốm bệnh rồi mất ngày mồng mười tháng tám âm lịch năm ấy, tức ngày
16 tháng 9 năm 1820.
Lúc đầu (1820), Nguyễn Du được táng ở xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh
Thừa Thiên.
Bốn năm sau mới cải táng về Tiên Điền (Hà Tĩnh)
Nguyễn Du có ba người vợ, mười hai con trai và sáu người con gái. Sinh thời
Nguyễn Du là người học sâu, hiểu rộng, am tường cả Nho, Lão, Phật; đọc cả văn
chương cổ kim của ta và cả Trung Quốc. Ông là bậc tài hoa, từng sống một cuộc đời
phong lưu khi học ở Thăng Long. Những năm trôi giạt, từng trải, nổi chìm nơi đất Bắc
ông cảm thông sâu sắc với mọi cảnh ngộ éo le, khổ cực của kiếp nhân sinh.
1.1.2. Sự nghiệp văn chương
Nhà đại thi hào Nguyễn Du đã để lại cho dân tộc một sự nghiệp văn chương vĩ
đại bao gồm các tác phẩm sau:
1.1.2.1.Tác phẩm bằng chữ Nôm
Đoạn trường tân thanh ( còn gọi là Truyện Kiều ): được viết bằng chữ Nôm,
gồm 3.254 câu thơ theo thể lục bát. Nội dung của truyện dựa theo tác phẩm Kim Vân
Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Nội dung chính của truyện xoay
quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thuý Kiều, nhân vật chính
trong truyện, một cô gái có tài sắc nhưng số phận lại bất hạnh.
Về thời gian sáng tác: theo Đại Nam chính biên liệt truyện, truyện được viết ra
sau khi ông đi xứ nhà Thanh về và theo lời Phạm Quý Thích đã cho khắc in vào
khoảng từ năm 1820 đến năm 1825, thường được gọi là “bản Kinh”. Bản khắc in đó
nay không còn nữa nhưng còn lưu lại những phiên bản di dịch ít nhiều. Ngoài “ bản
Kinh” do Phạm Quý Thích ( 1760 - 1825) cho khắc in, một số dị bản nữa được in sau
đó ở Hà Nội do các nhà in phát hành, thường gọi là “ bản Phường”.
Văn chiêu hồn thập loại chúng sinh (tức Văn tế thập loại chúng sinh, dịch
nghĩa: Văn tế mười loại chúng sinh).
“Văn chiêu hồn thập loại chúng sinh là tấm gương phản chiếu tất cả kinh
nghiệm bản thân của tác giả suốt thời kỳ Lê mạt- Nguyễn sơ, là thời kỳ loạn ly đã diễn
ra trong xã hội ta tất cả những cảnh thê thảm mà tác giả đã cực tả trong văn chiêu
hồn thập loại chúng sinh một cách sinh động và chân thực. Và qua đây, Nguyễn Du
cũng muốn làm sáng tỏ thêm tín ngưỡng tôn giáo của ông.
Có thể nhân một mùa dịch khủng khiếp, “ chúng sinh” cứ kế tiếp nhau lìa đời, tiếng
chuông chùa cầu siêu ngân dài như tiếng vọng của âm ty mà tác giả hàng ngày đã
chứng kiến, xúc động mà viết ra áng văn tuyệt tác này để người ta đọc khi làm lễ cầu
siêu, “vong nhân xá tội” thập loại chúng sinh.”[5, tr.460]
Thác lời trai phường nón: được sáng tác khoảng năm 1780 - 1783 lúc
Nguyễn Du 16 - 19 tuổi. Đây là lời anh con trai phường nón làm thơ tỏ tình với cô gái
phường vải, là bức thư tình chan chứa tình cảm làm theo thể thơ lục bát
Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu: được sáng tác vào khoảng năm 1796 1802, viết theo lối văn tế có tính chất đùa cợt khi nhà thơ nghe tin hai cô gái từng quen
thân với mình trong dịp hát ví đầu năm này đã đi lấy chồng. Hai bài này được sáng tác
khoảng thời gian Nguyễn Du về sống ở Tiên Điền thỉnh thoảng có sang Trường Lưu
hát phường vải.
1.1.2.2.Tác phẩm bằng chữ Hán
Tính đến nay giới chuyên môn đã sưu tập được 250 bài thơ chữ Hán của
Nguyễn Du, được chia ra như sau:
Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài, viết chủ yếu trong
thời gian Nguyễn Du về sống ở quê vợ Quỳnh Côi, Sơn Nam lánh nạn Tây Sơn cho
đến những năm đầu ra làm quan với triều Nguyễn ở Bắc Hà khoảng năm 1786 - 1804.
Nam trung tạp ngâm gồm 40 bài, viết khi làm quan ở Huế, Quảng Bình và
những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh cho đến lúc đi sứ Trung Quốc khoảng năm
1805 - 1812.
Bắc hành tạp lục làm trong lúc đi sứ Trung Quốc gồm 132 bài thơ vào khoảng
năm 1813.
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du thể hiện tư tưởng, hoài niệm của nhà thơ trước
cuộc đời đồng thời là nơi nhà thơ gửi gắm tâm sự, nên trong những tập thơ chữ Hán
luôn mang một nỗi buồn như vô tận, một nỗi lòng của một nhân cách cao đẹp khó bày
tỏ với người đời. Trong thơ là sự suy ngẫm về cuộc đời của tác giả, là sự buồn đau day
dứt trước thế thái nhân tình, là bức tranh xã hội đương thời được vẽ lên thông qua sự
quan sát của nhà thơ đó là một xã hội phong kiến đen tối chà đạp lên quyền sống con
người đáng để phê phán, và là sự cảm thông của tác giả trước những thân phận nhỏ bé
dưới đáy xã hội, bị đọa đày hắt hủi, những vần thơ còn là sự ngợi ca, đồng cảm với
những nhân cách cao thượng của tác giả.
Những tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du đã góp một phần quan trọng cho nền
văn học chữ Hán của nước nhà, tuy những vần thơ chữ Hán này không rực rỡ bằng
kiệt tác truyện thơ Nôm (Truyện Kiều) của tác giả nhưng nó cũng góp thêm một bước
tiến cao hơn so với văn học chữ Hán của các giai đoạn trước.
Thơ chữ Hán nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX có khối lượng rất
nhiều với những tác phẩm có giá trị cao như “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn,
những vần thơ chữ Hán của Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu,…và không thể không
nhắc đến ba tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du, giai đoạn này văn xuôi chữ Hán phát
triển mạnh hơn thơ chữ Hán vì thế sự ra đời ba tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du đã
đóng góp rất nhiều cho mảng thơ chữ Hán, với chất liệu hiện thực nội dung bám sát
cuộc sống những vần thơ chữ Hán mang một giá trị lớn đối với nền văn học trung đại
Việt Nam.
Khi tìm hiểu về Nguyễn Du phần lớn các nhà nghiên cứu chú ý đến Truyện
Kiều dẫu rằng tác giả chỉ xem đó là “ lời quê góp nhặt” để mua vui một vài trống canh
cho thiên hạ! mà lại ít chú ý đến những tập thơ chữ Hán của ông đều này thật bất ổn,
bởi những vần thơ chữ Hán góp phần không nhỏ trong sự nghiệp văn chương của nhà
thơ, đây là những vần thơ đầy tâm huyết của tác giả, là những lời tâm sự được bộc
bạch qua thơ, những tâm sự nặng trĩu của chính cuộc đời tác giả, là bức tranh xã hội
đương thời rõ nét, nên nó đóng một vai trò quan trọng trong sự nghiệp thơ văn của
Nguyễn Du, do đó nếu tìm hiểu về Nguyễn Du mà chỉ tìm hiểu truyện thơ Nôm của tác
giả mà lại bỏ qua những tập thơ chữ Hán thì chỉ hiểu được một nửa Nguyễn Du.
1.2. Khái quát nội dung và nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du
1.2.1. Khái quát nội dung
Tìm hiểu về ba tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du ta thấy trong ba tập thơ chủ
yếu là sự gởi gắm tâm sự, là thái độ sống của nhà thơ trước thời cuộc là nỗi buồn
thương trước cuộc đời.
“ Thanh Hiên thi tập”: là tiếng thở than của nhà thơ về cuộc sống lận đận, nổi
trôi, vô vọng giữa thời loạn lạc, là lời oán trách của người chí cao mộng lớn nhưng
thời vận lỡ làng, số phận long đong. Những bài thơ được sáng tác lúc ra làm quan cũng
không bộc lộ niềm vui nào. Trong thời gian này mặc dù Nguyễn Du với tư tưởng trung
quân, có ý chống Tây Sơn nhưng không thấy bài thơ nào đả kích Tây Sơn cả.
“ Nam Trung tạp ngâm”: với giọng thơ vẫn buồn bã không lối thoát, một số bài
có ý mỉa mai bọn quan lại chèn ép nhau, thể hiện một cuộc sống tù túng gò bó của ông
lúc làm quan với triều Nguyễn, là lời than thế thái nhân tình trên bước quan trường
lắm gian nan, là triết lí về cuộc đời đầy rẫy khổ đau.
“Bắc hành tạp lục”: thể hiện cái nhìn bao quát của nhà thơ về thế thái nhân tình
trên đường đi sứ ở đất Trung Quốc, là tư tưởng và sự suy ngẫm của nhà thơ trước cuộc
đời, là tâm hồn đồng cảm với những thân phận bất hạnh, đau khổ của kiếp người lênh
đênh, trôi nổi.
Nhận xét của Quách Tấn về ba tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du rất sâu sắc:
“Thơ trong Nam Trung Tạp Ngâm cũng như trong Thanh Hiên Thi Tập, đều là những
khúc tiêu tao.Nhưng Thanh Hiên thì chan chứa buồn thương, còn Nam Trung thì ngấm
ngầm sầu hận…Lời thơ trong Bắc Hành Tạp Lục bớt phần não ruột.Bớt phần não nuột
nhưng thêm phần chua cay.”[2/ tr34].
1.2.2. Khái quát về nghệ thuật
Những bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du là những lời tâm sự tha thiết, buồn
thương của tác giả, một con người tài hoa nhưng số phận lênh đênh, trôi nỗi bởi thời
cuộc, nên thơ ông đậm chất trữ tình và giàu hình tượng.
Ta thấy các bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du mang nhiều hình tượng nghệ thuật
về con người đó là con người lãng mạn, con người lo âu, con người đau khổ...
Sống trong bối cảnh đất nước nhiều đổi thay của các triều đại, Nguyễn Du cũng
muốn mình trở thành một người hùng của dân tộc để có thể gánh vác gánh nặng của
núi sông nhưng trí lớn thì có thừa mà sức lực thì lại không cho phép nên nhà thơ chỉ
còn biết hóa anh hùng vào trong thơ, vì thế thơ Nguyễn Du mang đậm chất hùng. Nếu
trong Truyện Kiều có vị anh hùng Từ Hải hiên ngang “ Vai năm thước rộng, thân
mười thước cao” thì trong những vần thơ chữ Hán cũng có những con người như thế.
Con người trong thơ có lúc là tráng sĩ, tay mang gươm hiên ngang trước núi sông:
“Yêu gian trường kiếm quải thanh phong”
( Kiếm dài đeo lưng trước gió thu)
(ký hữu)
hoặc:
“ Tằng lăng trường kiếm ỷ thanh thiên”
( Kiếm dài ngạo nghễ hiên ngang như tựa trời xanh)
( Khất thực)
Chí bình sinh là như thế nhưng cuộc đời không bằng phẳng như những gì ta
nghĩ, Nguyễn Du không thể thực hiện được chí nguyện ấy nên luôn buồn đau, sầu khổ
và con người thất chí trong thơ muốn lao vào hưởng lạc để mong có thể sẽ quên được
tất cả buồn đau của kiếp phong trần. Con người lãng mạn trong thơ Nguyễn Du bắt
đầu tìm đến men rượu để quên phiền muộn, con người ấy còn muốn lạc vào cỏi mộng
phiêu diêu cùng mây gió, làm bạn cùng trăng sao:
“ Bách kỳ đản đắc chung triêu túy”
(Cuộc đời trăm năm chỉ ước được say suốt ngày)
( Đối tửu)
Hoặc:
“ Khuyến quân ẩm tửu thả vi hoan
Tây song nhật lạc thiên tương mộ”
(Khuyên anh uống rượu rồi vui chơi
Mặt trời đang lặn ở cửa sổ phía Tây, trời sắp tối)
(Hành lạc từ 2)
Nói thì nói thế nhưng thật ra con người này không hẳn là lao vào hưởng lạc để
tận hưởng cuộc đời mà suy cho cùng đây là con người bế tắc không tìm được lối thoát
nên đang cố tìm những cuộc vui bình thường để cố lừa dối bản thân mình, nhưng rượu
say rồi sẽ tỉnh, qua đêm giấc mộng sẽ tan, nên con người lãng mạn của Nguyễn Du
vẫn buồn thương, sầu hận và mang nhiều âu lo.
Con người trong thơ Nguyễn Du mang nhiều nỗi âu lo: Lo đói nghèo, lo bệnh
tật, lo thế thái nhân tình...
“ phàm nhân nguyện tử bất nguyện bần”
( Phàm người ta thà muốn chết, không ai muốn nghèo.)
(Thái Bình mại ca giả)
Con người bệnh tật xuất hiện nhiều và trở thành nổi lo khiếp sợ đối với tác giả.
Trong thơ bệnh được nhắc đến khá nhiều như là một điều gì luôn ám ảnh lo lắng: Bệnh
cũ (U cư 2), bệnh không thuốc (Mạn hứng 1), bệnh lâu ngày (Xuân dạ), nằm bệnh(Thu
dạ 2), bệnh tái phát (Khai song)... con người cứ lo sầu rồi bệnh một căn bệnh khó tìm
được phương thuốc chữa trị, nên vẫn mãi lo âu buồn chán.
Bệnh tật, đói nghèo, sự hữu hạn của kiếp người, sự bất lực trước thời cuộc làm
cho con người trong thơ Nguyễn Du luôn dằn dặt khổ đau, đó là nổi đau thời thế, đau
xót cho người, cho mình:
“ Thương tâm vãng sự lệ triêm y”
( Đau lòng việc cũ nước mắt thấm áo)
( Long Thành cầm giả ca)
Con người trong thơ Nguyễn Du là như thế một con người bế tắc tuyệt vọng,
đau khổ nên thời gian trong thơ ông cũng ít hướng về tương lai, bởi có lẽ trong tương
lai con người kia không biết phải định hướng như thế nào, nên nó rất mờ mịt, mơ hồ.
Thời gian chủ yếu trong những vần thơ chữ Hán là thời gian hiện tại, đó là những gì
nhà thơ suy nghĩ, nghe thấy là hiện thực cuộc sống đương diễn ra, thời gian quá khứ
hiện về với những ký ức đẹp, những kỷ niệm vàng son để có thể vơi bớt buồn đau của
thực tại phủ phàng, đồng thời để chiêm nghiệm cuộc đời, để nhìn nhận một kiếp bể
dâu thăng trầm.
Không gian trong thơ là không gian rộng lớn mênh mông của vũ trụ, của thiên
nhiên, không gian lạnh lẽo cô đơn vô tận của tâm hồn, là không gian mờ mịt gió bụi,
không gian xa cách của đời nổi trôi. Không gian nhỏ hẹp, tù túng, ngột ngạt của hiện
thực xung quanh, là mái nhà, mồ mả, đình đền, gò đống, gian bếp, góc giường, cánh
cửa...
“Ngôn ngữ Thơ chữ Hán Nguyễn Du trước hết mang nét chung của ngôn ngữ
nghệ thuật trung đại phương đông, chịu sự chi phối của nghệ thuật thơ chữ Hán”[20/
[tr. 172], ngôn ngữ mang tính hình tượng, giàu hình ảnh.
Trong 250 bài thơ Chữ Hán của Nguyễn Du phần lớn là những bài thơ ngắn
theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, từ ngữ đa dạng phong phú, mang tính ước lệ tuy
nhiên từ ngữ cũng rất sinh động, cụ thể, đời thường dễ hiểu.
1.3. Những sự kiện ảnh hưởng đến cuộc đời và tâm sự của Nguyễn Du
1.3.1. Sự kiện lịch sử.
Thời đại Nguyễn Du là thời kì đất nước có rất nhiều biến động, xã hội phức tạp
giữa sự giằng co dữ dội của nhiều xu thế chính trị khác nhau. Đây là thời kì đất nước
bị chia cắt thành hai miền (Đàng Trong và Đàng Ngoài), các thế lực phong kiến cầm
quyền bị phân hóa, không còn đủ sức ổn định tình hình và lãnh đạo đất nước, là giai
đoạn căng thẳng dữ dội của giai cấp phong kiến trong lịch sử, bởi giai đoạn này sự
thay đổi giữa các triều đại phong kiến diễn ra nhanh chóng.
Ở Đàng Ngoài, vua Lê chỉ tại vị một cách bù nhìn, quyền hành tập trung trong
tay chúa Trịnh, nhưng chúa Trịnh cũng không còn đủ sức kiểm soát, không thể làm
chủ tình hình đang diễn biến phức tạp được nữa. Triều đình Lê - Trịnh biểu hiện
những mặt yếu kém, sự tha hóa về đạo đức, ăn chơi sa đọa của chúa Trịnh đã đẩy nhân
dân vào cảnh khốn khổ, dẫn đến các cuộc khởi nghĩa chống đối của nhân dân diễn ra
khắp nơi cùng với các cuộc chiến tranh liên miên giữa hai nhà chúa đã đưa đất nước về
chỗ suy sụp về mọi mặt, không thể cứu vãn.
Sự tranh giành quyền lực diễn ra trong nội bộ, năm 1780 Đặng Thị Huệ cùng
Hoàng Đình Bảo mưu giành ngôi thế tử của Trịnh Tông cho Trịnh Cán. Năm 1782
Trịnh Sâm mất, sinh thời ông sủng ái thứ phi Đặng Thị Huệ, nên di chúc loại bỏ con
trưởng là Trịnh Khải, lập con thứ Trịnh Cán con của Huệ nối ngôi. Trịnh Khải âm
mưu dành lại ngôi chúa dẫn đến nạn kiêu binh làm loạn, bên trong triều đình phân chia
nhiều phe cánh, xã hội đầy bất ổn, tình hình Đàng Ngoài vô cùng rối ren. Vua Lê
Chiêu Thống kém tài, kém đức tất cả đã đẩy tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh vào con
đường suy vong.
Ở Đàng Trong, chúa Nguyễn cũng không sáng sủa hơn. Cuộc khởi nghĩa Tây
Sơn của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ nổ ra năm 1771 ở Bình
Định liên tiếp thu được thắng lợi, làm cho triều đình chúa Nguyễn càng thêm suy yếu.
Sự xuất hiện màu cờ khởi nghĩa Tây Sơn đã đem luồng sinh khí mới cho xã hội đang
đen tối, chỉ trong vòng mười tám năm (1771 - 1789) kể từ ngày khởi binh, đoàn quân
Tây Sơn dũng mãnh do Nguyễn Huệ chỉ huy đã lập được những chiến công vang dội:
Phía Nam diệt quân Xiêm, phía Bắc đánh bại hai mươi vạn quân Thanh xâm lược, tiêu
diệt hai tập đoàn phong kiến Trịnh Nguyễn, lật đỗ vua Lê, lập nên vương triều Tây
Sơn, thống nhất đất nước sau hơn hai trăm năm chia cắt.
Xã hội tạm thời ổn định trong triều đình Tây Sơn của vua Quang Trung, tuy
nhiên triều đại Tây Sơn đứng vững không được bao lâu thì bị đỗ vỡ, xã hội lại tiếp tục
thêm sự thay đổi triều đại, sau khi vua Quang Trung mất (1792), chế độ Tây Sơn lại
dẫm chân vào lối mòn các triều đại phong kiến trước kia, đó là tình trạng sống xa hoa,
mâu thuẫn về quyền lợi giữa tập đoàn Tây Sơn phía Bắc với Nguyễn Nhạc, Nguyễn
Lữ ở phía Nam và tình trạng chia bè kéo cánh với nhau ngay trong nội bộ triều đình do
Quang Toản nối ngôi, làm cho Tây Sơn suy yếu.
Trong Nam, chúa Nguyễn Ánh trở lại Gia Định tập hợp lực lượng và dựa vào
sự giúp đỡ của người Pháp để phản công lại Tây Sơn. Năm 1802 Nguyễn Ánh đánh ra
Bắc hà lật đỗ chính quyền Tây Sơn, chấm dứt vương triều Tây Sơn ngắn ngủi, lên ngôi
vua hiệu Gia Long, chính quyền về tay nhà Nguyễn.
Nguyễn Du sống trong xã hội có nhiều biến động dữ dội và nhanh chóng, khiến
con người thời bấy giờ ngỡ ngàng, ngơ ngác. Những biến cố xảy ra quá nhanh và dồn
dập như nhận định của Nguyễn Tài Thư: “ Kiêu binh nổi loạn trong phủ chúa Trịnh.
Tây Sơn diệt Nguyễn ở Đàng Trong và Trịnh ở Đàng Ngoài. Quân Thanh xâm lược.
Quân Thanh đại bại. Quang Trung băng hà, Nguyễn Tây Sơn lung lay. Nguyễn Ánh
diệt Tây Sơn… những biến cố ấy diễn ra nhanh chóng đến mức người đương thời chưa
kịp tìm ra nguyên nhân của cái trước thì cái sau đã diễn ra…”
Chỉ trong vòng chưa đầy ba mươi năm mà đã có mấy lần chuyển giao triều đại,
mấy lần thay đổi thời thế. Đời sống và tính mạng con người trở nên mong manh hơn
bao giờ hết bởi chiến tranh loạn lạc liên miên, không ai kịp định hướng cuộc đời mình.
Nguyễn Du cũng không thể thoát khỏi những biến cố ấy, khi ông sinh ra và lớn lên
trong một giai đoạn lịch sử thăng trầm như thế, chắc hẳn nhà thơ cũng phải chịu nhiều
ảnh hưởng của những thay đổi chính trị đầy biến động như thế, nên hồn thơ của vị đại
thi hào mới chất chứa đầy tâm sự và có nhiều điều trăn trở, băn khoăn.
Một tâm hồn nhạy cảm như Nguyễn Du mà phải chứng kiến bao sự đổi thay
của đất nước, phải sống qua ba triều đại chính trị khác nhau, nên cuộc đời nhà thơ
cũng có nhiều sự thay đổi, từ một cuộc sống đủ đầy phú quý vinh hoa, thuộc tầng lớp
quý tộc khi gia đình làm quan cao nhà Lê, Nguyễn Du lại phải sống những năm tháng
tha hương khi lánh nạn quân Tây Sơn ở quê vợ Quỳnh Côi, phải chịu cảnh anh em li
tán, sống cảnh không nhà chịu nhiều vất vả thiếu thốn, đến khi ra làm quan nhà
Nguyễn cuộc sống của ông cũng không tươi sáng là bao. Con người Nguyễn Du phải
trải qua quá nhiều biến cố, thăng trầm của cuộc đời nên tâm hồn Nguyễn Du không lúc
nào thanh thản mà luôn nặng trĩu một nỗi niềm khó tỏ cùng ai, bởi cuộc sống thăng
trầm trôi nổi, phải chăng vì thế Nguyễn Du mới dễ dàng cảm thông với những cảnh
đời bất hạnh trong xã hội.
Do nhà thơ sống khi đất nước có nhiều sự thay đổi, nên thái độ đối với các triều
đại chính trị trong tư tưởng Nguyễn Du cũng rất khó hiểu. Theo gia phả thì Nguyễn Du
sau khi ở quê vợ Quỳnh Côi đã có ý vào Gia Định giúp Nguyễn Ánh chống lại Tây
Sơn nhưng việc thất bại và bị tướng Tây Sơn bắt giam, như vậy ta thấy Nguyễn Du có
thái độ phản kháng với Tây Sơn. Có lẽ do nhà thơ vốn thuộc dòng dõi quý tộc, đã có
một thời gian dài mang nặng ơn bỗng lộc của triều Lê nên khi nhà Lê sụp đỗ Nguyễn
Du luôn nuối tiếc và xót xa cho một triều đại suy tàn tan biến, cũng có thể do triết lí
nho giáo với cái đạo trung quân luôn mang nặng trên đôi vai kẻ sỉ nên Nguyễn Du
không thể có sự chọn lựa khác, nhà thơ không thể theo Tây Sơn dẫu có thể nhà thơ
cũng biết rằng ngọn cờ
Tây Sơn là ánh sáng chính nghĩa lúc bấy giờ.
Nói chung Nguyễn Du có ý muốn chống Tây Sơn nhưng vẫn thấy xót xa bùi
ngùi khi triều đại này sụp đỗ, như Hoài Thanh nhận xét “ sau này, khi chính Tây Sơn
đã bị lật đỗ, ta lại thấy Nguyễn Du có cái tiếng thở dài rất bùi ngùi:
“ Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong
Ca vũ không di nhất nhân tại”
( Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu vong đâu hết
Mà còn sót lại một người trong làng ca múa)
- Xem thêm -