BỘ GIAO DUC ĐAO TAO
TRƯƠNG ĐAI HOC KINH TẾ THANH PHỐ HỒ CHÍ MINH
----------oo0oo----------
TRẦN THỊ NGỌC HỒNG
TÁC ĐỘNG TÂM TRẠNG ĐẾN HÀNH VI
NHÀ ĐẦU TƯ TRÊN THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
LUÂN VĂN THAC SỸ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013
BỘ GIAO DUC ĐAO TAO
TRƯƠNG ĐAI HOC KINH TẾ THANH PHỐ HỒ CHÍ MINH
----------oo0oo----------
TRẦN THỊ NGỌC HỒNG
TÁC ĐỘNG TÂM TRẠNG ĐẾN HÀNH VI
NHÀ ĐẦU TƯ TRÊN THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài Chính – Ngân Hàng
Mã số: 60340201
LUÂN VĂN THAC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS PHAN THỊ BÍCH NGUYỆT
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã nhận được sự hướng dẫn nhiệt tình
và nhiều ý kiến đóng góp có giá trị từ PGS. TS. Phan Thị Bích Nguyệt. Điều
đó đã tạo điều kiện cho tôi có thể hoàn thành luận án một cách tốt nhất. Tôi xin
gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Cô.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, đồng nghiệp và bạn bè đã hết lòng
ủng hộ và động viên trong suốt thời gian thực hiện luận văn này.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 09 năm 2013
Tác giả
Trần Thị Ngọc Hồng
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tác giả với sự
giúp đỡ của Giảng viên hướng dẫn và những người mà tác giả đã cảm ơn.
Số liệu thống kê được lấy từ nguồn đáng tin cậy, nội dung và kết quả
nghiên cứu của luận văn này chưa từng được công bố trong bất cứ công
trình nào cho tới thời điểm hiện nay.
TP. Hồ Chí Minh, ngày ____ tháng ___ năm 2013
Tác giả
Trần Thị Ngọc Hồng
MỤC LỤC
TÓM TẮT.........................................................................................1
1. GIỚI THIỆU.................................................................................2
1.1 Giới thiệu..................................................................................2
1.2 Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu................................................3
1.2.1 Mục tiêu nghiên cứu.................................................................3
1.2.2 Câu hỏi nghiên cứu..................................................................3
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.............................................3
1.4 Phương pháp nghiên cứu...........................................................3
2. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY....................4
2.1 Tâm trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến tâm trạng....................4
2.2 Điểm qua một số kết quả nghiên cứu trước đây.........................7
2.3 Tóm lại........................................................................................16
3. MÔ HÌNH ĐỊNH LƯỢNG VÀ MÔ TẢ DỮ LIỆU......................17
3.1 Mô hình định lượng...................................................................17
3.2 Dữ liệu ......................................................................................19
3.2.1 Mẫu dữ liệu..............................................................................19
3.2.2 Phương pháp xử lý số liệu........................................................19
4. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ...............................22
4.1 Thống kê mô tả các biến quan sát.............................................22
4.2 Kết quả kiểm định.....................................................................24
4.2.1 Kết quả hồi quy đơn giữa biến Sunniness và Excess buy/sell. 24
4.2.2 Kết quả hồi quy đơn giữa biến Length of day và biến
Excess buy/sell .................................................................................25
4.2.3 Kết quả hồi quy bội giữa các biến Humidity,Temperature,
Precipitation, Moonday, Before holiday/Friday, After holiday/Monday, Turn
of month và biến Excess buy/sell................................................................26
Kiểm định phương sai thay đổi..................................................................28
Kiểm định đa cộng tuyến............................................................................29
Kiểm định tự tương quan............................................................................30
Khắc phục tự tương quan đưa thêm biến EBS(-1).....................................31
4.3 Kết quả nghiên cứu...............................................................................34
5. KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ GỢI Ý CHO TTCK VIỆT NAM ..............35
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TTCK
: Thị Trường chứng khoán Việt Nam
H
: (Humidity) Độ ẩm
P
: (Precipitation) Lượng mưa
T
: (Temperature) Nhiệt độ
MD
: (Moonday) Ngày trăng tròn
TOM
: (Turn of month) Ngày chuyển tháng
AHM
: (After holiday/Monday) Sau ngày nghỉ hoặc thứ Hai
BHF
: (Before holiday/Friday) Trước ngày nghỉ hoặc thứ Sáu
S
: (Sunniness) Thời gian nắng trong ngày
LOD
: (Length of day) Độ dài ban ngày
EBS
: (Excess buy/sell) Chênh lệch khối lượng mua trên tổng mua bán
ngày so với trung bình năm
DANH MỤC BẢNG
Bảng 4.1 Thống kê mô tả nhận định của nhà đầu tư.
Bảng 4.2 Thống kê mô tả các biến quan sát.
Bảng 4.3 Kết quả hồi quy biến Excess buy/sell và Sunniness.
Bảng 4.4 Kết quả hồi quy biến Excess buy/sell và biến Length of day.
Bảng 4.5 Hồi quy bội giữa biến Excess buy/sell và các biến Humidity,
Temperature,
Precipitation,
Moonday,
Before
holiday/Friday,
After
holiday/Monday , Turn of month
Bảng 4.6 Kiểm định Breusch-Pagan-Godfrey
Bảng 4.7 Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến (Hệ số tương quan cặp giữa các
biến)
Bảng 4.8 Kiểm định Breusch-Godfrey Serial Correlation LM Test
Bảng 4.9 Kết quả hồi quy đưa thêm biến trễ EBS(-1)
Bảng 4.10 Kiểm định Breusch-Godfrey Serial Correlation LM Test
TÓM TẮT
Bài nghiên cứu này tác giả kiểm định ảnh hưởng của tâm trạng đến
hành vi của nhà đầu tư bằng cách sử dụng dữ liệu giao dịch theo ngày của
các nhà đầu tư cá nhân trên TTCK Việt Nam trong khoảng thời gian từ
01/04/2011 đến 01/04/2012. Trong đề tài này, tác giả đo lường hành vi nhà
đầu tư thông qua chênh lệch tỷ lệ khối lượng mua trên tổng khối lượng mua
bán hàng ngày so với trung bình năm của các nhà đầu tư này khi đặt lệnh
và các yếu tố ảnh hưởng đến tâm trạng nhà đầu tư bao gồm điều kiện thời
tiết (nhiệt độ, lượng mưa, độ ẩm, ngày trăng tròn) và các giai đoạn theo lịch
(giai đoạn chuyển tháng, trước ngày nghỉ và sau ngày nghỉ), ánh nắng
trong ngày, độ dài ban ngày.
Kết quả bài nghiên cứu cho thấy, thời tiết có ảnh hưởng đến hành vi
giao dịch của nhà đầu tư nhưng với mức độ rất thấp (đó là các yếu tố: thời
gian nắng trong ngày, độ dài ban ngày, nhiệt độ) và chưa thấy được các
ảnh hưởng của các giai đoạn theo lịch.
1
1. GIỚI THIỆU
1.1 Giới thiệu
Trong nhiều năm qua, từ khi Thị trường chứng khoán Việt Nam
chính thức thành lập và phát triển cho đến nay tồn tại nhiều bất ổn, giá cổ phiếu
lên xuống thất thường. Mặc dù, nhà đầu tư thông qua lý thuyết tài chính chuẩn
tắc đã áp dụng những phương pháp kỹ thuật phân tích, dự đoán, quyết định đầu
tư mà trên lý thuyết là hợp lý nhưng cũng không thành công trong thực tế. Lý
thuyết tài chính hành vi đã lý giải những vấn đề còn tồn tại. Điểm yếu của thị
trường là không dự đoán được và tính không chắc chắn của nó đã làm cho nó
hoạt động kém hiệu quả.
Trước đây, đã có khá nhiều nghiên cứu về tác động của tài chính hành vi
đến TTCK Việt Nam xem xét từng yếu tố như hành vi bầy đàn, yếu tố thông
tin, lý thuyết kỳ vọng,… Cũng thuộc về tâm lý học hành vi, nhưng một vài
nghiên cứu gần đây lại xem xét theo hướng tâm trạng của nhà đầu tư khi giao
dịch. Câu hỏi được đặt ra rằng có phải chính tâm trạng của những nhà đầu tư là
nguyên nhân tạo nên biến động thị trường? Bài luận văn sẽ khai thác ở góc độ
mới “Tác động tâm trạng đến hành vi nhà đầu tư trên thị trường chứng
khoán Việt Nam”.
Căn cứ vào những hành vi giao dịch bất thường trên TTCK, các nhà
nghiên cứu muốn tìm hiểu sự tương tác giữa tâm trạng và quyết định giao dịch,
nhằm cung cấp nền tảng cho những khám phá về vai trò của tâm trạng trong các
quyết định tài chính.
Trong bài viết, tác giả xem xét có hay không tâm trạng của nhà đầu tư
ảnh hưởng đến hành vi giao dịch của họ dựa trên những giao dịch trên TTCK
Việt Nam, thông qua việc sử dụng các biến ảnh hưởng đến tâm trạng là ánh
sáng ban ngày (độ dài ban ngày, thời gian nắng trong ngày), thời tiết địa
phương (nhiệt độ, lượng mưa, độ ẩm, ngày trăng tròn) và các giai đoạn theo
lịch (ngày chuyển tháng, trước kỳ nghỉ và sau kỳ nghỉ).
2
1.2
MỤC TIÊU VÀ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
1.2.1 MỤC TIÊU
Mục tiêu của luận văn là tiến hành điều tra các nhà đầu tư trên TTCK
Việt Nam đã thay đổi hành vi giao dịch như thế nào khi các yếu tố tác động
đến tâm trạng thay đổi. Trong các yếu tố đó, yếu tố nào có mức độ ảnh
hưởng mạnh đến hành vi giao dịch của nhà đầu tư.
1.2.2 CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Trong nghiên cứu này đặt ra các câu hỏi như sau:
i)
Các yếu tố tác động đến tâm trạng của nhà đầu tư chứng khoán có ảnh
hưởng đến quyết định giao dịch của họ hay không?
ii)
Xem xét trong các yếu tố ảnh hưởng tâm trạng có tác động đến hành vi
của nhà đầu tư, thì yếu tố nào có ảnh hưởng mạnh?
1.3
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu là hành vi giao dịch của các nhà đầu tư và các yếu
tố về thời tiết (nhiệt độ, lượng mưa, độ ẩm, ngày trăng tròn), ánh sáng ban ngày
(thời gian nắng, độ dài ban ngày), các giai đoạn theo lịch (những ngày chuyển
tháng, những ngày trước kỳ nghỉ và sau kỳ nghỉ).
Phạm vi nghiên cứu là các nhà đầu tư cá nhân trên sàn chứng khoán
HOSE, cụ thể là công ty chứng khoán SBBS từ ngày 04/01/2011 đến
04/01/2012.
1.4 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Sử dụng bảng điều tra khảo sát các nhà đầu tư cá nhân để xác định có
hay không các yếu tố ảnh hưởng đến tâm trạng tác động đến hành vi giao dịch
của nhà đầu tư.
Sử dụng Eview, phân tích hồi quy xây dựng mô hình chênh lệch khối
lượng mua/tổng mua bán hàng ngày so với trung bình năm dựa trên các yếu
tố về thời tiết, ánh sáng theo ngày và các giai đoạn theo lịch.
3
2. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
Trước đây, tài chính chuẩn tắc đã đưa ra những công cụ giúp nhà đầu tư
định hướng trong các quyết định của mình. Với việc sử dụng lý thuyết hữu
dụng kỳ vọng, nhà đầu tư có những sự ưa thích hợp lý và tối đa hóa hữu dụng
ngay cả trong hoàn cảnh không chắc chắn. Vì vậy, họ không tính toán một cách
đầy đủ trong việc ra quyết định khi tồn tại rủi ro. Tài chính hành vi ra đời và đã
lý giải cho những bất thường của TTCK. Tài chính hành vi nhìn nhận những gì
mà nhà đầu tư thực sự làm và các mô hình dựa trên cơ sở quan sát thực tế. Sử
dụng lý thuyết triển vọng, được xây dựng dựa trên việc con người hành động
như thế nào, con người đôi khi e ngại rủi ro, đôi khi ưa thích rủi ro tùy thuộc
bản chất triển vọng. Các nhà đầu tư phụ thuộc vào lời /lỗ so với một điểm tham
chiếu, sợ thua lỗ, sợ rủi ro trong miền lời và thích rủi ro trong miền lỗ… Nếu
nhà đầu tư biết được cảm xúc tâm trạng của họ đi từ đâu đến đâu, chúng tác
động đến hành vi của mình như thế nào thì nhà đầu tư có thể có những quyết
định tài chính tốt hơn.
2.1.
Tâm trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến tâm trạng
Tâm trạng thường xảy ra như một phản ứng tự nhiên và tất yếu của con
người đối với những sự kiện, những biến động quan trọng đã và đang xảy ra
trong hiện thực, có liên quan mật thiết đến sự thỏa mãn hay không thỏa mãn
những nhu cầu vật chất hay tinh thần của họ. Tâm trạng là một hiện tượng phổ
biến nảy sinh ở tất cả mọi người, xuất hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội và trong đó có cả quyết định tài chính của con người.Tâm trạng có
ảnh hưởng đến quá trình sinh lý của con người: Có thể thúc đẩy hoặc ức chế
hoạt động, làm nhiễu loạn các quá trình sinh lý và có khi làm cá nhân có hành
vi bộc phát ngoài ý muốn, làm méo mó nhân cách.
Tâm trạng và cảm xúc có những điểm tương đồng với nhau khó phân
biệt. Tâm trạng là một dạng phổ biến của cảm xúc và nó có những đặc điểm
4
nổi bật như: Cường độ yếu, thời gian kéo dài đáng kể, không rõ ràng và không
có ý thức. Còn cảm xúc là những trạng thái: vui, buồn, giận dữ, thích thú,
khinh thường, chán ghét, kiêu căng, sợ hãi, ngạc nhiên và hối hận.
Cảm xúc liên quan đến một vài thứ nhưng ngược lại tâm trạng là một cảm giác
chung chung, nó không tập trung vào cái gì đặc biệt. Cảm xúc và tâm trạng
thường có hóa trị tích cực và tiêu cực, nhưng khác với cảm xúc, tâm trạng có
xu hướng dai dẳng trong thời gian dài hơn.
“Trong đầu tư chứng khoán, tâm trạng là trạng thái nhất thời của cảm giác – có
thể ảnh hưởng đến các quyết định giao dịch nếu nó ảnh hưởng đến các mong
đợi chính yếu của nhà đầu tư trong tương lai, hoặc nó có liên quan đến các rủi
ro có thể xảy ra...”( Hirshleifer, 2001).
Các yếu tố ảnh hưởng đến tâm trạng:
Có nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ mật thiết giữa thiên nhiên,
điều kiện thời tiết bốn mùa tới tinh thần và tâm trạng của con người. Thời tiết là
một trong những chỉ số đặc biệt lớn có ảnh hưởng đến tâm trạng của con người
trong ngày, với mùa đông đến hoặc khi đám mây che phủ nhiều hơn tạo ra
bóng tối hoặc các hoạt động khác dẫn đến tình trạng thiếu ánh nắng mặt trời sẽ
tạo ra hiệu ứng rối loạn tình cảm theo mùa(SAD), điều này được lý giải là thiếu
ánh sáng đi vào bộ não của con người đã gây nên những phản ứng hóa học
trong não (do các phần mỏng của hộp sọ hấp thụ ánh nắng ít hơn đã ngăn chặn
sự sản xuất Melatonin gây cho chúng ta cảm giác khó chịu và ít năng lượng
hơn, đồng thời cũng ngăn chặn sản xuất Serotonin làm hạn chế quá trình lưu
thông máu trong hệ thần kinh).
Các yếu tố thời tiết tác động đến tâm trạng của con người như sau:
-
Nhiệt độ là yếu tố gây cảm giác nóng lạnh đối với con người, thân
nhiệt con người xấp xỉ 37 độ C. Trong quá trình vận động cơ thể, con người
luôn thải ra môi trường một lượng nhiệt. Lượng nhiệt cơ thể thải ra phụ thuộc
5
vào cường độ vận động và trao đổi nhiệt với môi trường xung quanh. Tạo ra
hiệu ứng truyền nhiệt do chênh lệch về nhiệt độ giữa cơ thể - môi trường và
hiệu ứng thải nhiệt ra môi trường do thoát mồ hôi (tỏa ẩm).Vì một lý do nào đó
làm mất cân bằng giữa lượng nhiệt thải ra và lượng nhiệt do hiệu ứng truyền
nhiệt – thải nhiệt sẽ gây rối loạn và ốm đau ảnh hưởng đến quá trình hoạt động
và suy nghĩ của con người.
-
Lượng mưa: Mưa làm mọi thứ khó khăn hơn ảnh hưởng đến lối
sống và không có lợi cho một tâm trạng tốt. Mưa không ảnh hưởng trực tiếp
đến nội tiết tố hoặc năng lượng của con người mà theo thói quen xã hội làm con
người đối diện với chứng trầm cảm u buồn, thất vọng.
-
Độ dài ban ngày: Ở những nước hai vùng cực Bắc và Nam thì độ
dài ngày có sự khác biệt rõ rệt. Trục Trái đất nghiêng với mặt phẳng quỹ đạo
một góc 66033’, trong đó đường phân chia sáng tối lại vuông góc với mặt phẳng
quỹ đạo. Hai mặt phẳng chứa đường phân chia sáng tối và trục trái đất hợp với
nhau thành một góc 23027’ nên tạo ra sự chênh lệch độ dài ngày và đêm giữa
hai bán cầu. Nên trong quá trình chuyển động trục trái đất lại không đổi phương
nên thời điểm trái đất ngả về Mặt trời hay cách xa Mặt trời ở hai vùng cực trái
ngược nhau về thời gian. Ngày 21/3 (Xuân phân), 21/9 (Thu phân) mọi nơi trên
Trái đất đều có độ dài ngày bằng đêm là 12 giờ. Ngày 22/06 (Hạ chí) ở Bắc bán
cầu có ngày dài nhất, đêm ngắn nhất, ở Nam bán cầu thì ngược lại. Ngày 22/12
( Đông chí) Nam bán cầu có ngày dài nhất, đêm ngắn nhất, ở Bắc bán cầu thì
ngược lại.
-
Ngày trăng tròn: Trong bài nghiên cứu của bác sĩ Henry Puget về
tác động của mặt trăng đến sức khỏe có đề cập mặt trăng phát ra những tia sáng
có bức xạ tương tự như ở lò vi sóng. Vào thời kỳ trăng tròn mức phát sóng
mạnh hơn và ảnh hưởng nhiều lên hệ thần kinh, thùy não làm giảm các hợp
chất Melatonin gây ra sự căng thẳng và khó chịu. Do lực hấp dẫn của mặt trăng
6
có thể gây ra hiện tượng thủy triều và làm tăng khối lượng máu trong mạch gây
ảnh hưởng đến tâm trạng, sức khỏe, tính khí của con người.
-
Độ ẩm: Độ ẩm là yếu tố rất quan trọng, nhưng ít được chú ý đúng
mức. Ở nơi cư trú độ ẩm cao có thể gây khó chịu cho con người, gây ẩm mốc,
làm bong tróc giấy dán tường,.. Trên trái đất nhiều nơi có độ ẩm rất thấp (vùng
cực, sa mạc, núi cao) và nhiều nơi có độ ẩm rất cao (rừng mưa nhiệt đới). Độ
ẩm tương đối có ảnh hưởng quyết định tới khả năng thoát mồ hôi vào trong môi
trường không khí xung quanh. Độ ẩm càng thấp thì khả năng thoát mồ hôi càng
cao, độ ẩm quá thấp hay quá cao đều không tốt đối với con người. Khi độ ẩm
tăng lên khả năng thoát mồ hôi kém, cơ thể cảm thấy rất nặng nề, mệt mỏi và
thân người dễ bị lạnh, gây cảm cúm… Độ ẩm quá thấp cũng không tốt cho cơ
thể làm cho da khô và con người cảm thấy bực bội, khó chịu. Độ ẩm được cho
là tương đối thích hợp với cơ thể con người nằm trong khoảng tương đối rộng
từ 35 - 70 %.
2.2 Điểm qua một số kết quả nghiên cứu trước đây.
Trước đây, nhiều nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến tâm trạng tác động đến
nhà đầu tư trên các TTCK trên thế giới. Nhưng hầu hết, họ chỉ nghiên cứu riêng
lẻ tác động của sự thay đổi các yếu tố về ánh nắng trong ngày, độ dài ban ngày,
nhiệt độ, lượng mưa, độ ẩm, ngày trăng tròn và các chu kỳ theo lịch…
Các nghiên cứu về ánh nắng trong ngày, độ dài ban ngày, nhiệt độ, lượng mưa,
độ ẩm chưa có một kết luận nhất quán chung trên các TTCK:
Kamstra, Kramer,Levi “A SAD stock market cycle”(2002): Bài viết đưa ra
bằng chứng về ảnh hưởng quan trọng của rối loạn cảm xúc theo mùa (SAD) đến
thu nhập của thị trường chứng khoán trên thế giới và ảnh hưởng của ánh sáng
ban ngày đã ảnh hưởng đến tâm trạng con người và tâm trạng của họ có mối
liên quan đến e ngại rủi ro. Qua kiểm định cho thấy tồn tại tương quan dương
giữa những ngày trời nắng với thu nhập chứng khoán qua việc kiểm tra trên 12
7
chỉ số của TTCK ở 2 bán cầu. Đặc biệt, nghiên cứu cũng cho thấy sự tồn tại ảnh
hưởng của các yếu tố môi trường (độ dài ban đêm, độ che phủ của mây, lượng
mưa, nhiệt độ) và tính thời vụ của các thị trường (hiệu ứng ngày thứ Hai, ảnh
hưởng của Mùa Thu, ngày kết thúc năm thuế), tác giả vẫn thấy ảnh hưởng đáng
kể của rối loạn cảm xúc theo mùa đến TTCK ở các nước phương Bắc. Ảnh
hưởng của SAD đến thu nhập lớn hơn ở những nước có vĩ độ cao hơn. Tác giả
cũng đưa ra chiến lược kinh doanh quốc tế hóa mang lại lợi nhuận trung bình
cao hơn khi vào mùa xuân, mùa hè nhà đầu tư ở vị thế bán chứng khoán ở Bắc
Cực, ở vị thế mua chứng khoán ở Nam Cực, ngược lại vào mùa thu, mùa đông
nhà đầu tư nắm giữ chứng khoán ở Bắc Cực và bán chứng khoán ở Nam Cực.
Ohla Zadorozhna, “Does Weather affect stock Returns Across Emeging
Market”(2009): Tác giả nghiên cứu mối quan hệ giữa các biến của thị trường
chứng khoán (như: thu nhập, chỉ số, lợi suất chứng khoán cá nhân, xu hướng và
giá trị giao dịch) và thời tiết ở các thị trường chứng khoán Trung và Đông Âu.
Thời tiết đại diện cho tâm trạng của nhà đầu tư và ảnh hưởng đến các quyết
định giao dịch của họ. Có giả thuyết cho rằng, tâm trạng con người lạc quan với
thị trường nếu thời tiết ấm và nắng, tâm trạng bi quan khi thời tiết mưa và nhiều
mây. Do đó, các nhà đầu tư thường mua chứng khoán khi thời tiết tốt và bán
khi thời tiết xấu. Tác giả đã sử dụng phương pháp bình phương bé nhất, mô
hình GARCH cho thấy không có ảnh hưởng của biến thời tiết đến chỉ số thu
nhập ở các nước Romania, Latvia, Lithuania, Slovenia, Bulgari, Croatia, CH
Séc, Ba Lan. Nhiệt độ tương quan âm với lợi suất chứng khoán ở các thị trường
CH Séc, Latvia, Lithuania, Estonia, Slovenia, xu hướng giao dịch tiêu cực ở
Hungari. Độ che phủ của đám mây có tương quan âm với lợi suất chứng khoán
ở thị trường Ba Lan, Nga, CH Séc, xu hướng tiêu cực ở thị trường Nga, tương
quan âm với giá trị giao dịch giảm ở Séc. Lượng mưa có tương quan âm ở các
nước Latvia, Lithuania, CH Séc, xu hướng tiêu cực ở Séc, Slovenia, tương quan
8
âm về giá trị giao dịch ở TTCK Nga. Gió và độ ẩm có tương quan âm với lợi
suất chứng khoán và xu hướng tiêu cực ở Ucraina, tương quan âm với giá trị
giao dịch và xu hướng tiêu cực ở Nga. Độ ẩm tương quan âm với giá trị giao
dịch ở Nga và lợi suất chứng khoán ở Ucraina. Nhìn chung, tác giả đưa ra vài
bằng chứng về ảnh hưởng có hệ thống của biến thời tiết lên thị trường chứng
khoán ở Đông Âu giúp cho nhà đầu tư đưa ra những quyết định chính xác khi
đầu tư có xem xét đến dự báo thời tiết.
Hirshleifer and Shumway,“Good day sunshine: Stock return and the weather”,
(2001): đã kiểm tra và cho thấy tương quan dương khá mạnh giữa ánh nắng mặt
trời và lợi suất chứng khoán ở những chứng khoán hàng đầu của một quốc gia
và chỉ số thị trường của 26 TTCK từ năm 1982-1997 . Sau đó, tác giả đã sử
dụng các biến về điều kiện thời tiết như mưa và tuyết thì không có tương quan
với thu nhập.
Ekrem Tufan – Bahattin Hamarat, “Do Cloudy days affect stock exchange
return Evidence from Istanbul Stock Exchange” (2004). Tâm lý của con người
bị ảnh hưởng bởi yếu tố thời tiết. Theo các nghiên cứu về y khoa, bệnh thần
kinh gia tăng ở mùa đông vào những ngày có độ che phủ mây nhiều và ảnh
hưởng đến tâm lý con người, trong khi đó những ngày nắng, độ ẩm cao thì đưa
đến ảnh hưởng tích cực . Thời tiết là một trong những nguyên nhân đã gây ra
thị trường bất hợp lý chống lại với thuyết thị trường hiệu quả. Bài nghiên cứu
điều tra có hay không ảnh hưởng của độ che phủ đám mây đến lợi suất chứng
khoán của ISE 100 trên thị trường Thổ Nhĩ Kỳ. Tác giả đã tìm thấy độ che phủ
đám mây không ảnh hưởng đến thu nhập chỉ số ISE 100. Điều đó đã được lý
giải có thể nhà đầu tư sinh sống ở những địa phương khác nhau và giao dịch tại
ISE 100, nên các quyết định chiến lược đầu tư của họ không bị ảnh hưởng bởi
yếu tố thời tiết.
9
Goetzmann and Zhu, “Rain or Shine : Where is the weather effect?”, (2003): đã
xem xét bằng chứng thực nghiệm ảnh hưởng của thời tiết đến các quyết định
của đầu tư dựa trên dữ liệu thông tin của từng nhà đầu tư cá nhân của 5 thành
phố lớn ở Mỹ trong thời gian sáu năm và cho thấy không có sự khác biệt giữa
mua và bán chứng khoán vào những ngày nhiều mây so với ngày nắng.
Nghiên cứu ảnh hưởng của chu kỳ mặt trăng đến nhà đầu tư, một số tác giả đã
chỉ ra các mối tương quan khác nhau khi phân tích ở các phạm vi khác nhau:
Yuan, Zheng, Zhu “Are Investors Moonstruck? Lunar Phases and Stock
Returns” (2001): Bằng chứng về trực giác và tâm lý học dự đoán rằng chu kỳ
âm lịch ảnh hưởng đến tâm trạng. Tác giả nghiên cứu về mối quan hệ giữa chu
kỳ trăng tròn với thu nhập của thị trường chứng khoán ở 48 quốc gia. Kết quả
tìm thấy bằng chứng toàn cầu về thu nhập chứng khoán thấp hơn ở những ngày
trăng tròn. Mức độ thu nhập biến động khoảng 4.2% mỗi năm dựa trên phân
tích hai chỉ số vĩ mô của danh mục đầu tư toàn cầu: EW và PW. Kết quả ảnh
hưởng chu kỳ âm lịch không giải thích được các chỉ số vĩ mô. Hơn nữa, ảnh
hưởng chu kỳ âm lịch độc lập với những ảnh hưởng của giai đoạn dương lịch
như hiệu ứng tháng Giêng, ảnh hưởng ngày cuối tuần, ảnh hưởng các tháng
dương lịch và ảnh hưởng của các kỳ nghỉ. Những nghiên cứu này dựa trên tâm
trạng của nhà đầu tư đã không dựa trên các thuyết định giá tài sản truyền thống
với giả định hành vi nhà đầu tư là hợp lý. Mối quan hệ dương giữa chu kỳ âm
lịch và lợi suất chứng khoán và tìm ra được ảnh hưởng tâm lý hành vi nhà đầu
tư trên lợi suất chứng khoán.
Lại Cao Mai Phương, “ Nghiên cứu ảnh hưởng của chu kỳ mặt trăng đến lợi
suất chứng khoán trên thị trường Việt Nam”,(2010): Bài viết nghiên cứu về khía
cạnh yếu tố chu kỳ có thể ảnh hưởng tâm sinh lý học của nhà đầu tư trên TTCK
Việt Nam, từ đó ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của họ. Kết quả cho thấy mức
độ ảnh hưởng của chu kỳ mặt trăng tác động lên lợi suất chứng khoán tại thị
10
trường Việt Nam là khá nhẹ, và việc giới hạn biên độ dao động là một trong
những nguyên nhân ảnh hưởng đến tính hiệu quả của thị trường. Nghiên cứu
dựa trên phân tích chỉ số VNIndex (giá đóng cửa) trên Sở giao dịch chứng
khoán TP.HCM (HOSE) từ ngày 13/03/2002 đến 27/10/2011 và sử dụng hai
phương pháp thống kê mô tả và phân tích hồi quy (hàm số cosin và biến giả)
nhằm khám phá sự khác biệt giữa thời kỳ trăng tròn và trăng non. Tác giả xem
xét với các khung thời gian khác nhau và cho thấy lợi suất chứng khoán ngày
trăng tròn luôn cao hơn so với ngày đầu tháng, khi mở rộng khung thời gian
xem xét thì lợi suất chứng khoán những ngày trăng mới cao hơn lợi suất chứng
khoán những ngày trăng tròn và mô hình xem xét chưa đạt ý nghĩa về mặt thống
kê.
Đặc biệt, các nghiên cứu về các giai đoạn theo lịch ảnh hưởng đến giao dịch
của nhà đầu tư trên TTCK cho thấy giai đoạn theo lịch này khác nhau ở các thị
trường khác nhau:
Arthur- J.Minton, “Amazing Story of stock market seasonality” (2010): Nghiên
cứu cho thấy tính thời vụ tồn tại qua nhiều thập kỷ và vẫn tồn tại trong thực tế
thị trường chứng khoán. Tính thời vụ phản ánh một sự chắc chắn về hành vi
của con người được thay đổi theo lịch, không phải do những tin tức mới nhất
hay những xu hướng thị trường gần nhất. Đầu tư theo thời vụ là một chiến lược
thành công trong kiểm soát rủi ro và đạt được lợi nhuận trên mức trung bình.
Tác giả dựa trên nghiên cứu của Fosback về chỉ số thời vụ trong tác phẩm
Logic TTCK năm 1976 và tiến hành kiểm tra từ năm 1900-2008. Đầu tư theo
thời vụ hàng tháng ở hai ngày cuối tháng, năm ngày đầu tháng và bốn ngày
giữa tháng( từ ngày thứ 9 đến ngày thứ 12) mang lại phần lớn thu nhập trong
tháng. Đồng thời, tác giả cũng thấy được những ngày “tồi tệ” là ngày thứ 6, 7, 8
của tháng và trước 5 ,6, 7 ngày hết tháng đã gây ra thiệt hại trong thu nhập. Đầu
tư thời vụ theo ngày nghỉ (trước 2 ngày nghỉ lễ như các ngày Tổng thống, ngày
11
thứ Sáu, Ngày Tưởng niệm Tuần Thánh, Ngày độc lập, ngày lao động, Ngày
Giáng Sinh, Ngày Đầu năm) mang lại thu nhập cực kỳ cao.
Xu and McConnell, “Equity Returns at the Turn of the Month” (2008): Dựa trên
nghiên cứu của Lakonishok và Smidt (1998), tác giả tiến hành nghiên cứu trên
TTCK Mỹ sử dụng chỉ số CRSP giai đoạn từ 1926 đến 2005 và sau đó nghiên
cứu trên TTCK ở 34 quốc gia khác. Kết quả cho thấy thu nhập trung bình cổ
phiếu bốn ngày chuyển tháng cao bất thường (ngày cuối cùng của tháng và 3
ngày tiếp theo) và cao hơn thu nhập trung bình các ngày khác. Mặc dù thu nhập
những ngày chuyển tháng cao, nhưng rủi ro ở những ngày này không cao hơn
những ngày giao dịch khác. Ảnh hưởng ngày chuyển tháng thể hiện rõ rệt hơn
đối với các cổ phiếu vốn hóa nhỏ và giá thấp so với các cổ phiếu vốn hóa lớn,
giá cao. Ảnh hưởng của giai đoạn chuyển tháng đến trái phiếu, tín phiếu ngắn
hạn không rõ ràng, đối với trái phiếu chính phủ dài hạn thì mức độ ảnh hưởng
có rõ ràng hơn. Chứng tỏ những đặc điểm của chứng khoán không giải thích
được thu nhập cao bất thường ở những ngày chuyển tháng. Ordan (1990) cho
rằng ảnh hưởng ngày chuyển tháng là do ngày thanh toán theo quy luật, nghĩa là
cuối tháng nhà đầu tư nhận được thêm tiền từ lương, chi trả cổ tức, nhận được
tiền lãi cuối tháng. Tác giả cũng không có bằng chứng về khối lượng giao dịch
nhiều hơn vào ngày chuyển tháng.
Lê Long Hậu, “Day of the week effects in different stock markets” (2010) : Bài
viết nghiên cứu ảnh hưởng của ngày trong tuần với tám chỉ số chứng khoán ở
thị trường phát triển, thị trường mới nổi và chỉ số thế giới MSCI từ tháng
03/2002 đến tháng 05/2008 bằng việc sử dụng mô hình hồi quy và biến giả
hàng ngày. Kết quả mô tả cho tất cả các thị trường không có bằng chứng rõ ràng
về ảnh hưởng của ngày cuối tuần, dường như thể hiện ảnh hưởng ngẫu nhiên
vào một ngày khác trong tuần. Những ảnh hưởng hàng ngày (từ thứ Hai đến thứ
Sáu) khác với ảnh hưởng ngày cuối tuần. Ảnh hưởng hàng ngày không đồng
12
- Xem thêm -