Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sự vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào việc xây dựng nền văn hóa việt n...

Tài liệu Sự vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào việc xây dựng nền văn hóa việt nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc

.DOCX
84
25909
143

Mô tả:

Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 MỤC LỤC MỞ ĐẦU..................................................................................................................1 Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH VÀ NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM TIÊN TIẾN ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC 6 1.1. Quy luật phủ định của phủ định........................................................................6 1.2. Một số vấn đề lí luận về nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc...........................................................................................................................12 1.3. Nội dung của sự vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc..............................................26 Chương 2 THỰC TRẠNG CỦA VIỆC XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA.............31 VIỆT NAM TIÊN TIẾN ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC.................................31 2.1. Những thành tựu trong việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.......................................................................................................31 2.3. Nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém trong xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc..................................................................................62 Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA.........66 VIỆT NAM TIÊN TIẾN ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC TRÊN.....................66 CƠ CỞ VẬN DỤNG QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH......................66 3.1. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết những mâu thuẫn vốn có của nền văn hóa Việt Nam hiện nay............66 3.2. Kế thừa, khôi phục những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.............68 3.3. Kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa mới, phù hợp với sự phát triển của đất nước..................................................................................................................72 3.4. Khuyến khích việc sáng tạo ra những giá trị văn hóa mới phù hợp với sự phát triển của đất nước...........................................................................................75 KẾT LUẬN............................................................................................................78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................82 Nguyễn Thị Nội K35 Giáo dục công dân Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Với tư cách là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, quy luật phủ định của phủ định luôn là nền tảng lí luận, kim chỉ nam cho hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của những người mác xít.Việc thiết kế, xây dựng được một xã hội mới về chất trên nền tảng vốn có của xã hội cũ, về thực chất, đó là quá trình vận dụng và thực hiện quan điểm phủ định biện chứng trong thực tế. Phủ định biện chứng là quá trình phủ định bao hàm trong nó những nhân tố tích cực của cái bị phủ định. Vì vậy, phủ định biện chứng mang tính kế thừa những yếu tố tích cực và gạt bỏ những yếu tố không phù hợp với sự phát triển của cái mới. Song, khi vận dụng quan điểm phủ định của phủ định vào đời sống thực tiễn để xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng đã có những quan điểm xem xét sự vật và hiện tượng một cách cứng nhắc, siêu hình hoặc là xóa bỏ tất cả hoặc là kế thừa một cách nguyên si. Hơn bất cứ lĩnh vực nào, lĩnh vực văn hóa ở nước ta trước đổi mới đã có những quan điểm chỉ đạo và cách làm chưa đúng. Và hệ quả là nhiều di sản văn hóa của dân tộc bị xâm hại và phá hỏng, nền văn hóa đân tộc bị tổn thất lớn. Chúng ta nói về phủ định biện chứng, song chưa hiểu và chưa nắm được thực chất của nó. Vì vậy, làm rõ quan điểm phủ định biện chứng và vận dụng một cách đúng đắn, thích hợp vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta là điều hết sức cần thiết. Hiện nay, bên cạnh nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta phải xây dựng một nền văn hóa mới, phù hợp với yêu cầu của thời đại, phù hợp với thực tiễn của đất nước. Ngày nay trước xu thế toàn cầu hóa,hợp tác hóa trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội giúp cho chúng ta có cơ hội để Nguyễn Thị Nội 1 K35 Giáo dục công dân Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại, làm giàu thêm bản sắc văn hóa dân tộc mình. Hơn nữa, trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa thì vấn đề giữ gìn nền văn hóa mang đậm tính dân tộc ngày càng trở nên đặc biệt quan trọng. Bên cạnh những mặt tích cực, mặt trái của kinh tế thị trường đã và đang làm chao đảo nhiều giá trị tinh thần nói chung, nhân cách con người nói riêng. Đặc biệt, một số giá trị đạo đức tốt đẹp, thiêng liêng vốn có vị trí quan trọng trong hệ thống giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam đang có nguy cơ bị mai một và tha hóa. Đồng thời, ở nước ta vẫn tồn tại những tàn dư của xã hội cũ để lại, đó là những hủ tục lạc hậu, bảo thủ,mê tín dị đoan,...Chính vì vậy, việc xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên cơ sở quán triệt quy luật phủ định của phủ định của chủ nghĩa duy vật biện chứng là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Trong các Văn kiện, Nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng gần đây, Đảng ta đã nhận thức rõ điều này và đã đưa ra quan điểm chỉ đạo cho việc xây dựng nền văn hóa mới: coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực, là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt trong Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII Đảng ta đã khẳng định: “ Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Và điều này còn được tiếp tục khẳng định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội”[10, tr.112]. Với lí do trên tôi chọn đề tài: “ Sự vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích. Mục đích của đề tài nghiên cứu sự vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Nguyễn Thị Nội 2 K35 Giáo dục công dân Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 2.2. Nhiệm vụ - Nghiên cứu lý luận chung về quy luật phủ định của phủ định và sự vận dụng quy luật phủ định của định vào việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. - Tìm hiểu thực trạng của việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. - Đề ra một số giải pháp nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trên cơ sở vận dụng quy luật phủ định của phủ định. 3. Tình hình nghiên cứu Trước những yêu cầu, đòi hỏi mới của đất nước và thời đại thì vấn đề xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc đã được nhiều nhà nghiên cứu khoa học nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Tiêu biểu như: + Cuốn “Bản sắc văn hóa dân tộc” của Tiến sĩ Hồ Bá Thâm. Tác giả đã nói đến bản sắc và động lực phát triển văn hóa, chỉ ra tình hình văn hóa trước thách thức của kinh tế thị trường và toàn cầu hóa, hiện đại hóa. + Cuốn “ Bản sắc văn hóa Việt Nam” của Giáo sư Phan Ngọc. Trong tác phẩm tác giả đã bình luận vấn đề văn hóa và bản sắc văn hóa Việt Nam ở nhiều góc độ, so sánh sự khác nhau giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Quốc, chỉ ra bề dày của văn hóa Việt Nam và bản sắc văn hóa Việt Nam trong giao lưu văn hóa. + PGS- TS Trần Ngọc Thêm với cuốn “Tìm hiểu về bản sắc văn hóa Việt Nam” đã trình bày một cách toàn diện và xúc tích về văn hóa Việt Nam trên các phương diện: Văn hóa nhận thức, văn hóa tổ chức cộng đồng, văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên, văn hóa ứng xử với môi trường xã hội. Như vậy, các tác giả, các học giả Việt Nam đã đề cập và nghiên cứu đến văn hóa dân tộc, bản sắc văn hóa dân tộc, sự giao thoa văn hóa Việt Nam với các loại văn hóa khác trong quá trình tiếp thu, cũng như đã đề cập đến quy luật phủ định biện chứng và vai trò của nó trong xã hội. Nguyễn Thị Nội 3 K35 Giáo dục công dân Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 Trên cơ sở kế thừa những thành quả nghiên cứu đó tôi đã lựa chọn đề tài: “ Sự vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” là đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Khóa luận nghiên cứu một số vấn đề chung về quy luật phủ định của phủ định và nền văn hóa Việt Nam,trên cơ sở đó làm rõ nhưng khía cạnh có liên quan đến nội dung khóa luận: Sự vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn hiện nay. 5. Cơ sở và phương pháp nghiên cứu Khóa luận lấy phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng làm phương pháp nghiên cứu của đề tài. Khóa luận sử dụng phương pháp chuyên ngành: lô gíc lịch sử là chủ yếu, đồng thời kết hợp với phương pháp nghiên cứu khác như: phân tích- tổng hợp, khái quát – trừu tượng,... để làm rõ mục đích và nhiệm vụ của đề tài. 6. Đóng góp của đề tài Đề tài giúp ta nhận thức, đánh giá một cách khoa học những giá trị văn hóa Việt Nam, những yêu cầu khách quan phải xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc dựa trên cơ sở quy luật phủ định của phủ định. Từ đó, đề ra được những giải pháp hữu hiệu nhất góp phần vào xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. 7. Kết cấu khóa luận Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo khóa luận được chia làm 3 chương và tiết 10 tiết. Chương 1 Nguyễn Thị Nội 4 K35 Giáo dục công dân Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH VÀ NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM TIÊN TIẾN ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC 1.1. Quy luật phủ định của phủ định 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản Trong ý thức thông thường, khái niệm “phủ định” thường được thể hiện bằng từ “không”; phủ định có nghĩa là nói “không”, là bác bỏ một cái gì đó. Trong triết học có hai quan điểm: quan điểm siêu hình và quan điểm biện chứng về sự phủ định. Quan điểm siêu hình hiểu sự phủ định là sự can thiệp của những lực lượng bên ngoài dẫn tới thủ tiêu sự vật, chấm dứt sự phát triển của nó. Quan điểm biện chứng cho rằng, phủ định là một khâu tất yếu của bất kì sự phát triển nào. Đó là sự thay thế sự vật này bằng một sự vật khác trên cơ sở mất đi của cái cũ, xuất hiện cái mới tiến bộ hơn và có sự kế thừa những yếu tố phù hợp của cái cũ, là quá trình giải quyết mâu thuẫn nội tại của bản thân sự vật bị phủ định. Vì vậy, phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển dẫn tới ra đời của cái mới tiến bộ hơn so với cái bị phủ định( là kết quả của quá trình đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong sự vật ấy quyết định). 1.1.2. Nội dung quy luật phủ định của phủ định Quy luật phủ định của phủ định là một trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Quy luật này khái quát khuynh hướng phát triển tiến lên theo hình thức xoáy ốc thể hiện tính chất chu kỳ trong quá trình phát triển. Đó là cơ sở phương pháp luận của nguyên tắc phủ định biện chứng, chỉ đạo mọi phương pháp suy nghĩ và hành động của con người. Phủ định biện chứng đòi hỏi phải tôn trọng tính kế thừa, nhưng kế thừa phải có chọn lọc, cải tạo, phê phán. Chống kế thừa nguyên si máy móc và phủ định sạch trơn, chủ nghĩa hư vô với quá khứ. Nguyễn Thị Nội 5 K35 Giáo dục công dân Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là quá trình đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật, giữa mặt khẳng định và phủ định. Sự phủ định lần thứ nhất được thực hiện một cách căn bản sẽ làm cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập của mình. Lần phủ định tiếp theo dẫn tới sự ra đời một sự vật mới mang nhiều đặc trưng đối lập với cái trung gian. Như vậy về hình thức, sẽ trở lại cái xuất phát, song thực chất, không phải giống nguyên như cũ, mà dường như lặp lại cái cũ, nhưng trên cơ sở cao hơn. Đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng thông qua phủ định của phủ định chính là sự phát triển dường như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở cao hơn, do vậy sự phát triển có tính chất tiến lên không phải theo đường thẳng mà theo đường xoáy ốc. Nói một cách khái quát, qua một số lần phủ định, sự vật hoàn thành một chu kỳ phát triển. Phủ định lần thứ nhất tạo ra sự đối lập với cái ban đầu, đó là một bước trung gian trong sự phát triển. Sau những lần phủ định tiếp theo, tái lập cái ban đầu, nhưng trên cơ sở mới cao hơn, nó thể hiện rõ rệt bước tiến của sự vật. Những lần phủ định tiếp theo đó gọi là phủ định của phủ định. Phủ định của phủ định làm xuất hiện cái mới như là kết quả tổng hợp của tất cả những yếu tố tích cực đã được phát triển từ trong cái ban đầu và cả trong những lần phủ định tiếp theo những yếu tố tích cực được khôi phục, được duy trì và phát triển. Cái tổng hợp này là sự thống nhất biện chứng tất cả những cái tích cực ở các giai đoạn trước và cái mới xuất hiện trong quá trình phủ định. Do vậy, cái mới với tư cách là kết quả phủ định của phủ định có nội dung toàn diện và phong phú hơn cái khẳng định ban đầu và cái kết quả của lần phủ định thứ nhất. Sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển, đồng thời là điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển tiếp theo. Nguyễn Thị Nội 6 K35 Giáo dục công dân Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất tiến lên của sự phát triển. Sự phát triển đi lên đó không phải diễn ra theo đường thẳng, mà theo đường “ xoáy ốc”. Đề cập tới con đường đó của sự phát triển biện chứng V.I.Lênin viết: “Sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua, nhưng dưới một hình thức khác, ở một trình độ cao hơn(phủ định của phủ định); sự phát triển có thể nói là theo đường xoáy ốc chứ không phải theo đường thẳng”[17,tr.65]. Từ một số lập luận trên đây, chúng ta có thể hiêu nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định như sau: Quy luật này nói lên mối liên, sự kế thùa của cái bị phủ định và cái phủ định; do sự kế thừa đó phủ định biện chúng không phải là phủ định sạch trơn, bác nỏ tất cả những cái phát triển trước đó, mà là điều kiện cho sự phát triển; nó duy trì và giữ gìn nội dung tích cực của giai đoạn trước, lặp lại một số đặc điểm cơ bản của cái xuất phát, nhưng trên cơ sở cao hơn. Do vậy, sự phát triển có tính chất tiến lên không phải theo đường thẳng mà theo đường xoáy ốc. Phủ định biến chứng có hai đặc tính chất cơ bản sau đây: Thứ nhất, nó mang tính khách quan, là điều kiện của sự phát triển; Thứ hai, nó mang tính kế thừa, là nhân tố liên hệ giữa cái cũ và cái mới. Phủ định biện chứng là quá trình mang tính khách quan do mâu thẫn trong bản thân sự vật quy định. Hơn nữa phủ định của sự vật cũng không tùy thuộc vào ý muốn con người. Mỗi sự vật có phương thức phủ định riêng, do đó mà có sự phát triển. Phủ định biện chứng không phải là sự thủ tiêu, sự phá hủy hoàn toàn cái bị phủ định. Trái lại, để dẫn tới sự ra đời của cái mới, quá trình phủ định biện chứng bao hàm trong nó nhân tố giữ lại những nhân tố tích của cái bị phủ định. Phủ định biện chứng, do vậy, là sự phủ định mang tính chất kế thừa. Với ý nghĩa như vậy phủ định đồng thời cũng là khẳng định. diễn đạt tư tưởng đó, Nguyễn Thị Nội 7 K35 Giáo dục công dân Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 V.I.Lênin viết “Không phải sự phủ định sạch trơn, không phải phủ định không suy nghĩ, không phải sự phủ định hoài nghi, không phải sự do dự, cũng không phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng...mà là sự phủ định coi như là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng định”[18, tr.245]. Giá trị của sự kế thừa biện chứng được quy định bởi vai trò của nó trong sự ra đời cái mới. Không có cái mới nào ra đời từ hư vô. Nhờ giữ lại nhân tố tích cực của cái bị phủ định mà cái mới có tiền đề cho sự phát triển của mình. Cái quá khứ không biến đi mà để lại một dấu vết nào trong dòng chảy vô tận của thời gian. Thật ra, nó đang tham gia vào việc tạo ra cái hiện tại, nó tạo thành mối liên hệ sống động trong thời gian. Một trong những hình thức quan trọng của cái được kế thừa trong đời sống xã hội là truyền thống. Truyền thống là cái chứa đựng trong bản thân mình những năng lực to lớn để tạo ra cái mới. Song, ngay cả đối với nhân tố tích cực của cái bị phủ định được giữ lại, nó vẫn duy trì dưới dạng lọc bỏ. Chẳng hạn, trong khi phủ định chủ nghĩa tư bản với tư cách là một chế độ lỗi thời, chủ nghĩa xã hội cũng kế thừa toàn bộ nhưng thành quả của sự phát triển tiến xã hội đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản. Song, những yếu tố những yếu tố được giữ lại đó cũng phải được cải tạo, được biến đổi trên cơ sở những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội để trở thành những yếu tố nội tại của xã hội xã hội chủ nghĩa. Như vậy, đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng là phủ định có khẳng định cứ không phải là phủ định sạch trơn và không bao hàm bất kỳ một sự khẳng định nào như phủ định trong phép siêu hình. Đây là sự khác biệt căn bản của phủ định trong phép biện chứng và phủ định trong phép siêu hình. Vì Nguyễn Thị Nội 8 K35 Giáo dục công dân Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 thế, phủ định biện chứng là phủ định mang tính khoa học, định hướng cho mọi hoạt động thực tiễn của con người. 1.1.3. Ý nghĩa phương pháp luận của sự vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc Trong hoạt động lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn, chúng ta cần lưu ý rằng cái mới nhất định sẽ thay thế cái cũ, cái tiến bộ nhất định sẽ thay thế cái lạc hậu, cái mới ra đời từ cái cũ, nó kế thừa tất cả những cái gì tích cực của cái cũ. Và phủ định của phủ định là sự tự phủ định, là sự phủ định tạo tiền đề cho sự phát triển tiếp theo, cho cái mới ra đời thay thế cái cũ. Trong công tác, chúng ta cần phải biết phát hiện ra và quý trong cái mới, phải tin tưởng vào tương lai phát triển của cái mới, mặc dù lúc đầu nó còn ít ỏi, yếu ớt, phải ra sức bồi dưỡng, phát huy cái mới, tạo điều kiện cho nó chiến thắng cái cũ. Và trong quá trình đấu tranh với cái cũ, chúng ta phải biết sàng lọc, biết giữ lấy những cái gì là tích cực, là có giá trị của cái cũ cho phù hợp với điều kiện mới, phải chống thái độ “hư vô chủ nghĩa” trong khi nhìn nhận lịch sử, đánh giá quá khứ. Phủ định của phủ định được thực hiện thông qua giải quyết mâu thuẫn. Vì nguyên nhân của phủ định của phủ định là do những mâu thuẫn nội tại của sự vật, hiện tượng quy định.Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong sự vật sẽ đưa đến sự chuyển hóa lẫn nhau, cái mới ra đời thay thế cái cũ. Quá trình đó diễn ra thường xuyên ngoài ý muốn của con người và đó cũng là yếu tố tất yếu của sự phát triển. Phủ định biến chứng là sự phủ định mang tính khách quan. Đó là sự tự phủ định của sự vật và hiện tượng không phải do chủ quan của con người, cũng không phải do Thượng đế hay Chúa điều khiển. Trong thực tế, sự phát triển có cả bước tiến lẫn bước thụt lùi, cả tiến bộ lẫn thoái hóa, sự phát triển đôi khi không phải là một đường thẳng tắp mà đôi Nguyễn Thị Nội 9 K35 Giáo dục công dân Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 khi có bước quanh co, thụt lùi tạm thời. Ở đây chúng tôi muốn nói nhấn mạnh sự ra đời của cái mới trên cơ sở của cái cũ, nhưng cái mới sẽ có trình độ phát triển cao hơn trình độ mà cái cũ đã đạt được và quá trình cái mới phủ định cái cũ để khẳng định sự tồn tại của nó không phải là quá trình đơn giản và nhanh chóng. Mức độ ảnh hưởng của cái cũ trong hiện thực, quá trình ra đời cái mới, điều kiện khách quan và chủ quan để cái mới ra đời thay thế cho cái cũ,...Tất cả những điều đó sẽ quyết định quá trình tự phủ định cái cũ và khảng định cái mới là quá trình lâu dài. Phủ định biện chứng là sự tự phủ định, là sự phủ định có tính chất kế thừa, nó không làm cho sự vật cũ bị diệt vong hay biến mất hoàn toàn. Nó là sự phủ định có giữ lại, có bảo tồn. Cái cũ và cái mới không tuyệt đối tách rời, đối lập nhau mà có sự gắn liền giai đoạn sau với giai đoạn trước, bằng cách bảo tồn những mặt tích cực của giai đoạn trước, cải biến và chuyển hóa nó trong giai đoạn sau. Điều đó đòi hỏi chúng ta khi vận dụng quan điểm biện chứng mác- xít về phủ định biện chứng trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc phải biết phát hiện cái mới , cái hợp quy luật, nhưng đồng thời cũng phải thấy được những cái “mới” không phải được áp đặt từ đâu đó vào mà nó là kết quả của phủ định biện chứng. Đồng thời phải chống lại những thái độ phủ định sạch trơn, hoặc kế thừa một cách nguyên si, cản trở tới sự phát triển văn hóa của đất nước cũng như của từng dân tộc. Vấn đề là ở chỗ phải biết kế thừa có phê phán,có chọn lọc những cái vốn là tinh hoa văn hóa nhân loại, sử dụng chúng như là tiền đề nảy sinh cái mới, tiến bộ hơn trong sự vận động tiến lên của văn hóa dân tộc. Nguyễn Thị Nội 10 K35 Giáo dục công dân Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 1.2. Một số vấn đề lí luận về nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc 1.2.1. Khái niệm văn hóa Khái niệm văn hóa là một khái niệm đa chiều và đa góc cạnh. Cho đến nay đã thống kê được hơn 400 định nghĩa khác nhau về văn hóa. Song, các nhà văn hóa đều có chung nhận định đó là văn hóa bao gồm có văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Từ “Văn hóa” bắt nguồn từ tiếng Latinh ở phương Tây, “Cultura” ban đầu có nghĩa là canh tác và gieo trồng thực vật. Sau này, trong quá trình sử dụng ngôn ngữ này mang thêm một nghĩa mới đó là: sự mở mang kiến thức, bồi dưỡng về thể chất và tinh thần đối với con người, là sự vun xới về mặt tinh thần hay “trồng trọt tinh thần”. Sang thế kỷ XVII – XVIII, việc sử dụng thuật ngữ “Văn hóa” với nghĩa là canh tác tinh thần bên cạnh nghĩa gốc là quản lí, canh tác nông nghiệp. Đến thế kỷ XIX, thuật ngữ “Văn hóa” được các nhà nhân học phương Tây sử dụng như một danh từ chính. Những học giả này cho rằng văn hóa(văn minh) thế giới có thể phân loại từ trình độ thấp đến cao nhất và văn hóa của họ chiếm cao nhất. Bởi vì họ tin rằng bản chất của văn hóa là hướng về trí lực và sự vươn lên phát triển thành văn minh. Đến thế kỷ XX, năm 1909 thuật ngữ “Văn hóa học”(tiếng Đức: Kunturkunde”, tiếng Anh: Culturolog) mới được ra đời. Người đặt ra thuật ngữ này là Wilhelm Ostwald nhà khoa học và triết học Đức. Thuật ngữ này dùng để chỉ môn học mới mà ông gọi là” khoa học về các hoạt động văn hóa, tức là hoạt động đặc biệt của con người”, hoạt động mà chỉ con người mới có. Ông viết:” “Chúng ta gọi những gì phân biệt con người với động vật là văn hóa”. Nguyễn Thị Nội 11 K35 Giáo dục công dân Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 Ở phương Đông( Trung Quốc) từ “Văn hóa” có trong đời sống ngôn ngữ từ rất sớm. Trong Chu dịch có câu: “Quan hồ nhân dĩ hóa thành thiên hạ”, tức “ Thánh nhân quan sát nhân văn lấy Thi, Thư, Lễ nhạc làm phép tắc và để giáo hóa làm cho thiên hạ được khai hóa”. Như vậy, quan niệm cổ đại ở Trung Quốc về văn hóa là học thuyết lấy Nho gia là chính, nội dung chủ yếu của văn hóa là Thi, Thư, Lễ nhạc, chế độ chính trị, luân thường đạo lý và hàng loạt quan niệm tập tục trở thành lễ tục...Giáo hóa văn trị ở chỗ thực hiện Tam cương, Ngũ thường, Thi, Thư, Lễ nhạc. Đó chính là cốt lõi của quan niệm về văn hóa ở Trung Quốc cổ đại. Theo chủ nghĩa Mác – Lênin thì văn hóa chỉ gắn liền với con người và xã hội loài người, với quá trình sáng tạo của con người. Nếu như hoạt động của con vật là hoạt động bản năng thì hoạt động của con người là hoạt động tự giác, hoạt động nhằm để hiểu biết, khám phá và sáng tạo. Con người vừa sáng tạo ra bản thân mình vừa đồng thời sáng tạo ra thế giới văn hóa. Theo C.Mác, hoạt động của con người không chỉ thỏa mãn nhu cầu ăn, mặc, ở,... mà còn là kết tinh năng lực sáng tạo, là cách sống, phương thức sống, phương thức bộc lộ nhân tính, biểu hiện ra trong toàn bộ sản phẩm vật chất, tinh thần do chính con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Như vậy, văn hóa được hình thành và phát triển trên cơ sở hình thành và phát triển của chính con người. Chính vì vậy, các giá trị văn hóa đều có tính chất kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ thời đại qua thời đại và có sự giao thoa ảnh hưởng giữa các dân tộc. Khi bàn về văn hóa, V.I.Lênin cho rằng trong xã hội có giai cấp luôn tồn tại hai nền văn hóa, nền văn hóa của giai cấp thống trị và nền văn hóa của nhân dân lao động. Ông khẳng định tính tất yếu của cách mạng văn hóa, cuộc cách mạng này hết sức khó khăn vì trình độ dân trí và cơ sở hạ tầng lạc hậu. Song không phải ngồi chờ lực lượng sản xuất phát triển mới làm cách mạng Nguyễn Thị Nội 12 K35 Giáo dục công dân Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 văn hóa, mà phải chủ động tạo ra các tiền đề căn bản của nền văn hóa cách mạng, yếu tố cơ bản của xã hội mới. V.I.Lênin đã xác định tính kế thừa biện chứng của sự phát triển văn hóa khi ông giải quyết mối quan hệ dân tộc, giai cấp và văn hóa. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin: “Văn hóa được biểu hiện như toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn lịch sử xã hội và tiêu biểu cho trình độ đạt được trong lịch sử xã hội”[30, tr.656]. Như chúng ta đã biết, tính đến nay có tới hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn hóa. Trong khi trên thế giới còn bàn cãi rất nhiều về định nghĩa văn hóa thì ở nước ta từ năm 1942, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa về văn hóa mang tính chất hệ thống: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng nhu cầu của đời sống và đòi hỏi sinh tồn”[19, tr.431]. Trong định nghĩa này, Hồ Chí Minh xác định văn hóa là sự phát triển tất yếu, mang tính xã hội cao, là phương thức sống, hoạt động và không ngừng nâng cao theo đà phát triển của xã hội. Sáng tạo ra giá trị nhân văn là nội dung cốt lõi của giá trị văn hóa. Theo tổ chức văn hóa,giáo dục và khoa học Liên hợp quốc(UNESCO) thì: “Văn hóa được đặc trưng bởi diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức, tình cảm...Khắc họa nên bản sắc của một quốc gia, cộng đồng, gia đình, làng xóm, xã hội...Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương, mà cả những lối sống, những quyền cơ bản, những hệ thống giá trị, những truyền Nguyễn Thị Nội 13 K35 Giáo dục công dân Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 thống tín ngưỡng”[12, tr.47]. Như vậy, trong định nghĩa này chúng ta thấy có các di sản văn hóa “ vô hình” như phong tục, tập quán, truyền thống, ngôn ngữ, các nghi lễ dân gian. Ở Việt Nam cũng có rất nhiều các nhà văn hóa nghiên cứu về văn hóa. Tuy nhiên mỗi người lại có cách tiếp cận khác nhau, do đó định nghĩa về văn hóa cũng khác nhau: PGS. TS Trần Ngọc Thêm đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình. Theo GS Đào Duy Anh: Văn hóa tức là sinh hoạt cho nên văn hóa của các dân tộc cũng không giống nhau, vì cách sinh hoạt của mỗi dân tộc là khác nhau do điều kiện tự nhiên, tính chất địa lý, kinh tế xã hội quy định mà có nền văn hóa riêng của dân tộc. Theo GS Phan Ngọc: Không có các vật gì gọi là văn hóa cả và ngược lại bất kỳ vật gì cũng có cái mặt văn hóa. Văn hóa là một quan hệ, đó là quan hệ giữa thế giới biểu tượng và thế giới thực tại. Như vậy, chúng ta thấy rằng “ Văn hóa” là một khái niệm mở, là một phạm trù hết sức rộng lớn, phong phú và đa dạng, nó bao hàm những giá trị trên tất cả các lĩnh vực mà con người sáng tạo ra trong đời sống xã hội, do đó khó có thể định nghĩa hoàn chỉnh về về văn hóa mà trong đó bao hàm được tất cả các lĩnh vực mà văn hóa có mặt. Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, song những định nghĩa đó không nhằm bài trừ lẫn nhau mà đồng thời bổ sung cho nhau làm cho khái niệm văn hóa ngày càng trở nên đầy đủ và hoàn thiện hơn. Từ những định nghĩa khác nhau về văn hóa và từ quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa nổi lên những đặc trưng cơ bản sau đây: Nguyễn Thị Nội 14 K35 Giáo dục công dân Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 Thứ nhất, văn hóa là phản ánh những giá trị nhân văn. Văn hóa được hình thành và phát triển trong mối quan hệ cải tạo với tự nhiên và đấu tranh xây dựng xã hội. Do đó bản chất của văn hóa là phản ánh các giá trị nhân văn là xử lý mối quan hệ giữa con người với con người, đề cao giá trị của con người. Thứ hai, văn hóa mang tính dân tộc. Văn hoá mang bản chất nhân văn nhưng lại mang bản sắc riêng của từng dân tộc và dấu ấn riêng của từng giai cấp. Thứ ba, văn hóa còn được thể hiện trong sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc giữa các quốc gia. Thứ tư, văn hóa là một hiện tượng mang tính lịch sử. Trải qua mỗi thời kì lịch sử sẽ có một nền văn hóa tương ứng với mỗi thời kì lịch sử đó. 1.2.2. Sự cần thiết phải xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Trong suốt chặng đường lãnh đạo nhân dân,tiến hành thắng lợi các cuộc kháng chiến chống xâm lược, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn quan tâm toàn diện, nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò và sức mạnh của văn hóa đối với sự phát triển bền vững của đất nước. Ý thức rõ về sức mạnh văn hóa đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức của đế quốc xâm lược, “Đề cương văn hóa Việt Nam” tháng 2 năm 1943 - Cương lĩnh văn hoá đầu tiên của Đảng đã ra đời, làm nền tảng lý luận cho sự nghiệp xây dựng nền văn hóa kháng chiến, kiến quốc những năm tiếp theo, xác định: văn hóa là một trong ba mặt trận: kinh tế, chính trị, văn hóa vì vậy, phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được công cuộc cải tạo xã hội và “Đảng tiên phong phải lãnh đạo văn hóa tiên phong”; đồng thời Đảng ta cũng xác định nền văn hóa Việt Nam có ba tính Nguyễn Thị Nội 15 K35 Giáo dục công dân Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 chất: dân tộc, khoa học, đại chúng. Tính chất “khoa học” cũng chính là nói tới tính tiên tiến của văn hóa. Đề cương văn hóa Việt Nam là sự khẳng định tư tưởng của Hồ Chí Minh: Văn hoá “soi đường cho quốc dân đi”, góp phần động viên, tập hợp đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ vào Hội Văn hoá cứu quốc, tạo sức mạnh to lớn làm nên cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi và Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Trong cuộc kháng chiến chống Đế quốc Mỹ xâm lược, sức mạnh nội sinh của văn hóa được phát huy mạnh mẽ, trở thành niềm cổ vũ to lớn chiến sĩ và nhân dân ta. Trên nền tảng văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa thời đại, những tác phẩm thơ, văn, ca, múa, nhạc, họa được sáng tác, phục vụ kịp thời, tiếp thêm sức mạnh cho dân tộc, thôi thúc phong trào thi đua mạnh mẽ giữa tiền tuyến và hậu phương, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Thời kỳ hòa bình, cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội IV của Đảng đã tiếp tục khẳng định: Tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, trong đó tập trung “Xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa” với những giá trị đạo đức, niềm tin, lý tưởng, lẽ sống cao đẹp. Trong thời kỳ đổi mới của đất nước, với tư duy đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị, xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh, Đảng đã chủ trương đổi mới tư duy trên lĩnh vực văn hóa. Tháng 11 năm 1987, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 05 về văn hóa-văn nghệ trong cơ chế thị trường và những chỉ thị quan trọng về đổi mới và nâng cao chất lượng phê bình văn học - nghệ thuật, công tác quản lý văn học - nghệ thuật và một số nhiệm vụ văn hóa - văn nghệ. Đến Hội nghị Trung ương 5 (Khóa VIII) tháng 7 năm 1998, Đảng ra Nghị quyết chuyên đề về “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, khẳng định vai trò của văn hóa trong tiến trình lịch sử dân tộc và Nguyễn Thị Nội 16 K35 Giáo dục công dân Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 tương lai đất nước. “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” với mục đích “Làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp”[8, tr.50]. Hội nghị Trung ương 10 (Khóa IX) khẳng định: “Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước”[10, tr.114 - 115]; Đại hội lần thứ X của Đảng (4-2006) khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”[11,tr.106]. Trong quá trình hội nhập và phát triển, bên cạnh những cơ hội thuận lợi, Đảng ta đã ý thức về tính chất nguy hiểm trước vấn nạn của “luồng văn hóa độc hại” xâm nhập vào nước ta từ nhiều con đường khác nhau, kịp thời ban hành Nghị quyết 23 –NQ/TƯ: Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới và Chỉ thị số 46-CT/TƯ của Ban Bí Thư Trung ương Đảng, định hướng cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân quyết tâm giữ gìn, bảo vệ “bản sắc văn hoá” trong thời kỳ hội nhập quốc tế; yêu cầu các Cấp ủy Đảng, Chính quyền, Mặt trận, Đoàn thể và đội ngũ đảng viên, cán bộ chung tay góp sức, kiên quyết ngăn ngừa, phòng, chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại, ảnh hưởng đến văn hóa truyền thống và đạo đức xã hội. Tiếp thu và phát triển đường lối văn hóa của Đảng, Dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bổ sung và Nguyễn Thị Nội 17 K35 Giáo dục công dân Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 phát triển trong năm 2011 đã nêu lên định hướng về văn hóa đó là: Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Những năm qua, lĩnh vực văn hóa đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tư tưởng, đạo đức và lối sống - lĩnh vực then chốt của văn hóa đã có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, do những tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế, lĩnh vực văn hóa cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất định, tác động không nhỏ đến văn hóa truyền thống của dân tộc. Sự phát triển của văn hóa chưa đồng bộ và tương xứng với tăng trưởng kinh tế, thiếu gắn bó với nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế và nhiệm vụ xây dựng Đảng. Tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình, bạo lực học đường, coi thường pháp luật,… những biểu hiện “thương mại hóa", xu hướng vọng ngoại, lai căng, xa rời bản sắc, truyền thống văn hóa dân tộc ở một bộ phận chưa được ngăn chặn một cách hữu hiệu. Những sáng tạo văn học nghệ thuật mới có giá trị nghệ thuật cao chưa nhiều. Thực trạng đó là những nguy cơ tiềm ẩn làm xói mòn văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, làm cản trở bước đường đi tới hạnh phúc và phồn vinh của dân tộc ta. Chính vì vậy, việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong thời đại mới là vấn đề quan trọng có ý nghĩa hàng đầu. Nguyễn Thị Nội 18 K35 Giáo dục công dân Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 1.2.3. Những đặc trưng cơ bản của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện đại có sự thống nhất hữu cơ giữa tính tiên tiến và tính đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là kết quả của việc tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo xây dựng và phát triển nền văn hóa mới của Đảng Cộng sản Việt Nam trong gần 80 năm qua. Trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, Đảng ta đều đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển văn hóa, phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng. Trong thời kỳ đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã xác định nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trình độ tiên tiến của nền văn hóa không mâu thuẫn với bản sắc văn hóa dân tộc, ngược lại, hai đặc tính thống nhất biện chứng với nhau, tác động qua lại và quy định lẫn nhau. Tuy nhiên, để tìm hiểu đặc trưng của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta có thể cần làm rõ từng nội dung “tiên tiến” và “đậm đà bản sắc dân tộc”. 1.2.3.1. Nền văn hóa tiên tiến Việt Nam là nước đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, do đó chúng ta có lợi thế là có điều kiện học hỏi, tiếp thu những kinh nghiệm quý báu, phù hợp với đất nước từ các nước đi trước. Trong bối cảnh đó đòi hỏi chúng ta phải xây dựng nền văn hóa tiên tiến, phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 5 (khóa VIII) đã xác định, bản sắc văn hóa dân tộc không được tách rời, càng không thể đối lập với tính tiên tiến của nền văn hóa nhân loại. Tính tiên tiến và văn hóa dân tộc phải gắn liền, thống nhất hữu cơ với nhau. Vậy, thế nào là tính tiên tiến trong văn hóa dân tộc? Nguyễn Thị Nội 19 K35 Giáo dục công dân
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng