Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học Tài liệu ôn tập môn ngữ văn lớp 12 phần nghị luận văn học...

Tài liệu Tài liệu ôn tập môn ngữ văn lớp 12 phần nghị luận văn học

.DOCX
118
2259
81

Mô tả:

Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12 Đề ra: Phân tích giá trị nhân đạo của tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu) HƯỚNG DẪN I. MỞ BÀI “Chiếc thuyền ngoài xa” là sáng tác tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Minh Châu thời kì đổi mới sau 1975. Tác phẩm rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Có thể nói, đây là một trong những tác phẩm chứa đựng nội dung nhân đạo sâu sắc. II. THÂN BÀI 1. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” thuộc giai đoạn sáng tác thứ hai của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Tác phẩm kể về tình huống của nghệ sĩ Phùng khi anh về chụp bức tranh cảnh biển tại một bãi biển miền Trung. Tại đây anh phát hiện bức tranh thiên nhiên đẹp mà trong cuộc đời cầm máy ảnh anh chưa bao giờ được thấy. Nhưng đằng sau bức tranh đẹp ấy là cả một sự thật nghiệt ngã về cuộc sống của một gia đình hàng chài. Cảnh người chồng vì đói nghèo thất học đã xem việc đánh vợ là phương thức giải tỏa những khổ đau cho mình. Rồi ở tòa án huyện anh đã chứng kiến câu chuyện đầy cảm động của người đàn bà hàng chài khiến anh ngộ ra biết bao điều về cách tiếp cận cuộc sống. Tất cả được đều nhìn qua cái nhìn đầy nhân đạo của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của những tác phẩm văn học chân chính được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn với nỗi đau của những con người, những cảnh đời bất hạnh trong cuộc sống. Đồng thời, nhà văn còn thể hiện sự nâng niu, trân trọng với những nét đẹp trong tâm hồn và niềm tin khả năng vươn dậy của con người dù trong bất kỳ hòan cảnh nào của cuộc đời. 2. Giá trị nhân đạo của tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”: a. Biểu hiện thứ nhất của giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” đó là sự đồng cảm của nhà văn đối với cuộc đời người lao động sau chiến tranh. Qua đó nhà văn lên án thói bạo hành trong cuộc sống gia đình đang diễn ra trong xã hội: nhà văn đã miêu tả cuộc sống ấy với bao nỗi nhọc nhằn của con người lao động thông qua hình tượng người đàn bà hàng chài. Nhà văn cảm thương cho số phận bất hạnh của chị (các em phân tích nỗi khổ của người đàn bà: xấu xí, nghèo khổ, nạn nhân của bạo hành gia đình). 1|Page Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12 b. Biểu hiện thứ hai của giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” đó làsự phê phán, lên án hành động vũ phu thô bạo của người chồng trong đối xử với vợ, con (các em miêu tả cảnh người chồng đánh vợ) . Không những vậy, nhà văn còn thể hiện nỗi lo âu, khắc khoải về tình trạng nghèo cực, tối tăm của con người (cảnh đói nghèo, cơ cực, tình trạng bất ổn, bất trắc trong cuộc sống …là nguyên nhân sâu xa của sự bạo hành và sự nhịn nhục chịu đựng); đồng thời, Nguyễn Minh Châu cũng bày tỏ niềm trắc trở trước cuộc sống của thế hệ tương lai (qua cách nhìn của nhà văn đối với cậu bé Phác). c. Biểu hiện thứ ba của giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” đó là ở sự khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp của con người lao động mà tiêu biểu là người đàn bà hàng chài và đặt niềm tin vào phẩm chất tốt đẹp của họ: Đó là vẻ đẹp của lòng vị tha, sự thấu hiểu lẽ đời và tình mẫu tử sâu nặng (các em phân tích câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện). Trong hoàn cảnh đau khổ, nghèo khó, tăm tối vẫn ngời lên vẻ đẹp của tình yêu thương, của đức hi sinh thầm lặng. d. Biểu hiện thứ tư của giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” đó là tư tưởng nhân đạo mang tính triết lí của tác phẩm, còn được thể hiện ở việc nhà văn đặt ra vấn đề : làm thế nào để giải phóng con người khỏi những bi kịch gia đình, bi kịch cuộc sống con người muốn thoát khỏi đau khổ, tăm tối, man rợ cần những giải pháp thiết thực chứ không phải chỉ là thiện chí hoặc các lí thuyết đẹp đẽ nhưng xa rời thực tiễn, cần rút ngắn khoảng cách giữa văn chương và hiện thực đời sống. (các em đưa thông điệp của nhà văn vào) III. KẾT BÀI Tóm lại, tinh thần nhân đạo trong “Chiếc thuyền ngoài xa” chính là tấm lòng yêu thương, thông cảm, băn khoăn , trăn trở của Nguyễn Minh Châu trong việc phát hiện đời sống và con người ở bình diện đạo đức thế sự. Qua đó tác phẩm thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn ở giai đọan sáng tác thứ hai : Văn học nghệ thuật phải gắn bó với cuộc sống, phải vì con người...Quan niệm ấy đã khiến tác phẩm của Nguyễn Minh Châu ở giai đọan này giàu nhân bản.Đọc tác phẩm của ông, người ta đau đớn, day dứt về thân phận con người và cùang tràn đầy khát vọng làm người cao đẹp 2|Page Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12 Đề ra: Phân tích giá trị nhân đạo của tác phẩm "Đời thừa" của nhà văn Nam Cao (Sách giáo khoa 11 - Nâng cao, NXB Giáo Dục 2012) HƯỚNG DẪN (GIÁO VIÊN PHAN DANH HIẾU) I. MỞ BÀI Nam Cao là một nhà nhân đạo lớn, một cây bút xuất sắc của văn học hiện thực phê phán trước năm 1945. Nhà nhân đạo ấy đã để lại cho đời những tác phẩm thật sự có "tấm lòng lớn" như "Đời thừa", "Chí Phèo". Trong đó, "Đời thừa" thực sự đã để lại dấu ấn của Nam Cao về giá trị nhân đạo sâu sắc và mới mẻ. II. THÂN BÀI 1. Khái quát: Giá trị nhân đạo là giá trị cơ bản của một tác phẩm văn học dựa trên niềm cảm thương sâu sắc của nhà văn đối với số phận nhân vật. Nhà văn từ lòng thương người mà lên án tố cáo những thế lực đã chà đạp lên quyền sống của con người. Cũng từ lòng nhân đạo, nhà văn cũng phát hiện và ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của con người và kêu gọi giải phóng cá nhân ra khỏi những khổ đau và bất hạnh. Truyện ngắn "Đời thừa" ra đời năm 1943, là tác phẩm phản ánh sâu sắc và rõ nét về cuộc sống của những người trí thức tiểu tư sản nghèo ở nước ta trong bối cảnh đất nước bị ngoại bang giày xéo. Tác phẩm đã gây tiếng vang lớn và thực sự trở thành "tiếng kêu đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than". Nam Cao đã phản ánh một cách rõ nét và chân thực những bi kịch lớn của người trí thức đương thời và cất tiếng kêu cứu thảm thiết đòi quyền sống cho họ. 2. Trong tác phẩm "Đời thừa", Nam Cao đã xây dựng thành công giá trị nhân đạo sâu sắc ấy. a. Biểu hiện thứ nhất của giá trị nhân đạo là nhà văn xót xa thương cảm trước những nỗi khổ đau của nhà văn Hộ khi sụp đổ giấc mộng văn chương và bi kịch tình thương. Nam Cao đã xót thương và đồng cảm trước bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ , một nhà văn - một trí thức giữa “cơn dâu bể” của cuộc đời, giữa một xã hội “chó đểu” (Vũ Trọng Phụng) – Nhà văn ấy giữ được phẩm giá của mình, ý thức được “thiên chức” cao cả của mình vậy mà đành bó tay bất lực. Có thể nói, bi kịch đầu 3|Page Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12 tiên trong tấn bi kịch tinh thần của cuộc đời Hộ là bi kịch về những giấc mộng văn chương. Anh mơ ước đến một ngày anh sẽ viết được một tác phẩm lớn chung cho cả loài người. Nó đề cập đến những vấn đề bức xúc của cả xã hội của cả nhân loại. Nó nói được những cái lớn lao, mạnh mẽ vừa đau đớn vừa phấn khởi, nó ca tụng lòng thương tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần người hơn.” Và nhất định anh sẽ giật giải Nobel ! Thế nhưng, trong sáng tác của mình anh đã viết những gì ? Anh đã cho ra đời những sáng tác như thế nào ? Chao ôi ! Anh đã viết những bài mà thậm chí khi đọc thấy tên của mình dưới bài viết, anh phải “đỏ mặt” xấu hổ. Anh giận dữ với chính anh. Anh khinh ghét những tác phẩm chỉ biết “gợi những tình cảm rất nhẹ rất nông bằng một thứ văn quá ư bằng phẳng dễ dãi” của chính mình. Anh dằn vặt ghê gớm, anh lên án chính mình "Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương, còn sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện". Chính nỗi lo về tiền bạc đã buộc anh phải viết những bài trái với lương tâm và trách nhiệm. Trong đầu anh luôn quay cuồng với những tính toán về giá cả sinh hoạt, về bữa ăn hằng hàng… thì đâu còn chỗ cho văn chương nữa. Anh phải viết thật nhanh, thật nhiều để người vợ, đàn con và chính anh khỏi chết đói. Giá như anh cứ bỏ dứt cái mộng văn chương thì chắc đời anh chẳng khốn đốn đến thế ! Nhưng anh cần nghĩ tới tác phẩm của anh – các tác phẩm cho toàn nhân loại nên anh lại càng đau đớn, càng khổ đau. Chao ôi ! “Đau đớn thay cho những kiếp sống muốn cất cánh bay cao nhưng lại bị áo cơm ghì sát đất” (Sống mòn). Đó chính là bi kịch của cuộc đời viết văn của anh – bi kịch của những giấc mộng văn chương chính là ở chỗ đó ! Bi kịch đầu tiên của cuộc đời nhà văn Hộ và đó cũng là nguyên nhân cho bi kịch thứ hai – bi kịch của một con người. Giấc mộng văn chương sụp đổ qua những bài viết ẩu. Thế nhưng Hộ vẫn còn chút an ủi. Đó chính là cuộc sống, sự tồn tại của vợ con anh. Quả là một sai lầm khi anh kết luận: nguyên nhân trực tiếp cho sự sụp đổ các giấc mộng văn chương chính là vợ anh và đàn con nheo nhóc kia. Thất vọng trong văn chương, buồn chán trong không khí gia đình đã khiến anh tìm niềm vui trong men rượu. Và rượu - kẻ "làm đỏ mặt và đen danh dự" đã đưa Hộ thành kẻ vi phạm nguyên tắc tình thương. Anh trở thành kẻ vũ phu, kẻ vô học. Rượu đẩy Hộ đến bờ vực của sự tha hóa. Chính anh cũng không hiểu tại sao anh về được đến nhà. Anh chỉ biết anh đã tỉnh dậy trên giường nhà mình khi tay chân rã rời. Men rượu “chết tiệt” ấy chính là cái trực tiếp làm cho bi kịch trong anh xuất hiện. Anh đã đánh đập vợ, người vợ hiền lành tận tuỵ của mình không biết bao 4|Page Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12 nhiêu lần nữa mà kể. Anh chỉ mặt Từ mà quát mắng: “Cả con mẹ mày nữa cũng đáng vật chết”. Anh đã làm tất cả, tất cả trong say. Sao mà tai hại quá ! Anh đã vi phạm lẽ sống của mình, vi phạm cái tốt đẹp – cái phần “người” vô cùng cao đẹp tưởng còn được an ủi bởi anh đã giữ trong lẽ sống tình thương của mình. Ai ngờ, cuộc sống vẫn không cho phép anh thực hiện điều đó. Thế mà nay, chính cái lẽ sống ấy anh cũng chà đạp nốt. Lẽ sống tình thương là cái được anh đề cao nhất mà anh còn vi phạm thì chẳng còn gì nữa cả. Bi kịch này của anh, lớn hơn gấp bội bi kịch kia bởi lẽ sống tình thương, chỗ dựa của bao giá trị nhân phẩm khác sụp đổ. Viết về nỗi đau này, Nam Cao dường như cũng đang thổn thức cùng nhân vật. b. Biểu hiện thứ hai của giá trị nhân đạo trong tác phẩm "Đời thừa" là tiếng nói của nhà văn lên án tố cáo thế lực đã gây ra nỗi đau cho nhà văn Hộ, đẩy Hộ đến bờ vực của sự tha hóa, của bi kịch khủng khiếp. Bi kịch ấy có nguyên nhân sâu xa chính từ xã hội đương thời. Chính xã hội ấy đã đẩy anh phải lo “cơm áo gạo tiền”. Nỗi lo sinh kế đã khiến anh phải từ bỏ giấc mộng văn chương. Và chính những thất vọng ấy đã khiến anh chà đạp lên lẽ sống tình thương của mình. Nguyên nhân ấy có lẽ anh không hiểu được – nguyên nhân của xã hội thực dân nửa phong kiến – nguyên nhân mà ngày ấy người ta đã nhận ra. Anh chưa tìm được lối thoát cho sự bế tắc. Đó là cái bế tắc của thời đại mà anh đang sống. c. Biểu hiện thứ ba của giá trị nhân đạo trong tác phẩm "Đời thừa" đó chính là nhà văn phát hiện và trân trọng nâng niu vẻ đẹp tâm hồn của nhà văn Hộ. Hộ là nhà văn chân chính. Anh là nhà văn rất có ý thức về nghề nghiệp. Anh mê văn, say văn và có giấc mộng đẹp, một ngày nào đó, anh sẽ viết được một tác phẩm mà sẽ "làm mờ hết tất cả các tác phẩm ra cùng thời". Đó là tác phẩm "ca ngợi tình thương, lòng bác ái, sự công bình. Nó làm người gần người hơn". Tác phẩm đó phải đạt giải Nobel. Đó là cuốn tiểu thuyết vĩ đại trong đời viết văn của anh. Nó sẽ làm rạng danh cho anh, cho nền văn học nước nhà. Đó quả là ước mơ chính đáng ! Không phải người nghệ sĩ nào cũng khao khát như vậy khi bước vào con đường văn chương đầy khổ ải. Nhà văn phải biết xây ước mơ đẹp, và khát vọng của Hộ là khát vọng mạnh mẽ nhất và đẹp nhất. Hộ xác định đúng con đường cho mình – xác định tư tưởng cho mình. Hộ lên án thứ văn chương rẻ tiền, hời hợt, dễ dãi. Thứ văn chương "cẩu thả", "bất lương". Hộ yêu cầu văn chương phải sáng tạo, bởi "văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có". Hộ đầy hoài bão về giấc mơ chinh phục đỉnh cao. Anh là nhà văn chân chính. 5|Page Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12 Không chỉ vậy, Nam Cao còn phát hiện ra Hộ là con người giàu lòng nhân ái. Chính trong lời khẳng định về tác phẩm trong tương lai của mình, anh đã nói: tác phẩm có giá trị là tác phẩm “ca tụng lòng tương, tình bác ái, sự công bình”. Trong văn chương, anh muốn ca ngợi tình thương và trong cuộc đời thực, tình thương là tất cả. Chính vì lẽ sống tình thương của mình, anh đã đón Từ, giúp Từ thoát khỏi những tủi nhục khi một mình trơ trọi với đứa con không cha. Những giọt nước mắt của Từ và của bà mẹ già của Từ đã khiến anh xúc động. Họ muốn khóc cho đến khi “bao nhiêu xương thịt cứ tan ra thành nước mắt” nhưng gặp anh, tình thương của anh đã toả rạng đến giúp họ thoát khỏi những đớn đau. Một người dám bỏ cái đời bay nhảy của tuổi xanh để nuôi nấng vợ con chẳng là người dũng cảm lắm sao ! Chính tình thương - lẽ sống tình thương đã khiến anh làm việc ấy. Anh cao đẹp biết dường nào! d. Biểu hiện cuối cùng của giá trị nhân đạo là niềm tin của Nam Cao vào khả năng vươn dậy của nhân vật. Cuối tác phẩm là hình ảnh Hộ ôm từ vào lòng. Bao nhiêu đau đớn, bao nhiêu hối hận dồn nén lại ở Hộ để rồi bật lên thành tiếng khóc. Tiếng "khóc nức nở, tiếng khóc bật ra như quả chanh người ta bóp mạnh" của Hộ cho ta thấy sự hối hận và đau khổ lên đến tột cùng của người trí thức tiểu tư sản nghèo có nhân cách. Giọt nước mắt ấy đã nâng đỡ Hộ, thanh lọc tâm hồn anh, giúp anh đứng vững trên bờ vực thẳm của sự tha hoá. Chắc chắn đằng sau những giọt nước mắt ấy là sự "trở về" của nhà văn Hộ. 3. Đánh giá chung :Tư tưởng nhân đạo mới mẻ của Nam Cao thể hiện ở việc nhà văn biết đề cao những khát vọng đẹp của người trí thức, đã biết thông cảm với những nổi khổ của họ. Những “tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo” ấy đã là đáng quý, đáng trân trọng biết bao ! Độc đáo, mới mẻ chính là ở lòng thương người – tình người nồng đượm bao la đằng sau lối viết văn tưởng như dửng dưng lãnh đạm. Dường như những day dứt trong cuộc đời ông - cuộc đời văn sĩ khổ ải – đã nhập vào những suy tư của Hộ, đã nhập vào tấn bi kịch tinh thần của Hộ. Có người nói, Hộ chính là hình ảnh của nhà văn Nam Cao thời kì trước Cách mạng. Có thể tự tin mà nói rằng với "Đời thừa", Nam Cao đã bộc lộ được tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo của mình khi viết những dòng bi kịch về Hộ. Kinh nghiệm và vốn sống đã cho ông viết những điều có sức rung động, lay chuyển lòng người đến thế! Đó chính là nhờ tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo của nhà văn Nam Cao. Nhân đạo ở sự ca ngợi khát vọng đẹp đẽ của Hộ, nhân đạo ở sự cảm thông sâu sắc với người trí thức… Và viết lên được những dòng như thế cũng là nhờ cái nhân đạo “mới mẻ” độc đáo của Nam Cao. 6|Page Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12 Qua bi kịch tinh thần đầu tiên này của Hộ, Nam Cao đã bộc lộ được sự cảm thông, trân trọng bao kiếp người lao khổ trong cuộc đời này. Và phải chăng tư tưởng ấy đã kế thừa được của cha ông lòng nhân đạo truyền thống. Nhà văn không “phản ánh để phản ánh” mà sau những câu chữ tưởng như lãnh đạm, thờ ơ chính là một trái tim nhiệt thành, sôi nổi - một trái tim của tình nghĩa. III. KẾT BÀI Tóm lại, tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo của Nam Cao đã khiến cho nhân vật dù qua bao thăng trầm vẫn đứng vững với tư cách một con người chân chính. TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP Hồ Chí Minh BÀI GIẢNG ĐÃ CÔ ĐÚC, NGẮN GỌN, DỄ HIỂU BẢN QUYỀN - PHAN DANH HIẾU Phục vụ cho đề: Phân tích nghệ thuật lập luận của Hồ Chí Minh qua Tuyên ngôn độc lập (hoặc tính luận chiến) I. KHÁI QUÁT CHUNG (Học thuộc lòng phần này để làm mở bài và khái quát trước khi phân tích) 1. Tác giả: Hồ Chí Minh không chỉ biết đến là một vị lãnh tụ tài ba, kiệt xuất của dân tộc Việt Nam mà còn được biết đến với tư cách là một nhà văn, nhà thơ lớn. Người để lại nhiều tác phẩm lớn ở nhiều thể loại truyện, ký, thơ ca, văn chính luận. Trong đó “Tuyên ngôn độc lập” là một áng văn chính luận mẫu mực, một nghệ thuật lập luận tài tình có một không hai trong lịch sử văn học dân tộc. 2. Tác phẩm: Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền khắp cả nước về tay nhân dân. Ngày 2.9.1945, Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn này trước hàng vạn đồng bào thủ đô, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc – kỷ nguyên độc lập tự chủ. Tác phẩm là kết tinh của chủ nghĩa yêu nước của khát vọng tự do, hòa bình và tự chủ. II. NỘI DUNG TÁC PHẨM 1. Mở đầu, Người nêu lên cơ sở pháp lí và chính nghĩa của bản Tuyên 7|Page Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12 Ngôn:Người trích dẫn hai bản tuyên ngôn độc lập của Pháp và Mỹ: Tuyên ngôn độc lập của Mĩ (1776): “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa đã cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp (1791) cũng đã nói: “Người ta sinh ra tự do bình đẳng về quyền lợi và phải luôn tự do bình đẳng về quyền lợi”. Đó là những lẽ phải không ai có thể chối cãi được. Ý nghĩa của viêc trích dẫn: Có tính chiến thuật sắc bén, khéo léo, khóa miệng đối phương. Đó chính là thành công của nghệ thuật “Gậy ông đập lưng ông” dùng chính lời lẽ của kẻ thù để đánh lại chúng. Cái hay là ở chỗ là: Bác một mặt như ngợi khen, một mặt lại hạ bệ chúng. Mặt khác người đọc có thể thấy Bác đã đặt ba cuộc Cách mạng, ba nền độc lập, ba bản Tuyên ngôn ngang hàng nhau. Khẳng định tư thế đầy tự hào của một dân tộc độc lập và có quyền để hưởng tự do và độc lập. Đây chính là sự kế thừa và phát huy bản Tuyên ngôn thứ hai của Việt Nam là “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi. Từ việc trích dẫn trên Bác đã đi đến một lập luận sáng tạo: Suy rộng ra điều đó có nghĩa là: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Như vậy, dựa trên hai bản tuyên ngôn nói về quyền lợi của con người Bác đã nâng lên thành quyền lợi của dân tộc. Nghĩa là bản Tuyên Ngôn của Việt Nam còn cao hơn cả hai bản Tuyên Ngôn của Pháp và Mỹ. Tóm lại: Với lời lẽ sắc bén, đanh thép, Người đã xác lập cơ sở pháp lý của bản Tuyên Ngôn, nêu cao chính nghĩa của ta. Đặt ra vấn đề cốt yếu là độc lập dân tộc. Đây cũng là cơ sở để Người vạch tội chúng trong phần tiếp theo. Đúng như Chế Lan Viên nhận định “Cách lập luận của Hồ Chí Minh về phía ta giống như một trái táo còn về phía kẻ thù nó giống như một trái lựu đạn nhét vào cổ họng chúng. Nuốt không vô mà khạc cũng không ra”. 2. Ở luận điểm tiếp theo, Hồ Chí Minh đã nêu cơ sở thực tế của bản Tuyên Ngôn: Bác đã nêu lên lý lẽ và lập luận hết sức thuyết phục về mặt pháp lý và thực tế nhằm bác bỏ luận điệu của bọn đế quốc thực dân. Để vạch trần luận điệu về công lao “khai hóa” của Pháp đối với Đông Dương, Bác đã nêu rõ “Những hành động trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa” của chúng trong 80 năm thống trị nước ta về hai phương diện: Chính trị và Kinh tế. Pháp kể công “Khai hóa”, Bác vạch trần tội ác của chúng về chính trị:chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào… “Chúng thi hành 8|Page Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12 những luật pháp dã man. Chúng ... ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết… Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học...Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu. Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược”. Chưa hết, về mặt kinh tế: chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn. Ở hai đoạn văn trên, cái tài tình của Hồ Chủ Tịch là nghệ thuật lập luận: câu văn lặp cấu trúc, phép điệp liên tục “chúng tuyệt đối... chúng thi hành...chúng lập ra...chúng tắm các cuộc khởi nghĩa... chúng dùng thuốc phiện...chúng cướp không...” tạo nên một liên hoàn lời, tố cáo mạnh mẽ, đanh thép khiến chúng “không thể chối cãi” và trở tay không kịp. Mặt khác, Bác cũng tranh thủ quan tâm đến giai cấp tư sản, công nhân, nông dân khơi dậy tình đoàn kết hữu ái giai cấp. Đặc biệt từ tội ác trên của thực dân bác đanh thép kết án chúng đã gây ra cái chết thảm thương cho hơn 2 triệu đồng bào miền Bắc vào nạn đói năm 1945. Pháp kể công “Bảo hộ”: bảo hộ nghĩa là bảo vệ nhưng chúng đã không làm được. Bác đã tố cáo tội ác của chúng: Tội ác trong 5 năm (1940 – 1945). Trong năm năm chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật. Đó là mùa thu năm 1940, Nhật xâm lăng Đông Dương để mở rộng căn cứ đánh Đồng Minh... bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng mở cửa nước ta rước Nhật. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, khi Nhật tước khí giới của quân đội Pháp, bọn thực dân Pháp hoặc là bỏ chạy, hoặc là quỳ gối đầu hàng. Bác vạch trần thái độ nhục nhã của Pháp: quỳ gối đầu hàng, bỏ chạy... Như vậy là chúng đã phản bội đồng minh, không đáp ứng liên minh cùng Việt Minh để chống Nhật, thậm chí thẳng tay khủng bố, giết nốt tù chính trị ở Yên Bái, Cao Bằng. Đó là lời khai tử dứt khoát cái sứ mệnh bịp bợm của thực dân Pháp đối với nước ta ngót gần một thế kỉ. 3. Trong phần tiếp theo của bản tuyên ngôn, Người đã nêu cao những tự hào của Cách mạng Việt Nam: Ta luôn đứng về lập trường chính nghĩa “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo”. Việt Nam khoan hồng với kẻ thù bị thất thế: giúp người Pháp chạy qua biên giới, bảo vệ tài sản và tính mạng, của cải cho họ. Láy đi láy lại hai chữ “Sự thật” nhằm nhấn mạnh thắng lợi 9|Page Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12 to lớn của Cách mạng ta khi đứng về phe Đồng minh chống phát xít, đồng thời Bác cũng dứt khoát bác bỏ sự có mặt của Pháp trên đất nước ta cũng có nghĩa là Pháp không có cớ gì để quay trở lại Việt Nam :“Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã trở thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải là của Pháp nữa... Sự thật là nhân dân ta đã lấy lại Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải là tay Pháp”. Thắng lợi to lớn của Cách mạng Việt Nam là: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Chế độ Dân chủ Cộng Hòa từ đó được ra đời. 4. Ở phần cuối, chủ tịch Hồ Chí Minh đã phủ định chế độ thuộc địa của thực dân Pháp và khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc. Phủ định dứt khoát, triệt để: “Tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”. Cuối cùng Bác đưa ra Lời tuyên bố độc lập trước thế giới : Lời tuyên bố thể hiện lí lẽ đanh thép vững vàng của Người về quyền dân tộc đồng thời thể hiện khát vọng tự do của cả dân tộc. Điều đó thể hiện qua giọng văn hào hùng mãnh liệt đầy niềm tin: “Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do độc lập và thực sự đã trở thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. 5. Nghệ thuật: “Tuyên ngôn độc lập” có lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng xác thực, giàu sức thuyết phục. Ngôn ngữ vừa chính xác vừa gợi cảm. Giọng văn linh hoạt, đa giọng điệu khi mãnh liệt hùng hồn, khi trang nghiêm tha thiết. Tuyên ngôn Độc lập của Bác đã trở thành một áng văn chính luận mẫu mực nổi tiếng. III. TỔNG KẾT "Tuyên ngôn Độc lập" xứng đáng là một áng văn mẫu mực về nghệ thuật lập luận. Nó đã kế tục truyền thống vinh quang của "Nam quốc sơn hà" và "Bình Ngô đại cáo". Nó là lời nước non cao cả và thiêng liêng, thể hiện sâu sắc tư tưởng vĩ đại: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Đọc đoạn văn cuối bản "Tuyên ngôn Độc lập", chúng ta càng thấm thía tự hào về độc lập, tự do mà dân tộc ta đã giành được bằng xương máu của bao thế hệ, của bao anh hùng liệt sĩ. 10 | P a g e Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12 Đề 1: Cảm nhận về khát vọng nghệ thuật và bi kịch của người nghệ sĩ trong “Đàn ghita của Lorca” và “Vĩnh biệt cửu trùng đài” – Nguyễn Huy Tưởng. DÀN Ý 1. Khát vọng nghệ thuật: - Vũ Như Tô là một kiến trúc sư tài năng. Ông khao khát điểm tô cho non sông một “kỳ quan muôn thuở” để dân ta ngàn thu hãnh diện. Đây là một khát vọng chân chính của một người nghệ sĩ có cái tâm, cái tài. - Lorca khao khát cách tân nền nghệ thuật đã già nua của đất nước Tây Ban Nha: “Khi tôi chết hãy chôn tôi cùng với cây đàn” (phân tích ý nghĩa của câu đề từ ) 2. Bi kịch của người nghệ sĩ. - Vũ Như Tô đam mê thi thố tài năng và rơi vào sự mê muội, mù quáng không lý giải được mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống; Rơi vào sự bảo thủ không lối thoát; cuối cùng chấp nhận cái chết; nghệ thuật của VNT là nghệ thuật vị nghệ thuật nên bị nhân dân lãng quên. - Lorca: khao khát chiến đấu vì công lý, khao khát cách tân nghệ thuật nhưng cô độc trong cuộc chiến (phân tích khổ 1) ; Lorca bị phát xít sát hại (khổ 2); Lorca mang đến những khát vọng nghệ thuật và tự do cho nhân dân nên được nhân dân ngưỡng mộ và tôn thờ nên nghệ thuật của Lorca mãi bất tử và con người Lorca mãi mãi sống trong lòng nhân dân TBN (phân tích khổ 3,4) 3. So sánh: - Giống: họ đều là những người nghệ sĩ tài năng, yêu mến sự sáng tạo và khao khát mang đến những cái đẹp cho cuộc đời; cái chết của họ đều là cái chết bi phẫn. - Khác: VNT là kiến trúc sư tài năng nhưng chưa lý giải được sâu sắc mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống nên rơi vào nghệ thuật vị nghệ thuật. 11 | P a g e Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12 - Lorca là một nhà thơ, một nghệ sĩ, một chiến sĩ, anh ngã xuống khi con đường sáng tạo và tranh đấu đang vào độ chín muồi; Lorca ra đi trong sự giải thoát nhẹ nhàng không vướng bận những hệ lụy trần gian (nói qua qua về khổ cuối) * Thông điệp: - Nghệ thuật cần gắn với nhân dân “nghệ thuật vị nhân sinh”, nghệ thuật phải vì nhân dân mà phục vụ thì nghệ thuật đó sẽ trở thành bất tử. - XH cần trân trọng và nâng bước cho những tài năng phát triển. Đề 2: Sự gặp gỡ và những khám phá riêng về người nghệ sĩ của Nam Cao và Nguyễn Huy Tưởng qua nhân vật Hộ trong Đời thừa và nhân vật Vũ Như Tô trong Vĩnh biệt cửu trùng đài – trích Vũ Như Tô. BÀI LÀM Trong thế giới của những người cầm bút, đôi khi mỗi người có một lối đi riêng, một con đường riêng. Nghệ thuật là thứ độc đáo trong thế giới độc đáo của nhà văn mà không ai lặp lại trong cảm hứng sáng tạo của người khác. Tuy nhiên, đôi lúc họ lại gặp nhau, đồng điệu với nhau đến ngỡ ngàng về điểm nhìn về niềm cảm thông nhưng tác phẩm vẫn là của riêng không trộn lẫn. Hộ trong “Đời thừa” và Vũ Như Tô trong “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” là sự “gặp gỡ và khám phá riêng về người nghệ sĩ” của hai nhà văn Nam Cao và Nguyễn Huy Tưởng. Nam Cao được biết đến với tư cách là nhà văn của chủ nghĩa hiện thực phê phán trước năm 1945 với rất nhiều tác phẩm xoay quanh nỗi khổ đau, cùng cực, không 12 | P a g e Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12 lối thoát của con người. “Trăng sáng”, “Đời thừa”, “Sống mòn” là những tác phẩm về tiếng kêu cứu của người trí thức nghèo”. Còn tác phẩm “Chí Phèo” là tiếng kêu cứu đầy tuyệt vọng của người nông dân lương thiện bị đẩy vào con đường cùng. Nguyễn Huy Tưởng lại được biết đến với tư cách là một nhà văn, nhà viết kịch hiện đại với những tác phẩm tên tuổi mang tầm lịch sử như “Bắc Sơn”, “Vũ Như Tô”. Trong đó, “Vũ Như Tô” là một vở bi kịch lịch sử có quy mô hoành tráng nhất. Giữa Vũ Như Tô và Hộ, là khoảng thời gian cách xa hàng thế kỷ nhưng ở họ vẫn có những điểm tương đồng khiến khi tìm hiểu ta không khỏi ngạc nhiên. Trước hết ta thấy, sự gặp gỡ giữa Nguyễn Huy Tưởng và Nam Cao chính là ở chỗ, họ đều xây dựng nhân vật trí thức ở cái tài hoa, nghệ sĩ. Trong mắt của hai nhà văn, những người nghệ sĩ là những người có khát vọng lớn, muốn đem cái tài để phục vụ cho cuộc đời. Hộ và Vũ Như Tô là hai người nghệ sĩ như thế. Hộ là một nhà văn nghèo nhưng đam mê văn chương. Anh yêu văn chương như hơi thở của mình. Với Hộ “đói rét không có nghĩa gì với một kẻ trẻ tuổi say mê lý tưởng”. Anh sống với giấc mộng văn chương đẹp nhất trên đời với ước mơ thật lớn lao. Anh hi vọng sẽ viết được một tác phẩm văn chương sẽ “làm lu mờ tất cả các tác phẩm ra cùng một thời”. Đó sẽ là tác phẩm “vượt qua mọi bờ cõi và giới hạn, làm người gần người hơn… nó ca tụng lòng thương, sự bác ái công bình”. Và tác phẩm đó, Hộ mơ ước sẽ được nhận giải Nobel. Đó là một ước mơ rất chính đáng của người nghệ sĩ khao khát được cống hiến cho đời những trang văn đẹp. Khát khao ấy phát xuất từ một tâm hồn đẹp, coi “nghệ thuật là tất cả”. Đó là một khát khao đẹp đẽ, trong sáng và chính đáng, một hoài bão lớn lao nó bảo cho ta biết đó là một nhà văn chân chính, có chí hướng. Với Vũ Như Tô, ông là người nghệ sĩ có tài, có tâm, đam mê nghệ thuật, khao khát sáng tạo, sẵn sàng hi sinh tất cả cho cái đẹp. Cũng như nhà văn Hộ, Vũ Như Tô muốn đem tài năng kiến trúc của mình dựng xây cho đất nước, tô điểm cho non sông một kỳ quan vĩ đại, một cảnh bồng lai giữa cõi trần lao lực để mai này cháu con “ngàn thu hãnh diện”. Đó là đài Cửu Trùng “nóc vờn mây”, đồ sộ, nguy nga. Công trình kiến trúc ấy là tâm huyết cả cuộc đời ông. Nó không phải là công trình tầm thường nữa mà để “tranh tinh xảo với hóa công”. Có ai đó từng nói rằng: “Thiên chức của người nghệ sĩ là hái sao trên trời điểm tô cho cái đẹp của hạ giới”. Như vậy, cả tác phẩm mơ có ngày được giải Nobel của Hộ và Đài Cửu Trùng hãnh diện với ngàn thu của Vũ Như Tô đều là những khát vọng lớn của những người nghệ sĩ chân chính muốn “điểm tô cho hạ giới” những vì sao sáng. 13 | P a g e Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12 Điểm chung nữa giữa Vũ Như Tô và Hộ đó là, cả hai người nghệ sĩ đều đam mê sáng tạo cái đẹp, trau chuốt cho cái đẹp, sống chết vì cái đẹp: Vũ Như Tô rất tự tin và ý thức sâu sắc về tài năng, giá trị của bản thân. Ông đã dũng cảm, khôn khéo chống trả những đợt tấn công gay gắt, quyết liệt buộc Tương Dực phải đi từ nhân nhượng này đến nhân nhượng khác và cuối cùng phải chấp nhận thực hiện hai điều kiện mà người thợ cả nêu ra: “thứ nhất, đài phải xây theo đúng kiểu bản đồ này, không thay đổi một li nào. Thứ hai: Hoàng thượng và triều đình phải trọng đãi công ngang sĩ”. Những lời đanh thép, gan ruột của ông đã hé lộ bao nhiêu suy cảm tinh tế, sâu xa về chân tài và sự khổ luyện để đạt được chân tài; về vai trò, trách nhiệm của nhân tài đối với nước non và những điều phải làm để phát hiện, bồi dưỡng nhân tài – nguyên khí của quốc gia; về mối quan hệ gắn bó và bình đẳng lẽ ra nên có giữa công và sĩ (đặt trong thang bậc phong kiến: sĩ, nông, công, thương) …Những điều mà dường như đến tận thời điểm này không thể nói là không còn nóng bỏng thời sự. Xây Cửu Trùng Đài, với ông còn chính là thi thố tài năng với trời đất, tranh tinh xảo với hóa công. Như vậy, rõ ràng, khát vọng cao đẹp gắn liền với ý thức về tài năng đã mang đến một Vũ Như Tô thật hoàn hảo giữa đời. Nhà văn Hộ cũng thế, ước mơ cao đẹp luôn gắn liền với ý thức tài năng. Hộ ghét cay ghét đắng cái thứ văn chương “vô vị, nhạt nhẽo, quấy loãng trong một thứ văn chương bằng phẳng, dễ dãi”. Ý thức của người cầm bút mách bảo hộ phải có lòng tự trọng với nghề nghiệp bởi “văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho, văn chương chỉ biết dung nạp những người biết đào sâu tìm tòi, sáng tạo, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Hộ chăm chút cho cái tài của mình ngày một thêm nảy nở, anh đọc “chăm chú quá…Cái mặt hốc hác ấy, nghiêng nghiêng bên trên quyển sách, trông khắc khổ đến thành dữ tợn”. Hộ say mê đọc sách, và đọc sách theo anh là một cách để chăm chút tài năng: “Hắn đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán”. Với anh khi “gặp được một đoạn hay lắm nên ngừng đọc, ngẫm nghĩ và để cho cái khoái cảm ngân ra trong lòng”. Anh coi văn chương như một thứ đạo lành để ngưỡng vọng, để nguyện ngắm và đi theo. Tâm hồn anh thật sáng trong biết bao. Không chỉ thế, Hộ còn rất coi trọng tình thương. Tình thương với anh là một thứ đạo cao đẹp nhất. Anh đã từng nhủ lòng rằng mình “có thể hi sinh tình yêu chứ không thể hi sinh tình thương” bởi anh muốn làm “người” đúng nghĩa. Mất tình thương con người thành sỏi đá cao hơn sẽ trở thành dã thú. Mất tình thương, con người sẽ bị sai khiến bởi lòng ích kỷ. Như vậy, Hộ là con người đáng được kính trọng, một nhà văn đáng được tôn thờ. 14 | P a g e Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12 Nam Cao và Nguyễn Huy Tưởng còn khám phá ra ở những con người như Hộ và Vũ Như Tô không chỉ là tài năng thật sự mà còn có lòng tự trọng về nghề nghiệp: Vũ sẵn sàng từ chối mọi bạc vàng châu báu của Tương Dực, sẵn sàng đưa cả gia đình bỏ trốn vì không muốn đưa cái tài năng của mình để phụng sự cho tập đoàn phong kiến ăn chơi sa đọa ấy. Chỉ khi Đan Thiềm khuyên can, Vũ Như Tô mới mới bắt đầu thỏa hiệp nhưng luôn đưa ra những yêu cầu đối với Tương Dực để vừa thực hiện được khát vọng của mình vừa tránh nguy biến cho gia đình. Nhà văn Hộ cũng thế, anh luôn coi trọng nghề nghiệp, xem nghề viết văn là tất cả “nghệ thuật là tất cả; ngoài nghệ thuật không còn gì đáng quan tâm nữa”. Đặc biệt, Hộ đã khẳng định cái lòng tự trọng ấy của mình khi anh cho rằng “mà tuy khổ thì khổ thật, nhưng thử có người giàu bạc vạn nào thuận đổi lấy cái địa vị của tôi, chưa chắc tôi đã đổi”. Như vậy Hộ có thể khổ, vợ con anh có thể nheo nhóc nhưng lương tâm nghề nghiệp và lòng tự trọng về cái nghề cầm bút cao quý ấy đã làm giá trị nhà văn trong anh cao lên một tầm mới. Thật đáng khâm phục biết bao. Điểm gặp gỡ của Nam Cao và Nguyễn Huy Tưởng còn là việc cả hai nhà văn đều thể hiện bi kịch của những người nghệ sĩ trong một xã hội nhiều khổ đau. Đó là bi kịch giữa khát vọng, hoài bão lớn lao mâu thuẫn không lối thoát với thực tế đời sống. Nam Cao đã đứng về người nghệ sĩ trong thời buổi “mưa âu gió mỹ” để cảm thương cho nỗi khổ đau của những con người “muốn nâng cao giá trị cuộc đời” nhưng cuối cùng lại bị nợ áo cơm ghì cho sát đất. Hộ phát “điên lên”. Bởi vì anh phải lao vào cuộc sống đời thường với biết bao bon chen, xô bồ. Đau đớn nhất là anh phải tàn phá nghề văn mà anh nâng niu, gìn giữ rất thiêng liêng. Điều anh có thể làm lúc này đó là viết ẩu, viết cẩu thả, viết để có tiền. Anh phải viết như một con rối cái thứ văn “rất nhẹ, rất nông” quấy loãng trong những tình cảm hời hợt, phải viết những bài báo mà người ta đọc là quên ngay, phải “đỏ mặt” vò nát sách khi thấy tên mình ở đó. Điều đó cắt vào tâm trí Hộ những nỗi đớn đau, bế tắc, không lối thoát. Một kẻ coi văn chương là lẽ sống, coi nghệ thuật là tất cả, ngoài nghệ thuật ra không còn gì đáng quan tâm, kể cả đói rét cũng không thể tàn phá được tình yêu và nỗi say mê ấy. Một kẻ đã luôn miệng nói về một tác phẩm tầm cỡ, phá vỡ mọi giới hạn để đưa con người đến với yêu thương, bác ái công bằng. Một kẻ luôn khao khát giải văn chương cao quý để nâng tầm giá trị. Kẻ đó nay đâu còn. Hắn là một kẻ khốn nạn, đê tiện. Một kẻ đáng khinh. Bởi hắn không mang lại một giá trị gì cho văn chương cả ngoài những thứ vô vị. Bi kịch của Hộ là ở đó. Khổ đau của Hộ cũng từ đó mà ra. 15 | P a g e Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12 Bi kịch vỡ mộng văn chương lại đẩy Hộ vào vòng xoáy của bi kịch thứ hai. Rượu – màu trắng nhưng đã làm Hộ đỏ mặt và đen danh dự. Anh hành động như một kẻ vũ phu tàn ác, nhẫn tâm trước người vợ thảo hiền, yếu đuối với bàn tay da “xanh trong xanh lọc” đã yêu anh như cái tình “của con chó dành cho người chủ”. Bởi anh đổ lỗi cho hoàn cảnh là vì vợ con. Anh đã vi phạm vào nguyên tắc tình thương của chính mình đạp đỗ hết bao khuôn vàng thước ngọc mà anh đã đặt ra. Anh đã rơi vào biên giới của sự xấu xa, sa đọa. Phần “người” cao đẹp trong anh từng bước bị chính anh hủy hoại. Con người lúc này của anh bị đạp đổ đã giết chết “con người” anh lúc trước, anh tự giết mình để một lúc nào đó đau đớn bất lực thốt lên “Thôi ta đã hỏng thật rồi”. Vũ Như Tô cũng rơi vào bi kịch như thế, bi kịch vỡ mộng. Người kiến trúc sư vĩ đại ấy đã rơi vào bi kịch của người nghệ sĩ có tài và có hoài bão lớn, nhưng không giải quyết được mối quan hệ phức tạp giữa nghệ thuật và đời sống, đặc biệt là không lý giải được một cách đúng đắn vấn đề sáng tạo nghệ thuật cho ai và để làm gì. Nghệ thuật xứng đáng được tôn vinh vì nó là sản phẩm cao quý trong sáng tạo. Nhưng vì nghệ thuật mà hy sinh và chà đạp lên những giá trị khác của cuộc sống thì cần phải xem xét lại. Xuất phát từ mục đích cao cả là sáng tạo nghệ thuật, nhưng Vũ Như Tô đã làm cho “dân lầm than, man di oán giận”, vì thế trở thành đối tượng cho dân chúng, thợ thuyền dồn nỗi căm hận. Vũ Như Tô là hiện thân của niềm say mê nghệ thuật . Khi gặp người “đồng bệnh” Đan Thiềm khuyên nên “tô điểm non sông” thì tài năng bung nở với một sức bật không gì có thể ngăn cản. Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài với một quyết tâm lớn, mặc cho “dân gian lầm than”. Chà đạp lên tính mạng dân chúng không phải là tính cách của người thợ cả đôn hậu Vũ Như Tô. Vậy vì sao quyền sống của dân lại bị hy sinh một cách không thương xót? Bởi vì trong cuộc đấu tranh vì nghệ thuật thì con người nghệ sĩ đã chiến thắng con người đời thường. Với Vũ Như Tô, cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi được sáng tạo nghệ thuật, Vũ Như Tô và niềm say mê không giới hạn là trạng thái gây ra bi kịch. Cuối cùng Cửu Trùng Đài thành tro bụi, Vũ Như Tô ra pháp trường. Đó là những điểm gặp gỡ tương đồng giữa Nam Cao và Nguyễn Huy Tưởng khi viết về những con người tài hoa nhưng có số phận nghiệt ngã, nạn nhân của một xã hội đầy những trái ngang, bất công. Bên cạnh điểm giống nhau ấy, ta thấy giữa Hộ và Vũ Như Tô cũng có nhiều điểm khác biệt. 16 | P a g e Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12 Vũ Như Tô chỉ có một bi kịch. Ông khát vọng nghệ thuật và đam mê sáng tạo nhưng những đam mê ấy của ông lại đặt lầm nơi lạc chốn, lạc điệu với thời thế, xa rời thực tế, nên đã phải trả giá bằng chính sinh mệnh của bản thân và của cả công trình thấm đẫm mồ hôi tâm não của mình. Thật đau đớn thay, bi kịch thay cho đến khi cuộc nổi loạn nổ ra, Đan Thiềm mặt cắt không còn hột máu, hốt hoảng đến báo cho Vũ Như Tô, nếu không chạy trốn thì ông sẽ bị giết, nhưng Vũ Như Tô vẫn không chịu đi và vẫn day dứt một câu hỏi: “Tôi có tội gì? Tôi làm gì nên tội? Làm gì phải trốn?”. Khi tất cả chỉ là ảo vọng. Đan Thiền và ông bị bắt, Cửu Trùng Đài bị thiêu huỷ thì ông mới bừng tỉnh, ngửa mặt lên trời mà cất lên tiếng than ai oán tuỵệt vọng “Trời ơi! Phú cho ta cái tài để làm gì. Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài!”. Vậy đó, trong xây dựng nghệ thuật, không có cái đẹp tách rời cái chân cái thiện. Tác phẩm nghệ thuật không thể chỉ mang cái đẹp thuần tuý, nó phải có mục đích chân chính là phục vụ nhân dân, phục vụ cuộc đời. “Văn chương không chỉ là văn chương mà thực chất là cuộc đời, cuộc đời là nơi xuất phát và là nơi đi tới của văn chương”. Người nghệ sĩ phải có hoài bão lớn, có khát vọng sáng tạo những công trình vĩ đại cho muôn đời, nhưng cũng biết xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa khát vọng đó với điều kiện thực tế cuộc sống với đòi hỏi của muôn dân. Vũ Như Tô thì không như thế. Cho nên đến khi chết Vũ Như Tô mới tỉnh giấc mộng của mình. Nhưng Hộ thì ngược lại, anh không phải là bị mù quáng như Vũ Như Tô đến nỗi không nhận ra đúng sai. Hộ đam mê nhưng không đến nỗi mù quáng. Hộ biết xấu hổ trước những hành động sai trái của mình. Tự biết phải mắng mình như một thằng khốn nạn bởi sự cẩu thả bất lương của mình đối với văn chương. Biết ân hận về những việc đã làm. Nam Cao có lẽ cũng đã rơi lệ khi miêu tả sự giằng xé, khổ tâm, sự ân hận của Hộ khi sau một cơn say dài anh tỉnh dậy và ôm lấy Từ mà khóc. Nước mắt anh như “quả chanh bị bóp mạnh”. Nước mắt ấy là nước mắt của con người có nhân cách có phẩm giá. Nước mắt của một tâm hồn khổ hạnh nhưng ấm áp tình người. Leptonxtoi từng nói “Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu. Tình yêu con người, ước mơ cháy bỏng vì một xã hội công bằng, bình đẳng bái ái luôn luôn thôi thúc các nhà văn sống và viết, vắt cạn kiệt những dòng suy nghĩ, hiến dâng bầu máu nóng của mình cho nhân loại”. Tác phẩm “Đời thừa” và “Vũ Như Tô” cùng ra đời một thời điểm. Và phải chăng hai nhà văn đều cùng chung một nỗi niềm với những người nghệ sĩ đã dành trọn cuộc đời cho nghệ thuật ? Hướng đến Vũ Như Tô – một kiến trúc sư tài năng, nhà văn còn gợi những suy nghĩ sâu sắc về 17 | P a g e Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12 mối quan hệ giữa người nghệ sĩ với hoạt động sáng tạo nghệ thuật và thực tế đời sống nhân dân. Với nhân vật Hộ - một nhà văn chân chính, Nam Cao cũng đã cất lên tiếng kêu cứu đối với con người. Xã hội phải biết tạo điều kiện sáng tạo cho các tài năng, vun đắp tài năng, quý trọng nâng niu những giá trị nghệ thuật đích thực. Hãy đạp đổ xã hội ấy đi, hãy cứu lấy người trí thức. Hai nhà văn cũng bất lực trong việc giải quyết bi kịch nhân vật. Có thể là do tầm nhìn hạn chế về “con người là nạn nhân của hoàn cảnh”. Nhìn chung hai nhà văn đều có điểm tương đồng về người nghệ sĩ nhưng cách thể hiện lại khác nhau. Bi kịch của Vũ Như Tô là bi kịch mà chính người nghệ sĩ không thể lý giải được, bi kịch của Hộ là bi kịch ngấm ngầm, dai dẳng có lẽ vì bản thân Nam Cao từng phải sống như thế, cơ cực như thế. Bi kịch của Vũ Như Tô đẩy ông đến với cái chết đầy bi tráng. Bi kịch của Hộ đưa Hộ trở về với thiên chức nhà văn, sự tỉnh ngộ và nhận thức mang đến cái kết có hậu. Có thể nói, xây dựng nhân vật Hộ và Vũ Như Tô, nhà văn Nam Cao và Nguyễn Huy Tưởng đã không hẹn mà cũng nhau tái hiện trên trang giấy của mình những nhân vật tư tưởng. Ở những nhân vật ấy vừa có những điểm chung thống nhất, hài hòa vừa có những điểm riêng tạo nên phong cách và cá tính sáng tạo ở mỗi nhà văn. Từ đó thông qua hai nhân vật, các nhà văn đã đặt ra vấn đề có ý nghĩa xã hội, lịch sử: Xã hội phải biết tạo điều kiện sáng tạo cho các tài năng, vun đắp tài năng, quý trọng nâng niu những giá trị nghệ thuật đích thực. Đề ra: Anh/chị hãy phân tích hình tượng rừng xà nu (cây xà nu) trong tác phẩm "Rừng xà nu" của nhà văn NGuyễn Trung Thành. SGK Ngữ văn 12. Tập 2. NXB Giáo dục 2012 (RẤT QUAN TRỌNG CHO THI TỐT NGHIỆP) HƯỚNG DẪN (Bài của Thầy Phan Danh Hiếu, chủ biên cuốn sách CẨM NANG LUYỆN THI ĐH NGỮ VĂN - NXB ĐHQG Hà Nội 2014. Mua online gọi số chú Toàn: 0908588758) I. MỞ BÀI 18 | P a g e Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12 Nguyễn Trung Thành là nhà văn đã gắn bó máu thịt với chiến trường Tây Nguyên trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Chính vùng đất và con người nơi đây đã để lại nhiều dấu ấn trong những trang viết của ông qua “Đất nước đứng lên” và “Rừng xà nu”. Tác phẩm “Rừng xà nu” ra đời trong giai đoạn kháng chiến chống Mĩ ác liệt. “Rừng xà nu” có thể được xem là bản anh hùng ca mang đâ âm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn về cuô âc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên anh hùng. Để viết nên bản giao hưởng anh hùng ca đấy, ngoài những con người Tây Nguyên đáng yêu như Tnú, cụ Mết, Mai, Dít…, phải kể đến mô ât hình tượng không kém phần hấp dẫn. Đó là cây xà nu, mô ât hình tượng vừa giàu ý nghĩa thẩm mĩ, vừa giàu ý nghĩa nhân sinh. II. THÂN BÀI 1. Khái quát: Tác phẩm “Rừng Xà Nu” ra đời vào thời điểm mùa hè năm 1965 khi đế quốc Mỹ bắt đầu cuộc chiến tranh cục bộ. Tác phẩm được in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Bối cảnh của thiên truyện là mảnh đất Tây Nguyên với những con người anh hùng, kiên trung, bất khuất. Truyện có hai cuộc đời lồng vào nhau: cuộc đời của Tnú và cuộc đời của rừng xà nu. 2. Nội dung phân tích a. Cây xà nu là một phần máu thịt trong đời sống vật chất và tinh thần của người dân làng Xô Man: theo tác giả thì đó là “một loại cây hùng vĩ và cao thượng, man dại và trong sạch, mỗi cây cao vút, vạm vỡ, ứ nhựa, tán lá vừa thanh nhã vừa rắn rỏi mênh mông, tưởng như đã sống tự ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau, từng cây, hạng vạn, hàng triệu cây vô tận. Không khí ở đây thơm lừng…” + Hình tượng cây xà nu được tác giả miêu tả từ nhiều góc đô â và đưa lại hiê âu quả thẩm mĩ đă câ biê ât. Với kết cấu trùng điê âp, cây xà nu có mă ât từ đầu đến cuối tác phẩm. Nó hiê ân diê ân trong suốt câu chuyê ân về Tnú và dân làng Xô Man của anh. Gần hai mươi lần, tác giả nói đến “Rừng xà nu”, “đồi xà nu”,”cây xà nu”, “nhựa xà nu”, “khói xà nu”, “lửa xà nu”…điều này cho thấy xà nu là mạch hồn của tác phẩm. + Xà nu gắn bó với cuộc sống sinh hoạt hàng ngày thân thuộc với dân làng: lửa xà nu cháy bập bùng trong nhà ưng tập trung cả dân làng để nghe cụ Mết kể về cuộc đời Tnú. Khói xà nu đen nhẻm thân hình lũ trẻ; khói xà nu còn làm tấm bảng đen cho anh Quyết dạy Tnú và Mai học chữ cụ Hồ… 19 | P a g e Tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn lớp 12 + Xà Nu còn tham dự vào những sự kiện quan trọng của cuộc sống làng Xôman: ngọn đuốc xà nu cháy sáng trên tay cụ Mết dẫn cả dân làng đi vào rừng sâu lấy giáo mác chuẩn bị cho cuộc nổi dậy. Đêm đêm cả dân làng thức mài vũ khí dưới ánh đuốc xà nu bập bùng. Giặc đốt đôi bàn tay Tnú bằng giẻ tẩm nhựa xà nu và lửa xà nu chứng kiến cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man. b. Cây xà nu tượng trưng cho phẩm chất và số phận con người Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ. Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù gợi nghĩ đến những mất mát đau thương mà đồng bào ta đã phải trải qua trong thời kì cách mạng miền Nam bị khủng bố khốc liệt. + Mỗi ngày giặc bắn đại bác ba lần vào làng nhưng làng Xô Man vẫn bình yên vì “Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn”. Đổi lại, vì bảo vệ cho dân làng nên cánh rừng xà nu lại chịu nhiều đau thương mất mát: “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào là không bị thương. Có những cây bị đạn đại bác chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão”. Ở chỗ khác, nhà văn miêu tả kỹ hơn: “Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người đã bị đạn đại bác chặt đứt làm đôi, ở những cây này nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, chỉ năm mười hôm là cây chết ”. Qua việc miêu tả ấy, bằng nghệ thuật nhân hoá, ẩn dụ tượng trưng tác giả đã làm hiện lên nỗi đau thương mất mát của dân làng Xô Man và tố cáo tội ác của kẻ thù. Viết về nỗi đau của cây mà ta cứ ngỡ như nỗi đau của con người. Mỗi một cây xà nu ngã xuống ta cứ ngỡ như một con người Xô Man ngã xuống. Phải chăng đó là hình ảnh của anh Xút, bà Nhan, mẹ con Mai, anh Quyết… những người đã ngã xuống vì chính nghĩa dưới bàn tay tàn bạo của kẻ thù. Nhưng trong đau thương, cây xà nu vẫn hiện lên bởi những vẻ đẹp thăng hoa đến sững sờ. Đẹp trong dáng ngã kiêu hùng, bất khuất “đổ ào ào như một trận bão”. Đẹp bởi đường nét, màu sắc, hình khối, trong đau thương mà vẫn hiện hữu hương thơm và ánh sáng “nơi chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề thơm ngào ngạt long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành cục máu lớn”. Đó chính là vẻ đẹp gắn liền với chất bi tráng, chất sử thi hào hùng của vùng đất thiêng Tây Nguyên hùng vĩ. c. Trong bom đạn chiến tranh, thương tích đầy mình cây xà nu vẫn hiên ngang vươn lên mạnh mẽ như người dânTây Nguyên kiên cường bất khuất, không khuất phục trước kẻ thù tàn bạo. 20 | P a g e
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan