Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tác phẩm ký báo chí của nhà báo phan quang...

Tài liệu Tác phẩm ký báo chí của nhà báo phan quang

.PDF
36
51
62

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------- HOÀNG THU HẰNG TÁC PHẨM KÝ BÁO CHÍ CỦA NHÀ BÁO PHAN QUANG Chuyên ngành : Báo chí học Mã số : 60.32.01 LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÀNH BÁO CHÍ NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. HÀ MINH ĐỨC HÀ NỘI - 2009 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 1. Tính thời sự và lý do chọn đề tài 1 2. Lịch sử nghiên cứu đề tài 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3 4. Phương pháp nghiên cứu 4 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4 6. Kết cấu của luận văn 5 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ 6 THỂ LOẠI KÝ BÁO CHÍ VÀ PHONG CÁCH NGÔN NGỮ BÁO CHÍ 1.1 Thể loại ký báo chí 6 1.1.1 Sự xuất hiện và phát triển của thể loại ký báo chí 6 1.1.2 Đặc trưng của thể loại ký báo chí 11 1.1.3 Sự khác biệt giữa ký báo chí và ký văn học 14 1.2 Khái niệm về phong cách ngôn ngữ và phong cách 18 ngôn ngữ báo chí 1.2.1 Phong cách và phong cách ngôn ngữ 18 1.2.2 Phong cách ngôn ngữ báo chí 21 Chƣơng 2: NỘI DUNG PHẢN ÁNH VÀ NGHỆ THUẬT 31 VIẾT KÝ BÁO CHÍ CỦA PHAN QUANG 2.1 Ký báo chí trong sự nghiệp viết báo của Phan Quang 31 2.1.1 Cuộc đời - sự nghiệp báo chí của Phan Quang 31 2.1.2 Ký báo chí - thể loại tiêu biểu nhất của Phan Quang 35 2.2 Nội dung phản ánh trong tác phẩm ký của Phan Quang 37 2.2.1 Về kinh tế 39 2.2.2 Về xã hội 43 2.2.3 Về cảnh sắc đất nước và con người Việt Nam 48 2.2.4 Về ứng xử văn hoá của Việt Nam với nước ngoài 57 2.2.5 Về người nổi tiếng 62 2.3 Nghệ thuật thể hiện tác phẩm ký của nhà báo Phan Quang 67 2.3.1 Nghệ thuật đặt tên (rút tít) tác phẩm 67 2.3.2 Nghệ thuật kết cấu tác phẩm 69 2.3.3 Ngôn ngữ tác phẩm 72 2.3.4 Cái tôi của tác giả 76 Chƣơng 3: ĐẶC TRƢNG VÀ HIỆU QUẢ THÔNG TIN 83 TỪ PHONG CÁCH VIẾT KÝ CỦA PHAN QUANG 3.1 Đặc trƣng riêng về phong cách viết ký báo chí của 83 Phan Quang 3.1.1 Giàu chất trí tuệ 83 3.1.2 Đậm chất văn chương 86 3.1.3 Con đường hình thành phong cách viết ký riêng của 91 Phan Quang 3.1.4 Thử so sánh phong cách ký báo chí của Phan Quang 95 với các phong cách khác 3.2 Hiệu quả ký báo chí của nhà báo Phan Quang 98 KẾT LUẬN 111 Tài liệu tham khảo 115 Phụ lục MỞ ĐẦU 1. Tính thời sự và lý do chọn đề tài Từ khi ra đời và phát triển đến nay, báo chí luôn vận động trong sự đổi mới cả nội dung và hình thức thể hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao của công chúng. Điều đó làm hình thành một hệ thống thể loại riêng của báo chí. Trong đó, mỗi thể loại có cách thức riêng, lợi thế riêng trong việc phản ánh hiện thực khách quan. Đồng thời, nó cũng làm xuất hiện những tác giả, nhà báo không ngừng sáng tạo trong việc sử dụng thể loại báo chí với ngôn ngữ, giọng điệu mang đặc trưng riêng của mình để tạo ra những tác phẩm báo chí luôn tươi mới cả về thông tin thời sự, cả về phong cách thể hiện nhằm hấp dẫn công chúng. Thể loại ký báo chí ra đời đáp ứng những nhu cầu đó và phản ánh hiện thực sôi động của cuộc sống. Thế mạnh của thể loại ký là thông tin kịp thời, chân xác, toàn diện và có chiều sâu. Ký có khả năng bao quát cuộc sống, phản ánh từ những sự kiện trọng đại đến nét sinh hoạt đời thường trong mọi lĩnh vực chính trị - kinh tế - văn hoá - xã hội. Ký theo sát diễn biến của đời sống, nhạy bén với những sự kiện mới mẻ trong dòng thời sự, có khả năng phát hiện hướng vận động của hiện thực. Với tất cả những khả năng trên, ký trở thành nhóm thể loại xung kích không thể thiếu trên mặt trận văn hoá thông tin. Nhà báo không chỉ còn thích viết ký mà còn “phải” viết ký để truyền tải thông tin đến độc giả một cách sinh động, kịp thời và mang lại hiệu quả cao. “Hiện thực sôi động của hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và xây dựng xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta đã tạo điều kiện cho văn học và báo chí thu về những “mùa ký” bộn bề”[4, tr. 28]. Bác Hồ đã nói: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sỹ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”[29; tr. 616]. Có thể nói trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng Tổ quốc, nền báo chí cách mạng đã sản sinh ra những người con ưu tú. Với tinh thần trách nhiệm cao trước xã hội, trước nhân dân, họ tìm thấy trong thực tiễn hào hùng những nguồn đề tài vô tận, chất liệu cuộc sống tươi sáng, tạo nên những tác phẩm báo chí có chất lượng. Những tác phẩm đó góp phần không nhỏ trong việc cổ vũ, khích lệ những nhân tố mới, đấu tranh chống tiêu cực, đem đến cho nhân dân sự tin tưởng vào đường lối, chủ trương cách mạng đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Nhà báo Phan Quang là một trong số ít những người con ưu tú đó. Là một nhà báo trưởng thành từ kháng chiến chống Pháp, hơn 60 năm hoạt động báo chí, ông là một trong số ít những cây bút tiêu biểu đã hình thành phong cách riêng. ở thể loại nào, nhà báo Phan Quang cũng có một khối lượng lớn tác phẩm và mang nhiều giá trị thực tiễn. Ông viết nhiều thể loại: bình luận, ghi chép, tiểu phẩm… nhưng thành công hơn cả là ở thể loại ký. Thực tiễn hoạt động báo chí đã cho thấy nhà báo Phan Quang đã có những thành công, sáng tạo đặc biệt trong hình thức thể hiện thông tin với thể loại ký báo chí. Vì thế, có thể thấy rằng, ông đã tạo cho mình một phong cách viết ký riêng trong làng báo chí cách mạng Việt Nam. Và những thành công đó của ông được tạo nên bởi yếu tố nào, hiệu quả của nó sẽ ra sao, điều đó giúp ích gì cho những thế hệ làm báo lớp sau? Góp phần trả lời câu hỏi này, trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ, người viết quyết định chọn đề tài nghiên cứu: TÁC PHẨM KÝ BÁO CHÍ CỦA NHÀ BÁO PHAN QUANG. 2. Lịch sử nghiên cứu đề tài: Nghiên cứu về tác phẩm ký báo chí của Phan Quang, cho đến nay, mới chỉ có khoá luận tốt nghiệp cử nhân báo chí của tác giả Nguyễn Thị Thanh Hải, sinh viên khoa báo chí trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn với đề tài Phong cách báo chí Phan Quang (kháo sát các tác phẩm ký từ năm 1975 1982) đề cập đến tác phẩm ký báo chí của nhà báo Phan Quang. Chưa thấy một học viên cao học hoặc nghiên cứu sinh báo chí nào nghiên cứu các tác phẩm ký của Phan Quang. Đã có một số khóa luận cử nhân báo chí nghiên cứu về tác phẩm ký báo chí như Thể loại ký trên báo Văn nghệ năm 1995 và nửa đầu năm 1996 của tác giả Mai Lan Anh, Ký trên báo Người Hà Nội năm 1999 và 3 tháng đầu năm 2000 của tác giả Hoàng Thị Bích Phú, Ký báo chí viết về kinh tế – xã hội năm 1999 của tác giả Trần Thị Vân… Đã có một số khóa luận cử nhân báo chí và luận văn thạc sỹ báo chí đã nghiên cứu về phong cách ngôn ngữ báo chí như Tìm hiểu phóng sự Huỳnh Dũng Nhân của tác giả Nguyễn Thị Hồng Cúc, Phong cách ngôn ngữ nhà báo Hữu Thọ của tác giả Nguyễn Thị Kim Dung, Phong cách báo chí Lý Sinh Sự của tác giả Nghiêm Thị Thu Hà, Phong cách hài trong các tiểu phẩm báo chí hiện đại qua ba nhà báo Lý Sinh Sự, Lê Thị Liên Hoan, Thảo Hảo của tác giả Trần Xuân Thân… Cũng có rất nhiều các bài báo, các tài liệu đã đề cập đến tác phẩm ký của nhà báo Phan Quang. Tuy nhiên, các tài liệu đó còn phân tán và chưa có hệ thống đầy đủ. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: Mục đích của luận văn là tìm hiểu và nghiên cứu những nét riêng chủ yếu về phong cách viết ký báo chí của Phan Quang thể hiện qua các tác phẩm ký của ông. Khảo sát và phân tích những điểm đã làm được và những điểm chưa làm được của phong cách viết ký Phan Quang. Thông qua đó, luận văn có thể tổng kết, rút ra bài học cho hoạt động viết thế loại ký báo chí. Luận văn cũng hy vọng tìm hiểu và đánh giá hiệu quả thực tiễn của phong cách viết ký báo chí độc đáo này nhằm góp phần thúc đẩy hơn nữa quá trình gia tăng sáng tạo trong hoạt động báo chí để thông tin hiệu quả hơn. Đồng thời, luận văn cũng hy vọng làm tài liệu cho những ai quan tâm nghiên cứu và tìm hiểu, học hỏi phong cách viết ký của nhà báo Phan Quang. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu: Thực tế hiện nay những công trình nghiên cứu về lý luận báo chí nói chung còn khiêm tốn, đặc biệt là những công trình nghiên cứu về các tác giả, các cây bút nổi tiếng hiện nay như nhà báo Phan Quang là rất hiếm (như đã trình bày). Cho nên, nguồn tư liệu phục vụ cho việc triển khai đề tài mang tính kế thừa là rất hạn chế. Vì thế, luận văn đi từ phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về báo chí để định hướng phương pháp nghiên cứu, chủ yếu là phân tích tổng hợp, so sánh, phỏng vấn sâu. Từ những luận điểm chung về phong cách, sự sáng tạo linh hoạt trong quá trình tác nghiệp của các nhà báo, những lý luận về thể loại báo chí, về ký báo chí, sẽ soi rọi vào các tác phẩm cụ thể của nhà báo Phan Quang, phân tích, so sánh, tổng hợp nhằm đưa ra những kết luận mang tính khái quát. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Nhằm thể hiện được sự sinh động, độc đáo trong phong cách viết ký báo chí của Phan Quang, tác giả tập trung khảo sát các tác phẩm ký thông qua các tuyển tập của nhà báo Phan Quang: Tuyển tập Phan Quang (tập 1, tập 2, tập 3), Những ngƣời tôi quý mến, chân dung văn học và báo chí, Thơ thẩn Paris, Bên mộ vua Tần, Phác hoạ chân dung, Tuyển tập mƣời năm (1998 – 2008). Đây là những tuyển tập bao gồm các bài ký trong suốt sự nghiệp báo chí của Phan Quang, đăng trên báo Nhân dân và một số tờ báo khác, đã được tuyển chọn. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục, Tài liệu tham khảo, Phụ lục luận văn gồm 3 chương chính: Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về thể loại ký báo chí và phong cách ngôn ngữ báo chí. Chương 2: Nội dung phản ánh và nghệ thuật viết ký báo chí của Phan Quang. Chương 3: Đặc trưng và hiệu quả thông tin từ phong cách viết ký của Phan Quang. CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỂ LOẠI KÝ BÁO CHÍ VÀ PHONG CÁCH NGÔN NGỮ BÁO CHÍ 1.1 Thể loại ký báo chí 1.1.1 Sự xuất hiện và phát triển của thể loại ký báo chí * Trên thế giới Thể ký – ngay từ khi xuất hiện đã được nhìn nhận như một hình thức ghi chép về sự thật trong đời sống. Từ điển văn học định nghĩa ký là “một loại hình văn học bên cạnh thơ, tiểu thuyết và kịch, gồm nhiều thể, chủ yếu là văn xuôi như bút ký, hồi ký, du ký, nhật ký, phóng sự, ký sự, tuỳ bút, tự truyện, tạp văn, bút ký chính luận… Ký phản ánh sự việc và con người có thật trong cuộc sống” [31, tr. 365]. Nhưng cho đến nay, chưa có một tài liệu nào nói chính xác sự ra đời của thể loại ký. Trong văn học nói chung, những hình thức ghi chép mang tính chất ký đã xuất hiện từ rất sớm. Thời kỳ ban đầu, ký bị lẫn vào những hình thức ghi chép khác của sử học, triết học, chính trị... Thời cổ đại, những tác phẩm ký đã ra đời. “Sử ký của Tư Mã Thiên viết ra từ thế kỷ thứ nhất trước công nguyên ngoài những giá trị to lớn về lịch sử, văn hóa, triết học... còn được coi là một trong những tác phẩm ký vĩ đại nhất”[32, tr. 120]. Sử ký Tƣ Mã Thiên được coi là một tuyệt tác văn học trường tồn cùng thời gian cho đến tận ngày nay. Nó như một viên gạch đặt nền móng vững chắc để thể ký phát triển rực rỡ sau này. Tuy nhiên, từ thế kỷ XVII trở về trước, thể ký đã có sự hiện diện trong đời sống văn học và báo chí nhưng chưa có nhiều tác phẩm. Các tác phẩm mới chỉ là sự ghi chép lịch sử hay trình bày quan điểm triết học. Lúc này, thể ký chưa thực sự thể hiện được tối đa sức mạnh và vị thế của mình trong đời sống văn học và báo chí. Theo tài liệu nghiên cứu lý luận văn học, thể ký bắt đầu hình thành ở phương Tây từ khi chủ nghĩa Khai sáng xuất hiện vào thế kỷ XVIII. Nhưng nhiều tác phẩm mới chỉ dừng lại ở sự ghi chép lịch sử hoặc ở sự trình bày quan điểm triết học. Năm 1580, Môngtenhơ, nhà triết học, nhà văn Pháp thời đại Phục hưng, đã cho xuất bản tập Thể nghiệm. Tác phẩm này là sự ghi chép những suy nghĩ, kinh nghiệm của bản thân tác giả. “Điều đặc biệt là Môngtennhơ không trình bày những quan điểm triết học của mình bằng một thứ tư duy và văn phong lý luận trừu tượng mà bằng tư duy hình tượng với văn phong mềm mại, uyển chuyển” [31, tr. 467]. Như vậy, trước thế kỷ XVIII, thể loại ký đã xuất hiện và đặt nền móng cho thể loại ký phát triển rực rỡ sau này. Phải đến thế kỷ XVIII, “người ta mới thấy ký văn học xuất hiện nhiều trên một số tạp chí trào phúng (ví như tờ Người ba hoa và tờ Khán giả của Adison và Stil ở Anh, tờ Họa sỹ của Novinkov ở Nga) và đạt được sự kết tinh nghệ thuật trong sáng tác của các nhà khai sáng, như Những bức tranh Paris của Mersier, Tự thú của Didrot” [54, tr. 356]. Đây là những tác phẩm đã vạch trần bản chất nhà nước phong kiến và ủng hộ cho những tư tưởng cách mạng Pháp. Sang thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa hiện thực xuất hiện và thành một phong trào sáng tác rầm rộ, thì ký văn học đạt tới sự phát triển cực thịnh. “Nhiều nhà văn hiện thực kiệt xuất như Dickens, Tharcrey, Balzac, Turgenev, Nescrasov, Uspenski, Korolenko đều viết ký và để lại những tác phẩm bất hủ” [54; 356]. Tiểu thuyết gia người Anh Tharcrey đã viết tuỳ bút Những kẻ thời thượng nước Anh. émile Zola, là một nhà văn nổi tiếng của văn học Pháp thế kỉ XIX, người được coi là nhà văn tiên phong của chủ nghĩa tự nhiên (naturalism) đã để lại cho nền văn học và báo chí những tác phẩm ký mang tính hiện thực rõ rệt. Ngày 13/1/1898, émile Zola viết bài báo nổi tiếng Tôi kết tội (J'accuse) trên tờ L'Aurore của Georges Clemenceau, bài báo đã gây tiếng vang lớn và thúc đẩy quá trình xét xử lại vụ án Dreyfus. Bài báo như lời kết án đanh thép nhà cầm quyền Pháp đương thời chà đạp lên số phận của con người. Những biến động đầu thế kỷ thứ XX đã có những tác động sâu sắc đến đời sống văn học và đời sống báo chí ở trên thế giới, tạo ra sự phát triển có tính chất bùng nổ của thể loại phóng sự, ký. Với khả năng phản ánh hiện thực một cách sốt dẻo, nhạy bén phóng khoáng trong lựa chọn chất liệu và phổ biến rộng rãi trong công chúng, thể ký đã trở thành thể loại đầu tầu của báo chí. Trong tập ký Phác thảo về nƣớc Anh (1827 - 1828), tác giả Hainơ đã coi nền kinh tế công nghiệp là hình thái sản xuất tiến bộ nhất, đồng thời chỉ trích sâu sắc xã hội Anh, nơi có những kẻ rất giàu nhưng đông đảo nhân dân lao động thì nghèo. Đặc biệt, không thể không nhắc tới nhà văn Macxim Gorki với hai tập ký Những cuộc phỏng vấn của tôi và ở Mỹ đã khắc hoạ xã hội Mỹ bằng ngòi bút châm biếm và sắc sảo. Nhà báo Mỹ John Reed với thiên phóng sự Mười ngày rung chuyển thế giới đã thu hút sự chú ý của toàn nhân loại. Tác phẩm đã tái hiện lên bức tranh sinh động và chính xác về cuộc cách mạng tháng Mười. Đây cũng là tác phẩm đầu tiên công bố cho nhân dân biết về sự thật của cuộc cách mạng vĩ đại này. Nhà báo Wilfred Burchett người úc đã xuất bản tập phóng sự Việt Nam, cuộc kháng chiến thứ hai năm 1965 bằng tiếng Anh viết về cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Khi mất đi, ông để lại một tập hồi ký về cuộc đời phóng viên trong suốt 40 năm của mình, cung cấp cho độc giả những thông tin súc tích và độc đáo liên quan đến những sự kiện và nhân vật tiêu điểm của thế giới. * Ở Việt Nam Theo sách nghiên cứu lý luận văn học, “nếu tính cả bi ký, tự, bạt, thì ở Việt Nam, ký xuất hiện từ thời Lý, Trần. Đến đời Lê, Nguyễn, ngoài các thể có hình thức giống như ký Trung Quốc, như ký sự, lục, chí, tùy bút, ký văn học có sự phá cách thể hiện sự sáng tạo phong phú và đạt được những thành tựu đột xuất với các tập Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác”[54, tr. 357]. Trong giai đoạn được coi là đỉnh cao của văn học dân tộc thuộc ý thức hệ phong kiến này đã xuất hiện một số tác phẩm ký xuất sắc, tiêu biểu cho mảng văn xuôi giàu tính hiện thực. Trong đó, tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia văn phái đầu thế kỷ XIX được coi là một thể ký sự lịch sử, “được đánh giá là tác phẩm đồ sộ nhất và viết có nghệ thuật nhất của nền văn học dân tộc ta thời kỳ trung đại”[4, tr. 23]. Các tác giả trong Ngô Gia văn phái đã tái hiện lại một không khí lịch sử sống động, có ý nghĩa khái quát cao để chỉ ra bản chất của quá trình suy tàn không có gì cưỡng lại được của chính quyền phong kiến lúc bấy giờ. Nhà nghiên cứu Vũ Đức Phúc lại khẳng định tác phẩm Chuyến đi Bắc kỳ năm ất Hợi của Trương Vĩnh Ký viết năm 1876 “đã mở đầu cho thể loại văn hồi ký, ký sự tiếng Việt”[4; tr. 25]. Từ năm 1942, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan cho rằng: “những tác phẩm ký bằng Việt văn ở nước ta được mở đầu bằng những bài viết của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu trong các năm 1915, 1916, 1917 như các bài Luận về ăn ngon, Thằng người ngây cưỡi con ngựa hay và nhiều bài khác của nhà thi sĩ này đăng trong Đông Dương tạp chí” [4, tr.26]. Trong dòng văn học và báo chí cách mạng, những tác phẩm ký đầu tiên đã ra đời từ những năm 20 của thế kỷ XX, được đánh dấu bằng những bút ký chính luận xuất sắc của Nguyễn ái Quốc. Những tác phẩm như Bản án chế độ thực dân Pháp, Khai hoá giết người của Người được coi là những tác phẩm ký mẫu mực. Đó là những tác phẩm không chỉ phục vụ rất kịp thời và hiệu quả mục đích cách mạng, mà nó còn đặt nền móng vững chắc cho các sáng tác văn học cách mạng Việt Nam sau này. Những năm 1930-1945, thể ký để lại dấu ấn với những tác phẩm tiêu biểu như Việc làng, Tập án cái đình của Ngô Tất Tố đăng trên các báo Hà Nội tân văn và Con Ong, Ngõ hẻm ngoại ô của Nguyễn Đình Lạp, Tôi kéo xe của Tam Lang, Vỡ đê, Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy Tây của Vũ Trọng Phụng... Những tác phẩm ký sắc sảo này đã chuyển tải một cách bao quát và chi tiết từng góc cạnh của cuộc sống hiện thực xã hội trước cách mạng Tháng Tám. Sau Cách mạng Tháng Tám đến nay, thể ký càng ngày càng khẳng định vị thế của mình bằng việc đóng góp những tác phẩm xuất sắc cho đời sống văn học và báo chí. Không thể không nhắc tới những nhiều tác phẩm ký có giá trị như Truyện và ký sự của Trần Đăng, ở rừng của Nam Cao, Ký sự Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng, Vỡ tỉnh của Tô Hoài, Sống như anh của Trần Đình Vân, Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Những ngày nổi giận của Chế Lan Viên, Họ sống và chiến đấu của Nguyễn Khải, Đường lớn của Bùi Hiển, Miền đất hứa của Nguyễn Sinh và Vũ Kì Lân, Rất nhiều ánh lửa của Hoàng Phủ Ngọc Tường… Đây thực sự là những tác phẩm ký đã để lại dấu ấn sâu đậm cho độc giả văn học và báo chí. Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI diễn ra năm 1986, sự đổi mới và phát triển toàn diện của đất nước kéo theo sự phát triển của văn học và báo chí. Thể ký đã thực sự đóng góp to lớn vào sự phát triển và đổi mới của báo chí. Ký báo chí phản ánh đời sống hiện thực vận động không ngừng, khẳng định tính chân thực ngày càng cao của báo chí. Ký báo chí cũng được coi là một dấu hiệu đáng tin cậy của nền văn học và báo chí giàu tính hiện thực và tính nhân dân. Nền báo chí cách mạng Việt Nam đã xuất hiện nhiều cây bút ký sắc nét như Thép Mới, Phan Quang… Đã có nhiều cuộc thi viết ký được tổ chức với quy mô lớn, thu hút đông đảo các nhà văn nhà báo tham gia làm cho những tác phẩm ký ngày càng phát triển nở rộ. Cuộc thi viết ký năm 1993 của báo Văn nghệ đã bội thu với những tác phẩm đặc sắc như Người không cô đơn của Minh Chuyên, Khởi sắc Quỳnh Lưu của Đặng Văn Ký, Thành phố chỉ sống 60 ngày của Nguyễn Quang Thiều. Tóm lại, thể ký góp phần không nhỏ với sự phát triển của nền báo chí Việt Nam. Nó khẳng định tính chân thực ngày càng cao của báo chí hiện đại. 1.1.2 Đặc trưng của thể loại ký báo chí Từ khi ra đời, thể ký đã có rất nhiều định nghĩa và khái niệm khác nhau. Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Viện Ngôn ngữ học xuất bản năm 1992, “Ký là một thể văn xuôi viết về người thực việc thực có tính chất thời sự, trung thành với hiện thực ở mức cao nhất”. Theo sách Thuật ngữ nghiên cứu văn học, thể loại ký được xem là “một loại hình văn học tái hiện cuộc sống qua sự ghi chép, miêu tả người thật, việc thật… Hình tượng của ký có địa chỉ của nó trong cuộc sống. Do đó, tính chính xác tối đa là đặc trưng cơ bản của ký” [51, tr. 27]. Theo Từ điển văn học của nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản năm 1984, ký là “một loại hình văn học bên cạnh thơ, tiểu thuyết và kịch, gồm nhiều thể, chủ yếu là văn xuôi như: bút ký, hồi ký, du ký, nhật ký, phóng sự, tùy bút, tự truyện, tạp văn, bút ký chính luận… Ký phản ánh những sự việc và con người có thật trong cuộc sống”[31, tr. 365]. GS. Hà Minh Đức định nghĩa: “Ký văn học là thể loại cơ động, linh hoạt, nhạy bén trong việc phản ánh hiện thức ở các thế trực tiếp nhất. Tác phẩm ký vừa có khả năng đáp ứng được yêu cầu bức thiết của thời đại, đồng thời vẫn giữ được tiếng nói vang xa, sâu sắc của nghệ thuật” [11, tr. 184]. Như vậy, trong văn học, ký là một thể loại cơ động, linh hoạt, nhạy bén trong việc phản ánh hiện thực ở cái thể trực tiếp nhất, ở những nét sinh động và tươi mới nhất. Nó giúp nhà văn khắc phục được tính bảo thủ truyền thống trong thi pháp để có thể đón nhận sự đa dạng và phong phú của đời sống. Trong báo chí, ký tạo ra một không gian sáng tạo giúp tác giả có thể truyền tải thông tin một cách sinh động và hấp dẫn nhất. Ký báo chí là một trong những thể loại khó đối với người cầm bút nhưng lại không kém phần hấp dẫn và quan trọng. Đây cũng là một trong những thể loại báo chí được người đọc ưa thích. Như vậy, các tác phẩm thuộc thể loại ký báo chí luôn có xu hướng vượt ra ngoài lối văn thông tấn. Ký báo chí mềm mại và linh hoạt hơn các thể loại báo chí khác. Không chỉ trình bày các sự kiện, thể ký báo chí còn chú ý hơn đến con người và phản ánh từ góc độ con người. Theo PGS. TS Đinh Hường, các thể loại báo chí hiện nay được phân chia thành ba nhóm sau: - Nhóm thể loại báo chí thông tấn (gồm Tin, Phỏng vấn, Tường thuật) với tính trội là thông tin sự kiện có yếu tố bình luận mức độ. - Nhóm thể loại báo chính luận (gồm xã luận, bình luận, chuyên luận, điều tra, bài phê bình…) với tính trội là thông tin lý lẽ, chất trí tuệ, tư duy, lý luận, lý lẽ, hùng biện trong tác phẩm. - Nhóm thể loại báo chí chính luận - nghệ thuật (gồm phóng sự báo chí, ký báo chí, tiểu phẩm báo chí, câu chuyện báo chí, ghi nhanh…) với tính trội là thông tin sự kiện, lý lẽ và thẩm mỹ. [24, tr.13-16]. Việc phân chia các thể loại báo chí theo ba nhóm như trên chủ yếu dựa vào đặc điểm và tính trội của từng thể loại. Cách phân chia này cũng chỉ mang tính tương đối bởi các thể loại luôn có sự giao thoa, chuyển hoá, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau. Với tư cách là một thể loại thuộc nhóm thể loại chính luận, nghệ thuật, ký báo chí mang những đặc điểm chung nhất của nhóm. Đó là sự kết hợp giữa yếu tố chính luận của báo chí (tư liệu, số liệu, sự kiện, nhân vật có thật, chất lý luận, hùng biện…) với các yếu tố của văn học nghệ thuật (ngôn ngữ, hình ảnh, cảm xúc, thái độ, các thủ pháp so sánh…) giúp tác phẩm vừa thuyết phục công chúng vừa sinh động, mềm mại, hấp dẫn. Ngoài những đặc điểm bao trùm của nhóm thể loại chính luận - nghệ thuật trên, ký báo chí có những đặc trưng riêng biệt. Đặc trưng đầu tiên của thể loại ký báo chí là trung thành với sự thật một cách tối đa. Trong thể loại ký, tính xác thực, tư liệu xác thực được coi là nguyên tắc hàng đầu. Thể loại này phản ánh về những vấn đề, sự kiện, con người có thật, điển hình và có ý nghĩa xã hội. Trong Ký viết về chiến tranh và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Bôrit Pôlêvôi đã khẳng định: “Một bài ký hay quả thật là một bài có đủ mọi đặc trưng của thể loại báo chí thuần tuý, nó hết sức cụ thể, tài liệu đều là sự thật chân chính. Những nhân vật tạo nên phải là những con người có thật trong cuộc sống hiện thực, những sự việc miêu tả phải dính chặt với địa điểm giống như người ta thường nói: ký có địa chỉ chính xác của nó”. Ký không chỉ coi sự thật là đối tượng phản ánh mà còn là mục đích đối tượng. Thể loại ký luôn bám sát những sự kiện trong đời sống xã hội nên mang tính thời sự cao. Đặc trưng tiếp theo và cũng là đặc trưng quan trọng nhất của thể loại ký báo chí là tác giả xuất hiện trực tiếp trong tác phẩm với nhiệm vụ trần thuật về người thật, việc thật, cũng là nhân chứng thẩm định hiện thực. “Từ sự thật của đời sống xã hội đến tác phẩm ký, cuộc sống vừa giữ những phẩm chất cơ bản của điển hình xã hội lại vừa tiếp nhận thêm sự sáng tạo mới” [11, tr.183]. Cái tôi – tác giả xuất hiện với tư cách là người khám phá sự kiện hoặc kết nối dữ liệu, chi tiết trong tác phẩm. Tác giả cũng có thể xuất hiện với tư cách là người dẫn truyện. Vai trò của cái tôi trần thuật ở đây cũng rất quan trọng. Nó góp phần đảm bảo tính xác thực của đối tượng được miêu tả. Cái tôi trần thuật cũng có thể là cái tôi nhân chứng, thẩm định hiện thực và đưa ra tiếng nói khách quan trước hiện thực. Những ý kiến thẩm định đó phải dựa trên cơ sở những chi tiết, sự việc, sự kiện mà nhà báo trực tiếp chứng kiến. Công chúng luôn được tiếp xúc với sự thật và sự thật được trình bày một cách trung thực thông qua các tác phẩm ký báo chí. Cái tôi trần thuật là chủ thể sáng tạo nên trong tác phẩm ký báo chí có thể chứa đựng yếu tố cảm xúc. Những tình cảm, suy nghĩ, thái độ của nhà báo rất quan trọng trong tác phẩm ký. Nhưng những cảm xúc đó phải xuất phát từ tư duy logic, khách quan để đánh giá sự kiện. Nếu trong ký báo chí không có những cảm xúc của người viết, tác phẩm đó chỉ đơn thuần là bài báo ghi chép sự kiện. Đặc trưng cuối cùng của thể loại là ký báo chí là có kết cấu co giãn, linh hoạt, bút pháp giàu chất văn học trong việc phản ánh và thẩm định hiện thực, ngôn ngữ thông tin thời sự giàu hình ảnh và có khả năng biểu cảm cao. Tác giả có thể sử dụng những biện pháp nghệ thuật của văn học trong ký báo chí. Nhờ đó, thông tin của cuộc sống được chuyển tải một cách sinh động hơn. Người viết không bị gò theo bất kỳ khuôn mẫu cứng nhắc nào. Do đó, tác phẩm ký báo chí phản ánh khách quan hơn trước hiện thực muôn màu muôn vẻ, đúng tiến trình diễn biến phát sinh và kết quả có thực của nó. Điều đó lý giải tại sao thể loại ký lại hấp dẫn, lôi cuốn công chúng đến thế. Với những đặc trưng trên, ký báo chí đã tạo cho mình một phong cách, một diện mạo riêng, không thể hoà lẫn với các thể loại báo chí khác. Có thể khẳng định, ký thực sự là một thể loại báo chí mang hiệu quả thông tin cao. 1.1.3 Sự khác biệt giữa ký báo chí và ký văn học Xung quanh sự tồn tại và phát triển của ký, trong những vấn đề đã từng được nêu ra từ cuối thập kỷ 60, đầu thập kỷ 70 của thế kỷ XX, có một vấn đề đã gây ra nhiều ý kiến khác nhau. Đó là, liệu có nên phân biệt ký văn học và ký báo chí hay không? Trả lời câu hỏi này cũng có những quan niệm trái ngược nhau. Có ý kiến cho rằng sự phân chia đó là cần thiết. Tuy nhiên, cơ sở phân chia lại ở chất lượng nghệ thuật. Theo quan điểm này thì ký báo chí là những bài ký có chất lượng nghệ thuật thấp hoặc không có nghệ thuật mà chỉ đơn giản là cung cấp thông tin đối với công chúng, còn ký văn học có chất lượng nghệ thuật cao hơn. Ngược lại với quan niệm trên, lại có những người cho rằng không nên có sự phân chia đó. Theo họ, thực ra thì bản chất của ký chỉ có một. Nếu có sự khác nhau thì lại là ở chỗ: nhà văn viết ký không giống với nhà báo viết ký. Ký báo chí được đánh giá là rất gần với ký văn học, nhưng có rất nhiều đặc điểm để phân biệt ký văn học và ký báo chí. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa ký văn học và ký báo chí chỉ là tương đối. Ký văn học là một thể loại tái tạo hiện thực khách quan thông qua cảm xúc thẩm mỹ. Mặc dù cũng có điểm xuất phát từ hiện thực, song ký văn học cho phép tác giả sử dụng thủ pháp hư cấu. Sự hư cấu ở đây không có nghĩa là sự thêm thắt hay bịa đặt vô căn cứ. Về vấn đề này, GS. Hà Minh Đức cho ý kiến: “Trong tác phẩm ký văn học, “hư cấu nghệ thuật” được vận dụng có giới hạn trong khuôn khổ người thật việc thật và người viết có thể hư cấu ở những thành phần không xác định” [11, tr. 190]. Trên cơ sở hiểu biết được cái lõi của sự kiện và tính chất, người viết vẫn có thể bồi đắp thêm những chi tiết khác miễn là vẫn giữ được tính xác thực của câu chuyện và không làm mất lòng tin ở người thưởng thức. Ngược lại, ký báo chí lại đòi hỏi tính xác thực được đảm bảo một cách tối đa. Vì thế ký báo chí không chấp nhận hư cấu dưới bất kỳ hình thức nào. Hư cấu một chi tiết sai sẽ làm hỏng cả bài báo. Sự kiện, nhân vật được tác giả trình bày như tự thân nó vốn có. Là một thể loại xung kích trong hệ thống thể loại báo chí, bản thân tác phẩm ký đã mang tính thời sự. Ký báo chí thông tin về những sự kiện nóng hổi, tạo cơ sở cho nhận thức, tư duy và hành động. Với ý nghĩa đó, nó góp phần quan trọng tạo nên sự hấp dẫn của tác phẩm, nâng cao hiệu quả báo chí. Trong khi đó, ký văn học lại không đòi hỏi tính thời sự cao như ký báo chí. Nhà báo thẩm định sự kiện, vấn đề, con người trên cơ sở cái tôi trần thuật, cái tôi lôgic. Cái tôi trong ký báo chí là cái tôi nhân chứng cực kỳ tỉnh táo và đầy lý trí, giàu lý lẽ. Cái tôi trong tác phẩm giúp nhà báo đưa ra tiếng nói đúng đắn, xem xét vấn đề bằng tư duy logic dựa trên một loạt các sự kiện xác thực. Nó cũng giúp nhà báo truyền đạt thông tin một cách hấp dẫn hơn các thể loại báo chí khác. Từ đó, nhà báo cũng có thể đưa ra giải pháp cho những vấn đề mình đề cập. Cái tôi thể hiện trong ký văn học lại giàu cảm xúc thẩm mỹ và sự đồng cảm. Dường như cảm xúc của cái tôi và cái ta trong tác phẩm ký văn học hoà nhập làm một. Thông thường, ký báo chí thường có kết cấu gồm ba phần: vào đề, nội dung chính, kết thúc vấn đề với nhiều cách thể hiện khác nhau. Những sự kiện, vấn đề được đề cập đến thường được thuyết phục bằng những luận chứng sống động. Trong tác phẩm ký báo chí có những tít phụ ngắn gọn, súc tích, nội dung đi thẳng vào vấn đề. Đặc biệt, những con số, thông tin trong tác phẩm ký báo chí thường sống động và chính xác. Dựa trên cơ sở những chi tiết đó, tác giả phân tích tổng hợp những hình ảnh và những luận chứng đó. Ký văn học dường như không có tít phụ ở giữa tác phẩm, tạo cho tác giả viết ký văn học có nhiều cơ hội thể hiện nội dung theo dòng suy nghĩ của mình. Ký văn học có kết cấu uyển chuyển, mềm mại. Kết cấu của ký văn học thường đan xen giữa quá khứ và hiện thực, giữa liên tưởng và thực tại, giữa suy nghĩ và hành động, làm cho người đọc bị cuốn theo sự việc như chính mình là người nhập cuộc. Về bút pháp, ký văn học sử dụng tổng hợp những thủ pháp nghệ thuật của văn học nói chung, tạo ra một giọng điệu phong phú, sinh động. Vì thế, ngôn ngữ của ký văn học giàu hình ảnh và cảm xúc. “Loại thể ký văn học với sự phóng khoáng và cơ động của nó có thể giúp cho nhà văn ngay trong một tác phẩm vừa phản ánh thực tại vừa đi ngược dòng thời gian, vừa nối một điểm, vừa ôm vào đấy nhiều chân trời của sự sống, vừa suy nghĩ biện luận, vừa trữ tình châm biếm” [5]. Ký báo chí cũng có những giọng điệu phong phú, hình thức thể hiện co giãn linh hoạt. Nhưng mục đích cuối cùng của ký báo chí là thông tin xác thực và thông tin thời sự nên văn phong ngắn gọn, ngôn ngữ sự kiện súc tích và sắc sảo, không bay bổng như văn học. Ký báo chí thường chứa đựng những yếu tố độc đáo, tinh tế thông qua bút pháp. Vì thế, ký báo chí thường hấp dẫn lôi cuốn người đọc bởi phong cách riêng của từng tác giả. Ngôn ngữ trong ký văn học mang tính trần thuật với từ ngữ giản dị, kể lại và đặc biệt linh hoạt. Ngôn ngữ trong ký báo chí giàu tính chính luận, đáp ứng đầy đủ việc phân tích, tổng hợp và kiến nghị. Ký báo chí sử dụng ngôn ngữ tương đối linh hoạt, chuẩn mực, mang tính lôgic. Một tác phẩm ký báo chí thường ngắn hơn tác phẩm ký văn học. Trên thực tế, trong văn học và báo chí thường xuyên có sự giao thoa giữa các thể loại trong hệ thống thể loại báo chí hay văn học. Giữa ký báo chí và ký văn học có nhiều điểm tương đồng. Ký báo chí trong hệ thống thể loại báo chí gần gũi với văn học hơn cả. Nhà nghiên cứu văn học Phương Lựu từng đề cập đến vấn đề này: “Nếu có những tác phẩm ký văn học viết tồi, đăng báo một cách bất đắc dĩ, thì ngược lại có những bài báo mang giá trị văn học cao. Từ đó không nên phân biệt ký văn học và ký báo chí một cách cực đoan từ chất lượng nghệ thuật” [11, tr. 200]. Tuy nhiên, việc phân biệt giữa ký văn học và ký báo chí vẫn là cần thiết. Nhà báo và nhà văn cần phải dựa vào đó để xây dựng nên tác phẩm phù hợp với đặc trưng của loại hình, mang lại hiệu quả truyền thông đối với độc giả một cách cao nhất. 1.2 Khái niệm về phong cách ngôn ngữ và phong cách ngôn ngữ báo chí 1.2.1 Phong cách và phong cách ngôn ngữ a, Phong cách: Theo Từ điển tiếng Việt năm 2000, “Phong cách” được định nghĩa là: “Những lối, những cung cách sinh hoạt, làm việc, hoạt động, xử sự tạo nên cái riêng của một người hay của một loại người nào đó (nói tổng quát)(Ví dụ: Phong cách lao động mới. Phong cách lãnh đạo. Phong cách quân nhân. Phong cách sống giản dị). - Phong cách là những đặc điểm có tính chất hệ thống về tư tưởng và nghệ thuật, biểu hiện trong sáng tác của một nghệ sỹ hay trong các sáng tác nói chung thuộc về cùng một thể loại (nói tổng quát)(ví dụ: Phong cách của một nhà văn. Phong cách văn học nghệ thuật). - Phong cách là dạng của ngôn ngữ sử dụng trong những yêu cầu chức năng điển hình nào đó, khác với những dạng khác về đặc điểm, từ vựng, ngữ pháp, ngữ âm (Ví dụ: Phong cách ngôn ngữ khoa học, phong cách chính luận, phong cách ngôn ngữ nghệ thuật)”. Theo GS. Hà Minh Đức: “Vấn đề lý luận về phong cách thường được vận dụng quen thuộc trong phạm vi sáng tác nghệ thuật hơn là ở báo chí vì ở đây dấu ấn sáng tạo của người viết in đậm nét. Và ở mức độ rõ rệt hơn là tính nhất quán của một bản sắc được thể hiện trong một cấu trúc, một hệ thống những yếu tố về nội dung và hình thức nghệ thuật” [13, tr. 102]. Bên cạnh đó, TS. Hữu Đạt trong sách Phong cách học và các phong cách chức năng tiếng Việt của ông đề cập: Khái niệm phong cách được dùng ở nhiều địa hạt nghiên cứu khác nhau và cả trong giao tiếp đời thường. Chẳng hạn, phong cách được dùng trong lý luận văn học (dùng để chỉ đặc điểm sáng tác của nhà văn, của một tác phẩm hay một trào lưu văn học… Phong cách bao hàm một số vấn đề về thi pháp, trong đó có thế giới quan sáng tác, cá tính sáng tạo nghệ thuật của nhà văn hoặc của nhiều nhà văn thuộc cùng một trào lưu); trong nghiên cứu văn hoá (để chỉ đặc điểm văn hoá mang tính dân tộc, thời đại, điêu khắc, hội hoạ (để biểu thị cách thức, trường phái sáng tác)… Như vậy, thuật ngữ phong cách là một khái niệm chung của nhiều địa hạt khác nhau. Nó chỉ những đặc điểm riêng của con người trong cách hành động sống. Hay nó chỉ về hình thức và nội dung của từng sản phẩm trong từng lĩnh vực hoạt động sáng tạo khác nhau mà ở đó dấu ấn cá nhân tác giả được thể hiện đậm nét. b, Phong cách ngôn ngữ: Ngôn ngữ là phương tiện biểu hiện tư duy và giao tiếp cơ bản của xã hội loài người. Nó luôn đi kèm với con người và không ngừng thay đổi, hoàn thiện dần. Cùng một ngôn ngữ nhưng việc sử dụng nó khác nhau trong những điều kiện giao tiếp khác nhau sẽ đem lại những hiệu quả khác nhau nhất định. Sự khác nhau ấy chính là cách thức sử dụng ngôn ngữ giúp cho nó thực hiện những chức năng khác nhau mà khoa học ngôn ngữ học thường gọi là phong cách chức năng ngôn ngữ. Phong cách ngôn ngữ là khái niệm để chỉ về hình thức sử dụng ngôn ngữ ứng với từng loại hình lao động sáng tạo khác nhau. Trong cuộc sống, con người sử dụng ngôn ngữ như một phương tiện phục vụ quá trình giao
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan