Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ TÁI CẤU TRÚC HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM: NHỮNG ẨN SỐ NHÌN TỪ THÔNG LỆ QUỐC TẾ...

Tài liệu TÁI CẤU TRÚC HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM: NHỮNG ẨN SỐ NHÌN TỪ THÔNG LỆ QUỐC TẾ

.PDF
19
109
82

Mô tả:

TÁI CẤU TRÚC HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM: NHỮNG ẨN SỐ NHÌN TỪ THÔNG LỆ QUỐC TẾ 1
TÁI CẤU TRÚC HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM: NHỮNG ẨN SỐ NHÌN TỪ THÔNG LỆ QUỐC TẾ1 PGS.TS. Nguyễn Hồng Sơn Hiệu trưởng Trường Đai học Kinh tế-ĐHQGHN TS. Trần Thị Thanh Tú Phó Chủ nhiệm khoa Tài chính-Ngân hàng Trường Đại học Kinh tế, Đại học quốc gia Hà nội Mở đầu Quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam đã bắt đầu được tiến hành theo Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015”. Có thể thấy rằng Việt Nam đang có cách tiếp cận chủ động trong tái cấu trúc hệ thống ngân hàng nhằm đảm bảo đạt được các mục tiêu một cách hiệu quả nhất trong điều kiện chưa có nguy cơ khủng hoảng hay suy thoái nghiêm trọng. Tuy nhiên, xét trên giác độ lý luận và thực tiễn, vẫn còn nhiều vấn đề có liên quan đến đối tượng, biện pháp, lộ trình, những khó khăn, thách thức và các nhân tố ảnh hưởng trong quá trình tái cấu trúc cần phải được nghiên cứu, bổ sung và cụ thể hóa. Bài viết tập trung phân tích những ẩn số cần làm rõ trong quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam, trên cơ sở nghiên cứu thông lệ quốc tế và kết quả điều tra khảo sát 41 Ngân hàng thương mại và phỏng vấn sâu 20 chuyên gia trong lĩnh vực ngân hàng. Tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng Việt Nam – So sánh với thông lệ quốc tế và kết quả khảo sát Tiếp theo việc thực thi Luật các TCTD sửa đổi (có hiệu lực năm 2011), vào đầu năm 2012 hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam đã bắt đầu quá trình tái cơ cấu theo Đề án mới được ban hành (Quyết định số 254/QÐ-TTG, ngày 1/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ: “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 2015"). Đề án đã đưa ra các mục tiêu chung đến năm 2020 và các mục tiêu cụ thể đến năm 2015, xác định rõ các quan điểm, định hướng, giải pháp và lộ trình thực hiện tái cơ cấu các tổ chức tín dụng (TCTD) Việt Nam trong giai đoạn 2011-2015. Riêng đối với các NHTM, đề án chia các ngân hàng thành 02 nhóm đối tượng: NHTMNN và 1 Bài vi t đ c th c hi n d a trên k t qu nghiên c u v “M t s v n đ v Tái c u trúc h th ng Ngân hàng Vi t Nam hi n nay” do nhóm nghiên c u c a Tr n i th c hi n, tháng 5/2012. ng Đ i h c Kinh t , Đ i h c qu c gia Hà NHTM cổ phần, trong đó NHTM cổ phần lại được chia thành 03 nhóm: nhóm ngân hàng lành mạnh, nhóm ngân hàng thiếu thanh khoản tạm thời và nhóm ngân hàng yếu kém. Trên cơ sở đó, đề án cũng đã đưa ra các định hướng và giải pháp tái cơ cấu khác nhau đối với từng nhóm ngân hàng2. Trong bài viết này, nhóm nghiên cứu sẽ rà soát toàn bộ đề án tái cơ cấu các TCTD theo khung khổ lý thuyết từ: đối tượng tái cơ cấu, mô hình/cơ quan thực hiện tái cơ cấu, giải pháp tái cơ cấu và lộ trình tái cơ cấu. Trên cơ sở đó, kết hợp với kết quả điều tra khảo sát các NHTM và chuyên gia, nhóm nghiên cứu sẽ chỉ ra những lỗ hổng, ẩn số cần làm rõ để quá trình tái cơ cấu hệ thống NHTM ở Việt Nam được thành công. Đối tượng tái cấu trúc Đối tượng của tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thường được hiểu theo hai nghĩa rộng và hẹp. Xét theo nghĩa rộng, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là quá trình tái cấu trúc tất cả các bộ phận cấu thành của hệ thống, bao gồm: i) ngân hàng trung ương; ii) hệ thống ngân hàng thương mại; iii) hệ thống ngân hàng chính sách xã hội và ngân hàng phát triển; và iv) hệ thống các tổ chức tín dụng vi mô. Xét theo nghĩa hẹp, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng chỉ bao gồm việc giải quyết những vấn đề của một trong những cấu phần nói trên của hệ thống, hoặc thậm chí là một ngân hàng có nguy cơ đổ vỡ ngay trong điều kiện hệ thống ngân hàng vẫn đang hoạt động hiệu quả (Waxman, 1998). Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu cho thấy, có đến hơn 38% người được hỏi cho rằng ở Việt Nam việc tái cấu trúc NH cần tái cấu trúc được hiểu là tái cấu trúc toàn bộ hệ thống NHNN và các NHTM, các tổ chức tài chính tín dụng phi ngân hàng. Trong đó, khoảng 30% người được hỏi cho rằng chỉ tập trung tái cấu trúc hệ thống NHTM và các TCTD, và khoảng 20% người được hỏi trả lời tái cấu trúc NH nên tập trung vào hệ thống NHTM. Trong đó, có rất nhiều ý kiến cho rằng, chính vì những điều hành chính sách tiền tệ của NHNN trong thời gian qua thường đi sau thực tiễn và không đủ khả năng để lường trước được các diễn biến thực tế có thể xảy ra, đã góp phần đẩy các NHTM vào trạng thái bị động. Như vậy, có thể nói, một đối tượng quan trọng và có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của hệ thống NHTM và các TCTD chính là NHNN và để có thể tái cấu trúc toàn diện hệ thống NH, việc tái cấu trúc/cải cách NHNN cũng cần được đặt ra trong dài hạn, chứ không phải chỉ tập trung vào tái cấu trúc hệ thống NHTM. Thêm vào đó,các ngân hàng như Ngân hàng chính sách xã hội và Ngân hàng phát triển Việt Nam cũng cần được tái cấu trúc lại cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh mới. Các giải pháp thực hiện tái cấu trúc 2 Xem cụ thể: Đề án: “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015". http://www.NHNN.gov.vn Theo khảo sát tại 24 quốc gia thực hiện tái cấu trúc của IMF (Dziobek, 1998), mỗi quốc gia có những phương pháp để giải quyết cuộc khủng hoảng hệ thống ngân hàng với mức độ thành công khác nhau. Trong đó, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại đòi hỏi kết hợp nhiều biện pháp, thường là các biện pháp như (Dziobek và Pazarbasioglu, 1998): i) Chính phủ bơm vốn hoặc mua cổ phiếu để nắm giữ quyền quản lý; ii) đóng cửa các ngân hàng không có khả năng tồn tại một cách có trật tự (đồng thời chi trả bảo hiểm tiền gửi hoặc bán phần hoạt động tốt cho ngân hàng khác); iii) sáp nhập các ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài; iv) sáp nhập ngân hàng trong nước với nhau; v) thành lập công ty quản lý tài sản; vi) thay đổi cơ cấu sở hữu ngân hàng (ví dụ, tư nhân hóa).3 Hình 1. Mức độ hiệu quả của việc sáp nhập các NH nếu được thực hiện ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu, 3/2012 Có hai nhóm giải pháp đang được tập trung thực hiện ở Việt Nam đó là: sáp nhập các ngân hàng trong nước với nhau và khuyến khích các NH nước ngoài nắm giữ cổ phần tại các NH trong nước, tăng room cho nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Điều này chứng tỏ cách làm của Việt Nam cũng khá phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, đánh giá về mức độ hiệu quả của hai nhóm giải pháp này còn rất nhiều ý kiến khác nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy, giải pháp được đánh giá đạt mức hiệu quả cao nhất, mức 4, là sáp nhập các NH mạnh với các NH yếu để vực các NH yếu. Tuy nhiên, cũng chỉ có hơn 10% người được đánh giá cao giải pháp này, 3 Claudia Dziobeck và Ceyla Pazarbasioglu (1998) cho rằng ngoài các biện pháp trên, cần có những biện pháp vĩ mô đối với từng thể chế và các yếu tố pháp lý nhằm điều chỉnh và khôi phục hệ thống ngân hàng có vấn đề nhằm đảm bảo khả năng thanh toán và khả năng sinh lời bền vững, như thay đổi, cải tổ các quy định, chính sách về hoạt động ngân hàng, giám sát hệ thống tài chính, ngân hàng. vì họ cho rằng việc sáp nhập NH mạnh vào NH yếu sẽ phát sinh những chi phí nhất định, và có thể làm cho NH mạnh yếu đi. Giải pháp được nhiều người ủng hộ nhất trong thời điểm hiện nay là sáp nhập các NH để phân chia theo khu vực hoạt động (chiếm hơn 55% với mực độ hiệu quả 3). Giải pháp sáp nhập các NH lớn để tăng khả năng cạnh tranh và sáp nhập các NH yếu kém với nhau được đánh giá có mức độ hiệu quả thấp, với gần 45% người đồng tình. Như vậy, có thể thấy các giải pháp sáp nhập ngân hàng đang được thực hiện thiên về giải pháp ngắn hạn, nhằm giải quyết yếu kém về thanh khoản cho các một số ngân hàng yếu. Một trong những yếu kém của hệ thống NH Việt Nam hiện nay là quy mô vốn tự có thấp, theo thông lệ quốc tế, có 4 giải pháp thường được sử dụng để hỗ trợ tăng vốn cho các NH để vượt qua khỏi khủng hoảng. Kết quả điều tra cho thấy, giải pháp tăng room cho các nhà đầu tư nước ngoài được đánh giá hiệu quả nhất, với hơn 40% người trả lời. Giải pháp Chính phủ góp vốn đối ứng bên cạnh vốn của tư nhân, mặc dù được đánh giá đạt mức hiệu quả khá cao, với hơn 55% người đồng tình, nhưng theo Laurent Quignon (2006) thì có thể gây ra những ảnh hưởng lớn hơn tới chính sách tài khóa, tiền tệ, làm tăng lượng nắm giữ của nhà nước đối với ngân hàng và có thể dẫn đến rủi ro đạo đức. Mặc dù đây là giải pháp được đánh giá cao nếu thực hiện ở Việt Nam qua kết quả phản biện chính sách song chưa rõ nguồn lực tài chính từ đâu để Chính Phủ có thể góp vốn. Hình 2. Mức độ hiệu quả của các giải pháp tăng vốn tự có Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu, 3/2012 Để cải thiện khả năng thanh khoản của các NH hiện nay, kết quả khảo sát cho thấy, có đến hơn 60% người đánh giá giải pháp NHNN cho vay trên cơ sở các trái phiếu bảo đảm do NHTM phát hành với mức độ hiệu quả khá cao (mức 3), tuy nhiên, giải pháp này hiện nay chưa được thực hiện mạnh ở Việt Nam. Trong khi đó, hơn 55% người được hỏi cho rằng việc NHNN bơm vốn cho các NH gặp khó khăn về thanh khoản được đánh giá ở mức độ hiệu quả dạng 2, thấp, thì giải pháp này đang được áp dụng khá phổ biến hiện nay. Ngoài ra, việc các NH lớn hỗ trợ, hợp tác các NH nhỏ giải quyết khó khăn về thanh khoản cũng là giải pháp được đánh giá có mức hiệu quả cao nhất, như trường hợp BIDV và VCB hỗ trợ một số NH nhỏ, tuy nhiên, giải pháp này tỏ ra hiệu quả trong giai đoạn khủng hoảng chưa chín muồi, áp lực thanh khoản do cạnh tranh lãi suất chưa thực sự mạnh mẽ. Tuy nhiên, tương tự như giải pháp tăng vốn tự có, giải pháp NHNN bơm vốn để hỗ trợ thanh khoản được đánh giá khá hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc tế nhưng sẽ gây áp lực lên ngân sách nhà nước, vốn đã thường xuyên thâm hụt. Hình 3. Mức độ hiệu quả của các giải pháp cải thiện thanh khoản cho các NHTM trong quá trình tái cấu trúc NH Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu, 3/2012 Theo thông lệ quốc tế, việc đóng cửa các ngân hàng không có khả năng tồn tại một cách có trật tự (đồng thời chi trả bảo hiểm tiền gửi hoặc bán phần hoạt động tốt cho ngân hàng khác) là một trong những giải pháp được coi là ưu tiên hàng đầu để xử lý các NH yếu kém, thanh lọc khỏi hệ thống (Dziobek, 1998). Theo kết quả điều tra, việc cho giải thể, phá sản các NH yếu kém nhận được nhiều ý kiến đồng tình nhất (hơn 60%) với mức độ hiệu quả là khá cao (mức 3). Đỗ Thiên Anh Tuấn (2012) cho rằng lo lắng về việc không đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền, dẫn đến tâm lý hoang mang, gây ra đổ vỡ hệ thống là trách nhiệm, trước hết phải thuộc về các ông chủ ngân hàng những người đã trực tiếp ký nhận tiền gửi với khách hàng - chứ không thể là Chính phủ. Do vậy, thông điệp không để đổ vỡ ngân hàng cần mang nội hàm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, thay vì các cổ đông. Buộc phải phá sản những ngân hàng yếu kém là một hình thức trừng phạt có ý nghĩa và đỡ tốn kém hơn nhiều so với bất kỳ sự cam kết nào khác của Chính phủ. Hình 4. Giải pháp đối với các NH yếu kém, không có khả năng thanh toán, thua lỗ (nếu được áp dụng ở Việt Nam) Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu, 3/2012 Giải pháp sáp nhập với các NH khá hơn hoặc các NH yếu kém tương tự chỉ được đánh giá mức độ hiệu quả thấp (mức 2) với hơn 40% người đồng tình. Các chuyên gia cũng cho rằng, giải pháp Nhà nước bỏ tiền ra để cứu khỏi phá sản là có mức độ hiệu quả rất thấp hoặc không hiệu quả, nhưng cũng có đến 30% người đồng ý, khi mà các giải pháp khác tỏ ra không hiệu quả, hoặc Chính phủ chấp nhận bỏ ra một khoản chi phí để cứu các NH vì mục tiêu chính trị xã hội. Cũng có nhiều ý kiến cho rằng có thể bán các NH yếu kém cho nhà đầu tư hay đối tác nước ngoài. Tuy nhiên, với các NH nhỏ thì nhà đầu tư nước ngoài chỉ quan tâm đến việc mua lại phần lớn hoặc toàn bộ để “bõ công” thay đổi, còn nếu chỉ chiếm một tỷ lệ khống chế dưới 30% như hiện nay thì vốn đầu tư quá nhỏ với họ, không đáng để tạo ra sự thay đổi. Theo quan điểm của nhóm nghiên cứu, các giải pháp Nhà nước hỗ trợ thanh khoản hoặc bỏ tiền ra cứu cho các ngân hàng yếu kém là không khả thi, xét cả trên giác độ nguồn lực tài chính và rủi ro lợi ích nhóm. Do vậy, một phương án cho phép các ngân hàng yếu kém “âm thầm” đóng cửa trên cơ sở bảo vệ lợi ích của người gửi tiền sẽ tiết kiệm chi phí và tổn thất xã hội sẽ thấp nhất. Mục tiêu cải thiện lòng tin của dân chúng vào hệ thống NH là một trong 3 mục tiêu của tái cấu trúc NH do IMF đưa ra (IMF, 1999). Giải pháp tăng tính minh bạch thông tin của hệ thống NH được đánh giá mức độ hiệu quả cao nhất, với gần 60% người trả lời, tiếp theo là tăng tính tuân thủ của các qui định trong lĩnh vực NH được đánh giá mức độ hiêu quả khá cao với hơn 60% người trả lời (Hình 5). Giải pháp tăng tính hiệu quả của cơ chế thanh tra giám sát, mặc dù cũng nhận được gần 50% người ủng hộ nhưng lại được đánh giá mức độ hiệu quả rất thấp. Giải pháp về tăng mức phí bảo hiểm tiền gửi lại không nhận được sự ủng hộ và mức hiệu quả rất thấp. Các chuyên gia cũng cho rằng, trong bối cảnh hiện nay, chính người dân phải tự chịu trách nhiệm về việc lựa chọn các NH uy tín để gửi tiền, chứ không phải chạy đua theo lãi suất. Khi đó, việc đảm bảo công khai, minh bạch thông tin trong hệ thống NH sẽ càng có vai trò quan trọng. Nếu mức bảo hiểm có tăng lên nữa, thì khi rủi ro xảy ra, người thiệt hại đầu tiên sẽ là người gửi tiền, trừ trường hợp bảo hiểm 100%. Bên cạnh đó, phí bảo hiểm tiền gửi nên được tính theo mức độ rủi ro của NH, chứ không phải là mức đồng đều 0,15% tính trên dư nợ tiền gửi, mức bảo hiểm cũng nên tính theo tỷ lệ phần trăm của món tiền gửi chứ không phải một mức 50 triệu như hiện nay. Tuy nhiên, xác định/đo lường chính xác mức độ lòng tin của dân chúng vào hệ thống NH vẫn là một câu hỏi lớn trong quá trình tái cấu trúc hệ thống NH. Trong khi đó, mức độ lòng tin của dân chúng lại phụ thuộc rất lớn vào các yếu tố như: tính tuân thủ các qui định trong lĩnh vực TCNH, tính hiệu quả của cơ chế thanh tra giám sát, tính minh bạch của thông tin trên thị trường. Làm thế nào đo lường được mức độ tin tưởng của dân chúng? Làm thế nào cải thiện được chỉ số này? Và dù có đo lường, xác định được, thì một mình NHNN cũng khó có thể cải thiện/thay đổi được chỉ số này trong ngắn hạn. Do vậy, cần thiết phải có một khảo sát, điều tra hoặc nghiên cứu nhằm đánh giá mức độ lòng tin của dân chúng đối với hệ thống NH. Kết quả nghiên cứu sẽ rất hữu ích cho cơ quan quản lý nhà nước trong việc phát hiện xử lý các vi phạm kỷ luật thị trường, đặc biệt là hoạch định các giải pháp tái cấu trúc hệ thống NH trong dài hạn nhằm củng cố niềm tin dân chúng, hướng tới phát triển bền vững hệ thống NH. Hình 5. Mức độ hiệu quả của các giải pháp cải thiện lòng tin vào hệ thống NH Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu, 3/2012 Lộ trình tái cấu trúc Trong ngắn hạn: Kết quả điều tra cho thấy, việc xác định chính xác và xử lý nợ xấu được coi là ưu tiên hàng đầu cho các biện pháp ngắn hạn để tái cấu trúc NH hiện nay (35% người trả lời), tiếp theo là tăng vốn tự có và cải thiện lòng tin của dân chúng đối với hệ thống NH (lần lượt chiếm 26% và 22%), giải pháp phân loại NH để kiểm soát tín dụng chỉ nhận được sự đồng tình của 13% người trả lời. Rõ ràng, một trong những quan ngại lớn nhất của giới chuyên gia và lãnh đạo NH vẫn là việc xác định chính xác tỷ lệ nợ xấu và xử lý nợ xấu, để có thể bắt đúng bệnh và đưa ra liều thuốc chữa bệnh phù hợp. Tuy nhiên, có chuyên gia cho rằng, việc tăng vốn tự có sẽ tạo ra một áp lực buộc các NH nhỏ tìm mọi cách chỉ để đáp ứng yêu cầu về vốn tự có tối thiểu, trong khi năng lực quản trị điều hành của họ chưa kịp thay đổi với quy mô tổng tài sản tăng lên gấp 20 lần với mỗi đồng vốn tự có tăng lên (1 NH tăng vốn tự có từ 2.000 tỷ đồng lên 3.000 tỷ đồng, có nghĩa là có khả năng tăng tổng tài sản lên 20.000 tỷ đồng). Đỗ Thiên Anh Tuấn (2012) cho rằng, điều này đã đặt các ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng cổ phần nông thôn và ngân hàng quy mô nhỏ, phải chạy đua với nhau để tăng quy mô vốn một cách rất gấp gáp trong khi năng lực quản trị cần có cho một ngân hàng quy mô lớn hơn nhiều đã không theo kịp. Vẫn bộ máy quản trị ngân hàng cũ và những con người cũ nhưng quản trị một ngân hàng có quy mô lớn lại hoạt động trong môi trường cạnh tranh hơn. Hệ quả là khi nền kinh tế rơi vào bất ổn thì các yếu kém bắt đầu lộ ra mà hậu quả là những gì mà công cuộc tái cấu trúc cần phải giải quyết. Do vậy, thay vì quy định vốn tự có tối thiểu, cơ quan quản lý, giám sát NH có thể đưa ra quy định về CAR tối thiểu, và có cơ chế giám sát cụ thể vừa đảm bảo khả năng an toàn hoạt động cho NH, vừa tạo điều kiện để các NH chủ động trong việc tăng hay giảm quy mô phù hợp với năng lực quản trị của mình. Hầu hết các giải pháp đã được đề xuất trong đề án đều theo thông lệ quốc tế, tuy nhiên, một trong những vấn đề chưa được đề cập đến trong đề án là nguồn lực, cả về tài chính và nhân lực, cả trên giác độ nhà nước, dân chúng, và chính bản thân các ngân hàng. Do vậy, trên quan điểm nghiên cứu và phản biện chính sách, nhóm nghiên cứu cho rằng, các giải pháp đang được thực hiện, phần nhiều có thiên hướng hành chính, tận dụng ưu thế quản lý điều hành của NHNN để khuyến khích các NH lớn đưa ra các giải pháp hỗ trợ cho các NH yếu kém hoặc dùng nguồn lực của nhà nước, vốn đã khan hiếm để cứu các NH yếu kém. Trong dài hạn Kết quả khảo sát cho thấy, đánh giá về các biện pháp dài hạn, ưu tiên hàng đầu được dành cho giải pháp nhằm tăng cường năng lực thanh tra giám sát của NHNN và năng lực quản trị điều hành (corporate governance) của các NHTM (chiếm 50% người trả lời). Điều này hoàn toàn phù hợp với những yếu kém của hệ thống NHTM hiện nay. Hình 6. Các giải pháp ngắn hạn trong tái cấu trúc NH Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu, 3/2012 Tuy nhiên, đối với giải pháp nâng cao năng lực thanh tra giám sát của NHNN lại liên quan đến việc tái cấu trúc/cải cách NHNN, mà trong bản đề án không được đề cập đến một cách cụ thể chi tiết. Bên cạnh đó, cũng có một số chuyên gia cho rằng cần cải thiện năng lực quản lý, điều hành chính sách tiền tệ của NHNN (chiếm 6% người trả lời). Điều này cũng không ngạc nhiên khi rất nhiều chuyên gia cho rằng một trong những lý do khiến rất nhiều NHTM gặp khó khăn về thanh khoản hay tín dụng, ngoài những nguyên nhân chủ quan, còn có nguyên nhân khách quan từ sự điều hành mang tính tình thế, chính sách đi sau thực tế của NHNN. Năng lực quản trị điều hành của các NHTM là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến đổ vỡ của các NHTM Mỹ trong giai đoạn khủng hoảng 2007-2008. Nhóm nghiên cứu cũng đã chỉ ra sự khác biệt giữa năng lực quản trị điều hành của các NHTM Việt Nam so với thông lệ quốc tế về quản trị công ty của OECD. Mặc dù tại thời điểm nghiên cứu, chưa có cơ sở để kết luận có mối quan hệ giữa năng lực quản trị điều hành với khả năng sinh lời của các NHTM, tuy nhiên, nhóm nghiên cứu đã thấy sự khác biệt trong chỉ số năng lực quản trị điều hành (CGI) của các NHTM niêm yết với các NHTM chưa niêm yết. Như vậy, rõ ràng, về dài hạn, việc nâng cao năng lực quản trị điều hành sẽ góp phần nâng cao tính minh bạch thông tin trong hoạt động của hệ thống NHTM. Hình 7. Các giải pháp dài hạn trong tái cấu trúc ngân hàng Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu, 3/2012 Một điều khá bất ngờ là có đến 22% người được hỏi cho rằng về dài hạn cần (i) xây dựng hệ thống pháp lý để Bảo hiểm tiền gửi có đủ năng lực tài chính và kỹ thuật để xử lý các NH đổ vỡ và (ii) xây dựng hệ thống pháp lý cho phép các NH phá sản. Hai nhóm giải pháp này có quan hệ chặt chẽ với nhau, vì chỉ khi nào pháp luật cho phép các NH phá sản, và Bảo hiểm tiền gửi đủ mạnh thì việc phá sản NH, xử lý các NH đổ vỡ sẽ diễn ra theo quy luật thị trường. Hai nhóm giải pháp này cũng hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế, tuy nhiên, chưa được đề cập đến trong đề án tái cấu trúc hiện nay. Thêm vào đó, về dài hạn, cần thiết lập mạng an toàn tài chính quốc gia. Theo Fred Carns (2011và Hiroyuki Obata (2011), mạng an toàn tài chính là hệ thống các cơ quan có trách nhiệm giám sát, duy trì ổn định hệ thống tài chính, ngăn ngừa khủng hoảng tại các nước và các cơ chế, công cụ được các cơ quan thực hiện nhằm đạt được mục tiêu trên. Theo thông lệ quốc tế, mạng an toàn tài chính của các nước thường bao gồm: Bộ Tài chính, Ngân hàng Trung ương, Cơ quan giám sát tài chính, tổ chức BHTG và một số cơ quan khác. Trong mạng an toàn tài chính, Bảo hiểm tiền gửi có chức năng đảm bảo duy trì niềm tin của người gửi tiền với vai trò giám sát, cảnh báo sớm, xử lý ngân hàng đổ vỡ góp phần đảm bảo an toàn hệ thống, qua đó đóng góp tích cực và chủ động vào việc ngăn ngừa và xử lý khủng hoảng. Như vậy, tổ chức BHTG có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ người gửi tiền (vi mô) và ổn định hệ thống tài chính (vĩ mô). Có thể thấy, xu hướng trên thế giới hiện nay, vai trò của tổ chức BHTG đang tiếp tục được củng cố thông qua việc áp dụng hạn mức cao hơn, củng cố nguồn vốn, quỹ BHTG, chi trả nhanh hơn, và cơ chế xử lý minh bạch trong đó có sự tham gia của tổ chức BHTG. Như vậy, có thể nói trong Đề án, vai trò của Bảo hiểm tiền gửi rất mờ nhạt, không tỏ rõ được vai trò và trách nhiệm của BHTG khi xảy ra đổ vỡ ngân hàng, bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền. Điều này hoàn toàn không phù hợp với thông lệ quốc tế, khi khủng hoảng NH xảy ra, chính BHTG là tổ chức đứng ra xử lý khủng hoảng và là cơ quan đầu mối tham gia thực hiện tái cấu trúc (kinh nghiệm thành công của Hàn Quốc, Đài Loan). Do vậy, với nguồn lực tái cấu trúc không rõ ràng, với sự tham gia mờ nhạt của tổ chức BHTG, có thể nói, sự thành công của quá trình tái cấu trúc hoàn toàn phụ thuộc vào “tài tình” của NHNN, cơ quan duy nhất là đầu mối thưc hiện tái cấu trúc hệ thống NH ở Việt Nam hiện nay. Cơ quan thực hiện tái cấu trúc Vấn đề cơ quan nào đóng vai trò lãnh đạo triển khai tái cấu trúc cũng quan trọng. Tại Thái Lan, Ủy ban tư vấn tái cấu trúc tài chính được thành lập để ban hành các hướng dẫn cần thiết. Ủy ban này do Thứ trưởng Bộ tài chính đứng đầu và bao gồm thành viên từ NHTW, bộ tài chính và khu vực tư nhân. Tương tự như vậy, tại Indonesia, cơ quan tái cấu trúc ngân hàng Indonesia lãnh đạo việc tái cấu trúc gồm các thành viên của các cơ quan quản lý nhà nước. Như vậy, xét về thực tế, Ngân hàng Trung ương thường không tham gia lãnh đạo trực tiếp mà chỉ đóng vai trò tham gia. John Hawkins (1999) đã thực hiện khảo sát về tái cấu trúc của 24 quốc gia cho thấy nếu Ngân hàng Trung ương chịu trách nhiệm tái cấu trúc, thì hệ thống ngân hàng thay đổi chậm và như vậy tái cấu trúc hệ thống ngân hàng khó đạt hiệu quả cao. Kết quả điều tra cho thấy, ở Việt Nam, cơ quan chịu trách nhiệm chính thực hiện tái cấu trúc ngân hàng, nên là NHNN (hơn 77%), hay Bộ tài chính (11%), còn lại các ý kiến cho rằng nên thành lập một Ủy Ban tái cấu trúc ngân hàng, trực thuộc Chính phủ, như kinh nghiệm của Nhật Bản và Hàn Quốc. Các chuyên gia cũng đưa ra những thuận lợi khi NHNN là đơn vị đầu mối thực hiện tái cấu trúc vì NHNN là đơn vị trực tiếp quản lý hệ thống NH, họ dễ dàng trong việc tiếp cận thông tin để nắm rõ thực trạng hoạt động của hệ thống (phân loại NH để kiểm soát tăng trưởng tín dụng), dễ dàng sử dụng các biện pháp hành chính trong việc thúc đẩy các giải pháp tái cấu trúc (khuyến khích các NH lớn hỗ trợ/mua lại các NH nhỏ). Tuy nhiên, cũng nhiều ý kiến chỉ ra những hạn chế của mô hình này là: (i) thông tin không minh bạch và chỉ có nội bộ NHNN nắm được kế hoạch tái cấu trúc trước khi đưa ra công bố công khai, (ii) thiếu sự kết hợp chặt chẽ với các cơ quan có liên quan, như Bộ Tài chính, Ủy Ban giám sát tài chính quốc gia, (iii) chi phí tái cấu trúc không xác định được chính xác, (iv) có thể dẫn đến mâu thuẫn lợi ích hoặc nảy sinh vấn đề lợi ích nhóm. Có thể nói, việc NHNN là cơ quan đầu mối thực hiện tái cấu trúc hệ thống NH như hiện nay cũng có những ưu điểm nhất định, tuy nhiên mô hình này vẫn tiềm ẩn những rủi ro nhất định. Những khó khăn, thách thức chính trong quá trình tái cấu trúc Theo Joseph Stiglitz, Kinh tế trưởng World Bank, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng sẽ khó hơn rất nhiều tại các nước đang phát triển bởi một số lý do cơ bản: i) thiếu cơ sở luật pháp, khoa học và năng lực thể chế cho việc tái cấu trúc hệ thống (ví dụ như cơ chế xử lý tài sản); ii) tỷ lệ các ngân hàng ở trong tình trạng thiếu thanh khoản và có tài sản xấu chiếm tỷ trọng lớn trong hệ thống ngân hàng, số lượng ngân hàng hoạt động hiệu quả để có khả năng mua lại, thâu tóm ít hơn nhiều so với số lượng các ngân hàng yếu kém; iii) hệ thống ngân hàng có thể phức tạp hơn, bao gồm cả các ngân hàng nhà nước và ngân hàng tư nhân. Những ngân hàng nhà nước có thể hoạt động với một cơ chế bảo lãnh ngầm đối với người gửi tiền. Những tuyên bố của Chính phủ về việc không bảo đảm cho các ngân hàng tư nhân có thể tạo ra việc rút tiền khỏi những ngân hàng này, đặc biệt nếu Chính phủ đóng cửa một số ngân hàng và gây ra sự nghi ngờ về sự lành mạnh của những ngân hàng khác trong hệ thống. Theo kết quả điều tra, hai khó khăn lớn nhất cản trở quá trình tái cấu trúc ngân hàng ở Việt Nam là (i) dân chúng thiếu niềm tin và (ii) thiếu cơ sở pháp lý cho tái cấu trúc, chiếm đến hơn 50% ý kiến đồng tình, tiếp theo là (iii) việc không xác định chính xác nợ xấu và (iv) Chính phủ gặp khó khăn về tài chính cho tái cấu trúc được gần 40% người ủng hộ. Điều này có thể lý giải vì sao, đề án tái cấu trúc đã đưa ra quan điểm không để xảy ra đổ vỡ NH và không rõ ràng trong việc xác định chi phí của việc tái cấu trúc. Một số chuyên gia cũng cho rằng, tính quyết đoán, kịp thời, quyết liệt của các hành động, biện pháp tái cấu trúc cũng là yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành công. Trên thực tế, Dziobek, (1998) khi đánh giá về hiệu quả tái cấu trúc, tại Châu Á, Phillipines là quốc gia đạt được chuyến biến rõ rệt sau tái cấu trúc sau khi bắt đầu tái cấu trúc từ năm 1984 với chi phí tái cấu trúc là 4% GDP. Đây là quốc gia thực hiện tái cấu trúc chủ động. Hàn Quốc tái cấu trúc vào năm 1993 được đánh giá là đạt được chuyển biến ở mức độ vừa phải trong hệ thống ngân hàng. Nhật Bản là quốc gia có chuyển biến chậm, các biện pháp không mạnh, quyết đoán và tác động trên diện hẹp là một trong những yếu tố khiến cuộc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng kéo dài. Hình 8. Những khó khăn, thách thức chính đối với tái cấu trúc hệ thống ngân hàng ở Việt Nam Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu, 3/2012 Cho đến thời điểm hoàn thành nghiên cứu này, tính từ khi bắt đầu thực hiện Đề án tái cơ cấu TCTC cũng đã được hơn 8 tháng. Tuy nhiên, những khó khăn, thách thức cho quá trình tái cấu trúc hệ thống NH vẫn chưa được giải quyết khi: tỷ lệ nợ xấu vẫn còn là ẩn số khi số liệu công bố của NHNN thấp hơn rất nhiều so với ước tính của các chuyên gia và tổ chức quốc tế4, nguồn lực tài chính cho tái cấu trúc chưa được xác định, chưa xác định được mức độ tin tưởng của dân chúng vào hệ thống NH. 4 Xem thêm phần Ước lượng nợ xấu, trong Bài viết “Một số vấn đề về Tái cấu trúc hệ thống NH Việt Nam”, PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn và nhóm nghiên cứu, VEPR, 5/2012. Mặc dù gần đây, Ngân hàng Nhà nước đã có công bố điều chỉnh tỷ lệ nợ xấu lên gần với con số dự báo của nhiều nhóm chuyên gia và tổ chức quốc tế nhưng tính chính xác của những công bố này vẫn còn là một dấu hỏi. Các yếu tố khác ảnh hưởng đến quá trình tái cấu trúc Võ Trí Thành (2012) cho rằng rủi ro hoạt động còn liên quan tới tình trạng sở hữu chéo cổ phần (giữa các ngân hàng thương mại, các tập đoàn/tổng công ty có các hoạt động liên quan tới hoạt động tài chính, bất động sản). Tình trạng này tạo ra các nhóm lợi ích có thể chi phối thị trường, gây khó tách bạch sở hữu, do vậy cản trở quá trình giám sát, tái cơ cấu ngân hàng. Kết quả khảo sát cũng cho thấy, tính chất sở hữu chéo giữa NH, DN được đánh giá có ảnh hưởng ở mức cao (3.4/4) với hơn 40% người đồng tình. Ngoài ra, các yếu tố khác như lợi ích chính trị, lợi ích nhóm được đánh giá có ảnh hưởng lớn nhất đến tái cấu trúc với gần 40% người trả lời. Các chuyên gia cho rằng, chính tình trạng sở hữu chéo không kiểm soát được giữa các NH, giữa NH và DN đã là một trong những nguyên nhân dẫn đến xung đột lợi ích giữa các nhóm. Đỗ Thiên Anh Tuấn (2012) cũng cho rằng các hình thức sở hữu này mặc dù được thừa nhận là đa dạng bao gồm cả sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu nước ngoài, sở hữu tư nhân nhưng trên thực tế không hẳn như vậy. Bằng chứng là việc Chính phủ chỉ bán một lượng nhỏ cổ phần của các NHTMNN cho công chúng và do đó sẽ không làm thay đổi bản chất sở hữu nhà nước trong các ngân hàng này. Tương tự, các ngân hàng cổ phần nhìn chung đa phần có quy mô nhỏ với số lượng cổ đông đại chúng hạn chế mà trên thực tế là có cấu trúc sở hữu chéo và sở hữu gia đình. Chính sự chưa rõ ràng trong các quan hệ sở hữu mới là mầm mống của rủi ro đạo đức, các yếu kém và tai họa. Chính vì vậy, quan điểm đa dạng hóa về sở hữu không quan trọng bằng việc minh bạch hóa sở hữu và sở hữu thực chất. Hình 9. Các yếu tố ảnh hưởng đến tái cấu trúc hệ thống NH ở VN Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu, 3/2012 Do vậy, theo nhóm nghiên cứu, cần có cơ chế công khai, minh bạch thông tin về cá nhân/nhóm sở hữu không chỉ ở các ngân hàng mà còn ở các doanh nghiệp, nhất là một số tập đoàn. Bên cạnh đó, cần có chính sách có khả năng cưỡng chế thực thi thực sự đối với việc thực hiện các giới hạn đầu tư, góp vốn, cho vay đối với các bên liên quan. Đặc biệt, trong quá trình tái cấu trúc, một vấn đề cần được xem xét và giải quyết một cách thấu đáo là sở hữu chéo giữa NH và DN cũng như giữa các NH để giảm thiểu rủi ro trong quá trình tái cấu trúc như kinh nghiệm quốc tế đã chỉ ra. Những ẩn số cần làm rõ trong quá trình tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng Việt Nam Mô hình kinh doanh ngân hàng sau tái cấu trúc Các chỉ tiêu định lượng về số lượng, quy mô, loại hình NH chưa được định hình trong đề án. Sau khi đọc xong đề án, người đọc có thể yên tâm vì một bức tranh “tươi sáng” của hệ thống NH sẽ lành mạnh, nâng cao năng lực cạnh tranh và hoạt động an toàn, hiệu quả hơn. Tuy nhiên, mô hình kinh doanh ngân hàng sau tái cấu trúc lại chưa được xác định: có hình thành NH đầu tư không? NH phát triển theo hướng đa năng hay chuyên doanh? Khi mà một trong những yếu kém dẫn đến rủi ro trong hệ thống NH hiện nay là các NHTM đã thực hiện cả chức năng của NH đầu tư, tỷ trọng đầu tư vào chứng khoán, bất động sản tại một số NH khá lớn, dẫn đến rủi ro trong hoạt động đầu tư ảnh hưởng đến rủi ro trong kinh doanh NH, trước khi NHNN có những quy định để điều chỉnh chức năng này. Nguồn lực tài chính cho tái cơ cấu Trên quan điểm của đề án tái cấu trúc là khuyến khích các NH tự nguyện sáp nhập, sáp nhập các NH lớn với NH nhỏ để hỗ trợ NH yếu, NHNN sẽ hỗ trợ thanh khoản trong trường hợp các NH quá yếu kém, không có khả năng chi trả. Tuy nhiên, chi phí cho toàn bộ quá trình tái cấu trúc chưa được đề cập đến, từ việc dự tính các tổn thất có thể phát sinh, tới việc xác định các nguồn lực tài chính để thực hiện tái cấu trúc. Ngay cả khi các NH lớn hỗ trợ các NH yếu sẽ bị ảnh hưởng về tài chính nhất định, sẽ phát sinh những tổn thất về tài chính cho chính các NH lớn. Bên cạnh đó, nguồn tiền ở đâu để NHNN cấp thanh khoản hay hỗ trợ các NH yếu kém trong điều kiện chính cơ quan quản lý tài chính của Chính phủ là Bộ Tài chính cũng không xác định quỹ dành cho tái cấu trúc là bao nhiêu. Theo thông lệ quốc tế, nguồn tài chính cho việc thu dọn/xử lý các NH yếu kém thường được xác định bao gồm: nguồn của các NH khác mua lại, kể cả việc tăng room cho nhà đầu tư nước ngoài, nguồn từ thanh lý tài sản của các NH là đối tượng phải xử lý, nguồn từ chính chủ các NH phải đáp ứng, nguồn từ phát hành trái phiếu CP qua Bảo hiểm tiền gửi, dùng tiền để Chính phủ quốc hữu hóa các NH yếu kém (Hàn Quốc), vực dậy, sau đó bán lại cho tư nhân, thậm chí còn có lãi (FDIC), Chính phủ không tốn chi phí cho việc xử lý các NH. Tuy nhiên, trong trường hợp Chính phủ bỏ tiền ra để hỗ trợ các NH yếu kém, như kinh nghiệm của Hàn Quốc, Chính phủ sẽ đưa ra các quy định để đảm bảo hiệu quả của quá trình tái cấu trúc cũng như giảm thiểu tối đa rủi ro đạo đức trong quá trình thực hiện. Các ngân hàng được yêu cầu phải cắt giảm về qui mô, nhân viên, chi nhánh, cải thiện năng suất và hiệu quả thì mới được hỗ trợ của Chính phủ trong quá trình tái cấu trúc. Nếu thua lỗ và yếu kém trong quản lý thì bị buộc phải giảm vốn và thay thế lãnh đạo. Vai trò của Công ty mua bán nợ trong quá trình tái cấu trúc Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, việc có một thị trường mua bán nợ hiệu quả sẽ là một kênh chuyển hóa các tài sản, khoản cho vay chất lượng thấp của NH yếu kém một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất. Trong thị trường đó, công ty mua bán nợ quốc gia (AMC) sẽ là đầu mối xử lý các giao dịch mua bán tài sản và nợ tồn đọng của các NH, DN. Kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy, công ty mua bán nợ Hàn Quốc (KAMCO) đã mua lại đến 32,5 nghìn tỷ các khoản nợ xấu bằng cách thanh toán trực tiếp dưới dạng phát hành các trái phiếu của KAMCO cho các ngân hàng. KAMCO sẽ mua lại các khoản nợ xấu bằng 45% giá trị sổ sách nếu có thế chấp, và 3% giá trị sổ sách nếu không có thế chấp. Rõ ràng, để có làm tốt vai trò của mình trên thị trường mua bán nợ, công ty mua bán nợ phải có nguồn tài chính, hoặc được phát hành trái phiếu do Chính Phủ bảo lãnh, và có một cơ chế mua bán nợ rõ ràng, trên cơ sở chất lượng của các khoản nợ xấu. Mãi đến tận cuối tháng 5 năm 2012, sau hơn 5 tháng thực hiện đề án, NHNN mới đề xuất thành lập công ty mua bán nợ nhằm mua bán nợ xấu trong hệ thống NH, nhằm khơi thông nguồn vốn tín dụng, với giá trị khoảng 100.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều câu hỏi về mô hình tổ chức, nguồn vốn, cơ chế hoạt động, nguyên tắc định giá các khoản nợ cũng như các biện pháp nhằm ngăn chặn sự thao túng của các nhóm lợi ích. Cơ chế phối hợp giữa cơ quan đầu mối và cơ quan phối hợp trong quá trình thực hiện tái cơ cấu Mô hình Ngân hàng Trung ương là đơn vị thực hiện tái cấu trúc cũng thường thấy ở một số nước trên thế giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam, nên thành lập một cơ quan/ủy ban quốc gia về thực hiện tái cấu trúc, trong đó, NHNN là đơn vị đầu mối trực tiếp, có sự tham gia của các bên liên quan như Bộ tài chính, Bảo hiểm tiền gửi, Công ty mua bán tài sản AMC và cơ quan giám sát tài chính quốc gia. Khi đó, những khó khăn, hạn chế liên quan đến nguồn lực tài chính cho tái cơ cấu, cơ chế giám sát trong quá trình tái cơ cấu, xử lý và bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, xử lý tài sản đảm bảo và nợ xấu, đặc biệt là mối liên hệ giữa tái cơ cấu hệ thống ngân hàng với tái cơ cấu DNNN, tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu thị trường chứng khoán, trong bối cảnh tái cơ cấu toàn bộ nền kinh tế, sẽ được giải quyết. Võ Trí Thành (2012), cũng đã bổ khuyết những điểm mà đề án chưa đề cập/còn thiếu, bao gồm: (i) tái cấu trúc hệ thống tài chính theo hướng cân đối hơn thông qua lành mạnh hóa thị trường tín dụng và nâng cao vai trò TTCK trong huy động vốn dài hạn cho doanh nghiệp, (ii) đổi mới mô hình và cách thức giám sát thị trường tài chính, và (iii) áp dụng rộng rãi chuẩn mực quốc tế và bảo đảm tính trung thực, hiệu lực, chế tài thực thi cao trong áp dụng các chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc tế, báo cáo tài chính quốc tế và hệ thống thống kê, định giá tài sản doanh nghiệp, (iv) tái cơ cấu thị trường tín dụng ngân hàng. Mối liên hệ giữa tái cấu trúc hệ thống NH với tái cấu trúc đầu tư công và tái cấu trúc DNNN Khi gần 40% dư nợ tín dụng của ngành NH là dành cho các DNNN, hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu của các tập đoàn kinh tế nhà nước là 27,6% ( tính đến 12/2011), trong khi đó, ở Hàn Quốc là 27,2% và Trung Quốc là 7,62% (Vũ Thành Tự Anh, 2012). Đỗ Thiên Anh Tuấn (2012) cho rằng do quá trình phát triển của nền kinh tế diễn ra nhanh chóng, chưa tính đến khả năng tác động của các quá trình tái cấu trúc ngân hàng, tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước và tái cấu trúc đầu tư công đến sự định hình một diện mạo kinh tế mới mà hình thái của hệ thống các TCTD cần phải tương thích trong điều kiện đó chứ không phải hiện nay. Phương pháp/cách thức đánh giá hiệu quả của quá trình tái cấu trúc Theo Goodhart et al (1998), một trong những nguyên tắc chính rút ra từ các cuộc tái cấu trúc thành công là: những bên đã được hưởng lợi từ những hành động hay thực hiện những giao dịch rủi ro phải gánh chịu chi phí nhiều nhất. Trong cuộc khủng hoảng tài chính 2008, không chỉ có ngân hàng mà các đối tượng khác cũng gánh chịu chi phí. Do vậy, cần có nguyên tắc rõ hơn về chia sẻ thiệt hại. Có ba đối tượng sẽ phải chia sẻ thiệt hại trong quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng: nhà nước, ngân hàng và người dân. Để đánh giá hiệu quả của quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng của các quốc gia, Dziobek (1998) đã sử dụng các chỉ tiêu đo lường việc thực hiện 3 mục tiêu tái cấu trúc, đánh giá mức độ của các chỉ tiêu này, so sánh trước và sau khi tái cấu trúc: i) củng cố hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng (khả năng thanh toán và khả năng sinh lời); ii) cải thiện năng lực thực hiện chức năng trung gian tài chính; iii) khôi phục niềm tin của công chúng. Để đánh giá việc thực hiện mục tiêu thứ nhất - hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng, hai nội dung được xem xét là khả năng thanh toán và khả năng sinh lời bền vững. Hai tỷ lệ tài chính gồm tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ vốn trên tổng tài sản có được sử dụng để đánh giá khả năng thanh toán. Ba tỷ lệ gồm chi phí hoạt động so với tổng tài sản và tỷ lệ thu nhập từ lãi so với tổng tài sản và ROA được sử dụng để đánh giá khả năng sinh lời bền vững của ngân hàng. Để đánh giá việc thực hiện mục tiêu thứ hai - năng lực thực hiện chức năng trung gian tài chính, tác giả sử dụng 6 chỉ tiêu: tỉ lệ tăng trưởng tín dụng đối với khu vực tư nhân/tốc độ tăng trưởng GDP, tỷ lệ M2/GDP, sự thay đổi về chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra, các khoản cho vay của NHNN/GDP, sự thay đổi lãi suất thực tế và sự tồn tại hay sự lặp lại các vấn đề trong hệ thống ngân hàng mà không được giải quyết dứt điểm. Riêng đối với mục tiêu thứ ba – khôi phục niềm tin công chúng, chưa được đánh giá và cũng chưa có tài liệu nào chính thức đề cập tới việc đo lường hay đánh giá niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng, mặc dù đây là yếu tố quan trọng góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Trong bối cảnh tái cấu trúc NH ở Việt Nam, nhóm nghiên cứu đề xuất áp dụng ngoài 2 nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động và cải thiện chức năng trung gian tài chính, có thể bổ sung thêm: (i) nhóm chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh, (ii) nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng tiếp cận với khu vực SME và nông thôn, người nghèo, (iii) khả năng quản trị rủi ro và quản trị công ty, (iv) tổng chi phí và phân bổ chi phí giữa 3 nhóm đối tượng liên quan đến tái cấu trúc NH là chủ NH – Chính phủ và người dân. Kết luận Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là một quá trình phức tạp, nhạy cảm với nhiều khó khăn và thách thức, đặc biệt, trong bối cảnh của một nước đang chuyển đổi như Việt Nam. Mặc dù, đang có cách tiếp cận chủ động trong tái cấu trúc hệ thống ngân hàng nhằm đảm bảo đạt được các mục tiêu một cách hiệu quả nhất trong điều kiện chưa có nguy cơ khủng hoảng hay suy thoái nghiêm trọng nhưng để thực hiện thành công quá trình này, lý thuyết, thông lệ quốc tế và cả thực tiễn Việt Nam đã chỉ ra rằng cần làm rõ các ẩn số có liên quan đến : (i) mô hình/định dạng hệ thống ngân hàng sau tái cấu trúc, (ii) nguồn lực tài chính cho tái cấu trúc, (iii) vai trò của Công ty mua bán nợ (AMC) trong quá trình tái cấu trúc, (iv) thực trạng sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng, (v) sự phối hợp giữa cơ quan đầu mối và cơ quan phối hợp trong quá trình thực hiện tái cấu trúc, (vi) mối liên hệ giữa tái cấu trúc hệ thống ngân hàng với tái cấu trúc đầu tư công và tái cấu trúc DNNN và (vii) phương pháp/cách thức đánh giá hiệu quả của quá trình tái cấu trúc. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Denizer, C. (1997), “Stabilization, Adjustment and Growth Prospects in Transition Economies”, World Bank Policy Research Paper 1855 2. Đỗ Thiên Anh Tuấn (2012), “Những vấn đề từ đề án tái cấu trúc”, Thời báo kinh tế Sài Gòn, 15/4/2012 3. Dziobeck, Claudia and Ceyla Pazarbasioglu (1998), “Lessons from Systemic Bank Restructuring”, IMF 4. Easterly, William; Martha de Melo và Gur Ofer (1994). “Service as a Major Source of Growth in Russia and other Former Soviet States.” World Bank Policy Reseach Working Paper 1292. 5. Economics Intellegent Unit (EIU, 2011). Country Report: Vietnam 2011. London. 6. Fernando, N. (2007), “Low Income Household Access to Financial Services: International Experience, Measures for Improvements and the Future,” EARD Special Studies, ADB 7. Goldstein, M và P. Turner (1996) “Banking crises in emerging economies: origins and policy options”, BIS economic papers, No. 46 October 8. Goodhart C. (2010), “The changing role central banks”, BIS Working paper No.326 9. Haan , Jakob de and Kooi, Willem. J. (2000). “Does central bank really matter? New evidence for developing countries using a new indicator” Journal of banking and finance. Vol. 24(4), April. 10. Hawkin, Penelope A (2010). “Measuring consumer access to financial services in South Africa” IFC Bulletin No.33 11. Hawkins, John and Philip Turner (1999), “Bank restructuring in practice: an overview”, BIS 12. IMF (1998). World Economic Outlook Financial Crises: Causes and Indicators. May 1998. “Financial Crisis: Characteristics and indicators of vulnerability” chapter IV. 13. Kempson, Elaine, Claire Whyley, John Caskey and Sharon Collard (2000). In or out? Financial Exclusion: A Literature and Research Review. London: Financial Services Authority. 14. Klingebiel, D and G Caprio (1996), “Bank insolvency: bad luck, bad policy or bad banking”, Annual World Bank conference 15. Luật các Tổ chức tín dụng 2010 16. Morduch, Jonathan (1999). “The Microfinance Promise”. Journal of Economic Literature, 37(4): 1569–1614. 17. Ngân hàng Nhà nước (2011), Ðề án "Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011- 2015”. 18. Peachy, S. and A. Roe (2004). Access to Finance – What Does it Mean and How do Savings Banks Foster Access? World Savings Bank Institute, Brussels 19. Quignon, Laurent (2006) “European banking restructuring”. Economic Research - BNP Paribas 20. Soteriou, A. and S. Zenios (1999). “Operational, Quality and Profitability in the Provision of Banking Services,” Management Science, Vol. 45, No. 9. 21. Stiglitz, Joseph (2002).Globalization and its Discontent. W.W. Norton & Company, June 2002. 22. Strauss-Kahn, Dominique (2009), “Need to fix banking sector for stimulus to work”, IMF 23. Sundararajan. V. (1991). Banking Crises: Cases and Issues. IMF 24. Võ Trí Thành (2012), “Tái cấu trúc hệ thống tài chính Việt Nam – vấn đề và định hướng giải pháp chính sách”, Kỷ yếu Diễn đàn Kinh tế Mùa Xuân, 4/2012. 25. Vũ Thành Tự Anh ( 2012), “Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam”, Kỷ yếu Diễn đàn Kinh tế Mùa Xuân, 4/2012. 26. Waxman, Margery (1998). “A legal framework for systemic bank restructuring” Banking The Legal Department. The World Bank, June 1998.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng