A
TÌNH HÌNH KINH TẾ CỦA NƯỚC MỸ TỪ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI
THỨ HAI ĐẾN NĂM 1970
1.
Tình hình kinh tế
*Từ năm 1929-1933
- Vào tháng 09/1929, cuộc khủng hoảng kinh tế bắt đầu bùng nổ bắt nguồn từ nước
Mỹ (đây là nước tư bản phát triển nhất thời điểm đấy)
Nước Mỹ chạy đua ồ ạt sản xuất các mặt hàng nhưng khó tiêu thụ, ế hàng tràn lan.
Sản lượng công nghiệp bị giảm sút 50% vì trì trệ với gang thép giảm 75%, ôtô
giảm 90%. Hàng loại xí nghiệp lớn phá sản, nông dân thất thu nghèo khổ.
-Trong giai đoạn khủng hoảng Mỹ là nước có tốc độ lạm phát và tiến trình khủng
hoảng nặng nề. Tính năm 1933 có tới 17 triệu người thất nghiệp, các công ty, xí
nghiệp phá sản, nông dân phải bỏ ruộng vườn tha phương. Bạo loạn diễn ra khắp
nơi để giành sự sống. Năm 1930 có cuộc biểu tình của 2 vạn công nhân, 1929-1933
có cuộc bãi công của hơn 3 triệu công nhân.
* Trong những năm 1945-1950, Mỹ đạt được nhiều kỳ tích về kinh tế:
+ Về công nghiệp, chiếm hơn một nửa sản lượng công nghiệp thế giới
+Về nông nghiệp: sản lượng nông nghiệp của Mỹ gấp hai lần sản lượng nông
nghiệp của anh, Pháp, Đức, I ta lia và Nhật bản cộng lại
+Về tài chính: Mỹ nắm giữ 3/4 dự trự vàng của thế giới
+ Về quân sự: Mỹ có lực lượng mạnh nhát , được trang bị các loại vũ khí hiện đại,
giữ vững độc quyền về vũ khí hạt nhân
- Hai thập kỷ sau chiến tranh thế giới thứ haqi, Mỹ là trung tâm kinh tế tài chính
giàu mạnh nhất thế giới
2.Chính sách kinh tế (Tổng thống ru-dơ-ven ban hành cuối năm 1932)
+ Giải quyết nạn thất nghiệp
+ Thông qua các đạo luật: Ngân hàng, phục hưng công nghiệp, trong các đạo luật
đó - đạo luật phục hưng công nghiệp là quan trọng nhất. Đạo luật này quy định
việc tổ chức lại sản xuất công nghiệp theo những hợp đồng chặt chẽ về sản phẩm
và thị trường tiêu thụ, quy định việc công nhân có quyền thương lượng với chủ đề
mức lương và chế độ làm việc.
+Điều chỉnh nông nghiệp: nâng cao giá nông sản, giảm bớt nông phẩm thừa, cho
vay dài hạn đối với dân trại...
*Kết luận: nhà nước can thiệp tích cực vào nền kinh tế, dùng sức mạnh, biện pháp
để điều tiết kinh tế, giải quyết các vấn đề kinh tế chính trị, xã hội.
CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHÍNH SÁCH CỦA NƯỚC
MỸ
1.Trường phái Keynes mới:
-Ở Mỹ : Coi học thuyết của Keynes là liều thuốc hiệu nghiệm và có bổ sung tăng.
Đưa ra các giải pháp: tăng thu ngân sách, tăng thuế trong thời kì hưng thịnh, tăng
nợ Nhà nước. Coi thu chi ngân sách là “công cụ ổn định bên trong” của nền kinh
tế. Coi chi phí chiến tranh là phương tiện tốt nhất để ổn định thị trường, thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế.
-Ảnh hưởng:
+ Tích cực
Là liều thuốc chữa cho nền kinh tế Mỹ lành mạnh, là cơ sở chủ đạo của các chính
sách kinh tế vĩ mô sau cttg thứ 2.
Góp phần thúc đẩy kinh tế Mỹ phát triển, hạn chế được khủng hoảng và thất
nghiệp, nhất là trong những năm 50 – 60.
+ Tiêu cực :
- Mục đích chống khủng hoảng và thất nghiệp chưa làm được (chỉ tác dụng tạm
thời)
+ Thất nghiệp vẫn duy trì ở mức cao.
+ Khủng hoảng không trầm trọng như trước nhưng vẫn xảy ra thường xuyên, thời
gian giữa các cuộc khủng hoảng kinh tế ngắn hơn.
- Ý đồ dùng lãi suất để điều chỉnh chu kỳ kinh tế TBCN không có hiệu quả. Chính
sách lạm phát có mức độ (có kiểm soát) làm cho lạm phát càng trầm trọng, tác hại
lớn hơn cái lợi nó mang lại.
- Quá coi nhẹ cơ chế thị trường (“dùng đại bác bắn vào cơ chế thị trường”)
- Cơ bản chỉ tập trung vào các vấn đè mang tính chất ngắn hạn, ít chú trọng tới tầm
quan trọng của khuyến khích đối với tăng trưởng kinh tế dài hạn nên lạm phát còn
tiếp tục tăng.
2.Các lý thuyết kinh tế của chủ nghĩa tự do mới ở Mỹ:
a)
Thuyết trọng tiền (Đại biểu: Miltol Friedman)
Cho rằng mức cung tiền tệ là nhân tố quyết đinh đến việc tăng sản lượng quốc gia
và do đó ảnh hưởng đến việc làm, giá cả (các biến số của kinh tế vĩ mô)
Có thể tác động vào chu kì kinh tế TBCN bằng việc chủ động điều tiết mức cung
tiền tệ.
Chủ trương ưu tiên chống lạm phát hơn là chống thất nghiệp.
Nhà nước không nên can thiệp nhiều vào kinh tế (chỉ giới hạn ở điều chỉnh mức
cung tiền tệ, điều tiết lưu thông tiền tệ để ngăn chặn lạm phát) .
Có ảnh hưởng sâu sắc đến nước Mỹ, nhưng chỉ đạt hiệu quả nhất thời, đưa đến
những hậu quả mới.
b)
Lý thuyết trọng cung: (Tiền bối: Marshall, Đại biểu: Arthur
Laffer)
Xuất hiện ở Mỹ vào năm 1980, biểu hiện rõ sự đối lập với những tư tưởng trọng
cầu của Keynes.
Đề cao vai trò chủ động trong sản xuất của giới chủ, đề cao cơ chế tự điều tiết của
thị trường tự do. Công cụ chủ yếu để phân tích kinh tế là lí thuyết đường cong
Laffer thể hiện mối quan hệ giữa thu nhập và mức thuế.
-Ảnh hưởng: Lí thuyết trọng cung có ảnh hưởng đến chính sách kinh tế của chính
quyền Reagan. Năm 1981, Reagan đã đề nghị giảm 25% thuế thu nhập nhưng thâm
hụt ngân sách ngày càng lớn khiến người ta nghi ngờ...
- Ảnh hưởng
+Tích cực :
- Các lí thuyết kinh tế của chủ nghĩa tự do mới đều nhận thấy những hạn chế của
cơ chế thị trường tự do cạnh tranh (nhất là lạm phát, thất nghiệp, bất công xã hội,
khủng hoảng kinh tế chu kỳ, ...), đều đưa ra những cách giải quyết khác nhau về
nguyên nhân và đưa ra những giải pháp khắc phục.
- Đã quan tâm đến tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế bền vững, khuyến khích
cạnh tranh đồng thời quan tâm đến những vấn đề xã hội.
- Đánh giá tầm quan trọng và hiệu quả can thiệp của Nhà nước vào kinh tế ở mức
độ khác nhau, đã đưa ra một số giải pháp, chính sách điều tiết vĩ mô của Nhà nước
+ Tiêu cực :
- Giải thích hiện tượng, nguyên nhân khủng hoảng kinh tế mang tính chất chủ
quan, phiến diện dựa vào yếu tố tâm lí xã hội, tâm lí tiêu dùng...mà không thấy
được tính tổng thể, mối liên hệ biện chứng giữa các hiện tượng và quá trình kinh
tế.
- Chưa vạch rõ nguyên nhân, bản chất của các hiện tượng kinh tế như thất nghiệp,
lạm phát, bất công,... do đó đưa ra liều thuốc chữa chạy mang tính hiệu quả nhất
thời và phiến diện . Tóm lại, vẫn không giải quyết được triệt để mâu thuẫn cơ bản
của CNTB, không chữa được tận gốc rễ căn bệnh của CNTB
B
Tác động và hậu quả
1.
Giai đoạn 1929-1933
Tháng 10 /1929 cuộc khủng hoảng kinh tế bùng nổ ở Mỹ dẫn tới khủng hoảng kinh
tế toàn cầu. Gây ra nhiều tác động với Việt Nam :
Thực dân Pháp rút vốn đầu tư ở Đông Dương về các ngân hàng Pháp
và dùng ngân sách Đông Dương để hỗ trợ cho tư bản Pháp => Sản xuất công
nghiệp ở Việt Nam bị thiếu thốn dẫn đến đình trệ.
Lúa gạo trên thị trường thế giới bị mất giá làm cho lúa gạo Việt Nam
không xuất khẩu được => Ruộng đất bị bỏ hoang.
Hậu quả: Nền kinh tế Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng
nghiêm trọng.
Công nhân thất nghiệp ngày càng đông, số người có việc làm thì tiền
lương bị giảm từ 30-50%.
Nông dân tiếp tục bần cùng hóa và phá sản trên quy mô lớn.
Tiểu tư sản lâm vào cảnh điêu đứng: Nhà buôn nhỏ đóng cửa, viên
chức bị sa thải, học sinh, sinh viên ra trường bị thất nghiệp.
Một bộ phận lớn tư sản dân tộc lâm vào cảnh khó khan do không thể
buôn bán và sản xuất.
Thực dân Pháp còn tăng sưu thuế lên gấp 2-3 làn và đẩy mạnh chích
sách khủng bố trắng hòng dập tắt phong trào cách mạng ở Việt Nam.
2.
Giai đoạn 1930-1970
+ Sau khủng khoảng nền kinh tế Việt Nam dần phục hồi. Trước năm 1954:
Thời Pháp thuộc đã thúc đẩy mọi ngành kinh tế ở Việt Nam phát triển.
Người Pháp khai hoang khiến nông nghiệp phát triển vượt bậc đồng thời
đem đến trình độ và phương thức sản xuất mới trong công nghiệp và dịch
vụ. Các ngành tiểu thủ công nghiệp bản địa đang trên đà suy thoái cũng
được Pháp hỗ trợ phát triển. Người Pháp xây dựng một hệ thống cơ sở hạ
tầng hoàn chỉnh bao trùm toàn bộ lãnh thổ Việt Nam gồm đường bộ, đường
sắt, cảng biển, sân bay, các đô thị lớn mà đến ngày nay nền kinh tế Việt
Nam vẫn đang vận hành dựa vào hệ thống này. Thị trường nội địa và ngoại
thương phát triển mạnh. Nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hình thành tại các đô
thị lớn.
Quá trình công nghiệp hoá tiến triển chậm. Nền công nghiệp Việt
Nam nhỏ bé và không hoàn chỉnh với các cơ sở sản xuất lớn là của tư bản
Pháp còn công nghiệp bản địa chỉ gồm những doanh nghiệp nhỏ hoạt động
trong lãnh vực sản xuất hàng tiêu dùng và các hộ gia đình sản xuất tiểu thủ
công nghiệp. Ngành công nghiệp không phát triển là chủ đích của thực dân
Pháp không muốn để cho dân bản xứ lập công ty để cạnh tranh với các công
ty của Pháp. Nước Pháp muốn duy trì nền công nghiệp bản xứ tại Đông
Dương là nền sản xuất thủ công, không đòi hỏi chất lượng nhân công cao
mặc dù có những chỉ trích của những nhà công nghiệp và nhà kinh tế học
ngay tại thời điểm đó.
+ 1954-1970:
Thời gian này, Chiến tranh Việt Nam nổ ra. Trong thời kỳ này, Việt
Nam bị chia cắt thành hai vùng với hai chế độ chính trị và kinh tế khác nhau.
Giai đoạn đầu tiên là 1955–1963, cả Việt Nam Cộng hòa và Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa đều có mức tăng trưởng kinh tế cao (kinh tế Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa tăng 1,7 lần trong khi Việt Nam Cộng hòa tăng 1,6 lần).
Giai đoạn thứ 2 là năm 1964–1975, tăng trưởng trở nên bấp bênh khi mà cả
hai miền Việt Nam đều bị lôi vào sự leo thang chiến tranh với sự dính líu
trực tiếp của Hoa Kỳ cho đến khi chiến tranh kết thúc.
Nhìn chung, Việt Nam Cộng hòa có mức GDP bình quân đầu người
cao hơn so với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nguyên nhân là từ mức viện
trợ kinh tế cực kỳ lớn từ Mỹ.
Giải pháp.
Vấn đề giải quyết Cuộc Đại Khủng Hoảng kéo dài bất chấp một loạt
các biện pháp mới nhằm giảm nhẹ thiệt hại cho người dân, cụ thể là cung
cấp thêm việc làm mới, hỗ trợ hay bảo vệ các khoản thế chấp. Mãi đến đầu
Chiến tranh Thế giới thứ Hai, khi chính phủ Mỹ áp dụng lý thuyết kinh tế
học Keynes với trọng tâm chính là nêu bật vai trò tăng trưởng tiền lương (để
tăng tổng cầu) và vai trò của nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế, nền
kinh tế mới hồi phục.
Sản lượng sản xuất tăng gấp đôi trong chiến tranh, tình trạng thất
nghiệp biến mất khi phụ nữ và người da đen được kêu gọi tham gia vào lực
lượng lao động thay cho hàng triệu người đã tham gia vào quân ngũ. Vào lúc
đỉnh cao, chính phủ Mỹ đã vay nợ một nửa tiền cần thiết để có tiền chi trả
cho chiến tranh.
Bài học cho ngày nay
Thị trường tài chính, ngân hàng và nền kinh tế các nước có liên hệ
mật thiết, vì thế những vấn đề còn tồn tại trong lĩnh vực này sẽ ảnh hưởng
đến nhiều lĩnh vực khác.
Các chính phủ nên can thiệp nhanh chóng và chủ động khi kinh tế
khủng khoảng. Việc chính phủ Mỹ và các ngân hàng trung ương chậm chạp
can thiệp những năm 1930 khiến cuộc khủng hoảng ngày một tệ hại..
Có nguy cơ khoảng trống về chính sách giữa hai nhiệm kỳ tổng thống
. Năm 1933, khủng hoảng ngành ngân hàng Mỹ diễn biến xấu hơn trong
khoảng thời gian 5 tháng giữa khoảng thời gian cuộc bầu cử hoàn thành và
tổng thống mới nhận chức
C
Tác động của các học thuyết kinh tế lên các chính sách kinh tế của
Mỹ giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến Chiến tranh thế giới thứ 2
1. Tình hình kinh tế Mỹ
- Những năm 20 thế kỉ XX
+ Phát triển mạnh do: Thu được nhiều lợi nhuận do buôn bán vũ khí trong chiến
tranh. Nằm giữa hai đại dương là Thái Bình Dương và Đại Tây Dương, không bị
chiến tranh tàn phá. Tham gia chiến tranh muộn, là nước thắng trận, trở thành chủ
nợ của Châu Âu. Sớm áp dụng khoa học - kĩ thuật vào sản xuất, thực hiện phương
pháp sản xuất dây chuyền và mở rộng quy mô sản xuất.
+ Công nghiệp: Trong vòng 6 năm (1923-1929), sản lượng công nghiệp tăng 69%.
Năm 1929, Mĩ chiếm 48% sản lượng công nghiệp thế giới, vượt qua sản lượng
công nghiệp của 5 nước Anh, Pháp, Đức, I-ta-li-a, Nhật Bản cộng lại. Đứng đầu
thế giới về sản xuất ôtô, thép, dầu mỏ,…
+ Tài chính: Trở thành chủ nợ của thế giới. Năm 1929, Mĩ nắm 60% trữ lượng
vàng của thế giới.
+ Hạn chế: Sự phát triển không đồng bộ giữa các ngành công nghiệp, giữa công
nghiệp với nông nghiệp. Không có kế hoạch dài hạn cho sự cân đối giữa sản xuất
và tiêu dùng,…
- Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933: Là cuộc khủng hoảng kinh tế lớn nhất
trong lịch sử của chủ nghĩa tư bản. Đó là cuộc khủng hoảng sản xuất “ thừa”, bởi
vì sự sản xuất bừa bãi, ồ ạt chạy theo lợi nhuận trong những năm ổn định của chủ
nghĩa tư bản 1924-1929 đã dẫn đến tình trạng hàng hoá ế thừa vì sức mua của quần
chúng đã bị giảm sút nhiều do sự bóc lột tàn tệ của giai cấp tư sản.
+ Tháng 10-1929, khủng hoảng kinh tế bùng nổ ở Mĩ, sau đó lan ra toàn bộ thế
giới tư bản, chấm dứt thời kì ổn định và tăng trưởng của chủ nghĩa tư bản. Cuộc
khủng hoảng kéo dài gần 4 năm, trầm trọng nhất là năm 1932, chẳng những tàn
phá nặng nề nền kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa mà còn gây ra những hậu quả
nghiêm trọng về chính trị-xã hội. Đồng thời, khủng hoảng kinh tế cũng làm cho
mâu thuẫn giữa các nước đế quốc căng thẳng về nhằm nhò tài nguyên, đất đai và
tài sản của nhau. Các nước đế quốc tích cực đẩy mạnh chuẩn bị chiến tranh chia lại
thế giới. Đây là ngòi nổ châm bùng lên ngọn lửa chiến tranh thế giới thứ hai.
+ Hậu quả:
+) Nạn thất nghiệp. Năm 1933, có 17 triệu người thất nghiệp, đó là chưa kể vô số
nông dân bị phá sản, phải bỏ ruộng vườn đi ra thành phố sống lang thang
+) Tiền lương bị giảm xuống rất nhiều. Lương công nhân công nghiệp chỉ còn 56
%. Đó là chưa kể giá đồng bạc sụt xuống làm cho tiền lương thực tế càng bị giảm
sút hơn. Do đó đời sống của nhân dân lao động rất cùng cực. Năm 1931, riêng
thành phố Niu-ooc ( Mĩ ) có hàng nghìn người chết đói.
+) Các cuộc đấu tranh của người dân, công nhân và nhân dân lao động đã nổi dậy
để đấu tranh bởi cuộc sống quá cực khổ bị đẩy đến đường cùng.
2. Chính sách kinh tế của Mỹ
Nước Mĩ thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng vì Tổng thống mới đắc cử cuối năm
1932 là Ru-dơ-ven đã thực hiện Chính sách mới. Chính sách này nhằm giải quyết
nạn thất nghiệp, phục hồi các ngành kinh tế - tài chính, đặc biệt nhấn mạnh đến vai
trò kiểm soát, điều tiết của Nhà nước đối với việc sản xuất và lưu thông hàng hóa.
-Nội dung:
+ Các biện pháp nhằm giải quyết nạn thất nghiệp, phục hồi sự phát triển của nền
kinh tế - tài chính.
+ Ban hành các đạo luật phục hưng công nghiệp, nông nghiệp, ngân hàng... với
những quy định chặt chẽ, đặt dưới sự kiểm soát của Nhà nước.
+ Nhà nước tăng cường vai trò của mình trong việc cải tổ hệ thống ngân hàng, tổ
chức lại sản xuất, cứu trợ người thất nghiệp, tạo thêm nhiều việc làm mới và ổn
định tình hình xã hội.
=>Chính sách mới kịp thời giải quyết được hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế
ở Mĩ, đưa nền kinh tế Mĩ nhanh chóng phục hồi và phát triển. Giải quyết việc làm
cho người lao động trong thời điểm đó và góp phần làm cho nước Mĩ duy trì được
chế độ dân chủ tư sản.
- Kết quả:
+ Giải quyết được vấn đề việc làm cho người thất nghiệp, xoa dịu mâu thuẫn xã
hội.
+ Khôi phục được sản xuất.
+ Thu nhập quốc dân tăng liên tục từ sau 1933
+ Duy trì chế độ dân chủ tư sản
-Chính sách ngoại giao:
+ Thực hiện chính sách “ láng giềng thân thiện”.
+ Tháng 11 năm 1933 chính thức công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Liên
Xô.
+ Trung lập với các xung đột quân sự ngoài Châu Âu.
3.Tác động của học thuyết kinh tế
Học thuyết kinh tế của trường phái Keyness
- Tình hình kinh tế xã hội ở các nước tư bản và trên thế giới yêu cầu một lý thuyết
kinh tế mới có khả năng thích ứng với tình hình mới bảo vệ, duy trì và phát triển
chủ nghĩa tư bản và học thuyết của Keynes đáp ứng được, đó là lý thuyết kinh tế về
chủ nghĩa tư bản có điều tiết.
*Hoàn cảnh lịch sử xuất hiện
- Thời gian: Xuất hiện từ những năm 30 của thế kỉ XX và thống trị đến những năm
70 của thế kỉ XX.
- Về kinh tế - xã hội ở các nước tư bản:
+ Ở các nước phương Tây khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp thường xuyên, nghiêm
trọng (điển hình là cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933) đã chứng tỏ các lý
thuyết ủng hộ tự do kinh doanh (tự điều tiết, “bàn tay vô hình”, lý thuyết “cân bằng
tổng quát”) của trường phái cổ điển và phát triển lành mạnh.
+ Chủ nghĩa tư bản phát triển với lực lượng sản xuất phát triển cao đòi hỏi sự can
thiệp của cổ điển mới không còn sức thuyết phục, tỏ ra kém hiệu nghiệm, không
đảm bảo cho nền kinh tế Nhà nước vào kinh tế (hình thành chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước).
- Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội (phát triển hưng thịnh đến những năm 70 của
thế kỉ XX): Lúc đầu sự thành công của nền kinh tế kế hoạch hóa thu hút sự chú ý
của các nhà kinh tế tư
- Tư tưởng cơ bản của trường phái Keynes là: Bác bỏ cách lí giải cổ điển về sự tự
điều chỉnh của nền kinh tế, không đồng ý với phái cổ điển và cổ điển mới về sự
cân bằng kinh tế dựa trên cơ sở tự điều tiết của thị trường.
* Nội dung cơ bản của lí thuyết chung về việc làm của Keynes
- Với sự tăng thêm của việc làm sẽ tăng thu nhập, do đó tăng tiêu dùng.
- Song do khuynh hướng tiêu dùng giới hạn nên tiêu dùng tăng chậm hơn tăng thu
nhập, còn tiết kiệm tăng nhanh. Điều đó làm giảm tương đối dần đến giảm cầu có
hiệu quả và ảnh hưởng đến sản xuất và việc làm.
-Để tăng cầu có hiệu quả phải tăng chi phí đầu tư, tăng tiêu dùng sản xuất. Song do
hiệu quả giới hạn của tư bản giảm sút (với lãi suất tương đối ổn định) nên giới hạn
đầu tư chật hẹp không kích thích được doanh nhân đầu tư.
- Để khắc phục: nhà nước phải có một chương trình đầu tư quy mô lớn để thu hút
số tư bản nhàn rỗi và lao động thất nghiệp.Số người nay khi có thu nhập sẽ tham
gia vào thi trường sản phẩm làm cầu hàng hóa tăng do đó hiệu quả giới hạn của tư
bản tăng. Khi đó doanh nhân sẽ tăng đầu tư và sản xuất tăng (theo mô hình số
nhân). Khủng hoảng và thất nghiệp sẽ được ngăn chặn.
- Hạn chế : Chỉ dừng lại ở việc phân tích bề ngoài những mâu thuẫn của nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa; chủ trương tăng cung tiền để khuyến khích đầu tư có thể
giải quyết việc làm nhưng tăng nguy cơ lạm phát; kích thích chiến tranh, quân sự
hoá nền kinh tế; phủ định khả năng tự điều khiển kinh tế của cơ chế thị trường.
- Trường phái Keynes mới ở Mỹ:
+ Coi học thuyết Keynes là liều thuốc hiệu nghiệm và có bổ sung tăng, đưa ra các
giải pháp tăng thu ngân sách, tăng thuế trong thời kì hưng thịnh, tăng nợ nhà nước.
+ Coi thu chi ngân sách là công cụ ổn định bên trong của nền kinh tế.
+ Coi chi phí chiến tranh là phương tiện tốt nhất để ổn định thị trường thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế.
D
I, Tình hình kinh tế nước mỹ giai đoạn đầu thế kỉ XX đến Chiến tranh thế
giới thứ hai(1939)
1, Tình hình kinh tế nước Mĩ trong những năm 1918 – 1929
Chiến tranh thế giới thứ nhất đã đem lại “những cơ hội vàng” cho nước Mĩ. Với
nền kinh tế đạt mức tăng trưởng cao trong suốt những năm trong và sau chiến
tranh, Mĩ trở thành nước tư bản giàu mạnh nhất. Cùng với lợi thế đó, việc cải tiến
kĩ thuật, thực hiện phương pháp sản xuất dây chuyền và mở rộng quy mô sản xuất
đã đưa nền kinh tế Mĩ bước vào thời kì phồn vinh trong thập niên 20 của thế kỉ
XX.
Sự phồn vinh của kinh tế Mĩ được thể hiện ở mức tăng trưởng cao của các ngành
kinh tế:
+ Chỉ trong vòng 6 năm (1923-1929), sản lượng công nghiệp tăng 69%. Năm
1929, Mĩ chiếm 48% sản lượng công nghiệp thế giới, vượt qua sản lượng công
nghiệp của 5 cường quốc công nghiệp là Anh, Pháp, Đức, I-ta-li-a và Nhật Bản
cộng lại.
+ Mĩ đứng đầu thế giới về các ngành công nghiệp sản xuất ô tô, thép, dầu mỏ…
Đặc biệt, sự bùng nổ của ngành sản xuất ô tô đã tác động mạnh đến các ngành
công nghiệp khác. Năm 1919, nước Mĩ sản xuất được 7 triệu ô tô, đến năm 1924
đạt 24 triệu chiếc. Mĩ sản xuất 57% máy móc, 49% gang, 51% thép và 70% dầu
hỏa của thế giới.
+ Về tài chính, từ chỗ phải vay nợ châu Âu 6 tỉ đô la trước chiến tranh, Mĩ đã trở
thành chủ nợ của thế giới (riêng Anh và Pháp nợ Mĩ 10 tỉ đô la). Năm 1929, Mĩ
nắm 60% số vàng dự trữ của thế giới.
Mặc dù đạt mức tăng trưởng cao, nhưng ngay cả trong thời kì phồn vinh này, nhiều
ngành công nghiệp của Mĩ chỉ sử dụng 60-80% công suất. Sự phát triển kinh tế
chạy theo lợi nhuận, theo chủ nghĩa tự do thái quá đã đưa đến sự phát triển không
đồng bộ giữa các ngành công nghiệp, giữa công nghiệp với nông nghiệp, và không
có kế hoạch dài hạn cho sự cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng.
2, Cuộc khủng hoảng kinh tế (1929-1939) ở Mĩ
Trong khi giai cấp tư sản của Mĩ đang ca ngợi sự giàu có và phát triển vượt bậc của
nền kinh tế thì cuộc khủng hoảng kinh tế chưa từng thấy bất ngờ bùng nổ vào
tháng 10-1929, chấm dứt thời kì hoàng kim của kinh tế Mĩ mở ra vô vàn những
khó khăn mà đất nước Mỹ phải gánh chịu.
a, Phạm vi, quy mô của cuộc khủng hoảng:
Cuộc khủng hoảng bắt đầu trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Ngày 29-10-1929 là
ngày hoảng loạn chưa từng có trong lịch sử thị trường chứng khoán New York. Giá
một loại cổ phiếu được coi là đảm bảo nhất sụt xuống 80%. Hàng triệu người đã
mất sạch số tiền mà họ đã tiết kiệm cả đời. Vòng xoáy của khủng hoảng tiếp diễn
không gì ngăn cản nổi, phá hủy nghiêm trọng các ngành sản xuất công nghiệp,
nông nghiệp và thương nghiệp của nước Mĩ.
Từ Mĩ, cuộc khủng hoảng nhanh chóng lan rộng ra toàn bộ thế giới tư bản.
b, Nguyên nhân:
Tình trạng sản xuất ồ ạt, cung vượt cầu, chạy theo lợi nhuận, khủng hoảng kinh tế
thừa, bắt đầu trong lĩnh vực tài chính ngân hàng
c) Hậu quả:
- Kinh tế suy thoái nghiêm trọng:
+ 1932, sản lượng công nghiệp chỉ còn 53.8% so với năm 1929
+ 11.5 vạn công ti thương nghiệp, 58 công ty đường sắt phải phá sản, 10 vạn ngân
hàng(chiếm 40% tổng số ngân hàng),... phải đóng cửa.
+ 75% dân trại bị phá sản.
- Hàng trăm triệu người thất nghiệp, phong trào đấu tranh của các tầng lớp của
nhân dân lao động diễn ra sôi nổi.
II, Chính sách mới của Tổng thống Mĩ Ru-dơ-ven
Để đưa nước Mĩ thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng. Tổng thống Mĩ Ru-dơ-ven đã
thực hiện một hệ thống các chính sách, biện pháp của nhà nước trên các lĩnh vực
kinh tế-tài chính và chính trị-xã hội, được gọi chung là Chính sách mới.
Bằng sự can thiệp tích cực của Nhà nước vào đời sống kinh tế, Chính phủ Ru-dơven đã thực hiện các biện pháp giải quyết nạn thất nghiệp, phục hồi sự phát triển
kinh tế thông qua các đạo luật.
+ Đạo luật điều chỉnh nông nghiệp.
+ Đạo luật ngân hàng.
+ Đạo luật cứu trợ người thất nghiệp.
+ Đạo luật phục hưng công nghiệp
Trong các đạo luật đó, Đạo luật Phục hưng công nghiệp là quan trọng nhất. Đạo
luật này quy định việc tổ chức lại sản xuất công nghiệp theo những hợp đồng chặt
chẽ về sản phẩm và thị trường tiêu thụ, quy định việc công nhân có quyền thương
lượng với chủ đề mức lương và chế độ làm việc.
=> Bản chất: tăng cường vai trò của nhà nước trong quản lí và điều tiết nền kinh tế.
Chính sách mới đã giải quyết được một số vấn đề cơ bản của nước Mĩ trong cơn
khủng hoảng nguy kịch. Nhà nước đã tăng cường vai trò của mình trong việc cứu
trợ người thất nghiệp, tạo thêm việc làm mới, khôi phục sản xuất, xoa dịu mâu
thuẫn giai cấp và góp phần làm cho nước Mĩ duy trì được chế độ dân chủ tư sản.
Chính vì thế, Ru-dơ-ven là người duy nhất trong lịch sử nước Mĩ trúng cử Tổng
thống 4 nhiệm kì liên tiếp.
Về đối ngoại, Chính phủ Ru-dơ-ven đề ra Chính sách láng giềng thân thiện nhằm
cải thiện quan hệ với các nước Mĩ Latinh, vốn được Mĩ coi là “sân sau” của mình
và thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô.
Từ năm 1934, Chính phủ Ru-dơ-ven đã tuyên bố Chính sách láng giềng thân thiện
đối với các nước Mĩ Latinh, chấm dứt các cuộc can thiệp vũ trang, tiến hành
thương lượng và hứa hẹn trao trả độc lập, nhằm xoa dịu cuộc đấu tranh chống Mĩ
và củng cố vị trí của Mĩ ở khu vực này.
Sau 16 năm theo đuổi lập trường chống Liên Xô, tháng 11-1933, Chính phủ Rudơ-ven đã chính thức công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Việc
làm này xuất phát từ những lợi ích của Mĩ. Trên thực tế, chính quyền Ru-dơ-ven
vẫn không từ bỏ lập trường chống cộng sản.
Đối với các vấn đề quốc tế, trước nguy cơ của chủ nghĩa phát xít và chiến tranh
bao trùm toàn thế giới, Quốc hội Mĩ đã thông qua hàng loạt đạo luật để giữ vai trò
trung lập trước các cuộc xung đột quân sự bên ngoài nước Mĩ. Chính sách đó đã
góp phần khuyến khích chủ nghĩa phát xít tự do hành động, gây ra cuộc Chiến
tranh thế giới thứ hai.
Thực hiện chính sách “trung lập”, không tham dự vào các vấn đề quốc tế xảy ra
bên ngoài châu Mĩ.
III, Những tác động của học thuyết kinh tế KeyNes đến chính sách kinh tế của
nước Mỹ
1, Học thuyết KeyNes:
Hoàn cảnh xuất hiện học thuyết
+ Thời gian: Xuất hiện từ những năm 30 của thế kỉ XX và thống trị đến những năm
70 của thế kỉ XX.
+ Về kinh tế - xã hội ở các nước tư bản:
- Ở các nước phương Tây khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp thường xuyên, nghiêm
trọng (điển hình là cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933) đã chứng tỏ các lý
thuyết ủng hộ tự do kinh doanh của trường phái cổ điển và phát triển lành mạnh.
- Chủ nghĩa tư bản phát triển với lực lượng sản xuất phát triển cao đòi hỏi sự can
thiệp của cổ điển mới không còn sức thuyết phục, tỏ ra kém hiệu nghiệm, không
đảm bảo cho nền kinh tế
Nhà nước vào kinh tế (hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước).
+ Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội (phát triển hưng thịnh đến những năm 70 của
thế kỉ XX): Lúc đầu sự thành công của nền kinh tế kế hoạch hóa thu hút sự chú ý
của các nhà kinh tế tư
Tóm lại: tình hình kinh tế xã hội ở các nước tư bản và trên thế giới yêu cầu một lý
thuyết kinh tế mới có khả năng thích ứng với tình hình mới bảo vệ, duy trì và phát
triển chủ nghĩa tư bản và học thuyết của Keynes đáp ứng được, đó là lý thuyết kinh
tế về chủ nghĩa tư bản có điều tiết
Tư tưởng của trường phái KeyNes
Bác bỏ cách lí giải cổ điển về sự tự điều chỉnh của nền kinh tế, không đồng ý với
phái cổ điển và cổ điển mới về sự cân bằng kinh tế dựa trên cơ sở tự điều tiết của
thị trường.
Quan điểm của KeyNes:
+ Nhà nước phải can thiệp vào kinh tế.
+ Lý giải: khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp là do chính sách kinh tế lỗi thời, bảo
thủ, thiếu sự can thiệp của Nhà nước (không phải do nội sinh của chủ nghĩa tư
bản).
+ Vị trí trung tâm trong lý thuyết của Keynes là lý thuyết về việc làm vì theo ông
vấn đề quan trọng và nguy hiểm nhất đối với chủ nghĩa tư bản là khối lượng thất
nghiệp và việc làm.
>>>Keynes biểu hiện lợi ích và là công cụ của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước.
Đặc điểm của phương pháp luận:
- Đưa ra phương pháp phân tích vĩ mô (Phân tích kinh tế xuất phát từ những tổng
lượng lớn để nghiên cứu mối liên hệ và khuynh hướng của chúng nhằm tìm ra
công cụ tác động vào khuynh hướng, làm thay đổi tổng lượng)
- Về cơ bản trong phương pháp vẫn dựa vào tâm lý chủ quan, nhưng khác với các
nhà cổ điển và cổ điển mới dựa vào tâm lý cá biệt, Keynes dựa vào tâm lý xã hội,
tâm lý chung, tâm lý của số đông.
- KeyNes đánh giá cao vai trò của tiêu dùng, trao đổi, coi tiêu dùng và trao đổi là
nhiệm vụ số một mà nhà kinh tế học phải giải quyết. Theo ông, nguyên nhân của
khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp và trì trệ trong nền kinh tế là do cầu tiêu dùng
giảm do đó cầu có hiệu quả giảm (tiêu dùng tăng chậm hơn mức tăng thu nhập do
khuynh hướng tiết kiệm, ưa chuộng tiền mặt, ... vì thế cầu tiêu dùng và do đó cầu
có hiệu quả giảm). Cần nâng cầu tiêu dùng, kích thích cầu có hiệu quả. Vì vậy lí
thuyết của Keynes còn được gọi là lí thuyết trọng cầu.
- Phương pháp có tính chất siêu hình: coi lí thuyết của mình đúng cho mọi chế độ
xã hội. Theo xu hướng chung: tách kinh tế khỏi chính trị, tích cực áp dụng toán
học.
Nội dung cơ bản của lí thuyết chung về việc làm của Keynes là
- Với sự tăng thêm của việc làm sẽ tăng thu nhập, do đó tăng tiêu dùng.
- Song do khuynh hướng tiêu dùng giới hạn nên tiêu dùng tăng chậm hơn tăng thu
nhập, còn tiết kiệm tăng nhanh. Điều đó làm giảm tương đối dần đến giảm cầu có
hiệu quả và ảnh hưởng đến sản xuất và việc làm.
-Để tăng cầu có hiệu quả phải tăng chi phí đầu tư, tăng tiêu dùng sản xuất. Song do
hiệu quả giới hạn của tư bản giảm sút (với lãi suất tương đối ổn định) nên giới hạn
đầu tư chật hẹp không kích thích được doanh nhân đầu tư.
- Để khắc phục: nhà nước phải có một chương trình đầu tư quy mô lớn để thu hút
số tư bản nhàn rỗi và lao động thất nghiệp. Số người này khi có thu nhập sẽ tham
gia vào thi trường sản phẩm làm cầu hàng hóa tăng do đó hiệu quả giới hạn của tư
bản tăng. Khi đó doanh nhân sẽ tăng đầu tư và sản xuất tăng (theo mô hình số
nhân). Khủng hoảng và thất nghiệp sẽ được ngăn chặn.
Lý thuyết về sự điều chỉnh kinh tế vĩ mô của nhà nước
(Tư tưởng trung tâm là đưa ra những giải pháp kích thích tiêu dùng và đầu tư)
- Vai trò đầu tư của Nhà nước
- Sử dụng hệ thống tài chính, tín dụng và lưu thông tiền tệ làm công cụ làm công
cụ chủ yếu để điều tiết kinh tế
- Khuyến khích mọi hình thức đầu tư
- Khuyến khích tiêu dùng.
Thành tựu
- Học thuyết kinh tế của Keynes đã có tác dụng tích cực nhất định đối với sự phát
triển kinh tế trong các nước tư bản. Góp phần thúc đẩy kinh tế của các nước tư bản
phát triển, hạn chế được khủng hoảng và thất nghiệp, nhất là trong những năm 50 –
60 của thế kỷ XX, tốc độ phát triển kinh tế của nhiều nước rất cao (tạo nên những
thần kì: Nhật, Tây Đức, Pháp, Thụy Sĩ, ...). Vì vậy học thuyết này giữ vị trí thống
trị trong hệ thống tư tưởng kinh tế tư sản trong một thời gian dài. Các khái niệm
được sử dụng trong phân tích kinh tế vĩ mô ngày nay.
“Nó là liều thuốc chữa cho chủ nghĩa tư bản Tây Âu khỏi ốm và nền kinh tế Mỹ
lành mạnh”
- Học thuyết này là cơ sở chủ đạo của các chính sách kinh tế vĩ mô ở các nước tư
bản phát triển từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Thậm chí CHLB Đức dựa vào
học thuyết Keynes ban hành đạo luật có tên “Luật về ổn định hóa nền kinh tế”
(1968) tạo khung pháp lí cho chính phủ toàn quyền điều hành nền kinh tế nhằm đạt
4 mục đích: tăng trưởng, thất nghiệp thấp, chống lạm phát và cân bằng thanh toán.
- Keynes được coi là nhà kinh tế cừ khôi, cứu tinh đối với chủ nghĩa tư bản sau
khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933.
Dư luận rộng rãi đánh giá Keynes là một trong ba nhà kinh tế lớn nhất (cạnh A.
Smith và C. Mác).
Hạn chế
Mặc dù vậy, học thuyết kinh tế trường phái Keynes còn nhiều hạn chế, đó là:
+ Mục đích chống khủng hoảng và thất nghiệp chưa làm được (chỉ tác dụng tạm
thời), biểu hiện:
- Thất nghiệp vẫn duy trì ở mức cao.
- Khủng hoảng không trầm trọng như trước nhưng vẫn xảy ra thường xuyên, thời
gian giữa các cuộc khủng hoảng kinh tế ngắn hơn.
+ Ý đồ dùng lãi suất để điều chỉnh chu kỳ kinh tế tư bản chủ nghĩa không có hiệu
quả, biểu hiện: Chính sách lạm phát có mức độ (có kiểm soát) làm cho lạm phát
càng trầm trọng, tác hại lớn hơn cái lợi nó mang lại.
+ Quá coi nhẹ cơ chế thị trường.
+ Phương pháp luận thiếu khoa học, đã xuất phát từ tâm lý con người để giải thích
nguyên nhân kinh tế.
+ Chủ nghĩa tư bản va vào cuộc khủng hoàng mới với đặc trưng là lạm phát. Vì cơ
bản chỉ tập trung vào các vấn đề mang tính chất ngắn hạn, ít chú trọng tới tầm quan
trọng của khuyến khích đối với tăng trưởng kinh tế dài hạn.
+ Là bài thuốc chữa ngọn, chưa chữa được tận gốc rế căn bệnh của chủ nghĩa tư
bản. Vấn đề là giải quyết triệt để mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất đạt đến trình
độ xã hội hoá cao và quan hệ sản xuất vẫn mang tính tư nhân.
2, Học thuyết KeyNes tác động vào chính sách kinh tế mới của Mỹ:
Bắt đầu cuộc khủng hoảng kinh tế thì chính sách mới của chính phủ Ru-dơ-ven đã
áp dụng một số quan điểm của học thuyết KeyNes để điều chỉnh và thay đổi các
chính sách về kinh tế và đã có tác dụng giúp nền kinh tế Mỹ vượt qua cuộc khủng
hoảng.
+ Đầu tiên là vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế: chính phủ Mỹ đã dùng sức
mạnh của nhà nước để điều tiết kinh tế, vấn đề trọng tâm trong chính sách mới của
Ru-dơ-ven là chính phủ đã đặt ra những đạo luật, thành lập những cơ quan để thực
hiện vai trò điều tiết của nhà nước đối với đời sống kinh tế của nước Mỹ để điều
hoà việc lưu thông hàng hoá, khôi phục sản xuất và xoa dịu mâu thuẫn trong xã
hội.
+ Thứ hai quan hệ sản xuất cung cầu: Điểm đáng lưu ý nhất trong Chính sách mới
của tổng thống Mĩ Ru dơ ven là các đạo luật về ngân hàng, phục hưng công
nghiệp, điều chỉnh nông nghiệp. Đạo luật phục hưng công nghiệp là quan trọng
nhất. Nó quy định việc tổ chức lại sản xuất công nghiệp theo những hợp đồng chặt
chẽ về sản phẩm và thị trường tiêu thụ. Sản xuất đủ và tận dụng, giảm thiểu tình
trạng thừa thải cung lớn hơn cầu. Chính sách mới đã khắc phục được sự phát triển
tự do chạy theo lợi nhuận dẫn đến tình trạng cung vượt quá cầu của nước Mĩ trước
đó. Nước Mĩ từng bước thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng.
+ Thứ ba tình trạng thất nghiệp và việc làm: Nhà nước thúc đẩy khôi phục sản xuất
tạo điều kiện việc làm cho người lao động làm giảm tình trạng thất nghiệp và xoa
dịu các giai cấp trong xã hội, tránh được cuộc đấu tranh giành quyền lợi của ngườ
lao động.
+ Thứ tư nước Mỹ duy trì chế độ tư bản dân chủ, nhà nước nắm quyền tất yếu
trong hoạt động kinh tế, có tiếng nói quyết định để đưa ra chính sách cho nền kinh
tế, nâng cao tầm quan trọng của chính phủ trong long nhân dân.
E
TÌNH HÌNH KINH TẾ MỸ 1929-1970
Giai đoạn 1929 – 1933
Sự kiện: Đại Suy Thoái 29 – 33
Diễn biến: Đại Suy thoái không hoàn toàn đột nhiên nổ ra; sự suy thoái đến thành các
đợt, bắt đầu 3 năm một thời kỳ. Thị trường mất đi 80% giá trị.
Cuộc suy thoái có sức ảnh hưởng hủy diệt với kinh tế toàn cầu, cả các nước phát triển và
đang phát triển. Mọi khía cạnh của nền kinh tế từ sản xuất, tiêu dùng, thương mại, thu
nhập cá nhân, hoạt động tiêu dùng, thị trường lao động, lạm phát đều chịu ảnh hưởng
xấu. Các nước phụ thuộc nhiều vào công nghiệp chịu tác động sâu sắc nhất. Ngoài ra khu
vực nông nghiệp cũng điêu đứng khi giá ngô, một trong những nông sản chính tại phương
tây, giảm tới 60%.
Nguyên nhân: Có nhiều ý kiến khác nhau về nguyên nhân cho cuộc suy thoái, chẳng hạn
như sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng hay thị trường chứng khoán, được đánh dấu
bằng "ngày thứ ba đen tối" 29/10/1929, hay suy giảm giao dịch quốc tế do Mỹ tăng thuế.
Tuy nhiên, ý kiến chung được nhiều nhà kinh tế đồng thuận, trong đó có cả đương kim
Chủ tịch FED 2012, ông Ben Bernanke, là do yếu tố cung của nguồn tiền cũng như sai
lầm trong điều hành của FED.
Biện pháp, chính sách: Trong thập niên 20, mở rộng cung tiền quá mức đã dẫn đến sự
phát triển bùng nổ nhưng thiều bền vững của khối tài chính.
Đánh giá: Việc FED nhận ra rủi ro và thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ là quá muộn
để ngăn chặn suy thoái. Hơn nữa, khi các ngân hàng lớn có dấu hiệu sụp đổ FED đã
không tích cực cứu trợ, từ đó tạo ra hiệu ứng sụp đổ dây chuyền trong ngành ngân hàng,
dẫn đến cạn kiệt đột ngột nguồn tiền. Hệ quả là nhiều công ty phá sản do thiếu vốn, hoạt
động sản xuất, kinh doanh tiêu dùng bị đình trệ, thất nghiệp tràn lan gây ảnh hưởng to lớn
tới kinh tế Mỹ và toàn thế giới.
Giai đoạn 1934 – 1945
Sự kiện: Kỷ nguyên Chính sách mới
Nguyên nhân: Sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế tăng lên mạnh mẽ trong suốt
thời kỳ Chính sách mới những năm 1930. Sự sụp đổ của thị trường chứng khoán năm
1929 mở đầu thời kỳ suy thoái kinh tế nghiêm trọng nhất trong lịch sử nước Mỹ, cuộc
Đại khủng hoảng kinh tế (1929-1940).
Biện pháp, chính sách: Rất nhiều đạo luật và thể chế quan trọng nhất xác lập nên nền
kinh tế hiện đại Hoa Kỳ đều được bắt nguồn trong kỷ nguyên của Chính sách mới. Luật
pháp thời kỳ này mở rộng quyền hạn của liên bang trong hoạt động ngân hàng, nông
nghiệp và phúc lợi công cộng. Nó thiết lập các chuẩn mực tối thiểu về mức lương và giờ
làm việc, và có vai trò như một chất xúc tác để mở rộng các nghiệp đoàn lao động trong
những ngành công nghiệp như ngành thép, chế tạo ô tô và cao su. Các chương trình và
các cơ quan mà ngày nay dường như không thể thiếu được để điều hành nền kinh tế hiện
đại của đất nước đã được thiết lập: ủy ban chứng khoán và hối phiếu, cơ quan điều tiết thị
trường chứng khoán;
Kết quả, đánh giá: Các nhà lãnh đạo của thời kỳ Chính sách mới đã ủng hộ ý tưởng xây
dựng mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ hơn giữa doanh nghiệp và chính phủ, nhưng một số
trong những cố gắng đó không tồn tại được qua cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Đạo
luật khôi phục công nghiệp quốc gia, một chương trình ngắn ngủi của thời kỳ Chính sách
mới, tìm cách khuyến khích các chủ doanh nghiệp và công nhân giải quyết tranh chấp
dưới sự giám sát của chính phủ và từ đó tăng năng suất và hiệu quả lao động. Các nhà
máy sản xuất hàng tiêu dùng được chuyển đổi đã hoàn thành nhiều hợp đồng của quân
đội. Ví dụ, các nhà sản xuất ô tô thì chế tạo xe tăng và máy bay, biến nước Mỹ thành một
“kho vũ khí của nền dân chủ”. Trong một nỗ lực phòng ngừa lạm phát do việc nâng cao
thu nhập quốc dân và tình trạng khan hiếm hàng tiêu dùng gây ra, Văn phòng quản lý giá
cả mới được thành lập đã kiểm soát tiền thuê nhà của các nhà trọ, phân phối hàng tiêu
dùng từ đường cho đến xăng dầu, và mặt khác cố gắng kiềm chế sự tăng giá.
Giai đoạn 1945 – 1960
-Sự kiện: Suy thoái 1947
Diễn biến: Tính tới đầu năm 1947, nước Mỹ chiếm tới 50% tổng sản lượng nông nghiệp
toàn thế giới, trước chiến tranh thế giới con số này chỉ là 30%, tỷ lệ thất nghiệp của nước
Mỹ cũng ở mức thấp kỷ lục khi gần như 100% người lao động có việc làm.
Nguyên nhân: Lần suy thoái này của nước Mỹ bắt nguồn từ những bước tiền thần tốc
của giai đoạn hồi phục kinh tế sau chíến tranh thế giới. Năm 1947 chính là giai đoạn kinh
tế Mỹ đạt đỉnh của chu kỳ tăng trưởng sau chiến tranh. Cũng từ thời điểm này, ngoại trừ
lương thực, nhu cầu tiêu thụ hàng hóa nói chung của nước Mỹ đã trở nên bão hòa do
hàng hóa được sản xuất nhiều tới mức thừa mứa.
Biện pháp, chính sách: Dù Tổng thống Truman cũng như nội các của ông đã dự đoán
được rủi ro từ lạm phát cũng như những bất ổn kinh tế, nhưng lãnh đạo nước Mỹ lại
không tính tới lạm phát gia tăng tại phần còn lại của thế giới.
Kết quả, đánh giá: Dù hậu quả của cuộc suy thoái 1947 là không quá tồi tệ nhưng nó
cũng đủ gây trì trệ kinh tế, khiến nhiều doanh nghiệp phá sản cũng như tỷ lệ thất nghiệp
leo thang.
-Sự kiện: Suy thoái 1953
Diễn biến: Dù chỉ kéo dài trong 10 tháng, bắt đầu từ quý II /1953 tới quý I/1954, cuộc
suy thoái năm 1953 vẫn gây thiệt hại ước tính lên tới 56 tỷ đôla cho nước Mỹ.
Nguyên nhân: suy thoái bắt đầu từ một số biến động chính trị, kinh tế những năm đầu
thập niên 50. Trong đó, lạm phát leo thang bắt đầu từ 1951, sau chiến tranh Triều Tiên,
khiến lãnh đạo FED dự đoán năm 1952 lạm phát sẽ còn cao hơn
Biện pháp, chính sách: Trước tình hình đó, FED đã áp dụng chính sách tài khóa thắt
chặt, thể hiện ở việc cắt giảm chi tiêu Chính phủ, tăng thuế, lãi suất, và tích lũy dự trữ.
Kết quả, đánh giá: Chính các biện pháp mạnh tay trên đã tạo ra sự bi quan trong người
dân, dẫn đến việc giảm chi tiêu tăng tiết kiệm, gây suy giảm tổng cầu của nền kinh tế.
Giai đoạn 1960 – 1970
Sự kiện: Khủng hoảng kinh tế những năm 60
Kennedy đã tìm cách đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế bằng việc tăng cường chi tiêu chính
phủ và cắt giảm thuế, và thúc giục các hoạt động trợ giúp y tế cho người già, trợ cấp cho
các khu ổ chuột trong thành phố, và tăng ngân sách cho giáo dục. Người kế nhiệm ông,
Lyndon Baines Johnson (1963-1969) tìm cách xây dựng một “Xã hội vĩ đại” bằng việc
phân phối rộng khắp các lợi ích thu được từ nền kinh tế phát đạt của Mỹ cho nhiều công
dân hơn nữa. Chi tiêu liên bang tăng mạnh khi chính phủ đưa ra các chương trình mới
như chương trình Bảo hiểm y tế (chăm sóc sức khoẻ cho người già), chương trình Tem
phiếu thực phẩm (giúp đỡ thực phẩm cho người nghèo), và rất nhiều sáng kiến về giáo
dục (giúp đỡ sinh viên cũng như trợ cấp cho các trường phổ thông và đại học).
Công tác dự báo kinh tế đã đẩy nước Mỹ vào khủng hoảng. Walter Heller: cắt giảm thuế
sẽ kích thích tăng trưởng. Nhưng vào cuối thập kỷ 1960, thất bại của chính phủ trong việc
tăng thuế để trang trải cho những cố gắng đó dẫn đến lạm phát tăng vọt, điều này đã làm
suy mòn sự thịnh vượng ấy. Những kết quả kinh tế lạc quan đã giảm giá trị khi chính
quyền Johnson bắt đầu bơm một số tiền khổng lồ mà vào chiến tranh Việt Nam vào các
chương trình Xã hội vĩ đại.
- Xem thêm -