Hà Nội, 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
NGUYỄN THỊ TRÀ MY
TÁC ĐỘNG CỦA NHÂN TỐ GIỚI TÍNH ĐẾN
SỰ SỬ DỤNG NGÔN NGỮ VÀ TƯ DUY CỦA
NGƯỜI VIỆT
(KHẢO SÁT TRÊN ĐỐI TƯỢNG SINH VIÊN)
CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC
Mã số: 60.22.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS NGUYỄN ĐỨC TỒN
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài..................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................................3
3. Đối tượng, phạm vi khảo sát, nghiên cứu ..........................................................15
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .....................................................................15
5. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................16
6. Cấu trúc của luận văn.........................................................................................18
NỘI DUNG ..............................................................................................................19
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG.................................................................19
1.1. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tƣ duy ........................................................19
1.2 Bản chất và vai trò của giới tính trong cuộc sống con ngƣời .....................23
1.3 Sự ảnh hƣởng của các nhân tố tâm lý, xã hội đến ngôn ngữ, tƣ duy của
mỗi giới .................................................................................................................25
1.4 Nhân tố giới tính thể hiện trong ngôn ngữ và tƣ duy của mỗi giới ...........27
1.4.1 Biểu hiện của nhân tố giới tính trong ngôn ngữ ........................................27
1.4.2 Biểu hiện của nhân tố giới tính trong tư duy ngôn ngữ .............................29
1.5 Tiểu kết chƣơng 1 ...........................................................................................30
Chƣơng 2. TÁC ĐỘNG CỦA NHÂN TỐ GIỚI TÍNH ĐẾN SỰ SỬ DỤNG
NGÔN NGỮ XÉT TRÊN BÌNH DIỆN TỪ VỰNG – NGỮ NGHĨA..................31
2.1 Đặc điểm vốn từ vựng tiềm năng của mỗi giới ............................................31
2.1.1 Mức độ tập trung trong tư duy liên tưởng tự do ........................................32
2.1.2 Mức độ tập trung từ vựng trong tạo lập văn bản .......................................33
2.2 Phƣơng thức cấu tạo từ ƣa dùng của mỗi giới ............................................34
2.2.1 Kết quả khảo sát, thống kê.........................................................................36
2.2.2 Nhận xét .....................................................................................................37
2.3 Đặc điểm nghĩa của từ và cấu trúc nghĩa của từ trong tƣ duy của mỗi giới ...38
2.3.1 Với nhóm danh từ chỉ nghề nghiệp, chức danh .........................................39
2.3.2 Với nhóm tính từ miêu tả về từng giới ......................................................41
2.3.3 Với nhóm động từ chỉ hoạt động của từng giới .........................................43
2.4 Tiểu kết chƣơng 2 ...........................................................................................46
Chƣơng 3. TÁC ĐỘNG CỦA NHÂN TỐ GIỚI TÍNH ĐẾN SỰ SỬ DỤNG
NGÔN NGỮ XÉT TRÊN BÌNH DIỆN NGỮ PHÁP ..............................................48
3.1 Cách dùng từ loại của mỗi giới .....................................................................48
3.1.1 Từ loại trong tư duy liên tưởng tự do ........................................................48
3.1.2 Cách dùng từ loại trong văn bản của mỗi giới...........................................51
6
3.2 Kết cấu cú pháp đƣợc mỗi giới ƣa sử dụng .................................................54
3.2.1 Kết cấu một số kiểu câu ưa dùng ...............................................................54
3.2.2 Kiểu câu thiếu thành phần nòng cốt ..........................................................59
3.3 Đặc điểm tính tình thái trong câu đƣợc mỗi giới ƣa sử dụng ....................62
3.3.1 Nhóm tình thái từ nghi vấn ........................................................................65
3.3.2 Nhóm tình thái từ cầu khiến ......................................................................66
3.3.3 Nhóm tình thái từ cảm thán, tình cảm .......................................................68
3.4 Tiểu kết chƣơng 3 ...........................................................................................69
Chƣơng 4. TÁC ĐỘNG CỦA NHÂN TỐ GIỚI TÍNH ĐẾN TƢ DUY LIÊN
TƢỞNG CỦA NGƢỜI VIỆT .................................................................................71
4.1 Đặc trƣng văn hóa – dân tộc của tƣ duy ngôn ngữ .....................................71
4.1.1 Vài nét về tư duy, đặc trưng văn hóa - dân tộc của tư duy ........................71
4.1.2 Biểu hiện cơ bản của đặc trưng văn hóa – dân tộc của tư duy ngôn ngữ và
phương pháp nghiên cứu đặc trưng văn hóa – dân tộc của tư duy .....................72
4.2 Chiến lƣợc liên tƣởng so sánh có định hƣớng của mỗi giới .......................74
4.2.1 Một số chỉ số có liên quan đến chiến lược liên tưởng so sánh có định
hướng của mỗi giới .............................................................................................76
4.2.2 Một số phạm vi được chọn làm chuẩn có liên quan đến chiến lược liên
tưởng so sánh có định hướng của mỗi giới .........................................................79
4.3 Đặc điểm liên tƣởng tự do và tƣ duy liên tƣởng của mỗi giới ...................86
4.3.1 Một số chỉ số có liên quan đến tư duy liên tưởng tự do của mỗi giới .......88
4.3.2 Một số phạm vi được chọn làm chuẩn có liên quan đến tư duy liên tưởng
tự do của mỗi giới ...............................................................................................92
4.4 Tiểu kết chƣơng 4 ...........................................................................................95
KẾT LUẬN ..............................................................................................................97
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................101
PHỤ LỤC ...............................................................................................................108
7
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT
Ký hiệu
Ý nghĩa
1
GS
Giáo sư
2
PGS
Phó giáo sư
3
TS
Tiến sĩ
4
PT
phương thức
5
LT
liên tưởng
6
KS
khảo sát
7
YK
ý kiến
8
C
chủ ngữ
9
V
vị ngữ
10
tr
trang
8
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Mức độ tập trung từ vựng trong tư duy liên tưởng tự do .........................32
Bảng 2.2: Mức độ tập trung từ vựng trong tạo lập văn bản của mỗi giới .................33
Bảng 2.3: Phương thức cấu tạo từ ưa dùng của mỗi giới ..........................................36
Bảng 2.4: Quan niệm của nam, nữ về lớp từ chỉ nghề nghiệp, chức danh ...............39
Bảng 2.5: Quan niệm của nam, nữ về một số tính từ miêu tả về từng giới ..............41
Bảng 2.6: Quan niệm của nam, nữ về nhóm động từ miêu tả hoạt động của
mỗi giới .....................................................................................................................43
Bảng 3.1: Từ loại trong liên tưởng tự do của mỗi giới .............................................48
Bảng 3.2: Từ loại trong văn bản do mỗi giới tạo lập ................................................51
Bảng 3.3: Kiểu câu nghi vấn được hai giới ưa dùng .................................................55
Bảng 3.4: Kiểu câu cảm thán được hai giới ưa dùng ................................................56
Bảng 3.5 : Dạng câu khuyên nhủ được hai giới ưa dùng ..........................................57
Bảng 3.6 : Dạng câu nhờ vả được hai giới ưa dùng ..................................................58
Bảng 3.7: Kết cấu cú pháp thiếu thành phần nòng cốt trong câu của mỗi giới ........60
Bảng 3.8: Độ dài trung bình của câu trong văn bản do mỗi giới tạo lập ..................61
Bảng 3.9: Một số tình thái từ ưa dùng của hai giới ...................................................64
Bảng 4.1: Từ, ngữ trong liên tưởng so sánh có định hướng của hai giới..................75
Bảng 4.2: Danh sách 30 từ, ngữ liên tưởng so sánh có định hướng có tần số
cao nhất của hai giới..................................................................................................77
Bảng 4.3: Các từ, cụm từ liên tưởng biểu thị con người, thần thánh ........................80
Bảng 4.4: Các từ, cụm từ liên tưởng biểu thị đồ vật, dụng cụ ..................................83
Bảng 4.5: Từ, ngữ trong liên tưởng tự do của hai giới .............................................87
Bảng 4.6: Danh sách 30 từ, ngữ trong tư duy liên tưởng tự do có tần số
cao nhất của hai giới.................................................................................................89
Bảng 4.7: So sánh về các chỉ số trong liên tưởng có định hướng và liên tưởng
tự do ở hai giới .........................................................................................................90
Bảng 4.8: Một số phạm vi được chọn làm chuẩn trong tư duy liên tưởng
tự do của hai giới .......................................................................................................92
9
DANH MỤC CÁC BIỂU
Biểu đồ 2.1: Mức độ tập trung từ vựng trung bình/người/phút trong tư duy
liên tưởng tự do của mỗi giới ....................................................................................32
Biểu đồ 2.2: So sánh mức độ tập trung từ vựng trung bình của mỗi giới .................33
Biểu đồ 2.3: Phương thức cấu tạo từ ưa dùng của mỗi giới......................................37
Biểu đồ 3.1 : So sánh số lượng của ba nhóm từ loại trong liên tưởng tự do
của nam và nữ ...........................................................................................................49
Biểu đồ 3.2 : So sánh số lượng của ba nhóm từ loại trong văn bản do hai giới
tạo lập .......................................................................................................................52
Biểu đồ 3.4: Nhóm tình thái từ nghi vấn được hai giới ưa dùng ..............................66
Biều đồ 3.5: Nhóm tình thái từ cầu khiến được hai giới ưa dùng .............................67
Biểu đồ 3.6: So sánh tần số sử dụng nhóm từ tình thái cảm thán, tình cảm
của hai giới ...............................................................................................................69
10
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Lý do lý luận
Chức năng và bản chất xã hội của ngôn ngữ
Ngôn ngữ là phƣơng tiện giao tiếp quan trọng nhất của con ngƣời. Sở dĩ nó
quan trọng nhất vì xét trên góc độ lịch sử và toàn diện, không một phƣơng tiện giao
tiếp nào có thể sánh và thay thế đƣợc ngôn ngữ. Ngay cả những bộ tộc lạc hậu nhất
mà loài ngƣời mới phát hiện ra cũng dùng ngôn ngữ để giao tiếp. Trong xã hội, chủ
thể chính là cá nhân và cộng đồng. Cả xã hội vận động đƣợc do quan hệ thông tin
bởi nó đáp ứng yêu cầu hiểu biết của nhân loại theo hai chiều: Cung cấp thông tin
và tiếp nhận thông tin. Và nhu cầu trao đổi thông tin chính là nhu cầu tất yếu của
con ngƣời. Trong xã hội loài ngƣời, phần lớn thông tin trọng yếu nhất đƣợc tàng trữ
và lƣu hành nhờ ngôn ngữ. Ngoài ra, khi giao tiếp ngƣời ta còn trao đổi tƣ tƣởng,
tình cảm, trí tuệ, sự hiểu biết lẫn nhau và tác động đến nhau. Ngôn ngữ là động lực
đảm bảo sự tồn tại và phát triển của xã hội. Chức năng giao tiếp của ngôn ngữ có
bản chất xã hội vì nó ra đời do các nhu cầu của loài ngƣời để phục vụ cho các lợi
ích của con ngƣời, là động lực thúc đẩy xã hội và chính bản thân nó cũng phát triển
trong môi trƣờng xã hội. Giữa giao tiếp và xã hội có sự tƣơng tác mạnh mẽ, đáng
kể. Do đó, ngôn ngữ - xã hội - giao tiếp là ba bình diện có liên quan chặt chẽ với
nhau mà khi nghiên cứu ngôn ngữ ta không thể bỏ qua một trong ba bình diện này.
Chẳng những thế, ngôn ngữ còn là một hiện tƣợng xã hội đặc biệt. Tính chất
đặc biệt này thể hiện ở chỗ nó không thuộc về kiến trúc thƣợng tầng của riêng một
xã hội nào, và nó cũng không mang tính giai cấp.
Hệ thống ký hiệu ngôn ngữ là hệ thống ký hiệu tối ƣu bao trùm lên tất cả mọi
hoạt động xã hội và hành vi của con ngƣời. Nó gắn với tƣ duy, ý thức của con ngƣời và
có trƣớc khi xuất hiện các ký hiệu khác Nói cách khác ngôn ngữ là cơ sở cho sự hình
thành của mọi hệ thống ký hiệu khác… Vì vậy, khi nghiên cứu ngôn ngữ ta cần nghiên
cứu nó trong mối quan hệ với tƣ duy, với ngƣời bản ngữ và với văn hóa.
Mối quan hệ, sự tác động qua lại giữa ngôn ngữ và đời sống xã hội
Nhƣ đã khẳng định, ngôn ngữ là một hiện tƣợng xã hội đặc biệt: ngôn ngữ
phục vụ nhu cầu giao tiếp, phản ánh thực tại xã hội và tồn tại, phát triển cùng xã
hội. Giữa ngôn ngữ và đời sống xã hội có mối quan hệ mật thiết và gắn bó với nhau.
Ngôn ngữ đƣợc xem nhƣ là “tấm gƣơng”, là "chiếc hàn thử biểu" (GS.TS Nguyễn
Văn Khang) để đo nhận thức và sự chuyển biến về mọi mặt đời sống của con ngƣời
trong các xã hội khác nhau, ở từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Điều này cũng có
1
nghĩa là sự thay đổi của đời sống xã hội cũng sẽ đƣợc phản ánh một cách đầy đủ
trong ngôn ngữ. Xã hội thay đổi thúc đẩy ngôn ngữ phát triển để ghi lại và phản ánh
những biến chuyển đó. Trong các phƣơng diện của ngôn ngữ, từ vựng thƣờng đƣợc
coi là yếu tố thay đổi dễ dàng và nhanh nhất. Ngữ pháp và ngữ âm có thay đổi
nhƣng chậm hơn.
Vào những năm 60 của thế kỷ XX, chuyên ngành Ngôn ngữ học xã hội ra
đời. Theo đó, quan hệ giữa ngôn ngữ và giới tính đã trở thành một nội dung lớn
của chuyên ngành này. Cùng với hàng loạt các nhân tố nhƣ: nghề nghiệp, địa vị xã
hội, tuổi tác, môi trƣờng sống… giới cũng đƣợc coi là một nhân tố để hình thành
cách sử dụng ngôn ngữ, do vậy sự sử dụng ngôn ngữ mang phong cách giới tính.
Hay nói cách khác, việc sử dụng ngôn ngữ của mỗi giới cũng có những khác biệt và
tạo ra những hiệu quả không giống nhau. Theo quan điểm của GS. Nguyễn Văn
Khang, dƣờng nhƣ, thiên chức, thân phận và tính cách của mỗi giới đã đóng một vai
trò quan trọng trong việc hình thành nên phong cách ngôn ngữ của mỗi giới. Ngôn
ngữ tuy là của chung nhƣng mỗi giới sử dụng ngôn ngữ theo cách riêng của mình để
hình thành khái niệm "phƣơng ngữ giới tính". Nội dung này thuộc phạm vi "phuơng
ngữ xã hội" của ngôn ngữ học xã hội - một sự mở rộng của khái niệm phƣơng ngữ
(dialect) mà ngôn ngữ học cấu trúc khi nói tới phƣơng ngữ thƣờng chỉ có thể hiểu
đó là phƣơng ngữ địa lí.
Cả trên thế giới cũng nhƣ ở Việt Nam, vấn đề ngôn ngữ và giới tuy đã trở
thành một nội dung quan trọng trong nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội nhƣng cho
đến nay một số vấn đề nhƣ biểu hiện ngôn ngữ ở mỗi giới trong sự tƣơng quan với
các nhân tố khác (tuổi tác, nghề nghiệp, địa vị xã hội…) hay “vấn đề sự phân hoá
của ngôn ngữ theo phƣơng diện giới tính còn rất ít đƣợc nghiên cứu” [53, tr.507]
hoặc nghiên cứu chƣa hệ thống và đồng bộ.
1.2 Lý do thực tiễn
Ở Việt Nam, nghiên cứu liên ngành đang đƣợc các nhà ngôn ngữ học rất
quan tâm. Bên cạnh xu hƣớng nghiên cứu xuyên văn hoá (cross-cultural), liên văn
hoá (inter-cultural), xu hƣớng nghiên cứu về bản chất xã hội của ngôn ngữ nói
chung, ngôn ngữ giới nói riêng cũng đã và đang đƣợc chú ý trong những năm vừa
qua. Đây chính là hƣớng nghiên cứu đa ngành và liên ngành (ngôn ngữ học - xã hội
học - dân tộc học - văn hoá học – văn học…) nhằm giải quyết các vấn đề vốn rất
hấp dẫn và phong phú nhƣng không hề dễ dàng về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và xã
2
hội, đặc biệt là quan hệ giữa ngôn ngữ và giới tính.
Nhìn từ thực tế, GS. Nguyễn Văn Khang đã chỉ ra rằng: Trong nhiều nội
dung có liên quan đến ngôn ngữ và giới thì cho đến nay, mới chỉ có hai nội dung
đƣợc đặc biệt quan tâm đó là: (1) Sự thiên kiên về giới đƣợc thể hiện trong ngôn
ngữ và (2) Kế hoạch hoá ngôn ngữ về giới để góp phần tạo sự bình đẳng về giới.
Các vấn đề nhƣ: tác động của nhân tố giới tính đến việc sử dụng ngôn ngữ và tƣ duy
của ngƣời Việt nói chung, của từng tầng lớp, theo từng độ tuổi nói riêng hay vấn đề
sử dụng ngôn ngữ của mỗi giới trong sự tƣơng quan với các nhân tố khác…vẫn còn
là mảnh đất mới mẻ, hứa hẹn nhiều điều thú vị. Những khía cạnh này rất cần đƣợc
nghiên cứu một cách hệ thống, kỹ càng để chúng ta có cái nhìn toàn diện, đầy đủ về
mối quan hệ giữa ngôn ngữ và giới tính cũng nhƣ giữa ngôn ngữ với tƣ duy và rộng
hơn là ngôn ngữ và đời sống xã hội.
Qua khảo sát, chúng tôi thấy chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách
toàn diện, đầy đủ về tác động của nhân tố giới tính đến sự sử dụng ngôn ngữ và tƣ
duy của ngƣời Việt. Từ những lý do trên, chúng tôi cho rằng tìm hiểu vấn đề Tác
động của nhân tố giới tính đến sự sử dụng ngôn ngữ và tƣ duy của ngƣời Việt
(khảo sát trên đối tƣợng sinh viên) sẽ có ý nghĩa xã hội sâu sắc. Với công trình
này, chúng tôi mong muốn sẽ chỉ ra và khẳng định thêm sự tác động của nhân tố
giới tính đến ngôn ngữ (của đối tƣợng sinh viên) trên phƣơng diện từ vựng – ngữ
nghĩa, cú pháp; đặc điểm tƣ duy ngôn ngữ của mỗi giới (đặc biệt là giới trẻ). Từ đó
sẽ có cơ sở để định hƣớng việc sử dụng ngôn ngữ một cách tích cực, góp phần vào
việc quy hoạch và hoạch định chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề
2.1 Lịch sử nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy trên thế giới và ở
Việt Nam
* Trên thế giới
Có thể nói, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tƣ duy là một câu hỏi lâu đời.
Trong quá khứ, có hai quan điểm bao quát: một là nắm đƣợc vấn đề ngôn ngữ chỉ
đơn thuần là phƣơng tiện truyền bá hoặc chỉ là vỏ bọc bên ngoài của tƣ duy; hai là
xác nhận rằng ngôn ngữ và tƣ duy là một, tƣ duy chỉ là lời nói không có âm thanh.
Gần đây hơn, nghiên cứu hƣớng về xác nhận quan điểm ngôn ngữ và tƣ duy đƣợc
liên kết chặt chẽ, ngôn ngữ không chỉ là âm thanh mà là sự kết hợp giữa âm thanh
và tri giác.
3
1. Francis Bacon đƣợc xem là ngƣời đầu tiên nghiên cứu về quan hệ giữa
ngôn ngữ và tƣ duy. Ông đã từng cho rằng ngƣời ta tƣởng tƣợng rằng những ý nghĩ
của họ có sự điều khiển của ngôn ngữ, nhƣng hay xảy ra trƣờng hợp ngôn ngữ sinh
ra những quy tắc lên trên ý nghĩ của họ.
2. Bên cạnh đó, nhà ngôn ngữ học ngƣời Mỹ Benjamin Lee Whorf còn cho
rằng: “Nền tảng hệ thống ngôn ngữ học của mỗi ngôn ngữ không chỉ là một công cụ
sao chép để diễn đạt những ý kiến, mà còn là một bộ máy tạo ra ý nghĩ… Chúng ta
phân tích trạng thái tự nhiên, tổ chức thành những khái niệm, ghép lại những ý
nghĩa nhƣ chúng ta làm, bởi vì chúng ta tham gia vào một cuộc tranh luận để tổ
chức nó theo cách thức này - một sự thỏa thuận nắm đƣợc toàn bộ lời nói của mình
và đƣợc hệ thống hóa trong những khuôn mẫu của ngôn ngữ." [78, tr.212-214]
3. Cuốn Language and Mind - Ngôn ngữ và tƣ duy của N. Chomsky đƣợc tái
bản lần thứ 3 [84]. Đây là ấn bản mới bổ sung một chƣơng và lời nói đầu, mang lại
cách tiếp cận mới của Chomsky trong thế kỷ XXI. Từ chƣơng 1 đến chƣơng 6,
Chomsky đi vào phân tích bản chất, tính chất của ngôn ngữ nhƣ một hệ thống đặc
biệt mang tính di truyền thông qua các quy định và nguyên tắc cụ thể. Các chƣơng
cuối cùng, tác giả nâng cao một số thách thức thú vị cho việc nghiên cứu ngôn ngữ
và tƣ duy.
4. Dedre Gentner, Susan Goldin - Meadow trong công trình Language in
Mind: Advances in the Study of Language and Thought – Ngôn ngữ trong tƣ duy:
Những tiến bộ trong việc nghiên cứu ngôn ngữ và tƣ tƣởng [65]. Tiếp nối giả thuyết
Sapir - Whorf rằng ngôn ngữ chúng ta nói ảnh hƣởng đến cách chúng ta nghĩ - vấn
đề từng khơi dậy niềm đam mê lâu năm và tranh cãi dữ dội trong hai thập kỷ qua.
Các ngôn ngữ khác nhau ở các vùng trên thế giới có thể sẽ khác nhau về ngữ nghĩa.
Các năng lực ngôn ngữ của một ngƣời sẽ ảnh hƣởng đến sự hiểu biết của ngƣời đó
về thế giới. Vì vậy, ngƣời nói các ngôn ngữ khác nhau sẽ nhận thức thế giới khác
nhau. Dedre Gentner, Susan Goldin-Meadow qua nghiên cứu về ngôn ngữ học và
nhân chủng ngôn ngữ học đã cho thấy sự khác biệt nổi bật trong ngôn ngữ qua các
mô hình ngữ nghĩa và nhận thức tâm lý học đã phát triển các kỹ thuật tinh tế để
nghiên cứu cách con ngƣời ghi nhớ kinh nghiệm. Các chủ đề thảo luận bao gồm
không gian, số lƣợng, chuyển động, giới tính, lý thuyết về tâm trí, vai trò chuyên đề,
và phân biệt các bản thể học giữa các đối tƣợng và các chất…
5. The Language Instinct: The New Science of Language and Mind - Bản
4
năng ngôn ngữ: Khoa học mới về ngôn ngữ và tƣ duy của Steven Pinker đƣợc coi là
cuốn sách soi sáng mọi khía cạnh của ngôn ngữ con ngƣời: nguồn gốc sinh học của
nó, tính độc đáo có tính nhân loại, cấu trúc ngữ pháp, việc sản xuất và nhận thức về
lời nói, các bệnh lý của rối loạn ngôn ngữ và sự tiến hóa không ngừng của ngôn ngữ
và tiếng địa phƣơng. Tác giả S.Pinker còn tiếp tục bàn sâu về vấn đề này qua công
trình The Stuff of Thought: Language as a Window into Human Nature - Chất liệu
của tƣ tƣởng: Ngôn ngữ nhƣ cánh cửa để đi vào bản chất con ngƣời. S.Pinker cho
thấy ngôn ngữ đã phát triển để phản ánh các khái niệm tinh thần của con ngƣời. Các
khái niệm liên quan đến thời gian và không gian, vật chất và quan hệ nhân quả - đã
đƣợc dệt thành ngôn ngữ của loài ngƣời. Đây là công trình nghiên cứu “sâu sắc, thú
vị và thông minh” (Times), vô cùng dễ đọc và kích thích. Nó chứng tỏ “Pinker là
một bậc thầy trong việc tạo ra những ý tƣởng phức tạp lí thú (nguyên văn: ngon
miệng)” (Independent) và “không ai viết về ngôn ngữ rõ ràng nhƣ Steven Pinker”
(Financial Times). [92], [93]
6. Ngoài ra, có thể kể đến một số công trình khác nhƣ Body, Language and
Mind – Cơ thể, ngôn ngữ và tƣ duy của nhóm tác giả Roslyn M. Frank, René Dirven
, Tom Ziemke, Enrique Bernárdez [90]. Cuốn sách cung cấp khối lƣợng kiến thức
cơ bản, đa ngành và liên ngành về vấn đề cơ thể, ngôn ngữ và tƣ duy trên cơ sở tập
hợp các văn bản trong lĩnh vực văn hóa xã hội để chứng minh, giải thích những khả
năng phân tích của khái niệm này trong ngôn ngữ học nhận thức. Công trình cũng
đề cập đến một số vấn đề cốt lõi liên quan đến các khái niệm về yếu tố văn hóa xã
hội nhƣ một công cụ để điều tra vai trò của các lƣợc đồ văn hóa lƣu trữ trong nhận
thức và ngôn ngữ. Hay trong cuốn Through the Language Glass: Why The World
Looks Different In Other Languages - Thông qua lăng kính ngôn ngữ: Tại sao thế
giới có vẻ khác nhau trong những ngôn ngữ khác nhau Guy Deutscher đã phân tích
và làm rõ một số vấn đề nhƣ: Liệu ngôn ngữ có khả năng phản ánh văn hóa của một
xã hội? Có phải tiếng mẹ đẻ là một tấm giƣơng để qua đó chúng ta nhận thức về thế
giới? Ngôn ngữ khác nhau có thể dẫn đến suy nghĩ khác nhau ở mỗi ngƣời? …Với
công trình này, Guy Deutscher đã chứng minh và trả lời một số câu hỏi hấp dẫn
nhất, gây tranh cãi về ngôn ngữ, văn hóa và tâm thức của con ngƣời một cách khá
thuyết phục. [72]
* Ở Việt Nam
Ngay từ đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, GS. TSKH Lý Toàn Thắng đã có
5
bài viết trên tạp chí Ngôn ngữ số 2 năm 1983 về Vấn đề ngôn ngữ và tƣ duy. Sau
này, tác giả tiếp tục đề cập đến mối quan hệ này trong công trình lý thuyết về ngôn
ngữ học tri nhận. [37]
GS.TS Nguyễn Thiện Giáp đã trình bày mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tƣ
duy; mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá trong chƣơng 3 Ngôn ngữ với tƣ duy
và văn hoá của cuốn Giáo trình Ngôn ngữ học [17]. Từ việc chỉ ra hai quan niệm
trƣớc đây hoặc đồng nhất hoặc tách rời ngôn ngữ và tƣ duy, tác giả đã phân tích,
chứng minh và khẳng định rằng, ngôn ngữ và tƣ duy thống nhất nhƣng không đồng
nhất. Đối với mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá, tác giả đã chỉ ra mối quan hệ
biện chứng giữa chúng và chỉ ra các quan niệm khác nhau về ngôn ngữ và văn hoá
nhƣ giả thuyết của Sapir-Whorf, lí lẽ về ngôn ngữ quy định văn hoá, văn hoá quy
định ngôn ngữ.
Cuốn Đặc trƣng Văn tóa - Dân tộc của ngôn ngữ và tƣ duy của GS.TS
Nguyễn Đức Tồn [53] đã tập trung đi sâu vào một lĩnh vực có tính thời sự đặc biệt.
Đó là đặc trƣng văn hoá – dân tộc của ngôn ngữ và tƣ duy tộc ngƣời bao gồm các
vấn đề về đặc trƣng văn hoá – dân tộc của sự phạm trù hoá và định danh thế giới
khách quan, tƣ duy ngôn ngữ ở ngƣời Việt, có so sánh với những dân tộc khác, trên
cơ sở khảo sát một số trƣờng và nhóm từ vựng - ngữ nghĩa cơ bản. Trong đó,
chƣơng thứ năm Đặc trƣng văn hoá – dân tộc của tƣ duy ngôn ngữ, GS có đề cập
đến các nội dung nhƣ: tƣ duy và các kiểu loại của tƣ duy; bản chất của ẩn dụ là kiểu
tƣ duy phạm trù; bản chất của hoán dụ là kiểu tƣ duy liên hợp, cảm giác, hành động
- trực quan; tƣ duy liên tƣởng của ngƣời Việt.
GS. Nguyễn Lai trong cuốn Những bài giảng về ngôn ngữ học đại cƣơng
(Tập 1: Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tƣ duy) [29] đã phân tích khá kỹ càng về mặt
ký hiệu của ngôn ngữ, cách nhìn nó từ góc độ nhận thức để từ đó dò tìm ra các mối
liên hệ chức năng khác của ngôn ngữ. Trọng tâm thứ hai của các phân tích là mối
quan hệ giữa ngôn ngữ và tƣ duy trên một dải của nhiều vấn đề ngôn ngữ. Tác giả
đã nghiền ngẫm các sự kiện ngôn ngữ và trình bày một vài kiến giải riêng của mình.
2.2 Lịch sử nghiên cứu vấn đề giới tính trong ngôn ngữ trên thế giới và ở Việt Nam
Qua những tƣ liệu mà chúng tôi tìm hiểu đƣợc tính đến thời điểm hiện tại,
vấn đề giới và giới tính trong ngôn ngữ trên thế giới và ở Việt Nam có lịch sử
nghiên cứu khoảng 50 năm.
6
* Trên thế giới
- Thời gian nghiên cứu: Vấn đề giới và giới tính trong ngôn ngữ bắt đầu đƣợc
nhen nhóm từ những thập niên đầu của thế kỷ XX nhƣng chính thức đƣợc nghiên cứu
một cách có hệ thống từ những năm 70 của thế kỷ XX cho đến nay. Năm 1964, ngay khi
chuyên ngành Ngôn ngữ học xã hội ra đời thì vấn đề mối quan hệ giữa ngôn ngữ và giới
tính ngay lập tức đã trở thành một nội dung lớn, đƣợc nhiều ngƣời quan tâm.
- Nội dung nghiên cứu và các tác giả tiêu biểu: Các tác giả chủ yếu xoay
quanh vấn đề mối quan hệ giữa giới tính và ngôn ngữ; sự khác biệt giới tính biểu
hiện trong ngôn ngữ; sự kỳ thị giới tính trong ngôn ngữ trên các phƣơng diện ngữ
âm, từ vựng, ngữ pháp, giao tiếp ngôn ngữ, phong cách sử dụng ngôn ngữ…Có thể
kể đến một số công trình và kết quả nghiên cứu về các vấn đề trên theo từng khía
cạnh nhƣ:
+ Mối quan hệ giữa giới tính và ngôn ngữ: Đây là một nội dung giành đƣợc
sự quan tâm đặc biệt của nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới. Chẳng hạn Lis Rubin
Jacobsen đã có những nhận xét khái quát về cách gọi tên nam giới và nữ giới gắn
với địa vị xã hội trong một công trình nghiên cứu chung về tiếng Đan Mạch thời kỳ
Trung cổ: Kvinde og mand: en sprogstudie fra dansk middelalder- Nữ giới và nam
giới - một nghiên cứu ngôn ngữ học thời Trung cổ [80]. Năm 1997, Jennifer Coate
trong công trình Ngôn ngữ và giới tính - Language and Gender [76] đã khám phá ra
những vùng mở rộng của ngôn ngữ và giới tính từ phƣơng diện địa lý và xã hội.
Đây là tuyển tập những bài viết có giá trị quan trọng trong việc nghiên cứu mối
quan hệ ngôn ngữ và giới tính. Mối quan hệ trên tiếp tục đƣợc nhóm tác giả hàng
đầu trong lĩnh vực này - Penelope Ecker and Sally Mcconnell Ginet bàn luận trong
công trình cùng tên với công trình của Jennifer Coate: Language and Gender- Ngôn
ngữ và giới tính [88]. Cuốn sách bắt đầu bằng cuộc thảo luận rõ ràng về giới tính và
các nguồn tài nguyên mà hệ thống ngôn ngữ cung cấp cho việc xây dựng ý nghĩa xã
hội. Công trình đã đƣợc biên soạn để trở thành sách giáo khoa chuẩn cho các khóa
học về ngôn ngữ và giới tính. Năm 2008, Nhóm tác giả Angela Goddard, Lindsey
Mean cho ra đời công trình Ngôn ngữ và giới tính - Language and Gender [63]. Từ
việc chỉ ra mối quan hệ giữa ngôn ngữ và giới tính, tác giả đã làm nổi bật vai trò của
cá nhân trong các biểu hiện của định kiến giới thông qua khảo sát một loạt các loại
văn bản khác nhau nhƣ quảng cáo cá nhân, tài liệu động vật hoang dã, tiểu thuyết
văn học và các chƣơng trình âm nhạc cổ điển. Cũng vẫn bàn về mối quan hệ giữa
7
ngôn ngữ và giới tính, mới đây - năm 2010, tác giả Mary Talbot vừa cho ra đời
công trình Ngôn ngữ và giới tính - Language and Gender [81]. Đây là ấn bản mới
về ngôn ngữ và giới tính đã đƣợc triệt để sửa đổi và cập nhật. Trên cơ sở giới thiệu
những kiến thức nền tảng ban đầu "cổ điển" cho nghiên cứu trong lĩnh vực này, tác
giả tiến hành khảo sát, phân tích ngôn ngữ đƣợc sử dụng bởi phụ nữ và nam giới
trong một loạt các tình huống ngôn ngữ và chủ đề cụ thể…
+ Biểu hiện của sự khác biệt giới tính trong ngôn ngữ xét trên bình diện ngữ
âm (chủ yếu là vấn đề phát âm): Các tác giả: Majewski (1972), Loveday’s (1981),
Kristof (1995), Trịnh Cẩm Toàn (1997)…đã có những nghiên cứu cụ thể về âm vực
trung bình của từng giới ở những quốc gia khác nhau (Mỹ, Ba Lan, Trung Quốc…).
Một số tác giả khác nhƣ: Austin (1965), Shuy (1967), Laver (1968), Sachs (1975)
thì dành sự quan tâm nghiên cứu về sự khác biệt trong âm sắc và cách sử dụng âm
mũi hóa của từng giới. Hay ngay từ đầu thế kỷ XX, tác giả E. Sapir cũng đã đƣa ra
những dẫn chứng về hiện tƣợng sử dụng luân phiên một số âm vị khác nhau giữa
giới nam và nữ ngƣời Yana ở California (Mỹ). Đồng thời, E.Sapir còn chỉ ra việc sử
dụng luân phiên này cũng dễ nhận thấy trong tiếng Nhật Bản truyền thống.
+ Biểu hiện của sự khác biệt giới tính trong ngôn ngữ xét trên bình diện từ
vựng: Năm 1985, tác giả Poyton đã nghiên cứu về giới tính và các từ xƣng hô của
hai giới trong tiếng Anh Öc qua công trình Language and Gender. Making the
Difference - Ngôn ngữ và giới tính – Những điểm khác biệt [86]. Hai tác giả Cheris
Kramarae và Paula A Treichler cho ra đời công trình A feminist Dictionary – một
cuốn từ điển về chủ nghĩa nữ quyền [64]. Hay chính tác giả Lis Rubin Jacobsen
cũng đã làm rõ cách xƣng hô của hai giới trong tiếng Đan Mạnh cổ để từ đó làm căn
cứ chỉ ra mối quan hệ giữa giới tính và ngôn ngữ.
+ Biểu hiện của sự khác biệt giới tính về phong cách sử dụng ngôn ngữ (trên
bình diện ngữ dụng): Góp phần làm sáng tỏ nội dung này, các tác giả Farris (1995),
Trƣơng Ái Bình (1995), Shen Haibing (1997)...đã tiến hành nghiên cứu về sự khác
biệt của nhân tố giới tính trên các phƣơng diện của tiếng Hán nhƣ: phong cách giao
tiếp đặc thù– sajiao (làm nũng), các nhân tố trong lời nói làm nũng, cách dùng ngữ
khí từ “ma”. Hay tác giả Lê Quang Sáng cũng có bài 汉语性别歧视的表现 - Sự kỳ
thị giới tính biểu hiện trong từ xƣng hô tiếng Hán [43]. Bài viết này đã phân tích
những biểu hiện của tƣ tƣởng “男尊女卑” (nam tôn nữ ti, trọng nam khinh nữ) qua
hệ thống từ xƣng hô tiếng Hán (từ xƣng hô thân thuộc, xƣng hô xã hội và sự khuyết
8
thiếu từ xƣng hô). Tác giả Lê Quang Sáng đã rút ra một số nhận xét quan trọng nhƣ:
Có sự không cân xứng trong số lƣợng và trật tự từ xƣng hô của mỗi giới; sắc thái
biểu cảm nam nữ khác nhau; sự khuyết thiếu từ xƣng hô thân thuộc và xƣng hô xã
hội…Năm 2004, Jennifer Coate tiếp tục hƣớng nghiên cứu này và phần nào đã tìm
đƣợc lời giải đáp cho các câu hỏi: “Đàn ông và phụ nữ nói chuyện có khác nhau
không? Khác nhƣ thế nào? Có ngôn ngữ đóng vai trò trong sự thống trị của nam
giới không?..." qua công trình Women, Men and Language, A Sociolinguistic
Account of Gender Differences in Language - Phụ nữ, nam giới và ngôn ngữ, những
khác biệt giới tính trong ngôn ngữ xã hội [75]. Cuốn sách đã phác thảo bối cảnh lịch
sử, tóm tắt các nghiên cứu gần đây và giới thiệu các vấn đề chính trong nghiên cứu
ngôn ngữ học xã hội từ góc độ giới tính…
Dƣới góc độ ngữ dụng học, tác giả Gengshan Shi cũng chỉ ra một số khác biệt
về giới tính biểu hiện trong ngôn ngữ của mỗi giới qua việc nghiên cứu hành vi
khen ngợi trong tiếng Trung Quốc. Những phát hiện thú vị này đƣợc thể hiện trong
công trình Approaching Gender in Chinese Compiments - Tiếp cận vấn đề giới tính
qua hành động khen ngợi trong tiếng Trung [71]
+ Sự kỳ thị/thiên kiến về giới tính biểu hiện trong ngôn ngữ: Khoảng những năm
30 của thế kỷ XX, Sophie Drinker đã có những nhận xét ban đầu về biểu hiện của hiện
tƣợng thiên về nam giới trong ngôn ngữ. Tác giả Nguyễn Thị Việt Thanh đã có những
phát hiện thú vị về sự phân biệt giới tính từ phƣơng diện phong cách sử dụng ngôn ngữ
trong một ngôn ngữ cụ thể - tiếng Nhật qua bài viết: Hiện tƣợng phân biệt giới tính của
ngƣời sử dụng ngôn ngữ trong tiếng Nhật. [35]. Năm 2002, Michael Steindl cũng có
bài viết về vấn đề vị thế của nam giới biểu hiện trong ngôn ngữ: Ngôn ngữ của chúng
ta phải chăng là việc của nam giới? [83]. Qua kết quả nghiên cứu trên, hầu hết các tác
giả đều chỉ ra rằng sự thiên kiến nghiêng về đề cao nam giới, kỳ thị nữ giới. Nhƣng
cũng có những tác giả đƣa ra quan điểm ngƣợc lại. Chẳng hạn, Lakoff - ngƣời đầu tiên
đã lập luận và chứng minh rằng: Ngôn ngữ đƣợc sử dụng bởi phụ nữ và về phụ nữ.
Ngôn ngữ là nền tảng cho sự bất bình đẳng giới tính, sáng tạo ngôn ngữ và nghiên cứu
giới tính. Ông đã chỉ ra hai khía cạnh thể hiện rõ sự bất bình đẳng: Ngôn ngữ đƣợc sử
dụng để nói về phụ nữ và ngôn ngữ đƣợc phụ nữ sử dụng và cả hai lần lƣợt thể hiện
các cấu trúc áp bức xã hội. Những nhận định trên đƣợc Lakoff thể hiện trong cuốn
Language and Woman's Place: Text and Commentaries - Ngôn ngữ và vị thế của phụ
nữ: Văn bản và bình luận [89]. Đến nay, đây vẫn đƣợc xem là những nghiên cứu tiên
9
phong về ngôn ngữ học nữ quyền, vì nó đặt các ngữ liệu trong bối cảnh của phụ nữ
hiện đại và lý thuyết về giới cho một thế hệ ngƣời đọc mới.
- Khu vực, phạm vi nghiên cứu: Qua các công trình trên, chúng tôi nhận thấy
khi tìm hiểu về giới và giới tính trong ngôn ngữ, các tác giả chủ yếu dành sự quan
tâm nghiên cứu sự kỳ thị giới tính và những biểu hiện, phân biệt giới tính nói chung
trong ngôn ngữ qua các văn bản, tài liệu nhƣ:
+ Các văn bản, tài liệu khác nhau: văn bản giáo dục (hình ảnh, sách giáo
khoa, sách tham khảo, bài thi, bài kiểm tra, tài liệu dạy tiếng nƣớc ngoài…) tài liệu
tham khảo về ngôn ngữ (sách ngữ pháp, từ điển, sách phong cách học)…
+ Trong các ngôn ngữ khác nhau: Đặc biệt là tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng
Nhật, tiếng Đan Mạch, tiếng Hán, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp, tiếng Hà Lan….
+ Thuộc các lĩnh vực sử dụng ngôn ngữ khác nhau: tài liệu giáo dục, ngôn ngữ
thuộc lĩnh vực thông tin đại chúng (báo chí, truyền hình), ngôn ngữ luật pháp (văn bản
luật, văn bản có tính pháp lý), khu vực ngôn ngữ tôn giáo (bài kinh, bản dịch Kinh
thánh, ngôn ngữ sử dụng trong các buổi lễ nhà thờ và trong các nghi thức tôn giáo,
thuyết Âm - Dƣơng), ngôn ngữ hành chính (thƣ thông tƣ, giấy mời, tờ khai cá nhân..),
đời thƣờng (cách đặt tên, cách xƣng gọi…), các văn bản trong giao dịch kinh doanh
(thông báo, báo cáo, thƣ từ giao dịch, tài liệu hƣớng dẫn sử dụng thiết bị)…
Tóm lại, lịch sử nghiên cứu vấn đề giới tính trong ngôn ngữ học trên thế giới
sau khoảng 50 năm đã có những công trình chuyên sâu, tâm huyết. Tuy nhiên, nhìn
vào những công trình này, chúng tôi thấy, các tác giả thƣờng chỉ đi sâu vào sự kỳ
thị/biểu hiện giới tính trong ngôn ngữ (chủ yếu là trong một số ngôn ngữ thuộc loại
hình hòa kết: tiếng Anh, tiếng Đức hoặc ngôn ngữ dơn lập nhƣ tiếng Hán, tiếng
Nhật…) và cách sử dụng ngôn ngữ của mỗi giới nói chung trên bình diện từ vựng
và phong cách. Một số bài viết cũng đã nghiên cứu nhân tố giới tính trong sự tƣơng
quan với một số nhân tố khác nhƣ địa vị xã hội, nghề nghiệp…nhƣng hầu nhƣ chƣa
có công trình nghiên cứu chuyên sâu về tác động của nhân tố giới tính đến sự sử
dụng ngôn ngữ trong những tầng lớp cụ thể, ở lứa tuổi cụ thể trong những ngôn ngữ
cụ thể.
* Ở Việt Nam
- Thời gian nghiên cứu: Các công trình nghiên cứu về giới tính trong ngôn
ngữ ở Việt Nam bắt đầu muộn hơn so với thế giới khoảng hơn 20 năm - từ những
năm 90 của thế kỷ XX đến nay. Sang thập niên đầu của thế kỷ XXI, vấn đề giới,
10
giới tính trong văn học và trong ngôn ngữ tiếp tục đƣợc quan tâm khai thác ở nhiều
góc cạnh khác nhau với những phát hiện thú vị, mới mẻ.
- Tác giả tiêu biểu: GS.TS Nguyễn Văn Khang, GS.TS Nguyễn Đức Tồn,
GS. Lê Thị Nhâm Tuyết, TS. Nguyễn Thị Thanh Bình, TS.Bùi Minh Yến, PGS.TS.
Trần Xuân Điệp, TS. Vũ Tiến Dũng, …
- Nội dung nghiên cứu: Chủ yếu xoay quanh một số vấn đề sau (ở tầm khái quát):
+ Quan hệ giữa ngôn ngữ và giới tính: Có thể điểm qua 2 công trình có liên
quan, đó là: (1). Nguyễn Đức Dân, Ngôn ngữ và giới tính, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời
sống, số 12 năm 1999. (2). Năm 1999, trong cuốn Ngôn ngữ học xã hội, những vấn đề
cơ bản, (Nxb KHXH), GS. TS Nguyễn Văn Khang đã đƣa ra những nhận xét có sức
thuyết phục cao về sự khác biệt ngôn ngữ giữa nam và nữ qua việc khảo sát ngôn ngữ
giao tiếp của một số cặp vợ chồng ngƣời Việt. Tác giả đã dành hẳn chƣơng 7 của cuốn
sách để bàn về mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa nhân tố giới tính và ngôn ngữ.
+ Ngôn ngữ nói về mỗi giới, ngôn ngữ đặc trƣng đƣợc mỗi giới sử dụng: Về
vấn đề này, có thể kể đến:
1. Luận án Tiến sĩ của tác giả Trần Xuân Điệp: Dựa trên cứ liệu tiếng Anh và
tiếng Việt, tác giả đã chỉ ra những dẫn chứng khá cụ thể, xác thực về sự kỳ thị giới
tính trong ngôn ngữ. Đặc biệt, trong tiếng Anh, sự khác biệt giới tính còn đƣợc thể
hiện rất rõ trong phạm trù ngữ pháp – phạm trù giới. [11]
2. Tác giả Nguyễn Thị Mai Hoa trong Luận án Tiến sĩ Đặc điểm ngôn ngữ
giới tính trong hát phƣờng vải Nghệ Tĩnh, Trƣờng ĐH Vinh, 2010, cũng đề cập đến
đặc điểm ngôn ngữ đƣợc mỗi giới ƣa dùng gắn với các vai giao tiếp trong phạm vi
ngữ liệu cụ thể - Hát phƣờng vải Nghệ Tĩnh. Bằng những khảo sát cụ thể, TS.
Nguyễn Thị Mai Hoa đã chỉ ra rằng: “Sự phân định quyền thế xã hội của vai chủ và
vai khách trong Hát phƣờng vải dựa trên sự khác biệt về nghề nghiệp, địa vị xã hội, tuổi
tác và quan niệm định kiến về giới của xã hội”. [19]
+ Sự kỳ thị giới tính biểu hiện trong ngôn ngữ: Đây là nội dung có số lƣợng
nhà nghiên cứu quan tâm nhiều hơn cả. Những công trình hầu hết đã chỉ ra đƣợc
những biểu hiện khái quát của sự kỳ thị giới tính trong ngôn ngữ, đặc biệt là qua lớp
từ xƣng gọi, thân tộc (trong tiếng Việt), trong nội hàm nghĩa của từ hay qua một số
cách kết hợp từ, cấu tạo từ (trong sự đối sánh với tiếng Anh, tiếng Hán, tiếng
Nhật…). Chẳng hạn:
1. Luận án Sự kỳ thị giới tính trong ngôn ngữ qua cứ liệu tiếng Anh và tiếng
11
Việt của TS. Trần Xuân Điệp [11]: Luận án đƣa nhiều ví dụ khá hệ thống, chi tiết về
những biểu hiện của sự kỳ thị giới tính trong tiếng Anh và tiếng Việt nhƣng chỉ chủ
yếu trên phƣơng diện cấu tạo từ và phạm trù ngữ pháp. Những đóng góp của luận án
đã góp phần nâng cao nhận thức về biểu hiện kỳ thị giới tính trong ngôn ngữ, từ đó
định hƣớng cho mỗi cá nhân trong việc sử dụng ngôn ngữ một cách tích cực, bình
đẳng, hiệu quả.
2. Bài viết Xã hội học ngôn ngữ về giới: Sự kì thị và sự chống kì thị đối với
nữ giới trong sử dụng ngôn ngữ của GS. TS Nguyễn Văn Khang [26]: Dƣới góc
nhìn ngôn ngữ học xã hội, trong bài viết này, GS. Nguyễn Văn Khang đã chỉ ra và
một lần nữa khẳng định mối quan hệ giữa ngôn ngữ và giới tính. Trong đó, phƣơng
ngữ giới tính là một biểu hiện của sự phân chia hai nửa đàn ông và đàn bà trong xã
hội. Tác giả đƣa ra những ví dụ minh họa cho vấn đề ngôn ngữ phản ánh sự thiên
kiến đối với giới nữ trong xã hội cả trong các ngôn ngữ phƣơng Đông- ngôn ngữ
mang tải đặc trƣng văn hoá phong kiến của các nƣớc này, lẫn trong các ngôn ngữ
phƣơng Tây nhƣ một thực tại xã hội. Từ đó, GS đã giới thiệu và đề xuất những giải
pháp đấu tranh cho sự bình đẳng về giới trên lĩnh vực ngôn ngữ học. Sự bình đẳng
giới cũng phải gắn với sự bình đẳng về ngôn ngữ.
3. Một số luận văn khác cũng bàn về vấn đề này nhƣ: Tác động của nhân tố
giới tính đối với việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp (trên cứ liệu của ngữ khí từ
tiếng Hán và việc chuyển dịch chúng sang tiếng Việt) của Đỗ Thu Lan [28], Một số
biểu hiện phân biệt ngôn ngữ theo giới tính (tại một số trƣờng phổ thông ở Hà Nội
và Hà Nam) của Trần Thị Dự [9].
+ Biểu hiện của sự kỳ thị giới/định kiến giới trên cứ liệu văn học (chủ yếu là
VHDG, báo chí…): Một số tác giả đã tiến hành khảo sát và phân tích sự kỳ thị
giới/định kiến giới trên cứ liệu văn học cụ thể nhƣ ca dao, tục ngữ, văn học giai
đoạn 1930 – 1945…hoặc trong các sáng tác của một tác giả cụ thể nào đó (Nam
Cao, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Huy Thiệp …). Có thể kể đến một số luận văn
sau: Đặc điểm ngôn ngữ của nữ giới qua hành vi hỏi (trên cứ liệu lời thoại nhân vật
trong truyện ngắn Nam Cao trƣớc 1945) cuả Nguyễn Lê Lƣơng [30]; Biểu hiện của
sự kỳ thị giới tính trong ca dao, tục ngữ của Nguyễn Thị Mai; Đặc điểm ngôn ngữ
giới tính qua các cặp hỏi – đáp trong một số truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp và
Nguyễn Thị Thu Huệ của Nguyễn Bích Phƣợng [32].
+ Tác động của nhân tố giới tính đến một số phƣơng diện liên quan đến
12
ngôn ngữ (lịch sự trong tiếng Việt, sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp, hành động
ngôn từ, từ xƣng hô/xƣng gọi…): Về vấn đề này, có thể kể đến một số bài viết sau:
1. Ở Việt Nam, GS. TS Nguyễn Đức Tồn đƣợc coi là một trong những tác giả
tiên phong trong lĩnh vực này. Từ cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, GS đã có một
công trình viết bằng tiếng Nga về vấn đề đặc điểm vốn từ vựng tiềm năng ở nam và
nữ ngƣời Việt (có so sánh với ngƣời Nga) in năm 1988. Sau đó, những kết quả
nghiên cứu của công trình này đƣợc tác giả trình bày khoa học, súc tích trong cuốn
Đặc trƣng Văn hóa – Dân tộc của ngôn ngữ và tƣ duy [53]. Cuốn sách trên là sự gợi
mở quý báu về nội dung và phƣơng pháp nghiên cứu cho chúng tôi thực hiện luận
văn này.
2. Đến năm 1990, TS. Bùi Minh Yến đã có những nghiên cứu khá hệ thống
về từ xƣng gọi gắn với yếu tố giới tính và địa vị giao tiếp qua một loạt bài viết nhƣ:
(1). Từ chỉ quan hệ thân thuộc trong chức năng xƣng gọi (2).Xƣng hô giữa vợ và
chồng trong gia đình ngƣời Việt (3). Xƣng hô giữa anh chị và em trong gia đình
ngƣời Việt (4). Xƣng hô giữa ông, bà và cháu trong gia đình ngƣời Việt (5). Xƣng
hô giữa các thành viên trong gia đình ngƣời Việt (6). Xƣng hô trong nhà trƣờng,
Tiếng Việt trong trƣờng học (7). Ngôn ngữ xƣng hô bạn bè trong nhà trƣờng hiện
nay: Khảo sát trên địa bàn Hà Nội (8). Ngôn ngữ xƣng hô trong tiếng Việt giao tiếp
công sở: Ngôn ngữ xƣng hô quy thức - Khảo sát trên địa bàn Hà Nội…và sau này,
các bài viết trên đƣợc tập hợp trong công trình cấp Viện: Ngôn ngữ xƣng hô tiếng
Việt [62]. Cũng liên quan đến vấn đề này, tác giả Nguyễn Thị Thanh Bình đã có
nghiên cứu cụ thể về một số biểu hiện ngôn ngữ (từ xƣng gọi, các biến thể ngữ âm)
có sự tác động của yếu tố giới tính trong ngôn ngữ của trẻ em (điều tra việc sử dụng
ngôn từ của 12 cháu bé ở Hà Nội và Hoài Thị) qua công trình Xƣng gọi: bằng
chứng về giới trong ngôn từ của trẻ em trƣớc tuổi đến trƣờng ở Hà Nội và Hoài Thị
[1]. Hay tác giả Nguyễn Đức Thắng cũng có bài viết Về giới và ngôi ở những từ
xƣng hô trong giao tiếp tiếng Việt đề cập đến nội dung này [36] .
3. TS. Vũ Thị Thanh Hƣơng cũng tiến hành điều tra về sự khác biệt trong
ứng xử lịch sự của nam và nữ khi dùng lời cầu khiến của gần 80 cộng tác viên trên
địa bàn Hà Nội qua bài viết Giới tính và lịch sự [20]. Việc nghiên cứu này cũng
đƣợc tiến hành bằng cách gắn yếu tố giới tính với các nhân tố tuổi tác, nghề nghiệp
và địa vị xã hội…biểu hiện trong một hành động ngữ vi cụ thể (lời cầu khiến). Tiếp
tục hƣớng nghiên cứu của TS. Vũ Thị Thanh Hƣơng, tác giả Vũ Tiến Dũng đã chỉ ra
13
đƣợc những khác biệt một cách khái quát giữa nam và nữ trong xƣng hô lịch sự và
chiến lƣợc lịch sự để từ chối lời cầu khiến gắn với yếu tố địa vị, tuổi tác và nghề
nghiệp. Kết quả nghiên cứu này đƣợc thể hiện trong luận án Lịch sự trong tiếng Việt
và giới tính (qua một số hành động nói) [8].
4. Ngoài ra, có thể kể đến một số công trình khác cũng bàn đến vấn đề tác
động của nhân tố giới tính đến một số phƣơng diện liên quan đến ngôn ngữ nhƣ:
Khảo sát hành vi hỏi – trả lời từ góc độ giới tính qua chuyên mục “trực tuyến” trên
VTC News của Nguyễn Thị Hiên [18] hay Tác động của nhân tố giới tính đối với
việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp (trên cứ liệu của ngữ khí từ tiếng Hán và việc
chuyển dịch chúng sang tiếng Việt) của Đỗ Thu Lan [28]. Tác giả Đỗ Thu Lan đã
bƣớc đầu đi vào tìm hiểu sự tác động của nhân tố giới tính trong hai ngôn ngữ cụ
thể (tiếng Hán, tiếng Việt) đƣợc vận dụng trong giao tiếp từ góc độ khảo sát một số
ngữ khí từ (hƣ từ) trong tiếng bản ngữ và trong việc chuyển dịch.
- Khu vực, phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu sự kỳ thị/sự biểu hiện giới tính trong
văn bản văn học (chủ yếu là tục ngữ, thành ngữ, ca dao, dân ca), báo chí, phƣơng
tiện truyền thông…), đối chiếu cứ liệu tiếng Việt với một số ngôn ngữ khác
Nhƣ vậy, ở Việt Nam vấn đề ngôn ngữ và giới tính cũng đã thu hút đƣợc sự
quan tâm nhất định của các nhà nghiên cứu trên các góc độ khác nhau. Tuy nhiên,
mức độ tập trung vẫn chỉ dừng lại ở một số khu vực nhƣ đã kể trên. Vì thế, vấn đề tác
động của nhân tố giới tính đến từng đối tƣợng trong sự ảnh hƣởng của các nhân tố
khác vẫn là mảnh đất hấp dẫn khơi gợi hứng thú cho chúng tôi khám khá, tìm hiểu.
2.3 Lịch sử nghiên cứu sự tác động của nhân tố giới tính đến sự sử dụng ngôn
ngữ và tư duy của người Việt
Qua khảo sát của chúng tôi, trên thế giới đã có khá nhiều công trình nghiên
cứu về sự tác động của nhân tố giới tính đến sự sử dụng ngôn ngữ nói chung (nhƣ
đã giới thiệu ở mục 2.2). Trong các công trình trên, các tác giả đã đề cập đến sự tác
động của nhân tố giới tính tới một hoặc một số phƣơng diện của ngôn ngữ: tính lịch
sự trong giao tiếp, vấn đề sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp, hành động ngôn ngữ…
Về mối quan hệ giữa nhân tố giới tính và vấn đề tƣ duy ngôn ngữ, GS.TS
Nguyễn Đức Tồn có đề cập đến trong chƣơng năm của cuốn sách Đặc trƣng Văn
hóa – Dân tộc của ngôn ngữ và tƣ duy [53, tr.419 – 531]. Trong chƣơng này, thông
qua các thực nghiệm liên tƣởng và những phân tích cụ thể, GS đã phần nào làm rõ
tƣ duy liên tƣởng của ngƣời Việt nói chung trên một số góc độ: Chiến lƣợc liên
14
- Xem thêm -