NHỮNG CHUYỂN BIẾN VỀ NỘI DUNG TƯ TƯỞNG
VÀ HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT
CỦA THƠ VIỆT NAM
NHÌN TỪ PHONG TRÀO THƠ MỚI
ĐẾN HẾT THẾ KỈ XX
MỞ ĐẦU
Được xem như một trong hai vòng tròn đồng tâm (văn học và cuộc
sống), thơ ca nói riêng, văn chương nói chung luôn là những hồi quang trung
thực của đời sống “Thơ ca là tiếng vọng của đời” (Puskin). Bắt rễ vào hiện thực
đời sống, thơ ca như loài thảo mộc, xanh tươi hay tàn úa, ngọt ngào hay chua
chát, tuổi thọ vắn hay dài... đều ít nhiều phụ thuộc vào mảnh đất hiện thực của
đời.
Tuy nhiên, thời đại, lịch sử, xã hội, cuộc sống là yếu tố trước nhất mà
không phải là duy nhất liên quan đến sự tồn tại, phát triển, những biến chuyển
của thơ ca. Những hồi quang rọi lên từ trang thơ không phải chung một màu ánh
sáng trắng. Tùy vào mỗi người nghệ sĩ mà sự khúc xạ và tán xạ ấy mang đến thứ
ánh sáng đa màu, không lặp lại. Chịu sự tác động, chi phối của các quy luật và
đặc trưng văn học, mỗi nhà thơ luôn có sự biến chuyển: biến chuyển theo thời
đại và với chính bản thân mình. Đó là những cơ sở cho sự biến chuyển của thơ
ca.
Thơ ca Việt Nam từ 1930 đến hết thế kỉ XX là một nền thơ ca có ý
nghĩa quan trọng trong tiến trình thơ ca nói riêng, văn học dân tộc nói chung.
Tồn tại và phát triển trong một thời gian gần một thế kỉ, trong những biến động
mạnh mẽ, lớn lao của thời đại, lịch sử, với những nét riêng, rất riêng về bối cảnh
xã hội, văn hóa, con người ở từng thời đoạn, như một lẽ hiển nhiên, thơ ca Việt
Nam luôn có những biến chuyển sâu sắc mà sinh động nhất là ở hai phương
diện: nội dung và nghệ thuật. Nghiên cứu sự biến chuyển của thơ ca giai đoạn
này ở hai phương diện nêu trên là vấn đề có ý nghĩa cho việc bồi dưỡng chuyên
môn và phục vụ cho việc giảng dạy phần thơ Việt Nam ở THPT.
NỘI DUNG
I. Thơ mới 1932 - 1941
1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội
Một phong trào văn học ra đời bao giờ cũng phản ánh những đòi hỏi nhất
định của xã hội. Phong trào Thơ mới 1932 - 1941 bùng nổ xuất phát từ nhu cầu
dân chủ hóa về mặt xã hội, tư tưởng và sự chuyên nghiệp hóa của sáng tạo. Đây
được coi là tiền đề văn hóa, là nguyên nhân trực tiếp và căn bản cho sự hình
thành, phát triển của phong trào Thơ mới.
Đầu thế kỉ XX, xã hội Việt Nam đã trở thành xã hội thuộc địa. Nhà nước
Nam triều bù nhìn, nhà nước thực dân cầm quyền. Cuộc khai thác thuộc địa của
đế quốc được mở rộng đã làm biến đổi các giai tầng ở Việt Nam. Bên cạnh các
giai cấp cũ (nông dân, địa chủ, trí thức Hán học), giai cấp tư sản và tiểu tư sản
xuất hiện được coi là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới sự ra đời của
phong trào Thơ mới. Giai cấp tư sản không chỉ là đối tượng tiêu thụ mà còn đầu
tư đáng kể cho văn hóa. Tầng lớp trí thức Tây học hình thành bên cạnh trí thức
Hán học đang suy tàn. Đặc biệt thị dân được coi là nhân tố quan trọng thúc đẩy
văn học mới ra đời. Họ vừa là chủ thể vừa là đối tượng của văn học mới. Họ xuất
hiện với một lối sống mới: lối sống đô thị nghiêng về các giao tiếp với những
quy ước văn minh mới dựa trên truyền thông, sách, báo…, khác với lối sống cổ
truyền rất nhiều. Giai cấp tư sản và một bộ phận tiểu tư sản lớp trên đã có một lối
sinh hoạt “văn minh” ở thành thị. Điều này được thể hiện ngay trong cách ăn
mặc của thanh niên nam nữ: cô gái Bắc Kì trước kia đội nón quai thao, tóc bỏ
đuôi gà, quần áo thâm, dép sơn. Sau đó các cô bỏ nón, bỏ dép, dùng giày mõm
nhái, ô đen. Những đổi mới trong sinh hoạt, tư tưởng và sự tiếp xúc với nền văn
hóa lãng mạn Pháp dẫn tới sự thay đổi trong cách cảm, cách nghĩ. Người thanh
niên tiểu tư sản thành thị những năm 30 của thế kỉ này có những tình cảm mới,
rung động mới. Hoài Thanh thấy “họ yêu đương, mơ mộng, vui buồn khác các
cụ nhà Nho ngày xưa”. Trong buổi diễn thuyết ở nhà Học hội Quy Nhơn
(6/1934), Lưu Trọng Lư nói rõ hơn: “Các cụ ta ưa những màu đỏ choét, ta lại ưa
những màu xanh nhạt. Các cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đêm khuya, ta lại nao
nao vì tiếng gà lúc đúng ngọ. Nhìn một cô gái xinh xắn, ngây thơ các cụ coi như
đã làm một điều tội lỗi, ta thì cho là mát mẻ như đứng trước một cánh đồng
xanh”. Phong trào Thơ mới ra đời chính là để đáp ứng những nhu cầu tình cảm
đó của tầng lớp thanh niên mới. Trong xã hội xuất hiện nhu cầu dân chủ hóa thì
trong sáng tạo sẽ xuất hiện nhu cầu cá tính hóa.
Mặt khác, văn hóa Tây học thay thế dần cho văn hóa Hán học. Tri thức
khoa học xuất hiện thực sự tự giác làm thay đổi thế giới quan cho tầng lớp mới
và nảy sinh nhu cầu hình thành tính chuyên nghiệp về văn hóa. Đồng thời những
ảnh hưởng của triết học phương Tây và thắng lợi của cuộc Cách mạng Pháp
1789 đề cao “tự do - bình đẳng - bác ái” đã làm biến đổi nền nếp tư duy của lớp
trí thức mới.
Hiện đại hóa thực chất là quá trình dân chủ hóa và chuyên nghiệp hóa. Sự
bùng nổ của phong trào Thơ mới còn được tạo tiền đề từ sự chuyên nghiệp hóa
trong sáng tạo. Sáng tác văn chương chính thức trở thành một nghề được xã hội
thừa nhận. Sản phẩm văn hóa trở thành hàng hóa, đem lại thu nhập cho người
nghệ sĩ. Các hoạt động xuất bản, in ấn, báo chí… và các thiết chế văn chương
xuất hiện khẳng định tính chuyên nghiệp hóa của văn học. Mặt khác chủ thể sáng
tạo nền văn học hiện đại là lớp nghệ sĩ chuyên nghiệp. Người nghệ sĩ không chỉ
sống bằng nghề mà còn có niềm thiết tha được hoàn thiện kĩ năng về nghề, thúc
đẩy sự phát triển của bản thân. Các nhà Thơ mới bắt đầu sự nghiệp sáng tác của
mình với một quan điểm mĩ học rất rõ ràng: quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật.
Đội ngũ sáng tác đông đảo đã thống nhất nguyên tắc thẩm mĩ: Thơ mới là tiếng
nói trữ tình của cái tôi cá nhân, cá thể đòi giải phóng. Nỗ lực của họ đã kết tinh
những thành tựu nhất định, tạo nên “một cuộc cách mạng trong thi ca” (Hoài
Thanh), thúc đẩy thơ ca Việt Nam bước sang một chặng mới.
Hoàn cảnh xã hội, văn hóa Việt Nam đầu thế kỉ XX đã tạo tiền đề dẫn tới sự
ra đời của Phong trào Thơ mới như một quy luật tất yếu nhằm đáp ứng nhu cầu
tình cảm, thị hiếu thẩm mĩ của chính xã hội đó.
2. Nội dung
Thơ ca bao giờ cũng là tiếng nói của cái Tôi. Sự khác nhau giữa các thời đại
chủ yếu là ở sắc thái của cái Tôi mà thôi. Thơ mới nhìn từ góc độ cái Tôi có thể
thấy những đặc điểm sau:
a. Cái Tôi giàu bản sắc
Thơ Mới trình ra một cái Tôi cá thể có khuynh hướng nội cảm. Đó là cái
Tôi thành thực trong cảm xúc, nó diễn tả tình yêu, nỗi buồn và nỗi cô đơn của
con người riêng tư, đôi khi có xu hướng thoát li thực tại, nó khám phá lại thiên
nhiên và lãng mạn hóa quá khứ. Cái Tôi cao ngạo, bứt ra khỏi những ràng buộc
của cộng đồng để tạo nên bản sắc cho riêng mình. Tiếng nói đặc thù của nó chứa
đựng niềm hân hoan vì được là chính mình: “Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất”
(Xuân Diệu). Ban đầu cái Tôi trong Thơ mới là cái Tôi nhất phiến, nguyên
phiến. Sau đó nó trở thành cái Tôi phân li, li hợp bất định thậm chí bắt đầu xuất
hiện cái Tôi đa ngã. Cái Tôi trong thơ Hàn Mặc Tử có sự phân li giữa hồn và
xác: “Dẫn hồn đi ròng rã đêm nay. Hồn mệt lả còn tôi thì chết giấc”, “Hồn của
ai trú ngụ ở đầu tôi”…còn cái Tôi trong thơ Chế Lan Viên vừa là người, là yêu,
là ma…
Một trong những chủ đề quan trọng nhất của Thơ mới là tình yêu. Đó là
một nhu cầu cảm xúc mà trong đó bản sắc cá nhân được thể hiện đậm nhất. Xuân
Diệu được khẳng định là “nhà thơ tình bậc nhất” (Hà Minh Đức), “nhà thơ tình
kiệt xuất” (Lê Đình Kị). Đây đúng là đệ nhất thi sĩ về tình yêu trong lịch sử thơ
ca Việt Nam. Trong đôi mắt tình say của Xuân Diệu, thiên nhiên cũng rạo rực
tình ái, vạn vật dường như cũng muốn đong đưa, muốn hẹn hò, trao duyên cho
nhau: “Đây chùm mong nhớ, khóm yêu đương/ Đây nụ mơ mòng đợi ánh sương/
Đây lá bâng khuâng run trước gió/ Đây em, cành thẹn lẫn cành thương”
(Dâng). Tự xưng mình là “kẻ uống tình yêu dập cả môi” mà vẫn “không nguôi
nỗi khát thèm”, Xuân Diệu say sưa, nhiệt thành cổ vũ cho triết lí hưởng thụ trong
tình yêu. Ông kêu to lên nỗi nhớ nóng nảy của mình: “Anh nhớ tiếng. Anh nhớ
hình. Anh nhớ ảnh/ Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi!”. Ông cũng không ngần
ngại bày tỏ khát vọng vô biên của một kẻ đa tình “Đã yêu từ khi chưa có tuổi” và
“khi chết rồi thì tôi sẽ yêu ma!”. Thậm chí Xuân Diệu còn mở ra xu hướng về
một thứ tình yêu lưỡng giới. Thơ tình của ông khẳng định ý thức cá nhân đã đạt
đến tầm cao.
b. Cái Tôi cô đơn
Đau buồn và cô đơn là tâm trạng của cái Tôi cá nhân chủ nghĩa trong Thơ
mới lãng mạn. Có thể cắt nghĩa điều này bằng nhiều nguyên nhân khác nhau
nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là cái nhìn bế tắc, không có lối thoát của tầng
lớp tiểu tư sản trí thức thành thị. Mặt khác các thi sĩ Thơ mới lại là những người
đào sâu nhất vào bản thể, vào cái Tôi cá nhân nên bản thân họ cảm nhận đầy đủ
nhất cái lạnh giá giữa cuộc đời, đúng như Hoài Thanh đã khái quát: “Đời chúng
ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu
càng lạnh”.
Thơ mới vừa cất tiếng khóc chào đời đã buồn ngay trong bản chất. Ban đầu
cái buồn “mênh mông, xa vắng” (Thế Lữ), sau đó nỗi buồn thấm thía dần:
“Tiếng gà gáy buồn nghe như máu ứa/ Chết không gian khô héo cả cành cao”
(Lưu Trọng Lư), đến Vũ Hoàng Chương nỗi buồn kéo suốt cả cuộc đời: “Mưa
lùa gian gác xép/Ngày trắng theo nhau qua/Lá rơi đầy ngõ hẹp/ Đời hiu hiu xế
tà”. Cái buồn thấm cả vào quan niệm của các nhà thơ mới. Chế Lan Viên trong
“Vàng sao và Gai lửa” hết lời ca tụng hạt lệ: “Tôi tin chắc vào chân lí hạt lệ như
vào chân lí của ngọc đêm, sương sáng, muối biển, sao trời. Hạt lệ những ngọc
trai mà bể tim đau”.
Xuân Diệu là một trong những thi sĩ Thơ mới cảm nhận rõ rệt nhất nỗi cô
đơn. Lẽ thường kẻ nào càng khát khao giao cảm càng day dứt khổ đau vì bị
ruồng rẫy. Có đỉnh núi nào cao bằng Hi mã lạp sơn. Nhưng cũng vì thế có ai cô
đơn bằng nó: “Hiu hắt nhẽ bốn phương trời vò võ/ Lạnh lùng chăng sầu một
đỉnh chon von”. Huy Cận thấy con người đi “một mình lủi thủi” giữa cuộc đời:
“Hồn cô đơn như đảo rời dặm biển/ Suốt một đời như núi đứng riêng tây”. Còn
Chế Lan Viên thì đi trốn cái cô đơn của cuộc đời bằng một cô đơn khác muôn
lần lạnh lẽo hơn: “Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh/Một vì sao trơ trọi cuối trời
xa/ Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh/ Những ưu phiền đau khổ với buồn lo”.
Cái Tôi cô đơn thành thực phơi trải lòng mình cũng là một cách để thể hiện
sự phản ứng với thời cuộc. Thi sĩ cảm thấy đơn độc lạnh lùng là vì còn niềm ham
sống, còn thiết tha với cuộc đời ấm cúng này.
c. Cái Tôi giàu tinh thần dân tộc
Cái Tôi trong Thơ mới giàu tinh thần dân tộc. Trong nỗi buồn chán, trong
sự quay lưng của các nhà Thơ mới trước xã hội đương thời có nỗi đau khổ của
người dân bị mất nước, sự quằn quại của tâm hồn bị bóp nghẹt, lòng khao khát
một cuộc sống chân thật và tự do. Con hổ của Thế Lữ “gậm một khối căm hờn
trong cũi sắt” mà vẫn khôn nguôi mơ ước được trở lại quãng đời tự do của mình
trong rừng thẳm: “Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ/ Thuở tung hoành hống
hách những ngày xưa/ Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già/ Với tiếng gió gào
ngàn, với giọng nguồn hét núi/ Với khi thét khúc trường ca dữ dội/ Ta bước chân
lên dõng dạc đường hoàng…”. Qua tập thơ “Điêu tàn”, Chế Lan Viên muốn thổ
lộ nỗi đau xót thầm kín của một người dân Việt Nam mất nước. Hình ảnh của
những lâu đài huy hoàng, những cung điện “tuyệt mĩ dưới trời xanh”, những
chiến thuyền “nằm mơ trên sông lặng, bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành”
cứ trở đi trở lại, ám ảnh hồn thơ Chế về cả một thời xưa oai linh, rực rỡ, lúc dân
tộc còn độc lập, tự do.
Nhiều bài thơ của Nguyễn Nhược Pháp, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân… đã
ghi lại thật sinh động những lễ hội, chợ Tết, những sinh hoạt văn hóa dân gian
đậm đà màu sắc Việt Nam. Họ gửi cả vào đó lòng yêu mến, trân trọng những vẻ
đẹp truyền thống của văn hóa dân tộc. Đặc biệt tình yêu tiếng mẹ đẻ đã thể hiện
sâu sắc tinh thần dân tộc của cái Tôi cá thể trong Thơ mới. Thứ tiếng Việt trong
mấy mươi thế kỉ mà Huy Cận cảm nhận được cả “hồn thiêng đất nước”: ““Nằm
trong tiếng nói yêu thương/ Nằm trong tiếng Việt vấn vương một đời”. Trong
buổi nói chuyện với sinh viên các trường Đại học, Xuân Diệu cũng hết sức hô
hào “phải có lòng yêu thương quốc văn”.
Niềm hoài vọng xa xôi về quá khứ vàng son, oanh liệt luôn thường trực
trong Thơ mới. Huy Thông mải mê kiếm tìm trong lịch sử một giấc mộng anh
hùng (Hạng Vũ, Kinh Kha). Chế Lan Viên thì quay ngược về quá khứ để nhớ
tiếc vương quốc nguy nga, tráng lệ, tràn ngập hào khí của thời đại một đi không
trở lại: “Đây điện các huy hoàng trong ánh nắng/ Những đền đài tuyệt mĩ dưới
trời xanh” (Trên đường về). Vũ Đình Liên từ một thi sĩ của “thân tàn ma dại” trở
về xu hướng hoài cổ mong tìm lại chút “hồn xưa” của dân tộc: “Lòng ta là những
thành quách cũ/ Tự ngàn năm vẫn vẳng tiếng loa xưa”. Nguyễn Nhược Pháp thì
dắt ta trở về cái thời xa xôi của Sơn Tinh, Thủy Tinh, Mỵ Châu, gần hơn nữa là
thời có những cô gái mười lăm “khăn nhỏ đuôi gà”, “yếm đào quần lĩnh”, đi dép
cong, đội nón quai thao. Xét đến cùng, trở về quá khứ cũng là cách để những cái
Tôi cá thể trong Thơ mới thể hiện thái độ phản ứng đối với xã hội đương thời.
d. Cái Tôi cực đoan
Từ tuổi tráng niên, các nhà Thơ mới không phải không bất bình với cuộc
sống đương thời và ước mơ những hành động đẹp. Nhưng bước chân vào đời, họ
lại chẳng thể tìm thấy hướng đi khi đã bị cắt đứt khỏi phong trào cách mạng của
quần chúng. Cái Tôi cá thể rơi vào bế tắc, càng đi càng lạc lối, càng cô đơn và
trở nên cực đoan. Từ đây các thi sĩ dồn sức, nỗ lực tìm cho mình một con đường
thoát ly cuộc sống và họ vin vào đó như một điểm tựa rất mơ hồ. Thế Lữ thoát
lên tiên hoặc mơ ước hình ảnh người chinh phu “dấn bước truân chuyên khắp hải
hồ”. Huy Thông đi tìm những giấc mộng anh hùng trong lịch sử. Xuân Diệu mê
man say đắm trong tình yêu. Huy Cận đi vào vũ trụ trăng sao. Còn Lưu Trọng
Lư “ngoảnh mặt lại với mọi sự đau khổ”, “hướng cái nhìn vào một thế giới mơ
màng”… Mỗi nhà thơ có một hướng thoát ly nhưng nhìn chung có những con
đường quen thuộc như: trốn vào tình yêu, đi ngược về quá khứ xa xưa hoặc rơi
vào trụy lạc. Thơ của Bích Khê, Hoàng Diệp đã mang đậm màu sắc nhục dục.
Trong thơ Thế Lữ đã có “khói huyền lên” và với Vũ Hoàng Chương, say sưa,
trụy lạc là một cách để quên lãng: “Say đi em! Say đi em!/ Say cho lơi lả ánh
đèn/ Cho cung bậc ngả nghiêng, điên rồ xác thịt/ Rượu, rượu nữa và quên, quên
hết!” (Mời say). Tuy nhiên mọi con đường thoát ly đều dẫn người ta tới ngõ cụt,
tối om. Các thi sĩ Thơ mới những tưởng đã tìm được cho mình một xứ sở để
nương náu, để phiêu dạt linh hồn, giải thoát khỏi những đớn đau, tuyệt vọng
đương vây bủa. Nhưng “thoát ra khỏi cái Ta để tìm về với cái Ta” (Hoàng Diệp),
mơ rồi cũng có lúc phải tỉnh, tỉnh rồi lại thấy cuồng say và điên loạn: “Tôi mơ
rồi, say rồi, điên thấu não/ Muốn bay lên, vo cả dải Ngân Hà” (Vo lụa - Chế Lan
Viên). Xuân Diệu yêu đời, khát sống đến cuồng nhiệt là thế mà ở chặng đường
cuối, cái Tôi bế tắc cũng muốn hòa tan vào trăng sao, thoát li bản ngã, tự hủy
diệt mình: “Lòng vỡ tung, ta say khướt đau thương/ Muốn đi gấp cho xương rờn
tốc độ/ Cho văng xé tay chân, cho rã riềng đầu cổ/ Mái chèo đập mau! Ta thoát
ngoài ta!” (Sầu - Xuân Diệu).
Khi cái Tôi cá thể được ý thức, Thơ mới phần nào đã phát quang, chiếm
lĩnh được một phạm vi mới trong đời sống tinh thần của con người. Từ đó mở
rộng biên độ phản ánh cho thơ. Thơ đã tìm đến mọi ngõ ngách của cuộc sống và
con người, cả bề nổi và bề chìm, bề sâu và bề xa, cả cao siêu và trần thế, tâm hồn
và xác thịt, từ hiện thực xã hội đến đời sống tâm linh, từ khát vọng, lý tưởng, bổn
phận đến những tình cảm riêng tư nhỏ mọn, những khao khát bản năng. Khi chủ
nghĩa cá nhân được đẩy cao sẽ thúc đẩy nghệ thuật phát triển, xuất hiện những
cách tân về hình thức.
3. Nghệ thuật
Thơ mới là một bước phát triển quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa nền
văn học nước nhà những năm đầu thế kỉ XX với những cách tân nghệ thuật sâu sắc.
a. Thể thơ
Ban đầu Thơ mới phá cách một cách phóng túng nhưng dần dần, Thơ mới trở
về với các thể thơ truyền thống quen thuộc như thơ ngũ ngôn, thất ngôn, thơ lục bát.
Các bài thơ ngũ ngôn có Tiếng thu (Lưu Trọng Lư), Ông Đồ (Vũ Đình Liên), Em
đi chùa Hương (Nguyễn Nhược Pháp)… Các nhà thơ Huy Cận, Xuân Diệu, Chế
Lan Viên chủ yếu viết theo thể thơ thất ngôn, còn Nguyễn Bính, Thế Lữ lại dùng
thể thơ lục bát v.v…
b. Vần thơ, nhịp thơ
Cách hiệp vần trong Thơ mới rất phong phú, ít sử dụng một vần (độc vận) mà
dùng nhiều vần như: vần ôm, vần lưng, vần chân, vần liên tiếp, vần gián cách hoặc
không theo một trật tự nhất định.
Loại vần liên tiếp: Sương hồng lam, ôm ấp nóc nhà gianh
Trên con đường viền trắng mép đồi xanh…
Loại vần ôm:
Lặng lẽ trên đường lá rụng mưa bay
Như khêu gợi nỗi nhớ nhung thương tiếc
Những cảnh với những người đã chết
Tự bao giờ còn phảng phất đâu đây
Loại vần gián cách: Gió man mác bờ tre rung tiếng sẻ
Trời hồng hồng đáy nước lắng son mây
Làn khói xám từ nóc nhà lặng lẽ
Vươn mình lên như tỉnh giấc mê say
Loại vần lưng:
Buồn gieo theo gió ven hồ
Đèo cao quán chật bến đò lau thưa
Sự kết hợp giữa vần và thanh điệu tạo cho Thơ mới một nhạc điệu riêng. Đây
là những câu thơ toàn thanh bằng:
Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi
(Xuân Diệu)
Thơ mới vận dụng cách ngắt nhịp một cách rất linh hoạt:
Thu lạnh/ càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê như nước/ lạnh/ trời ơi!
(Xuân Diệu)
c. Ngôn ngữ và giọng điệu
Luồng Thơ Mới đã cắt đứt ra khỏi các niêm luật của Đường thi. Thơ trung đại
tổ chức lời thơ theo điệu ngâm, lấy sự uyên súc của lời, của ý làm đích thì Thơ mới
chọn hình thức tổ chức lời thơ theo điệu nói và lấy sắc thái cảm xúc của cá thể làm
đích. Vì thế cú pháp Thơ Mới lỏng lẻo, phi chuẩn.
Thơ mới đã làm một cuộc cách mạng phá bỏ ngôn ngữ ước lệ, điển tích,
điển cố trong thơ cũ, đưa ngôn ngữ đời sống vào thơ để diễn tả bao trạng thái
cảm xúc phong phú, phức tạp của con người cá nhân. Giọng điệu trong Thơ mới
là giọng điệu trữ tình cá thể, gắn với phong cách của từng cá nhân. Thơ mới sử
dụng khá thoải mái các hư từ và khẩu ngữ. Trong một câu thơ ngắn của Xuân
Diệu có tới 3 liên từ “và”: “Và non nước và cây và cỏ rạng” (Vội vàng - Xuân
Diệu). Từ “và” được đặt ở vị trí điểm nhấn về ngữ điệu. Giọng điệu câu thơ là
giọng điệu của kẻ nói - một chủ thể đầy ham hố, khao khát và đang tham lam tận
hưởng hương sắc của thời tươi. Điều này mang lại sắc thái hiện đại cho lời thơ
Xuân Diệu “nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới”.
Thơ Mới có xu hướng phá vỡ cấu trúc ngữ pháp thông thường. Bài thơ “Hết
ngày hết tháng” của Xuân Diệu có những câu:
Đêm qua mưa gió lạnh lùng trời
Anh ở, em đi, lạnh lẽo người…
Hoặc trong bài thơ “Thu”:
Nõn nà sương ngọc quanh thềm đậu;
Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì…
“Lạnh lùng trời”, “lạnh lẽo người”, “nõn nà sương ngọc” là những sự đảo từ cục
bộ. Nó tạo ra cách diễn đạt mới để nhấn mạnh đặc tính sự vật mà tác giả muốn miêu tả.
Xét tổng thể bài thơ thì trật tự tuyến tính cơ bản vẫn được tôn trọng, chức năng mô tả
của từ không thay đổi, giá trị biểu cảm của câu thơ được gia tăng nhưng không tạo ra
giá trị ngữ nghĩa mới.
Thơ Mới đã khởi đầu và tạo ra những thành tựu bước đầu cho quá trình hiện
đại hóa thơ Việt. Sau đó làn sóng hiện đại hóa này bị đứt đoạn hay nói cách khác là
phải chảy ngầm do những chi phối vừa tất yếu, vừa ngẫu nhiên của lịch sử hiện đại
Việt Nam.
II. Thơ cách mạng 1945-1975
1. Hoàn cảnh lịch sử
Cách mạng tháng Tám (1945) thành công, mở ra một kỷ nguyên mới cho
đất nước - kỷ nguyên độc lập, tự chủ. Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Ðình,
Hồ Chủ Tịch đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa. Ách nô lệ bị đập tan, con người Việt Nam được giải phóng; bừng lên
một niềm hạnh phúc lớn lao đến thiêng liêng, như kết quả tất yếu từ khát vọng tự
do và quyết tâm cứu nước của cả dân tộc. Không khí hân hoan ấy đã thổi vào
văn học, đặc biệt là thơ ca thời kì đầu cách mạng làn gió tươi mới, trong lành .
Nền văn học Việt Nam từ đây là nền văn học của chế độ mới, vận động và
phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Đường lối văn nghệ của Đảng là
một trong những nhân tố quan trọng tạo nên một nền văn học thống nhất về
khuynh hướng tư tưởng, thống nhất về tổ chức và về quan niệm nhà văn kiểu
mới: nhà văn - chiến sĩ. Hồ Chí Minh từng viết: Nay ở trong thơ nên có thép/
Nhà thơ cũng phải biết xung phong chính là khẳng định trọng trách đối với các
nhà thơ trong bối cảnh lịch sử mới. Các tác phẩm, đặc biệt là thơ đã tham gia
tích cực vào nhiệm vụ vẻ vang phục vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu bằng cảm hứng
sôi nổi, tràn đầy nhiệt huyết
Thực dân Pháp không từ bỏ dã tâm nhằm áp đặt chế độ thuộc địa
lên nước ta một lần nữa, cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu. Ðáp lời kêu gọi
ngày 19-12-1946 của Hồ Chủ Tịch, cả đất nước đã đứng lên, vừa đánh giặc vừa
củng cố lực lượng, huy động sức mạnh dân tộc không chỉ ở hiện tại mà cả từ
truyền thống quật khởi bốn nghìn năm. Kết thúc cuộc kháng Pháp 9 năm gian
khổ bằng chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc được giải phóng. Một trang sử
mới của dân tộc, một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Năm 1965, đế
quốc Mĩ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, cả nước lại bước vào cuộc trường kì
kháng chiến chống đế quốc xâm lược.Từ năm 1945 đến 1975, trên đất nước ta đã
diễn ra nhiều sự kiện lớn lao: cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc vô cùng ác
liệt kéo dài suốt ba mươi năm, công cuộc xây dựng cuộc sống mới, con người
mới ở miền Bắc.,…Tất cả đã tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới toàn bộ đời sống vật
chất, tinh thần của dân tộc, đặc biệt là vặn học nghệ thuật . Suốt ba mươi năm ấy,
toàn bộ nền văn học Việt Nam luôn luôn phải là tiếng kèn xung trận, tiếng trống
thúc quân. Thơ ca vinh dự khoác lên mình sư mệnh ấy bằng khả năng lan truyền
cảm hứng vô cùng mãnh liệt, dồi dào. Thơ những năm kháng chiến chống Pháp
hướng về đời sống cách mạng, về kháng chiến làm cảm hứng chính với những
tên tuổi như Tố Hữu- lá cờ đầu của thơ ca kháng chiến, Hồ Chí Minh, Hoàng
Cầm…. Từ những năm 1955-1964, thơ tìm đến với một đất nước vừa hồi sinh
sau nhũng năm kháng Pháp lại bắt đầu công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, và
rồi lại đối mặt với nỗi đau chia cắt hai miền.. Từ 1965-1975 thơ ca tập trung
hướng về ca ngợi tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong
những năm chống đế quốc Mỹ. Lịch sử thơ ca ghi nhận những đóng góp của thế
hệ các nhà thơ trẻ - những người vừa trực tiếp cầm súng, vừa đánh giặc vừa làm
thơ. Họ đã mang đến cho thơ Việt hiện đại một tiếng thơ mới mẻ, trẻ trung, mà
vẫn thấm đậm chất suy tư , triết luận.
Tuy điều kiện giao lưu văn hóa với các nước trong thời kì này không
thuận lợi như đầu thế kỉ, nhưng văn học, đặc biệt vẫn rất phát triển bằng sức
sống nội tại, bằng sự hấp thu hơi thở của thời đại lịch sử nóng bỏng và đạt được
nhiều thành tựu.
Tất cả những phương diện của tình hình lịch sử - xã hội nêu trên đã
có ảnh hưởng trực tiếp, tạo nên những thuận lợi và khó khăn riêng cho sự phát
triển, quyết định diện mạo của văn học, đặc biệt là thơ ca Việt Nam giai đoạn
này.
2. Thơ những năm đầu cách mạng
a. Nội dung: Niềm vui sướng, say mê nồng nhiệt trước cuộc tái sinh màu
nhiệm ( Hoài Thanh) của đất nước và con người
Giáo sư Hà Minh Đức cho rằng: "16 tháng giữa hai cột mốc lịch sử. Thời
gian ngắn ngủi ấy khó để tạo nên đầy đủ một giai đoạn một chặng đường thơ.
Nhưng thơ ca những năm đầu sau Cách mạng tháng 8 đã có những phẩm chất
riêng đáng quý - đó là tiếng nói tự do đầu tiên của thơ ca sau những năm dài nô
lệ, đó là những năm tháng bản lề mà trong thời điểm này nền thơ ca cách mạng
trẻ tuổi được xây dựng nền móng bằng những viên gạch mới hồng tươi".
Đã qua một thời kỳ thơ ca gói trong những cảm hứng riêng tư, vụn vặt:
hoặc tìm trong khoái lạc, đê mê"Say đi em cho lơi lả ánh đèn / Cho cung bậc
ngả nghiêng điên rồ xác thịt" (Vũ Hoàng Chương) ngộ nhận tình yêu là cứu
cánh cuộc đời "Làm sao sống được mà không yêu" (Xuân Diệu) hoặc phản ánh
một hiện thực bế tắc, quẩn quanh "Gặp buổi tâm tư mối nhện đầy" (Thâm Tâm)
con người bị dồn đẩy đến chân tường tuyệt vọng"Tình đời đã cháy đến chân
nhang" (TrầnHuyềnTrân).
Cách mạng tháng 8 thành công, đem đến cho thơ ca những cảm hứng sáng
tạo lớn lao, cao cả, giải phóng cho thi sĩ khỏi sự tù túng, bế tắc. Nếu như trước
đây, nhà thơ quay lưng với xã hội, hướng nội trong cảm xúc, ôm lấy cái "Tôi"
bản ngã, đối lập với cuộc đời đen bạc, ô trọc thì bây giờ thi sĩ mở lòng giang
rộng cánh tay hân hoan đón nhận không khí thời đại, Xuân Diệu cảm nhận cái
tươi mới trong buổi bình minh của lịch sử dân tộc:
"Có một suối thơ chảy từ gần gũi
Ra xa xôi và lại đến gần quanh
Một suối thơ lá ngọt với hoa lành
Nói trong xóm và giỡn cười dưới phố"
Cách mạng tháng 8 mang đến nguồn vui được khơi dậy từ một lẽ sống lớn,
niềm vui của tự do, độc lập. Niềm vui trong ngày thu tháng 8 với nguồn nội sinh
dồi dào, tràn đầy sức trẻ. Trong hân hoan của đất trời giải phóng, Nguyễn Đinh
Thi tái hiện niềm vui vươn tỏa khôn cùng của ngày hội dân tộc:
" Mùa thu về bỡ ngỡ sáng nay
Gặp những chàng trai bên hồ hò reo say
Reo reo hò cờ rực đỏ ánh cây
Thoáng sao vàng nghiêng nghiêng vẫy"
Lá cờ đỏ sao vàng là biểu tượng thiêng liêng của đất nước Việt Nam mới, là
hình ảnh quần chúng của cách mạng. Từ đây khái niệm "Tổ quốc" "dân tộc"
không còn xa xôi, trừu tượng, mơ hồ mà là sắc đỏ, sắc vàng của lá cờ cụ thể.
Thâm Tâm cảm nhận "Hồn thiêng khắp hết cõi bờ/ Sáng nay óng ánh trên tơ vải
điều" Trong cái say sưa của niềm vui tươi mới của ngày đầu cách mạng, lá cờ
tung bay khắp nơi, trong cái bay bổng lạ kỳ của cảm hứng "Cuốn tung lên cờ đỏ
máu thơm tươi/ Vàng vàng bay đẹp quá sao sao ơi" (Tố Hữu)
Vui với duyên đầu cách mạng, bằng nhiệt tình công dân hứng khởi Xuân
Diệu tập trung cảm xúc, suy nghĩ, ngợi ca "Ngọn quốc kỳ" - Bài thơ giàu chất
tráng ca và hưng phấn cách mạng, lá cờ biểu trưng Tổ quốc - Đất nước - Dân tộc,
là hiện thực đường lối chính trị của Đảng:"Có mấy bữa mà Việt Nam thắm
cả. Máu nén lâu từ ấy đã bùng ra/ Những cửa lều xơ xác cũng ra hoa / Trên gốc
cũ nẩy một chồi sống mới/ Cả anh dũng cũng tưng bừng trở lại/ Một trăm năm
tan nát tựa sương mù"
Triển khai trên một kênh cảm hứng khác, trong dòng chảy thơ ca những
năm đầu sau cách mạng, nhiều nhà thơ hướng tới cuộc đời mới đang phục sinh,
tái tạo, hướng tới sự đổi thay trong cuộc sống và những cảnh đời cụ thể. Nhà thơ
Thâm Tâm đã một lần thốt lên "Nghệ thuật nằm im ở mộ lòng" nhưng trước sự
lôi cuốn của không khí mới, trước sự hấp dẫn của cuộc sống mới, bằng tình cảm
gắn bó, yêu thương với cuộc đời, Thâm Tâm cảm nhận nét đẹp tinh khôi trong
khung cảnh thu sang:"Trái hồng trĩu xuống cây rơm/ Sáng nay mùa cốm dậy
thơm khắp làng/ Lúa vươn thân hút ánh vàng/ Nguồn tươi vồng nở thu sang tốt
lành"
Tuy chưa nhiều vị mặn của mồ hôi cuộc đời trong thơ, nhưng Nguyễn
Xuân Sanh dần trở về với nét thực của đời sống. Cách mạng tháng 8 là một hiện
thực lich sử kỳ vĩ lan tỏa trong thơ anh, đang chiếm lĩnh, thanh lọc cảm xúc, tạo
nên cách viết không cầu kỳ, bế tắc như những vần thơ bí hiểm trước đây,
Nguyễn Xuân Sanh viết nên những cảm nhận ban đầu:"Ta khát vô biên ngọn
sóng vang/ Ta mừng hội gió lúc lên đàng/ Ta hát vô biên trên sách mới/ Và trên
thế giới đượm Tràng giang
Cũng là những phong tục, hội hè, đình đám, cũng vẫn là những nét đẹp
dung dị của lũy tre, cây đa, bến nước, cũng vẫn là những phiên chợ tết mưa xuân
lất phất và cũng vẫn là nông thôn, làng quê. Vẫn là chiếc nón quai thao, những
cô yếm đỏ những cụ già râu tóc bạc phơ...Cách mạng tháng 8 trả lại những giá trị
văn hóa truyền thống, tích hợp những giá trị mới, Đoàn Văn Cừ nói đến một sức
sống mới trong hồn dân tộc được phục sinh, tân tạo:"Bao thôn nữ hôm qua còn
yếm đỏ Miệng hoa cười tươi tựa ánh bình minh Hôm nay đều ra khỏi lũy tre
xanh Với dòng máu quật sôi trong huyết quản"
Trần Mai Ninh phát hiện, khám phá một bình diện mới khi viết về Đất nước
- Tổ quốc. Đất nước đẹp không chỉ vì thế núi, hình sông hùng vĩ, không chỉ vì
màu xanh biển trời, mây nước. Trần Mai Ninh nói đến chất thơ của vùng đất từ
Nha Trang ra Quảng Ngãi. Đất nước của những con người sống dậy một sức
sống mới khi được làm chủ cuộc đời mình lao vào xây dựng:"Dân tộc rớt mồ hôi
thấm đất/ Căng như đồng/ Tay ghì cán cuốc/ Tay ghì tay xe/ Nhìn quanh là cả
bốn bề cần lao.../ Có mối tình nào hơn thế nữa? "
Bên cạnh những chủ đề Đất nước Nhân dân - Dân tộc, Những ngày đầu độc
lập, một hình tượng lớn trong thơ gây xúc động trong lòng người đọc, được
nhiều nhà thơ tập trung tinh lực ngòi bút, khắc họa bằng những vần thơ có sức
lay động sâu xa - đó là hình tượng Bác Hồ. Nhà thơ Tế Hanh có bài "Hồ Chí
Minh" hội tụ những suy nghĩ của nhà thơ về lãnh tụ, là sự ngưỡng mộ thành
kính, Tế Hanh phác thảo chân dung Hồ Chí Minh - Người cầm lái vĩ đại của con
thuyền cách mạng dân tộc, với khí phách anh hùng mà vô cùng gần gũi "Sáng
láng, ôn tồn, thành tâm, quyết chí/ Sóng gió khinh, sấm sét chẳng kinh hoàng/Hồ
Chí Minh, chỉ là Người có thể/Đưa con thuyền tổ quốc đến vinh quang"
Một thành công khác của Tố Hữu, với "Hồ Chí Minh" được anh viết ngay
khi cách mạng thành công trong cả nước (26.8.1945). Đây là sáng tác đầu tiên có
giá trị về đề tài lãnh tụ trong thơ ca hiện đại. Vượt lên những hạn chế từ xa mà
tưởng tượng về Bác, cách thể hiện còn trừu tượng, hình ảnh và ngôn ngữ còn pha
màu lãng mạn dễ nhận thấy ở thời kỳ quá độ cách mạng cho đến mấy năm đầu
của cuộc kháng chiến, bài thơ có cái thể rất mới, rất rắn rỏi. Tố Hữu nêu bật ý
chí quyết chiến, quyết thắng, tinh thần lạc quan các mạng của nhân dân tập trung
trong con người Hồ Chí Minh, sự gắn bó máu thịt giữa quần chúng và Bác Hồ Người kết tinh, dung hội nguyện vọng, sức mạnh vĩ đại của giai cấp, dân tộc.
Đây là lần đầu tiên hình ảnh lãnh tụ xuất hiện trong thơ bằng dáng nét kiêu bạc
của con người:"Làm tên quân cảm tử đi tiên phong /Đánh trăm trận thề trăm
phen quyết thắng/ Bao thất bại dẫu xát lòng cay đắng Hồn vẫn tươi vui thơm
ngát tình đời/Bước trường chinh dẫu mỏi gối, khan hơi/ Tim gang thép vẫn tưng
bừng lửa chiến"
Cảm hứng thơ giai đoạn này về Bác chủ yếu khởi phát từ tấm lòng chân
tình biết ơn, và cảm phục, chưa thấy được hết mối quan hệ giữa lãnh tụ và quần
chúng và những phẩm chất cao quí khác của Người.
Thơ ca những năm đầu Cách mạng tháng 8, ngoài nội dung ngợi ca cuộc
sống mới, còn đề cập đến khí thế sôi động của dân tộc chống thù trong giặc
ngoài. Bọn cơ hội chính trị Việt quốc - Việt cách dưới sự che chở của thế lực
ngoại bang cũng trương cờ, lôi kéo biểu tình, đình công, rút cục thất bại thảm
hại, trở thành trò cười cho mọi người. Thơ ca đả kích, châm biếm đã phát huy lợi
thế đánh địch, vạch mặt kẻ thù: Với chúng, tổng đình công lại hóa ra tổng... bất
đình công, quang cảnh biểu tình do chúng tổ chức quả thật thảm hại: "Chen nhau
đông
tựa
chùa
bà
Đanh /Hăng
hái
như
người
đang
ngái
ngủ"
Hưởng ứng một sự kiện chính trị lớn lao: Cuộc tổng tuyển cử toàn dân
ngày 06.01.1946 một hướng thơ ca chuyển sang ngợi ca sự kiện chính trị ấy. Tố
Hữu "Nhiệt liệt hoan nghênh tổng tuyển cử lần đầu" và anh kêu gọi:"Tất cả
chúng ta cùng nhau đi bỏ phiếu Hãy cử đúng những người đại biểu"
(Thưa các ông nghị)
Với trường ca "Hội nghị non sông" là sự kết tinh nhiệt tình công dân và
cảm hứng lịch sử của nhà thơ Xuân Diệu. Không khí chính trị trở nên oi bức,
phức tạp trước những diễn biến âm mưu đen tối của thực dân Pháp, núp sau quân
đội Anh - Ân chiếm lại miền Nam nước ta. Với tầm vông, súng kíp, mã tấu, dao
găm niềm Nam đứng lên giết giặc. Những đoàn quân Nam tiến lên đường "Giết
giặc" (Tố Hữu) là mệnh lệnh là kêu gọi cứu nước giục giã, thiết tha: "Máu Việt
Nam đang chảy/ Đỏ đồng ôi máu yêu/ Miền Nam đang bốc cháy/ Đồng bào ôi
lửa thiêu/ Mau mau lên đứng dậy/ Gươm gươm đâu tuốt ra/ Súng súng đâu vác
chạy/ Cứu cứu đồng bào ta/ Giết giết quân xâm lược/ Mau xung phong xung
phong/ Cờ bay lên cứu nước/ Máu giặc phải thành sông".Trần Mai Ninh trong
"Nhớ máu" phản ánh khí thế cuồn cuộn dâng trào của những con người vừa có
dược thời gian hòa bình ngắn ngũi phải lao vào cuộc chiến đấu mới giành lại độc
lập. "Nhớ máu" mang theo tinh thần "Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh" và không
khí hào hùng của những ngàyCách mạng tháng 8 vừa qua:"Cả ngàn chiến sĩ/ Cả
ngàn con bạc, con vàng của Tổ quốc/ Sống... trong đáy âm thầm/ Mà nắm chắc
tối cao vinh dự/ Quắc mắt nhìn vào thăm thẳm tương lai /Vững tin tưởng nơi oai
hùng Và chiến thắng Câu Việt Nam dân tộc" (Nhớ máu)
Không khí chính trị oi bức, phức tạp vì thực dân Pháp ngày càng trắng trợn
khiêu khích: Hà Nội - Hải Phòng và nhiều nơi khác... Trước những tội ác man rợ
của kẻ thù, sự kiên nhẫn, chịu đựng nào cũng trong một giới hạn, biên độ nhất
định. Chính chúng - chứ không ai khác đã thổi bùng lên ngọn lửa hờn căm hàng
năm nung nấu. Ngọn lửa đốt nhà, đốt làng, đốt xóm trở thành ngọn lửa hận thù,
mất mát, thương đau dội lên đầu chúng:"Lửa reo, lửa thét... Lửa xuống cửa
ga/ Xe tăng giẫy chế/ tLửa vào Cát B/i Máy bay tan tành Hải phòng khu bảy tay
ôm lửa/ Một mái nhà thiêu một đạo binh"
Thời điểm này, toàn dân tộc chỉ còn chờ lệnh của lãnh tụ Hồ Chí Minh là
nhất tề xông lên lao vào cuộc kháng chiến vệ quốc trên toàn lãnh thổ. Nhưng
từng góc phố, từng ngôi nhà, từng làng, từng xóm, một góc chợ, một bờ đê...
chiến lũy đã mọc lên san sát. Mỗi người dân là một chiến sĩ, trong tay là những
gì họ có, để có thể tự vệ và chiến đấu.
Những sáng tác thơ ca về chủ đề chiến đấu trước ngày toàn quốc kháng
chiến (19.12.1946) chưa có chiều sâu và bề rộng của phong trào và đội ngũ sáng
tác như những năm sau. Điều đó làm cho thơ ca những năm đầu Cách mạng
tháng 8 không tránh khỏi một số hạn chế nhất định. Những hạn chế này, được
khắc phục dần dần khi đội ngũ được bổ sung và người nghệ sĩ thật sự đi vào
cuộc kháng chiến với một dung dáng vững vàng của người nghệ sĩ - chiến sĩ.
b. Nghệ thuật
Đi đôi với sự chuyển biến trong nội dung tư tưởng, hình thức thơ thời kì
này cũng có những chuyển biến nhất định.
Hình thức câu thơ tự do hơn: số lượng câu , số chữ trong một dòng thơ đã
thực sự được giải phóng. Chế lan Viên viết thơ bằng tấm lòng thành kính của
mình: Ôi độc lập/ Xanh biết mấy là trời xanh Tổ Quốc/ Khi tự do về chói ở trên
đầu.
Hình ảnh thơ tươi mới hơi thở của cuộc sống mới, chất liệu thơ sáng. Phát
huy tinh hoa ngôn từ khi còn thơ Mới, Thâm Tâm đã phả vào đó chất liệu tươi
sáng của cuộc sống mới phục sinh Trái hồng trĩu xuống cây rơm/ Sáng nay mùa
cốm dậy thơm khắp làng/ Lúa vươn thân hút ánh vàng/ Nguồn tươi vồng nở thu
sang tốt lành"
Tuy nhiên, cả cách diễn đạt và lối cảm xúc vẫn chưa thoát được cái bóng
của thơ cũ. Những ngôn từ, hình ảnh còn cũ, mòn: hồn đất nước, mối oan cừu,
giày vạn dặm, bụi trường chinh...
Tóm lại
Vượt lên những hạn chế khó tránh khỏi, thơ ca những năm đầu Cách mạng
tháng 8 đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận, trân trọng: Là tiếng nói ngợi
ca Tổ quốc - Đất nước độc lập, tự do, là nét vẽ tươi màu, đa sắc về cuộc sống
mới sinh sôi, nẩy nở, đang tái tạo, phục sinh trong hồn dân tộc, là tiếng lòng
thành kính, ngưỡng mộ đối với lãnh tụ kính yêu. Bằng ngôn ngữ nghệ thuật, thơ
ca đã phác thảo được diện mạo đất nước Việt Nam mới, trong những ngày cách
mạng giành chính quyền và trước lúc bước vào cuộc kháng chiến "Ba ngàn ngày
không nghỉ" (Tố Hữu). Tuy chưa phải là một giai đoạn, một chặng đường thơ ca,
nhưng giữa hai thời điểm lịch sử quan trọng của dân tộc có một dòng thơ dào dạt
tuôn chảy từ trái tim nhà thơ - công dân, nghệ sĩ - chiến sĩ. Bằng ngôn ngữ, thi ca
đã đánh dấu những cột mốc trên hành trình lịch sử dân tộc.
3. Thơ ca chống Pháp : 1946-1954
a. Nội dung: Phản ánh con người kháng chiến với tình cảm cộng đồng và
tình cảm công dân mà bao trùm là tình yêu nước
Thơ ca tiếp tục gắn bó với đời sống buồn vui, lúc hạnh phúc cũng
như khi gian lao, vất vả của con người Việt Nam. Nhà phê bình Hoài Thanh đã
có nhận xét xác đáng: Hầu hết những người mang ba lô lặng lẽ đi trên các nẻo
đường kháng chiến trong một quyển sổ tay nào đó thế nào cũng có ít bài thơ...
Trong cuộc chiến tranh nhân dân của chúng ta, tiếng súng, tiếng nhạc, tiếng thơ
cùng hòa điệu. (Nói chuyện thơ kháng chiến).
Có thể nhận thấy sự khởi sắc của thơ giai đoạn này, trước hết, qua
khảo sát phong trào và lực lượng sáng tác. Từ sau Cách mạng tháng Tám, thơ
không còn là vương quốc riêng của các nhà thơ chuyên nghiệp. Cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp đồng thời cũng giải phóng cho nhà thơ,
trong cuộc đời cũng như trong sáng tạo nghệ thuật. Sự gặp gỡ giữa lý tưởng
Cách mạng và lý tưởng thẩm mỹ của dân tộc là điều kiện khách quan cho sự xuất
hiện hình mẫu người nghệ sĩ kiểu mới. Có thể nói : không có thế hệ nhà thơ kiểu
mới thì không có thơ ca Cách mạng. Giờ đây, anh cán bộ chính trị, anh cán
bộ quân sự, anh công an, anh bình dân học vụ, anh thông tin, anh hỏa thực, các
chị phụ nữ, các em thiếu nhi, hết thảy đều làm thơ. (Hoài Thanh - Nói chuyện
thơ kháng chiến).
Không khí quần chúng sôi nổi một mặt tạo điều kiện thử thách và
khẳng định các tài năng trẻ, mặt khác, góp sức cùng cao trào cách mạng tác động
mạnh mẽ vào tâm tư tình cảm của các nhà thơ lãng mạn, giúp hồn thơ họ hồi
sinh. Với kinh nghiệm và tài năng đã được khẳng định, đóng góp của Xuân Diệu,
Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư, Tế Hanh, Huy Cận,... tuy chưa thật sự là hơi thở
mãnh liệt của thời đại nhưng vẫn có ý nghĩa sâu sắc : khơi gợi lòng yêu nước,
hào khí đấu tranh và lòng tự hào dân tộc. Việc hầu hết các nhà thơ tiêu biểu của
phong trào thơ Mới tìm đến với Cách mạng, tiếp tục phát huy năng lực sáng tạo,
luôn có mặt ở vị trí hàng đầu trận tuyến văn nghệ Cách mạng là một hiện tượng
đặc sắc. Ðiều đó chứng tỏ tính ưu việt, sức hấp dẫn mạnh mẽ của chế độ mới và
đường lối văn nghệ Cách mạng.
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Hòa vào lòng người hăm hở
trên trận tuyến chung, có đội ngũ chỉnh tề, khỏe khoắn của các nhà thơ. Mấy
năm đầu, nhiều thi sĩ còn gặp khó khăn. Tâm hồn họ chưa hòa nhịp kịp với đời
sống kháng chiến sôi nổi, sống động. Các nhà thơ vẫn còn vương vấn với những
thi đề quen thuộc, những tình cảm tiểu tư sản xốc nổi, đậm màu sắc anh hùng cá
nhân ; cách biểu hiện sáo mòn,... Sương mù của bầu trời tinh thần cũ giờ vẫn còn
lẩn quẩn trong vườn thơ Cách mạng, biểu hiện ở những Ðạo rớt, Mộng rớt, Buồn
rớt,.... Giữa cảm xúc thơ trong Ngày về (Chính Hữu), Màu tím hoa sim (Hữu
Loan), Tây tiến (Quang Dũng) với tình cảm chân chất, phơi phới lạc quan trong
tư thế anh hùng thời đại mới của quần chúng - còn một khoảng cách nhất định.
Bởi lẽ, một khi nhận thức lý trí chưa thật sự hóa thành rung động tình cảm chân
thành thì hình tượng nghệ thuật khó có sức lay động mạnh mẽ.
Thực tế kháng chiến đã thay đổi cách nhìn, cách nghĩ và củng cố lập
trường tư tưởng của các nhà thơ, giúp họ ngày càng gần gũi, gắn bó với nhân
dân. Lớp trước cách mạng dần bắt kịp và hòa nhập vào đời sống mới. Bên cạnh
đó, các nhà thơ trẻ không ngừng tự khẳng định bằng sáng tác có giá trị. Những
tác phẩm tiêu biểu thời kỳ này : Việt Bắc (Tố Hữu) ; Ðất nước (Nguyễn Ðình
Thi); Bài ca vỡ đất, Bao giờ trở lại (Hoàng Trung Thông) ; Ðồng chí (Chính
Hữu); Nhớ (Hồng Nguyên ; Thăm lúa (Trần Hữu Thung) ; Ðêm nay Bác không
ngủ (Minh Huệ); Dọn về làng (Nông Quốc Chấn); Nhớ máu (Trần Mai Ninh)...
Một trong những thành tựu thơ ca kháng chiến nổi bật là sáng tác
của Bác Hồ. Người làm thơ vừa để cổ vũ, động viên mọi tầng lớp nhân dân (Thơ
tặng các cháu thiếu nhi, Khuyên thanh niên, Tặng các cụ du kích, Gửi nông
dân), vừa nhằm thỏa mãn một phần nhu cầu đời sống tinh thần phong phú của
mình (Cảnh rừng Việt Bắc, Cảnh khuya, Nguyên Tiêu, Báo tiệp, Thu dạ, Ðăng
Sơn). Những sáng tác này góp phần làm nổi rõ ở Bác một tâm hồn nghệ sĩ hết
sức tinh tế, nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước và con người Việt
Nam.
Về nội dung tư tưởng, thơ ca 1945-1954 luôn gắn bó chặt chẽ, phản
ánh chân thực và sinh động hiện thực kháng chiến hoành tráng. Lần giở những
trang thơ, có thể gặp lại bước đường của lịch sử. Khác với thơ lãng mạn trước
đó, thơ ca kháng chiến phát triển trên nền hiện thực tâm trạng của nhân dân. Từ
chỗ thơ Mới chỉ bộc lộc cái Ðẹp trong từng con người riêng lẻ, trường cảm xúc
giờ đây được mở rộng ; phạm vi phản ánh cũng bao gồm từ nơi sâu kín tâm hồn
người cho tới khoảng rộng bao la của cả đất nước, dân tộc.
Các thi sĩ đã đưa được không khí thời đại mới mẻ, khỏe khoắn vào
thơ. Khuynh hướng sử thi ngày càng nổi rõ. Thơ tập trung thể hiện tâm tình phơi
phới tin yêu, lạc quan, tự tin, tự hào của người Việt Nam được giải phóng ;
những ước mơ, khát vọng cháy bỏng ; những sắc thái tình cảm cao cả trong cuộc
chiến đấu tuy gian khó nhưng vô cùng anh dũng.
Cảm hứng thơ chủ yếu hướng ngoại, chú ý nhiều đến tình cảm công
dân nên ít nói tới con người trong đời sống riêng tư. Tình yêu lứa đôi cũng như
- Xem thêm -