Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tác động tuyến tính và phi tuyến tính của nợ công đến tăng trưởng kinh tế bằng...

Tài liệu Tác động tuyến tính và phi tuyến tính của nợ công đến tăng trưởng kinh tế bằng chứng ở các nước đang phát triển

.PDF
95
62
57

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM ----------  ---------- VŨ THỊ MỸ NGỌC TÁC ĐỘNG TUYẾN TÍNH VÀ PHI TUYẾN TÍNH CỦA NỢ CÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ – BẰNG CHỨNG Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN Chuyên ngành: Tài chính- Ngân hàng Mã số: 60340201 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN KHẮC QUỐC BẢO TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng luận văn “Tác động tuyến tính và phi tuyến tính của nợ công đến tăng trưởng kinh tế - Bằng chứng ở các nước đang phát triển” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông tin dữ liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực và các kết quả trình bày trong luận văn chưa được công bố tại bất kỳ công trình nghiên cứu nào trước đây. Nếu phát hiện có bất kỳ gian lận nào, tôi xin chịu toàn bộ trách nhiệm trước Hội đồng. TP.HCM, tháng 11 năm 2013 Tác giả luận văn Vũ Thị Mỹ Ngọc MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục từ viết tắt Danh mục bảng Tóm tắt .................................................................................................................. 1 1. Giới thiệu .......................................................................................................... 2 2. Tổng quan những nghiên cứu trước đây ........................................................... 4 2.1. Khung lý thuyết về nợ công và tăng trưởng kinh tế................................ 4 2.2. Bằng chứng thực nghiệm ........................................................................ 8 2.2.1. Tác động tuyến tính ........................................................................ 11 2.2.2. Tác động phi tuyến ......................................................................... 13 3. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu .............................................................. 22 3.1. Mô hình ................................................................................................ 22 3.1.1. Hồi quy quan hệ tuyến tính ............................................................ 22 3.1.2. Hồi quy quan hệ phi tuyến ............................................................. 25 3.2. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 28 3.3. Dữ liệu.................................................................................................. 32 4. Kết quả nghiên cứu ......................................................................................... 37 4.1. Phân tích đa biến quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng ...................... 36 4.2. Kiểm định tính bền vững của mô hình ................................................ 47 5. Kết luận ........................................................................................................... 51 Tài liệu tham khảo Phụ lục DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT OLS Ước lượng bình phương nhỏ nhất FEM Mô hình hiệu ứng cố định REM Mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên LSDV Ước lượng bình phương nhỏ nhất với biến giả GMM Phương pháp momen tổng quát 2SLS Ước lượng bình phương nhỏ nhất 2 bước GDP Tổng sản phẩm nội địa TFP Năng suất các yếu tố tổng hợp CPIA Đánh giá thể chế và chính sách quốc gia OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế DANH MỤC BẢNG Bảng 3.1. Danh sách các nước đang phát triển trong mẫu nghiên cứu Bảng 3.2. Danh sách, định nghĩa và nguồn dữ liệu các biến Bảng 4.1. Kiểm tra vấn đề đa cộng tuyến Bảng 4.2. Kết quả hồi quy mô hình tăng trưởng- nợ công (cơ bản) Bảng 4.3. Kết quả hồi quy mô hình (không có biến CPIA) Bảng 4.4. Kết quả hồi quy mô hình bằng phương pháp FEM Bảng 4.5. Kết quả hồi quy mô hình bằng phương pháp REM Bảng 4.6. Kiểm định tính bền vững của mô hình phi tuyến dạng ngưỡng khi thêm biến Bảng 4.7. Kiểm định tính bền vững của mô hình phi tuyến với CPIA khi thêm biến Bảng 4.8. Kiểm định tính bền vững của mô hình với Collapse 1 TÁC ĐỘNG TUYẾN TÍNH VÀ PHI TUYẾN TÍNHCỦA NỢ CÔNG ĐẾN TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ- BẰNG CHỨNG Ở CÁC NƢỚC ĐANG PHÁT TRIỂN Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu cuối năm 2008 đang chồng chất gánh nặng nợ nần lên vai các quốc gia do họ phải đi vay để chi tiêu và cứu trợ kinh tế. Phản ứng của chính phủ các quốc gia để phó với vấn đề này, và đặc biệt là sự kiện cuối năm 2013 chính phủ Mỹ đã tuyên bố đóng cửa tạm thời do ngân sách cạn kiệt vì các khoản nợ và chi tiêu công, đồng thời phải đề xuất việc tăng trần nợ công lên mức 100% so với GDP, đã khơi lại cuộc tranh luận về vấn đề nợ công cũng như tác động của nó đến tăng trưởng. Hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm trước đây hầu hết chỉ mới điều tra tác động của nợ công đến tăng trưởng ở các nước tiên tiến và mới nổi. Bài nghiên cứu của tôi nhằm mục đích bổ sung các bằng chứng hiện có, tập trung kiểm tra và đánh giá ảnh hưởng của nợ công lên tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam và đòi hỏi phải có một phân tích toàn diện hơn, không chỉ dựa trên nợ nước ngoài mà là tổng nợ công. Kết quả nghiên cứu đã cung cấp các bằng chứng thực nghiệm mới nhất cho cả mối quan hệ tuyến tính và phi tuyến tính lõm (dạng đường cong Laffer- hình chữ U ngược) dựa trên dữ liệu của các nước thu nhập thấp và trung bình trong giai đoạn 1998-2012, chỉ ra rằng khi tỷ lệ nợ công vượt quá 48%, tác động của nó lên tăng trưởng trở thành tiêu cực, thậm chí không có ý nghĩa, đồng thời đóng góp một số gợi ý hữu ích cho chính phủ các quốc gia trong việc định hình một chính sách vay và giảm nợ hợp lý. 2 1. GIỚI THIỆU Khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu 2008 đã dẫn đến sự gia tăng mạnh mẽ trong nợ chính phủ ở nhiều quốc gia trên khắp thế giới để đáp ứng lại yêu cầu vực dậy nền kinh tế. Cũng theo đó, cuộc khủng hoảng nợ công bắt nguồn từ Hy Lạp, lan nhanh sang khu vực Châu Âu và đã phủ bóng đen lên hầu hết các nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản và ảnh hưởng trên phạm vi toàn thế giới. Khủng hoảng nợ công bắt nguồn từ Hy Lạp đã lan nhanh sang khu vực Châu Âu và đã phủ bóng đen lên hầu hết các nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản và ảnh hưởng trên phạm vi toàn thế giới, đưa nhiều quốc gia lâm vào nguy cơ vỡ nợ. Chính vì lẽ đó, nợ công và tầm quan trọng của nó đã đặt ra một số vấn đề quan trọng về quản lý nợ và thâm hụt ngân sách. Nó không chỉ là vấn đề của riêng Hy Lạp, của các nước khu vực đồng tiền chung Châu Âu hay các nước phát triển, mà thực sự cũng là thách thức lớn đối với mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển vì đây chính là các nước có nhu cầu về vốn rất lớn để đầu tư phát triển. Một câu hỏi được đặt ra là vậy mức vay nợ bao nhiêu là tối ưu cho mỗi quốc gia để đảm bảo an toàn tài chính? Liệu quy mô và sự gia tăng của nợ công có thực sự tác động đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia vay nợ hay không? Nếu câu trả lời là có thì đó là tác động thúc đẩy hay kìm hãm tăng trưởng kinh tế Hiểu r tác động của tổng nợ công đến tăng trưởng kinh tế sẽ giúp nâng cao nhận thức về vai trò cũng như ý nghĩa tích cực hoặc tiêu cực của nó, từ đó có các hính sách quản lý nợ công một cách có hiệu quả góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Mặc dù có sự bùng phát của các nghiên cứu liên quan đến mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế, nhưng bằng chứng thực nghiệm về vấn đề 3 này vẫn còn khá hạn chế khi chủ yếu tập trung vào mẫu các nước phát triển cũng như vào vấn đề nợ nước ngoài và các kết quả thu được còn thiếu sự đồng thuận. Với mong muốn mang đến cái nhìn tổng quát về tác động của tổng nợ công và cung cấp kết quả thực nghiệm cho các quốc gia đang phát triển, tôi chọn đề tài nghiên cứu Tác động tuyến tính và phi tuyến tính của nợ công đến tăng trưởng kinh tế - Bằng chứng ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam để một lần nữa kiểm định lại mối quan hệ nợ công-tăng trưởng kinh tế , đặc biệt là tác động phi tuyến tính. Phần còn lại của bài nghiên cứu được trình bày theo bố cục như sau: Phần hai giới thiệu tổng quan các nghiên cứu trước đây về cả mặt lý thuyết và thực nghiệm. Phần ba mô tả phương pháp nghiên cứu, mô hình kinh tế và thông tin về bộ dữ liệu. Tiếp đó, bài nghiên cứu trình bày và thảo luận các kết quả hồi quy, gồm các kết quả hồi quy chính (4.1) và các kiểm định độ vững mạnh của mô hình (4.2). Phần cuối cùng tổng kết và đưa ra một số gợi ý chính sách cho các quốc gia trong mẫu nghiên cứu cũng như nêu lên một số hạn chế và gợi mở hướng nghiên cứu tiếp theo. 4 2. TỔNG QUAN CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRƢỚC ĐÂY 2.1. Khung lý thuyết về nợ công và tăng trƣởng kinh tế Khái niệm về nợ công: Hiện nay vẫn còn nhiều khái niệm khác nhau về nợ công và vẫn chưa có một định nghĩa chính thức. Nợ công thường được hiểu là nợ của khu vực công. Xác định các khoản nợ công theo nghĩa rộng là các nghĩa vụ nợ của khu vực công bao gồm cả chính quyền trung ương, chính quyền địa phương, ngân hàng trung ương và các tổ chức độc lập (với định mức vốn của ngân sách nhà nước hoặc 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước và trong trường hợp họ phá sản, nhà nước phải trả nợ) Theo nghĩa hẹp, nợ công bao gồm các nghĩa vụ nợ của chính phủ trung ương và chính quyền địa phương và các khoản nợ của các tổ chức độc lập chính phủ bảo lãnh. Nợ công thường được phân thành: Nợ công nội địa (các khoản vay từ người cho vay trong nước) và nợ công nước ngoài (các khoản vay từ người cho vay ngoài nước). Tại hầu hết các nước trên thế giới, nợ công được xác định bao gồm nợ của chính phủ và nợ được chính phủ bảo lãnh. Một số nước, nó cũng bao gồm nợ của chính quyền địa phương (Bungari, Rumani, Việt Nam…), nợ của doanh nghiệp nhà nước phi lợi nhuận (Thái Lan, Macedonia…) Như vậy, quan niệm về nợ công cũng còn tùy thuộc vào thể chế kinh tế- chính trị của mỗi quốc gia. Bàn về lý thuyết về tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế, vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, trong đó có hai quan điểm chủ đạo: Quan điểm truyền thống, đại diện là Keynes: Khi chính phủ vay nợ để bù đắp cho thâm hụt ngân sách do cắt giảm các nguồn thu từ thuế và mức chi tiêu công không thay đổi sẽ tác động đến hành vi tiêu dùng của người dân. Cụ thể là 5 làm mức tiêu dùng tăng, từ đó làm tăng tổng cầu về hàng hóa và dịch vụ, tăng sản lượng, việc làm trong ngắn hạn. Tuy nhiên, về dài hạn lại làm cho tiết kiệm quốc gia giảm và kèm theo đó là những hệ lụy khác. Quan điểm của David Ricardo (1772-1832): Mức thuế cắt giảm được bù đắp bằng nợ chính phủ sẽ không có tác động đến tiêu dùng như quan điểm về nợ truyền thống, kế cả trong ngắn hạn. Ngược lại, nó sẽ làm các khoản tiết kiệm tư nhân tăng lên bởi người dân đang chuẩn bị cho mức thuế cao sẽ đến trong tương lai để chi trả lãi và gốc cho các khoản nợ hiện tại. Trong thực tế, hai quan điểm trên luôn tồn tại song hành. Vì vậy, để đưa ra nhận định quan điểm nào phù hợp với từng thời điểm của quốc gia còn phải phụ thuộc vào nhân tố quan trọng, đó là hành vi của quốc gia đó. Nợ công có thể mang lại tác động tích cực khi chính phủ các quốc gia sử dụng nó như là một công cụ để tài trợ vốn, đáp ứng nhu cầu đầu tư cho các dự án, công trình trọng điểm quốc gia, khuyến khích phát triển sản xuất, kích thích tăng trưởng kinh tế. Giải pháp tăng nợ công để bù đắp thâm hụt ngân sách do cắt giảm thuế có thể sẽ góp phần kích thích tiêu dùng, tăng sản lượng, việc làm, tăng tổng sản phẩm quốc dân trong ngắn hạn. Tuy nhiên trong dài hạn, một khoản nợ chính phủ lớn cũng là nguyên nhân khiến cho lãi suất tăng, đầu tư giảm, tiết kiệm giảm và từ đó làm cho tăng trưởng sản lượng tiềm năng quốc gia chậm lại. Nợ công tăng cao, vượt quá giới hạn an toàn sẽ khiến cho nền kinh tế dễ bị tổn thương và chịu nhiều sức ép từ bên trong lẫn bên ngoài. Những tác động này của nợ công đến nến kinh tế cụ thể như sau: 6 - Thứ nhất, nợ công lớn làm giảm tích lũy vốn tư nhân dẫn đến hiện tượng thoái lui đầu tư. Khi chính phủ tăng vay nợ, đặc biệt là vay trong nước, lúc này mức tích lũy vốn tư nhân sẽ được thay thế bởi tích lũy nợ chính phủ. Thay vì sở hữu cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp hay gửi tiết kiệm ngân hàng, dân chúng lại sở hữu trái phiếu chính phủ làm cho cung về vốn giảm trong khi cầu tín dụng của chính phủ lại tăng lên, từ đó đẩy lãi suất tăng, chi phí đầu tư tăng và có thể dẫn đến hiện tượng thoái lui đầu tư khu vực tư nhân. - Thứ hai, nợ công làm giảm tiết kiệm quốc gia. Khi ngân sách nhà nước thâm hụt và chính phủ tăng vay nợ để bù đắp, tiết kiệm quốc gia sẽ có xu hướng giảm do đến từ các tác động của tăng tiết kiệm tư nhân, giảm đầu tư nội địa và giảm xuất khẩu ròng, đặc biệt khi thâm hụt ngân sách và thâm hụt cán cân thương mại cùng xảy ra sẽ dẫn đến hiện tượng thâm hụt kép gây tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế. - Thứ ba, nợ công tạo áp lực gây ra lạm phát. Lạm phát được tạo ra do hai nguyên nhân chính: do tổng cầu tăng hoặc do chi phí đẩy. Chính phủ tăng vay nợ bằng phát hành trái phiếu, một mặt làm tiêu dùng của chính phủ tăng lên, một mặt sẽ tạo áp lực đẩy lãi suất lên cao Khi tăng vay nợ trong nước, lãi suất tăng làm tăng chi phí đầu tư, tăng giá thành và giá bán sản phẩm. Bên cạnh đó lãi suất tăng, người nắm giữ trái phiếu chính phủ cảm thấy mình trở nên giàu có hơn và có thể tiêu dùng nhiều hơn Tiêu dùng tư nhân tăng, chi tiêu công của chính phủ tăng dẫn đến cầu hàng hóa, dịch vụ tăng, tạo áp lực lạm phát trong ngắn hạn, từ đó tác động tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng thực của nền kinh tế. Khi chính phủ tăng vay nợ nước ngoài, một dòng ngoại tệ lớn sẽ chảy vào trong nước. Về dài hạn, áp lực trả nợ cả gốc và lãi bằng ngoại tệ sẽ đẩy cầu ngoại tệ tăng lên, đồng nội tệ giảm giá làm tăng chi phí đầu vào khi nhập khẩu nguyên 7 liệu, máy móc, thiết bị... dẫn tới nguy cơ lạm phát. Tỷ giá tăng làm chi phí thanh toán nợ trở nên đắt đỏ hơn, nếu vượt quá sức chịu đựng của ngân sách sẽ dẫn đến nguy cơ vỡ nợ. - Thứ tư, nợ công làm méo mó các hoạt động kinh tế, gây tổn thất phúc lợi xã hội. Nếu vay nước ngoài, nguồn để trả nợ cả gốc và lãi chỉ có thể lấy từ các khoản thu thuế Người dân phải chịu một khoản thuế cao hơn trong tương lai để trả lãi cho các đối tượng ngoài quốc gia, làm giảm thu nhập, giảm tiêu dùng... từ đó giảm chất lượng cuộc sống. Vay trong nước có thể được coi là ít tác động hơn bởi lý do chính phủ nợ chính công dân nước mình và cũng chính họ là người được hưởng thụ các lợi ích do các khoản chi tiêu công tạo ra. Tuy nhiên, ngay cả khi một người bị đánh thuế để trả lãi cho chính họ do đang sở hữu trái phiếu chính phủ thì vẫn có những tác động khiến cho các hoạt động kinh tế của người đó bị bóp méo. Dù cho chính phủ dùng loại thuế nào (thuế thu nhập, thuế tiêu dùng, thuế tài sản…), đánh thuế dưới hình thức nào (trực tiếp, gián tiếp) cũng sẽ dẫn đến những sai lệch trong các hoạt động kinh tế của một cá nhân như thay đổi hành vi tiết kiệm, tiêu dùng, từ đó ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế vi mô, vĩ mô khác như sản xuất, việc làm... Bên cạnh đó, việc tăng thuế để trả lãi vô hình chung đã tạo ra sự phân phối lại thu nhập giữa những người nộp thuế và người sở hữu trái phiếu chính phủ, theo đó người nộp thuế chắc chắn phải gánh chịu sự suy giảm về thu nhập, tiêu dùng hoặc tiết kiệm. - Thứ năm, những tác động khác: Bên cạnh những tác động về mặt kinh tế, một quốc gia với khoản nợ công lớn có thể phải đối mặt với những hệ quả khác do nó gây ra như làm thay đổi quy trình quản lý Nhà nước do phải thay đổi chính sách tài chính quốc gia để trang trải các khoản nợ; làm tổn hại đến hệ số tín nhiệm quốc gia; nguy cơ suy giảm chủ quyền, giảm sự độc lập về chính trị 8 hoặc khả năng lãnh đạo quốc gia... Các quốc gia phải chịu sức ép từ phía chủ nợ và các tổ chức tài chính quốc tế về việc phải thắt chặt chi tiêu, tăng thuế, giảm trợ cấp xã hội, và xa hơn nữa là những yêu cầu về cải cách thể chế, thay đổi bộmáy quản lý, thay đổi các định hướng kinh tế... Ngoài ra, việc lệ thuộc quá nhiều vào các khoản vay nợ nước ngoài cũng sẽ làm giảm vị thế của quốc gia trong các mối quan hệ song phương, đa phương với các đối tác là các nước chủ nợ. Như vậy, theo lập luận của các học thuyết kinh tế thì nợ công mang đến cả tác động tích cực và tiêu cực lên tăng trưởng kinh tế nhưng tác động này còn tùy thuộc vào thời điểm, mức độ của tỷ lệ nợ và bản thân chính các quốc gia vay nợ. Nhìn chung, việc chính phủ vay nợ có thể tác động tích cực lên tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn bởi nó cung cấp lượng vốn thiết yếu cho đầu tư phát triển quốc gia, nâng cao năng suất. Tuy nhiên kèm theo đó là nghĩa vụ trả nợ thực hiện trong tương lai, dẫn đến những ảnh hưởng bất lợi đến tích lũy vốn và tăng trưởng kinh tế dài hạn nếu không có một chính sách quản lý nợ công phù hợp và hiệu quả. 2.2. Bằng chứng thực nghiệm về tác động của nợ công đến tăng trƣởng kinh tế Tính đến hiện tại thì bằng chứng thực nghiệm nghiên cứu về vấn đề nợ công vẫn còn khá hạn chế và thiếu sự đồng thuận. Theo Abbas và Christensen (2007), lý do quan trọng nhất để giải thích cho sự thiếu quan tâm trong việc điều tra chính thức về tác động của nợ công đến tăng trưởng là khả năng so sánh và độ tin cậy của dữ liệu nợ công các nước là còn thiếu và chưa thỏa đáng, đặc biệt ở các nước đang phát triển thì số liệu nợ công thường hạn chế và ít được công 9 khai. Việc tập trung nghiên cứu thực nghiệm về nợ nước ngoài thay vì tổng nợ công có thể từ sự thiếu sẵn sàng và đáng tin cậy của dữ liệu nợ công cho một mẫu lớn các quốc gia, do sự thiếu quan tâm của các tổ chức tài chính quốc tế về vấn đề nợ ở các nước mới nổi và đang phát triển, và sự thiếu minh bạch của nhiều chính phủ trong việc xuất bản số liệu nợ trong nước (Reinhart và Rogoff, 2009). Ngoài ra, xem xét rằng nợ công là một biến nội sinh (chứ không phải là một biến ngoại sinh) có thể được sử dụng như một công cụ để kiểm soát và ảnh hưởng đến kết quả tài chính vĩ mô Và thứ ba, thực tế là trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng nợ công khu vực Châu Âu thì nợ công vẫn chưa được coi là vấn đề quan trọng, cụ thể là các nghiên cứu lý luận và thực nghiệm trước đó tập trung vào các vấn đề nợ nước ngoài (thay vì nợ công) ở các quốc gia mới nổi và các nước có thu nhập thấp do sự phụ thuộc vào nguồn vốn đầu tư nước ngoài (xem Krugman,1988; Clements và cộng sự, 2003; Schclarek, 2004). Trong nghiên cứu của mình, Clements et al (2003) đã cung cấp bằng chứng cho một mối quan hệ phi tuyến giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế bằng cách sử dụng dữ liệu dạng bảng của 55 quốc gia có thu nhập thấp trong khoảng thời gian 1970-1999. Các tác giả ước tính rằng điểm bước ngoặt trong giá trị hiện tại ròng của nợ nước ngoài nằm trong khoảng 20% -30% GDP (khi xem xét các giá trị danh nghĩa, ngưỡng này là cao hơn - khoảng 50%) Tương tự như vậy, Pattillo et al. (2002) xác nhận một quan hệ phi tuyến tính, dạng đường cong Laffer giữa mức độ nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế sử dụng một bộ dữ liệu bảng của 93 nước đang phát triển trong giai đoạn 1969-1998. Ngoài ra, Partillo et al. (2004) ước tính rằng giá trị quan trọng khi nợ nước ngoài có ảnh hưởng có hại đến sự phát triển là từ 35-40% so với GDP khi nghiên cứu các nước đang phát triển. 10 Không thể phủ nhận vai trò của nợ nước ngoài đối với tăng trưởng kinh tế, từ cả phương diện lý thuyết và thực nghiệm Nhưng bắt đầu từ những năm 1990, một số nước phát triển và mới nổi bắt đầu nhận thức được tầm quan trọng của nợ nội địa trong tổng nợ công và thay thế nợ nước ngoài với nợ nội địa (Panizza, 2008): từ năm 1990 đến năm 2004, tỷ trọng nợ nội địa trong tổng nợ công tăng 38-58 % trong một mẫu của 25 nước mới nổi (Hanson, 2007), và nợ nội địa tăng đáng kể cả ở những nước có thu nhập thấp (Arnone và Presbitero, 2010). Do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007, ngoài xu hướng này, các quốc gia đang phát triển phải đối phó với một sự cân bằng tài chính xấu đi do tăng trưởng chi tiêu công và các khoản thu thấp hơn Rõ ràng, khi phân tích về nợ công, ngoài giá trị về mức độ nợ công so với GDP thì điều quan trọng không kém là phân tích "thực chất" nợ công là vay nợ trong nước hay vay nợ nước ngoài. Chẳng hạn dư luận đã từng lo ngại liệu Nhật Bản có thể trở thành "một Hy Lạp thứ hai", thế nhưng một số nhà phân tích đã cho thấy có sự khác biệt khá lớn giữa nợ công của nước này với nợ công của Hy Lạp, thể hiện ở chỗ 95% trái phiếu chính phủ của Nhật Bản do người dân nước này nắm giữ, trong khi 70% nợ chính phủ Hy Lạp do người nước ngoài nắm giữ. Bên cạnh đó, Nhật còn tự chủ về tỷ giá hối đoái, dự trữ ngoại tệ của Nhật cũng ở mức rất cao. Do vậy, nền kinh tế Nhật Bản, mặc dù ở giai đoạn đó còn đứng trước nhiều khó khăn khác, nhưng khó có thể trở thành mục tiêu tấn công của giới đầu cơ quốc tế. Chính vì nhận thức được tầm quan trọng đồng thời của cả thành phần nợ công trong nước và nước ngoài, một số nghiên cứu gần đây đã nỗ lực trong việc thu thập số liệu so sánh để khám phá hiệu ứng của tổng nợ công lên tăng trưởng, bao gồm cả tác động tuyến tính đơn điệu và tác động phi tuyến. 11 2.2.1. Tác động tuyến tính: Rất nhiều tài liệu nghiên cứu tác động của nợ công lên tăng trưởng kinh tế và hầu hết các kết quả thu được đều ủng hộ cho mối quan hệ tiêu cực tuyến tính Cụ thể, nợ công có thể gây ra tác động tiêu cực thông qua lạm phát và áp chế tài chính, ngay cả trong ngắn hạn (Cochrane, 2011a, b) Cùng quan điểm này, nghiên cứu của Kumar và Woo (2010) và Greiner (2012a) cũng đã khẳng định, nợ công có tác động tính đơn điệu và có ý nghĩa tiêu cực trên tăng trưởng GDP, năng suất các nhân tố tổng hợp và đầu tư Nghiên cứu của Alfredo Schclanek (2004) điều tra mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế, đặc biệt tập trung vào thành phần nợ nước ngoài của nợ công Mẫu nghiên cứu là 24 nước công nghiệp và 59 nước đang phát triển, sử dụng hồi quy GMM hệ thống cho dữ liệu 5 năm không chồng chéo trong giai đoạn 1970-2002 Kết quả là khác nhau giữa các nhóm nước nghiên cứu Nếu như ở mẫu nhóm nước đang phát triển, nghiên cứu tìm thấy mối quan hệ tiêu cực giữa tỷ lệ nợ công nước ngoài trên GDP, xuất khẩu, TFP với tốc độ tăng trưởng GDP Trong khi đó, kết quả lại không tìm thấy bằng chứng có ý nghĩa thống kê về mối quan hệ này ở nhóm các nước công nghiệp Điều này cho thấy rằng đây là một kết quả rất thú vị bởi vì nó sẽ cho thấy các nước công nghiệp cho mức nợ công cao hơn không nhất thiết phải liên quan đến tốc độ tăng trưởng GDP thấp hơn Nghiên cứu của Andrea F Presbitero (2010) điều tra tác động của nợ lên tăng trưởng với 92 nước đang phát triển trong giai đoạn 1990-2007, sử dụng dữ liệu không chồng chéo 3 năm và phương pháp ước lượng GMM hệ thống, cho thấy bằng chứng mạnh mẽ ủng hộ quan điểm rằng nợ công có tác động tuyến 12 tính tiêu cực lên tăng trưởng kinh tế ở các nước này. Stephen G Cecchetti, M.S. Mohanty and Fabrizio Zampolli (2011) điều tra trên mẫu 18 quốc gia OECD trong giai đoạn từ 1980 đến 2010, cho thấy kết quả tương tự rằng mức độ nợ công tăng lên sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế mặc dù ảnh hưởng này khá nhỏ Vladimir Šimić và Vinko Muštra (2012) thực hiện khảo sát mối quan hệ giữa nợ (nợ công và nợ nước ngoài) với tăng trưởng trong khu vực Trung Đông và Đông Nam Âu Nghiên cứu sử dụng phương pháp Fixed effect model (FEM), random effect model (REM) và GMM để phân tích dữ liệu bảng động bao gồm mẫu các của 18 quốc gia Kết quả của hai tác giả chỉ ra tồn tại mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa nợ công và nợ nước ngoài với tăng trưởng, với xu hướng tăng trưởng giảm khi nợ ở mức cao. Trong bối cảnh này, những phát hiện của nghiên cứu mang đến lời cảnh báo cho các nhà hoạch định chính sách cần phải giữ cho khoản nợ của các quốc gia trong mẫu được kiểm soát và cho rằng cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính toàn cầu gần đây đã mang lại thực tế là một số nền kinh tế đang trên bờ vực phá sản Nghiên cứu khác của Manoel Bittencourt (2012) điều tra tác động của nợ công nước ngoài lên tăng trưởng với mẫu 9 nước châu Mỹ La Tinh, sử dụng phân tích dữ liệu bảng bằng các phương pháp hồi quy ước lượng OLS gộp, FEM, Fixed effect với biến công cụ (FEIV), GMM sai phân và GMM hệ thống đã góp phần ủng hộ thêm cho quan điểm cho rằng tăng trưởng kinh tế tăng khi được hỗ trợ bởi việc giảm gánh nặng nợ nần của chính phủ, đặc biệt khi nợ đó đến từ nguồn vay nợ nước ngoài. 13 2.2.2. Tác động phi tuyến: Các tài liệu kinh tế đã điều tra nhiều kênh mà qua đó một khoản nợ công có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng dài hạn. Nợ công lớn có thể tạo ra hiện tượng debt-overhang tương tự như với nợ nước ngoài - một tình huống được định nghĩa bởi Krugman (1988) trong đó đầu tư sẽ giảm hoặc trì hoãn khi khu vực tư nhân dự đoán rằng lợi nhuận từ đầu tư của họ sẽ dùng để trả nợ (Krugman, 1988; Sachs, 1989) Cũng theo lý thuyết này, sau khi vượt quá một mức độ nhất định, nợ có ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng do sự không chắc chắn khả năng đáp ứng các nghĩa vụ trả nợ của một quốc gia Điều này đến từ việc giảm lợi ích về ưu đãi đầu tư, cùng với việc giảm khả năng thanh toán nợ của một quốc gia, làm giảm tiềm năng tăng trưởng (Imbs và Ranciere, 2004). Bên cạnh đó, một mức độ cao của nợ công có thể có hậu quả xấu đến sự ổn định kinh tế vĩ mô (Singh, 2006). Một số lượng tương đối nghiên cứu thực nghiệm thấy rằng mối quan hệ giữa nợ và tăng trưởng là phi tuyến tính l m và đặc trưng bởi sự hiện diện của một ngưỡng trên mà ở trên mức này, nợ bắt đầu có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Các bằng chứng cụ thể củng cố cho mối quan hệ phi tuyến tính và lõm (hình chữ U ngược) có thể kể đến như Patillo et al. (2002) đã tìm thấy bằng chứng một mối quan hệ phi tuyến giữa nợ công nước ngoài với tăng trưởng. Họ chỉ ra một hiệu ứng tích cực khi nợ nước ngoài ở dưới một mức ngưỡng 35-40% so với GDP và sau đó chuyển thành tiêu cực khi nợ vượt trên mức này. Nghiên cứu của Alfredo Schclanek (2004) về mối quan hệ nợ công ở các nước công nghiệp và các nước đang phát triển, cho thấy kết quả trái ngược với kết quả của Patillo et al (2002) trước đó Kết quả của Alfredo chỉ cho thấy 14 có trung bình hạn chế cho một mối quan hệ phi tuyến trong khi nợ vượt công nước ngoài quá 20% GDP, và không có bằng chứng của một mối quan hệ tích cực khi nợ ở mức độ nợ thấp, tức là không có dấu hiệu về sự tồn tại của một quan hệ hình chữ U ngược giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng. Trong trường hợp của các nước công nghiệp, họ cũng không tìm thấy tác động phi tuyến mạnh mẽ giữa tổng nợ chính phủ và tăng trưởng kinh tế. Một phân tích của Blavy (2006) lại phát hiện ra một mối quan hệ phi tuyến tính giữa nợ công và tổng năng suất nhân tố trong một nhóm 35 nền kinh tế mới nổi, tuy nhiên ngưỡng này là khá thấp Kết quả tương tự được trình bày bởi Caner, Grennes và KoehlerGeib (2010): trung bình dữ liệu cho một mẫu lớn các nước công nghiệp và đang phát triển trong giai đoạn 1980-2008, nhưng ngưỡng nợ công được ước tính ở mức 77% GDP Bên cạnh đó, sử dụng dữ liệu từ Maddison (2007) và các cơ sở dữ liệu nợ công của IMF, Minea and Parent (2012) cho thấy chênh lệch tốc độ tăng trưởng giữa các nước có tỷ lệ nợ/GPD thấp hơn và cao hơn 90% là không có ý nghĩa thống kê Nghiên cứu của Clements và cộng sự (2003), của Reinhart và Rogoff (2010); Kumar & Woo (2010) đã tìm thấy điểm bước ngoặt nợ vào khoảng 85% -90% GDP, ngụ ý một sự gia tăng 10% trong tỷ lệ nợ so với GDP có liên quan với việc giảm 0 2 điểm % GDP bình quân đầu người hàng năm khi sử dụng mô hình ước lượng ngưỡng Hansen Đặc biệt phải kể đến nghiên cứu tiêu biểu của Reinhart và Rogoff (2010a) phân tích tác động các mức độ nợ chính phủ khác nhau trên tốc độ tăng trưởng GDP thực tế dài hạn bằng cách xem xét một mẫu của 20 quốc gia tiên tiến và 24 quốc gia đang phát triển trong khoảng thời gian gần 200 năm (1790 - 2009). Họ thu được kết quả cụ thể là dưới ngưỡng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan