Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học Sự vận động quan niệm nghệ thuật về con người của nguyễn minh châu từ năm 1945 đ...

Tài liệu Sự vận động quan niệm nghệ thuật về con người của nguyễn minh châu từ năm 1945 đến nay qua hai tác phẩm mảnh trăng cuối rừng và chiếc thuyền ngoài xa

.DOC
54
2175
150

Mô tả:

A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người. Quan điểm của Nguyễn Minh Châu đã khẳng định vị trí trung tâm của con người trong văn học, đó là điểm khởi đầu, là đích đến và lạ thay cũng chính là con đường thực hiện sứ mệnh của văn chương. Để làm nổi bật hình ảnh con người trong tác phẩm, mỗi nhà văn cần xây dựng cho mình ý thức trong việc lựa chọn những lát cắt về con người cũng như phương thức biểu hiện sao cho phù hợp. Những việc làm trên chính là quá trình hình thành quan niệm nghệ thuật về con người của mỗi tác giả. Đó sẽ là một tín hiệu thẩm mĩ quan trọng và độc đáo được tác giả mã hóa thông qua những hình tượng nhân vật cụ thể. Tác giả nhờ đó mà phô được “vân chữ” của mình, còn độc giả cũng nương theo đó mà vén bức tình thư được tác giả phong kín. Một đặc tính quan trọng của quan điểm nghệ thuật về con người là nó không đứng yên mà luôn có sự vận động không ngừng theo từng thời kì, trong từng giai đoạn sáng tác của mỗi nhà văn. Sự vận động ấy cho thấy được bước chuyển của nền văn học dân tộc cũng như sự thay đổi quan điểm và phong cách sáng tác của mỗi nhà văn. Trong dòng chảy văn học Việt Nam, dưới sự thay đổi của xã hội và ảnh hưởng của nhiều luồng văn hóa, quan điểm nghệ thuật về con người luôn chuyển dòng từ văn học trung đại đến văn học hiện đại, đặc biệt mạnh mẽ nhất đó là thời kì từ năm 1945 đến nay. Bằng những cú vặn mình lịch sử, quan điểm nghệ thuật về con người của văn học Việt Nam đã phản ánh được cái TẦM đánh giá và cảm nhận cuộc sống, cái TÀI năm bắt và chuyển tải thông điệp về con người cũng như cái TÂM yêu thương, trân trọng, ngợi ca bản chất tốt đẹp của con người qua các thời kì. Giữa hàng trăm quan điểm nghệ thuật về con người xô đẩy, va đập nhau trên đại dương văn học, Nguyễn Minh Châu với sự thức thời, sáng suốt, nhanh nhạy của mình trong đổi mới quan niệm đã vươn lên thành con sóng bạc, xứng đáng với danh xưng “người mở đường tinh anh và tài năng”. Những tác phẩm 1 của ông theo sát những chuyển biến tế vi nhất của thời đại, rất gần gũi mà thật sâu sắc và triết lí. Đó là bởi ông ý thức rất rõ và mạnh dạn đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người. Mỗi người đọc ở những giai đoạn nhất định đều tìm thấy không chỉ một phần con người mình ở trong đó mà cả những gương mặt xã hội mang ám ảnh phận người cũng ngập lặn sau những trang sách của Nguyễn Minh Châu. Với những giá trị đích thực mà tã phẩm mang lại, Mảnh trăng cuối rừng và Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu đã được lựa chọn để giảng dạy trong chương trình Ngữ văn trung học phổ thông cũ và mới, tiêu biểu cho cả giai đoạn văn học kháng chiến và văn học đổi mới. Đối với học sinh trung học phổ thông, đặc biệt là học sinh chuyên văn, những tác phẩm này vốn đã quen thuộc và gần gũi. Hai tác phẩm tiêu biểu trên giúp học sinh có điều kiện phát hiện quan niệm nghệ thuật về con người cũng như phân tích, so sánh làm sáng tỏ sự vận động quan niệm nghệ thuật về con người qua các giai đoạn trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Từ đó giáo viên dễ dàng định hướng học sinh đánh giá, khái quát sự vận động quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Việt Nam. Với những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài Sự vận động quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Minh Châu từ năm 1945 đến nay qua hai tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng và Chiếc thuyền ngoài xa. 2. Mục đích của đề tài Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài trên, chúng tôi mong muốn đạt được một số mục đích sau trong công tác nghiên cứu và giảng dạy môn Ngữ văn dành cho học sinh chuyên ở trường THPT: Về mặt nghiên cứu, xác định được cơ bản, rõ ràng nội hàm khái niệm quan điểm nghệ thuật về con người và những biểu hiện của chúng. Thực tiễn công tác nghiên cứu lí luận văn học hiện nay đã chỉ ra rằng có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm quan niệm nghệ thuật về con người. Ở đây chúng tôi không tham vọng đưa ra một định nghĩa hoàn toàn chính xác nhưng sẽ tập 2 hợp, khái quát và chỉ ra những nét bản chất nhất, cô đọng nhất, phù hợp với việc giảng dạy và học tập tại trường THPT. Trên cơ sở xác lập nội hàm của khái niệm, chúng tôi hướng đến tổng quát sự vận động quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học học Việt Nam. Từ đó điểm qua một số tác giả và tác phẩm tiêu biểu từ năm 1945 đến nay. Đồng thời cũng lí giải và chỉ ra sự ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài trong việc sự vận động quan niệm nghệ thuật về con người qua các giai đoạn khác nhau. Giới hạn phạm vi nghiên cứu cụ thể qua hai tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng và Chiếc thuyền ngoài xa, chúng tôi phân tích sự vận động quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Minh Châu qua hai góc nhìn kiểu nhân vật và nghệ thuật thể hiện tác phẩm. Đó cũng là tiền đề để xác lập phong cách nghệ thuật cũng như khẳng định tài năng, vẻ đẹp tâm hồn của nhà văn này. Vể mặt giảng dạy, căn cứ trên tình hình giảng dạy thực tiễn cũng như xu hướng ra đề thi trong những năm qua, chúng tôi hướng đến việc giúp học sinh xác định được khái niệm quan niệm nghệ thuật về con người, hiểu rõ được sự vận động quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu. Cuối cùng, sẽ đưa ra các dạng đề và định hướng giải quyết các đề thi có liên quan đến quan niệm nghệ thuật về con người, đặc biệt là quan niệm nghệ thuật về con người trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu và sự vận động quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Sự vận động quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Minh Châu từ năm 1945 đến nay qua hai tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng và Chiếc thuyền ngoài xa là một vấn đề không quá mới nên với đề tài này chúng tôi hướng đến đào sâu các khái niệm, bổ sung làm rõ quan niệm nghệ thuật về con người từ góc nhìn nghệ thuật thể hiện vốn lâu nay chưa được chú ý đến. Đồng thời, khai thác kinh nghiệm thực tiễn từ quá trình giảng dạy văn học, chúng tôi xin chia sẻ một vài kinh nghiệm trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi. Hi vọng đề tài này sẽ góp một phần tích cực trong việc giảng dạy môn Ngữ văn cho học sinh chuyên ở trường THPT. 3 B. PHẦN NỘI DUNG I. Quan niệm nghệ thuật về con người và hành trình sáng tạo của Nguyễn Minh Châu 1. Đi tìm nội hàm khái niệm Quan niệm nghệ thuật về con người Macxim Gorki đã từng khẳng định: “Văn học là nhân học”. Đó là nghệ thuật miêu tả, biểu hiện con người. Thực tế cho thấy rằng không có một tác phẩm, một tác giả hay một nền văn học nào lại chỉ đơn thuần nói về thiên nhiên mà không liên quan đến con người. Nói cách khác, mục đích miêu tả của nhà văn là nhằm hướng đến thể hiện con người. Con người là trung tâm của văn học. Quan niệm nghệ thuật về con người là khái niệm cơ bản nhằm thể hiện khả năng khám phá, sáng tạo trong lĩnh vực miêu tả, thể hiện con người của nhà văn. Có thể nói, nó giống như là một chiếc chìa khóa vàng góp phần gợi mở cho chúng ta tất cả những gì bí ẩn trong sáng tạo nghệ thuật của mỗi người nghệ sĩ nói chung và từng thời đại nói riêng. Tuy nhiên, cho đến nay, mặc dù được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu, song khái niệm quan niệm nghệ thuật về con người vẫn còn nhiều cách định nghĩa và diễn đạt khác nhau. Có thể dẫn ra như sau: Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: "Quan niệm nghệ thuật về con người là một cách cắt nghĩa, lí giải tầm hiểu biết, tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm của nhà văn về con người được thể hiện trong tác phẩm của mình”. Tức là quan niệm nghệ thuật về con người sẽ đi vào phân tích, mổ xẻ đối tượng con người đã được hóa thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện con người trong văn học của tác giả, từ đó, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình tượng nhân vật trong đó. Vì vậy, chúng ta sẽ thấy được giá trị của hình tượng nghệ thuật trong các tác phẩm. Giáo sư Huỳnh Như Phương lại có cái nhìn khá bao quát: “Quan niệm nghệ thuật về con người thể hiện tầm nhìn của nhà văn và chiều sâu triết lí của tác phẩm”. 4 Về quan niệm nghệ thuật về con người, Từ điển Thuật ngữ văn học định nghĩa như sau: “Quan niệm nghệ thuật về con người là hình thức bên trong, là hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình thức tác phẩm. Nó gắn với các phạm trù khác như phương pháp sáng tác, phong cách của nhà văn, làm thành thước đo của hình thức văn học và cơ sở của tư duy nghệ thuật.” Nhìn chung, tuy khác nhau về cách diễn đạt nhưng những khái niệm trên đều nói lên được cái cốt lõi của vấn đề quan niệm nghệ thuật về con người. Chúng ta có thể hiểu quan niệm nghệ thuật về con người một cách khái quát: Quan niệm nghệ thuật về con người được hiểu là cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ, cách cắt nghĩa lí giải về con người của nhà văn. Đó là quan niệm mà nhà văn thể hiện trong từng tác phẩm. Quan niệm ấy bao giờ cũng gắn liền với cách cảm thụ và biểu hiện chủ quan sáng tạo của chủ thể, ngay cả khi miêu tả con người giống hay không giống so với đối tượng. 2. Sự vận động của quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Việt Nam từ 1945 đến nay Sự vận động của quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Việt Nam từ 1945 cho đến nay là sự vân động từ quan niệm con người theo kiểu sử thi đến quan niệm về con người kiểu thế sự, đời tư, con người cá nhân phức tạp, nhiều bí ẩn. Cách mạng tháng Tám là một bước ngoặt lịch sử, mở ra một trang mới đối với đất nước và con người Việt Nam, chấm dứt ngàn năm chế độ phong kiến, hơn tám mươi năm đô hộ của thực dân Pháp, để bắt đầu một thời đại mới thời đại độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội. Sau Cách mạng tháng Tám, dân tộc Việt Nam cũng phải trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ trường kì gian khổ nhưng cũng rất hào hùng. Mọi đổi thay ấy đã đem đến cho văn học Việt Nam những sắc diện mới, luồng sinh khí mới ở nhiều khía cạnh, trong đó có quan niệm nghệ thuật về con người. Văn xuôi giai đoạn 1945 - 1975 phát triển trong hoàn cảnh đặc biệt của hai cuộc chiến tranh vệ quốc và những biến cố cách mạng lớn lao, do đó nó 5 không thể không bị chi phối bởi những quy luật bất bình thường. Theo sát nhiệm vụ chính trị, tự ý thức mình như một vũ khí tư tưởng, nó đã tập trung mọi cố gắng lớn nhất vào việc giáo dục, đào tạo, xây dựng "con người mới”. Phát hiện “con người cộng đồng” trong mỗi cá nhân, con người vận động theo chiều hướng tích cực và lạc quan của quan điểm cách mạng là cống hiến quan trọng của văn học giai đoạn này. Nhà văn muốn thông qua con người để biểu hiện lịch sử, con người trở thành phương tiện để khám phá lịch sử. Sự ưu tiên cho lịch sử, cho phương diện cộng đồng hoàn toàn phù hợp với yêu cầu thực tiễn và tâm lí công chúng. Chiến tranh đặt ra vấn đề sống còn của dân tộc, mọi quyền lợi, mọi ứng xử phải nhìn theo quan điểm “địch - ta”, sự thống nhất muôn người như một trở thành nguyên tắc tối thượng. Cá nhân tự nguyện hòa tan trong cộng đồng. Con người được nhận thức và đánh giá chủ yếu theo tiêu chí giai cấp. Từ những mối quan hệ xã hội chung nhất đến cái bản ngã cá nhân đều được nhìn nhận theo một số chuẩn mực chung, như “cái có thể biết trước”. Nếu diễn đạt theo M. Bakhtin thì đó là quan niệm con người kiểu sử thi, ở đó con người luôn luôn “khoác bộ áo xã hội”, luôn “trùng khít với địa vị xã hội của mình" nó là con người đơn trị, dễ hiểu. Con người trong văn học Việt Nam chặng 1945 - 1954 là “con người tập thể”, “thức tỉnh về sức mạnh của cộng đồng”, “tham dự vào các biến cố lịch sử, gánh vác cuộc kháng chiến qua các tổ chức, các đoàn thể của mình”, “ít có những dằn vặt, suy tư, giằng xé nội tâm”, “dứt khoát, toàn tâm vì sự nghiệp chung, hòa mình trong tập thể”. Con người trong văn học Việt Nam chặng 1955 - 1964 là “con người trong sự thống nhất riêng - chung”, “nhìn nhận giải pháp duy nhất để giải quyết các số phận cá nhân và khát vọng hạnh phúc của con người là sự hòa nhập với tập thể, cách mạng và cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa”. Con người trong văn học Việt Nam chặng 1965 - 1975 lại mang vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng, của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc ta tuy vô cùng ác liệt, dữ dội nhưng đã khơi dậy được sức sống tiềm tàng, ý chí đấu tranh, tinh thần đoàn kết của con người Việt Nam. Tất cả kề vai, sát cánh để phục vụ tiền tuyến, hướng đến chiến thắng. 6 Văn học chặng này đã nhanh chóng “nhập cuộc”, khai thác và thể hiện con người “trên phương diện con người chính trị, con người công dân, nhưng mỗi cá nhân như là biểu hiện tập trung của ý chí, khát vọng và sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, thậm chí của thời đại, của nhân loại”. Sau 1975, đất nước bước vào thời kì đổi mới, những quy luật thời bình sớm muộn sẽ chi phối văn học. Sự thức tỉnh ý thức cá nhân diễn ra manh mẽ khi giá trị cá nhân được coi trọng. Nếu trước 1975, các nhà văn có thiên hướng thể hiện con người theo tiêu chí giai cấp, lựa chọn nhân vật điển hình, chú trọng tính chung sao cho phù hợp với quan điểm về sự vận động tích cực và thuận chiều của đời sống, do đó đã bỏ qua hoặc coi nhẹ phương diện “riêng tư”, “cá biệt” của con người thì văn xuôi sau 1975 dần dần quan tâm con người ở tư cách cá nhân - một “nhân vị” độc lập. Xuất hiện con người “không trùng khít với chính mình”, con người phức tạp, nhiều chiều. Phát hiện con người phức tạp, con người lưỡng diện, con người không nhất quán với mình, văn xuôi sau 1975 có vẻ như đã đi đúng quỹ đạo tư duy của những nhà khoa học nhân văn có tiếng trên thế giới. L.Tônxtôi từng ví "con người như dòng sông”. "Nước trong mọi con sông như nhau và ở đâu cũng thế cả nhưng mỗi con sông thì khi hẹp, khi chảy xiết, khi thì rộng khi thì êm, khi thì trong veo, khi thì lạnh, khi thì đục, khi thì ấm. Con người cũng như vậy. Mỗi con người mang trong mình những mầm mống của mọi tính chất con người và khi thì thể hiện tính chất này, khi thì thể hiện những tính chất khác và thường là hoàn toàn không giống bản thân mình tuy vẫn cứ là chính mình". Sau này M.Bakhtin nói: "Con người không thể hóa thân đến cùng vào cái thân xác xã hội - lịch sử hiện hữu. Chẳng có hình hài nào có thể thể hiện được hết mình cho đến lời nói cuối cùng như nhân vật bi kịch hoặc sử thi, chẳng có khuôn hình nào để có thề rót nó vào đầy ắp mà lại không chảy tràn ra ngoài. Bao giờ cũng vẫn còn phẩn nhân tính dư thừa chưa được thể hiện”. Ý kiến này vừa chỉ ra tính chất phong phú, phức tạp của con người với tư cách cá nhân, vừa cho thấy cả tính “nhân loại” với tư cách giống loài mà tự nhiên nhào nặn. 7 Cùng với sự phức tạp còn là sự bí ẩn. Nếu văn xuôi 1945 - 1975 đem lại ấn tượng về con người có thể biết trước, nhà văn nhìn con người chủ yếu như một ý thức chính trị vận động hợp quy luật lịch sử thì văn xuôi từ sau 1975 đem lại cảm giác con người là một tiểu vũ trụ đầy bí ẩn, không thể biết trước, không thể biết hết. Con người vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là "tổng hòa các mối quan hệ xã hội". Con người hành động có khi theo sự chỉ huy của ý thức, của lí trí tỉnh táo, có khi lại bị chi phối bởi tiếng nói của tâm linh, của vô thức, bản năng. Rất khó có thể “định tính” hay “định lượng” cho con người mà không làm tổn thương đến bản chất người của nó. Sức hấp dẫn có được của văn xuôi hiện nay chính là ở chỗ nó liên tục phát hiện những cái khuất lấp, ẩn chìm, những sức mạnh kì lạ đã chi phối và dẫn dắt số phận riêng của mỗi cá nhân, không ai giống ai cả. Con người vốn phức tạp như thế nên không thể dùng một tiêu chí cố định mà đo đếm nó. Mọi sự lý tưởng hóa con người đều làm cho nó trở nên giả dối, không thật. Nhân vật của văn xuôi sau 1975 rõ ràng ít tính lí tưởng, không hoàn hảo, “sạch sẽ”, không được “bao bọc trong bầu không khí vô trùng" như trước đây thường thấy. Trong văn học vẫn có nhân vật đẹp nhưng là cái đẹp trong bụi bặm của cuộc đời thường nhật. Trình bày con người như nó vốn có, không lí tưởng hóa, thần thánh hóa nó là đặc điểm nổi bật trong quan niệm về con người của văn xuôi từ sau 1975. Quan niệm con người đời thường, con người phàm tục, không hoàn hảo vừa giống như một sự đối thoại với quá khứ, khước từ những lối biểu hiện công thức, vừa đề xuất hệ giá tri mới để đánh giá con người: giá trị nhân bản. Có thể xem đây là sự “đổi mới chất liệu” văn xuôi theo hướng tăng cường hiện thực hóa và dân chủ hóa. Không ít người trong khi tìm kiếm ý nghĩa triết lí phổ quát về con người đã tìm thấy chân lí ở cái nhìn phi thiêng liêng hóa con người và họ dũng cảm chấp nhận con người thường tình, thậm chí tẻ nhạt, khiếm khuyết, không hoàn thiện. Đó là cách nhìn và phản ánh con người phổ biến trong sáng tác của hàng loạt cây bút văn xuôi Việt Nam đương đại: từ Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Kiên, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Quang Thân... đến Chu Lai, Nguyễn Trí Huân, Khuất 8 Quang Thụy, Trung Trung Đỉnh, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Dương Hướng, Đào Thắng, Mạc Can, Nguyễn Bắc Sơn... rồi Lê Minh Khuê, Dạ Ngân, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Phạm Hoa, Quý Thể, Hòa Vang, Võ Thị Hảo, Y Ban, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà... và lớp cây bút trẻ Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Đình Tú… Ở đó, con người được khám phá trên nhiều bình diện: con người xã hội, con người tự nhiên (bản năng) và con người tâm linh. Con người xã hội vốn là dạng phổ biến trong văn xuôi trước 1975. Tuy nhiên, ở thời Đổi mới, khi miêu tả con người xã hội, nhà văn không chỉ hướng tới thể hiện những sự kiện, biến cố xã hội, không còn bị gò theo tiêu chí phân tuyến xấu - tốt, thiện - ác mà đã là những con người đa diện, phức tạp “đa đoan”. Nhà văn đặt con người trong những hoàn cảnh cụ thể, soi chiếu vào thế giới nội tâm để thấy con người trong các mối quan hệ xã hội chằng chịt, trong sự chi phối nhiều chiều của hoàn cảnh. Con người tự nhiên vốn là một bình diện quan trọng, nhưng vì quan niệm còn phiến diện về con người, văn xuôi một thời có phần e ngại, né tránh. Văn xuôi đổi mới quan tâm nhiều đến con người tự nhiên, khám phá con người tự nhiên từ nhiều góc độ. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc quan tâm đến con người trong tính toàn vẹn của nó, khẳng định bản năng tự nhiên như một “lực sống” của con người (theo cách diễn đạt của Freud), khiến con người hiện diện trong văn học đầy đặn và sống động hơn. Con người tâm linh cũng là phương diện nhiều cây bút văn xuôi đổi mới quan tâm. Khám phá bí ẩn của tâm linh là con đường hữu hiệu giúp nhà văn khám phá được chiều sâu vô tận bí ẩn trong tâm hồn con người. Chính từ sự đổi mới cơ bản trong quan niệm nghệ thuật về con người, thế giới nhân vật trong văn xuôi đương đại phong phú, gần gũi và giàu sức ám ảnh đối với người đọc với nhiều kiểu loại nhân vật mới: nhân vật tự ý thức, nhân vật cô đơn, nhân vật bi kịch, nhân vật tha hóa và bị tha hóa, nhân vật dị biệt – những dạng nhân vật chưa từng hoặc rất ít xuất hiện trong văn xuôi trước 1975. Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người trong văn xuôi thời gian qua dù còn nhiều chuyện phải bàn, nhưng nhìn chung đó là một thành tựu quan trọng, được nhiều người thừa nhận. Khuynh hướng dân chủ hóa và tinh thần 9 nhân bản đã giúp văn xuôi sau 1975 thoát ra khỏi những lối mòn quen thuộc, phá vỡ những quy phạm hình thành trong hoàn cảnh chiến tranh kéo dài, dần dần đạt tới một quan niệm toàn diện, nhiều chiều về con người, mở ra những chiều mới mẻ và thú vị về đời sống đầy bí ẩn, vô cùng vô tận của những cá thể người sinh động và gần gũi. 3. Hành trình sáng tạo của Nguyễn Minh Châu qua quan niệm nghệ thuật về con người 3.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Nguyễn Minh Châu Nguyễn Minh Châu sinh ngày 23 tháng 10 năm 1930 tại huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Đầu năm 1950, khi đang là học sinh chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng ở Nghệ An, Nguyễn Minh Châu tình nguyện vào quân đội. Năm 1959, Nguyễn Minh Châu đi dự hội nghị bạn viết toàn quân. Năm 1960, ông được điều động về cục Văn hóa quân đội, rồi về tạp chí Văn nghệ quân đội vừa làm biên tập vừa làm phóng viên. Trong thời gian này, Nguyễn Minh Châu bắt đầu viết văn và cho in những truyện ngắn đầu tay nhưng chưa được dư luận quan tâm. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Minh Châu chỉ được khẳng định trong thời kì kháng chiến chống Mỹ với hai cuốn tiểu thuyết Cửa sông (1966), Dấu chân người lính (1972) và tập truyện ngắn Những vùng trời khác nhau (1970). Nhà văn đã phản ánh kịp thời những hình ảnh sinh động của cuộc chiến đấu và hình tượng cao đẹp của những con người Việt Nam thuộc nhiều thế hệ, đồng thời, ông cũng có phát hiện và suy ngẫm về nhiều vấn đề của đời sống xã hội và số phận con người trong chiến tranh. Ngay sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu đã sớm nhận ra những hạn chế của nền văn học thời chiến tranh và dũng cảm tìm kiếm con đường đổi mới sáng tác của chính mình. Hai cuốn tiểu thuyết xuất bản năm 1977: Miền cháy, Lửa từ những ngôi nhà đã đem lại một sắc diện mới trong sáng tác của nhà văn. Những truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu ra mắt bạn đọc ở nửa đầu những năm 1980 thực sự là những tìm tòi mới, với cái nhìn mới về hiện thực và con người, khiến Nguyễn Minh Châu trở thành một trong những “người mở đường tinh anh và tài năng nhất của công cuộc đổi mới văn 10 học” (Nguyễn Khải). Sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), ông đã có những phát biểu trực tiếp cùng với những sáng tác đã đạt đến độ chín của tư tưởng và nghệ thuật thể hiện sự tâm huyết với công cuộc đổi mới nền văn học nước nhà. Nhưng vì mắc bệnh hiểm nghèo, Nguyễn Minh Châu đã qua đời vào ngày 23 tháng 1 năm 1989 khi nhiều dự định sáng tác còn đang ấp ủ. Sáng tác của Nguyễn Minh Châu vẫn là cuộc săn tìm “những hạt ngọc” đạo đức ẩn dấu trong con người, nhưng đồng thời cũng để chứng minh điều tác giả trải nghiệm: “Quan sát những người ở xung quanh mình, tôi thấy người tốt vẫn chiếm đa số. Nhưng hình như họ luôn phải cưỡng lại một thứ gì đó ở bên trong bản thân, thiện và ác, lý trí và dục vọng, cái riêng và cái chung ở bên trong từng con người. Người ta vẫn tốt nhưng cái tốt hình như ít đi hơn xưa. Người ta phải luôn giữ mình để khỏi làm điềú xấu và ác” (Báo Văn nghệ 6/7/1985). 3.2. Quan niệm nghệ thuật về con người trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước 1975 Với quan niệm con người mang vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng, của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, ở thời kì trước 1975, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng nên những hình mẫu nhân vật mang đậm cảm quan nghệ thuật của nhà văn. Con người trong tác phẩm Nguyễn Minh Châu trước hết là con người có lí tưởng sống cao đẹp, ý thức được tầm vóc lịch sử và ý nghĩa thời đại của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Cô giáo Thùy trong Cửa sông (1966) đã “dành một phần nhỏ thì giờ biên thư cho các học sinh của mình hiện đang ở các đơn vị bộ đội” vì đã tự coi mình như “một người con gái ở hậu phương có nhiệm vụ đem đến cho họ những lời động viên, có nhiệm vụ săn sóc các chiến sĩ ngoài mặt trận”. Thùy luôn cố gắng “tìm cách không tách mình ra khỏi cái guồng máy sinh hoạt chung của nhân dân đang hối hả chuyển sang thời chiến” bởi như thế là ích kỉ, là coi trọng hạnh phúc cá nhân. Những người lính trong Dấu chân người lính (1972) đều xác định được trách nhiệm cao cả của thế hệ mình trước tiếng gọi thiêng liêng của non sông. Khuê, chiến sĩ cần vụ của chính ủy trung đoàn 5, rất quen thuộc, gắn bó với những khu rừng ngày đêm dội vang 11 những trận bom, những cuộc chuyển quân trong tầm súng của địch. Khung cảnh bề bộn, dựng lửa của chiến trường “trước đây vài tháng, khi anh còn mài gót giày trên những chặng đường đi dài dằng dặc của núi Trường Sơn, anh như đã trông thấy, hình như nó đang vẫy gọi, đang giục giã anh và đồng đội của anh bằng tất cả sức mạnh quyến rũ không thể nào lường được”. Không chỉ sống có lí tưởng và nhận thức được vai trò của mình trong cộng đồng, con người của văn học kháng chiến chống Mĩ còn thể hiện lí tưởng và nhận thức ấy thành hành động, ý chí. Các nhân vật của Nguyễn Minh Châu thường được đặt trong những hoàn cảnh thử thách ngặt nghèo, trước những tình huống phải lựa chọn giữa sống và chết để “càng làm kiên định ý chí cách mạng và bộc lộ sáng chói chủ nghĩa anh hùng” (Nguyễn Văn Long). Nguyệt, cô gái đi nhờ xe trong Mảnh trăng cuối rừng (1970), đã để cả quần áo “nhanh nhẹn lội phăng sang bên kia bờ giúp tôi cột dây tời vào một gốc cây”, đã nấp ở mé ngoài để che chở cho Lãm vì “Anh bị thương thì xe cũng mất, anh cứ nấp đó!”, đã bình tĩnh, rành rọt chỉ đường cho Lãm và khi bị thương vẫn tươi tỉnh, xinh đẹp. Nhận được lệnh xuất kích, từ chính ủy Kinh đến những người lính thuộc Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 5 (tiểu thuyết Dấu chân người lính) đều náo nức xen lẫn hồi hộp. Họ mang súng và một số cơ đạn, dây lưng to thắt rất chặt, mặt nghiêm trang, chuyện trò ít đi, ai nấy đều nghĩ đến cuộc chiến đấu mở màn sắp tới với quyết tâm “làm sao cho đơn vị mình đánh thắng trận đầu, nhất thiết phải đánh thắng giòn giã trận đầu” Là con người của chủ nghĩa anh hùng, của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, nhân vật trong các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu trước 1975 đã kết tinh được phẩm chất của con người Việt Nam, tiêu biểu cho vẻ đẹp cộng đồng. Trong tiểu thuyết Cửa sông, người đọc cảm phục Bân có tình đồng chí gắn bó, keo sơn - anh thầm hứa với lòng mình, nhất định sẽ trả thù cho Ái, sẽ sống xứng đáng với sự hi sinh của Ái; thương mến sự lạc quan, vui tươi của Tốt - cô hát nhiều, cười nhiều trước hôm đi dân công mở đường đợt sáu tháng tận miền tây khu Bốn. Chính Thùy cũng đã từng nghĩ: “mỗi tấc đất làng Kiều, mỗi 12 con người quen biết mà mình từng chung sống, từng dạy dỗ con cái họ đều có một cuộc đời gắn liền với lịch sử đất nước đầy thử thách, mỗi người đều mang trong lòng bao điều tốt đẹp mà mình có thể học hỏi, có thể khám phá suốt đời”. Nguyệt (trong Mảnh trăng cuối rừng), như mọi cô gái Việt Nam khác, có một tình yêu thủy chung, một niềm tin mãnh liệt. Sống giữa sự tàn phá của chiến tranh, bao năm cô vẫn chờ đợi người con trai chưa hề gặp mặt, chưa hứa hẹn một điều gì, bởi vì trong lòng cô “cái sợi chỉ xanh nhỏ bé và óng ánh, qua thời gian và bom đạn vẫn không phai nhạt, không hề đứt”. Chỉ là câu nói đùa nhưng người đọc thấy được cách Nguyệt hành xử rất phù hợp với truyền thống đạo lí của dân tộc, sống có trước có sau, trọn vẹn nghĩa tình: “Anh đã cho em đi nhờ xe, lúc khó khăn lại bỏ anh ư”. Để thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người của thời đại cũng như của cá nhân mình, trong các tác phẩm thời kì này, Nguyễn Minh Châu thường sử dụng bút pháp lí tưởng hóa, lãng mạn hóa. Các nhân vật Kinh, Lữ, Khuê, Cận, Lượng v.v... ( Dấu chân người lính) đều là những viên ngọc, sáng đẹp, không có tì vết. Khó có thể tìm thấy một khiếm khuyết trong phẩm chất của họ. Đúng như nhà phê bình N.I.Niculin đã từng nhận xét về Nguyễn Minh Châu và sáng tác của ông, đại ý: niềm tin vào tính bất khả chiến thắng của cái đẹp, cái thiện được khúc xạ ở chỗ Nguyễn Minh Châu đã tắm rửa sạch sẽ các nhân vật của mình, họ giống như được bao bọc trong một bầu không khí vô trùng. Có những lúc, Lãm (Mảnh trăng cuối rừng) cảm thấy xe mình chạy trên lớp sương bồng bềnh, trong nền không gian có mảnh trăng khuyết phía cuối trời sáng trong như mảnh bạc và bên cạnh là người con gái có mái tóc dày, thơm ngát, có khuôn mặt tươi mát, xinh đẹp. Lãm đã tưởng như mình trông thấy ảo ảnh và trong lòng anh từng dấy lên một tình yêu mê muội xen lẫn cảm phục người bạn đường. Mặt khác, nhiều trang văn của Nguyễn Minh Châu đều được viết bằng giọng điệu ngợi ca với chất trữ tình ấm áp. Giọng điệu này, theo nhà nghiên cứu Tôn Phương Lan, được quy định do cảm hứng của tác giả, một phần là từ nỗi xúc động thực sự trước những chiến công anh hùng của quân và dân ta, một phần là do tác giả cổ vũ động viên nhân dân tham gia chiến đấu. Đoạn miêu tả tâm trạng 13 của Thùy (Cửa sông) khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng được nhà văn viết bằng sự hứng khởi, say mê: “Từ bên này ngưỡng cửa của cuộc đời, Thùy thấy mọi vật đều đổi khác. Ba gian nhà trở nên ấm áp hơn, một mối tình đồng chí trong trẻo, chất phác tỏa lên từ khuôn mặt các đồng chí ngồi chung quanh. Thùy cảm thấy mình đang được bao bọc trong mối tình lớn ấy”. Giữa cảnh những ngôi nhà bị bom tàn phá, những hàng dừa mọc sát mép nước chỉ còn thân cây cháy sém, những người lính của Nguyễn Minh Châu không giấu nổi sự ngỡ ngàng trước cảnh “xung quanh bản hoa dong riềng vẫn nở đó, vẫn trông thấy những cô gái Lào vùng bãi sông đẹp yêu kiều mặc váy xanh màu lá mạ đi vác nước… từng đàn voi nhà bước đủng đỉnh trong đám tàn tranh” và “náo nức hẳn lên trong niềm mong đợi” khi nghe tin có đoàn văn công phục vụ mặt trận sắp tới. Nhưng Nguyễn Minh Châu ngay từ thời kì này đã không nhìn con người đơn giản, sơ lược. Nhà văn cũng đã chạm vào được nỗi trắc ẩn của con người, đã khơi được phần chìm khuất của đời sống, “ngay giữa những trang viết đầy hào sảng của Cửa sông, Dấu chân người lính, người đọc đã mong manh cảm nhận dường như nỗi đau vẫn song hành tồn tại cùng niềm vinh quang, ngay dưới chân tượng đài chiến thắng, và những nỗi éo le, ngang trái trong đời tư, sự vênh lệch giữa số phận cá nhân với số phận cộng đồng là điều có thực, là điều không tránh khỏi”. Trong Dấu chân người lính, bi kịch mà ông Phang và Xiêm, con dâu ông phải trải qua cũng là nỗi đau của bao nhiêu người Việt Nam khi có người thân trong gia đình như con, như chồng cầm súng bắn vào đồng bào, phản bội quê hương. Thái độ có thể có trong tương lai của đứa con đi học ở nước ngoài cũng làm cho chính ủy Kinh trăn trở. Ngày mai, đứa con đó trở về khi tiếng súng đã dứt, những người anh hùng hôm nay đã trở lại với đời thường, liệu nó có biết ơn, có nhớ đến sự hi sinh xương máu của những người lính, trong đó có cả Lữ, anh em của nó. Những nhánh rẽ trong mạch văn hào hùng đã tạo cho tác phẩm của Nguyễn Minh Châu trước 1975 ít nhiều sự ám ảnh với giọng suy tư, triết lí. 14 Nói tóm lại, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã dành gần hai thập kỉ để khám phá và ngợi ca vẻ đẹp lung linh, kì ảo của cuộc sống và tâm hồn con người trong chiến tranh với tâm niệm tất cả vì sự sống còn của dân tộc, của đất nước. 3.3. Quan niệm nghệ thuật về con người trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 Thời kì hậu chiến, Nguyễn Minh Châu đã có những tìm tòi và đổi mới sâu sắc trong quan niệm nghệ thuật về con người. Ông đã chú trọng khai thác nhiều khía cạnh khác nhau trong tính lưỡng diện, đa diện và luôn biến đổi của con người. Trong tiểu thuyết Miền cháy sáng tác năm 1977, hình ảnh người anh hùng trở về từ chiến tranh hiện lên đầy tâm trạng. Đó là sự khắc khổ, dằn vặt, bất an trước mảnh đất miền Trung xác xơ sau khói bom lửa đạn. Người anh hùng kiên cường trong chiến đấu thì cũng phải bản lĩnh để đối mặt với ngổn ngang đổ nát, với bộn bề lo toan để quê hương nhanh chóng được hồi sinh. Tiểu thuyết Lửa từ những ngôi nhà (1977) của Nguyễn Minh Châu là sự phát triển của nguồn cảm hứng đã được khơi từ Miền cháy, vẫn là bộ mặt khắc khổ của những người lính từng là anh hùng nơi chiến trường nhưng xa lạ với lo toan đời thường sau chiến tranh, sống bất an trong hòa bình. Phải đến với truyện ngắn Bức tranh (1987), sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Minh Châu mới được thể hiện trực tiếp, đầy đủ. Nhân vật người họa sĩ tự nhận thức “trong con người tôi đang sống lẫn lộn người tốt kẻ xấu, rồng phượng lẫn rắn rết, thiên thần và ác quỷ”. Con người trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 đã được đặt ra ngoài bầu không khí vô trùng vốn có, vừa đi vừa vấp ngã trước thế giới đa chiều đầy biến động. Con người phải đối diện với chính mình, với số phận của mình, với tư cách là một con người riêng lẻ, không nhân danh ai, không dựa vào ai. Hàng loạt những thể nghiệm sau Bức tranh như Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Chiếc thuyền ngoài xa, Cỏ lau, Phiên chợ Giát đã làm cho quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Minh Châu càng thêm vẹn đầy và sự biểu hiện quan niệm nghệ thuật đó càng thêm đa dạng, phong phú. 15 Điều cần phải khẳng định là con người trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 vẫn tiếp nối đạo lí truyền thống của dân tộc, vẫn nuôi dưỡng hoài bão xây dựng quê hương giàu đẹp nhưng đã biết bám rễ trên mảnh đất hiện thực. Lực (Cỏ lau) đã hi sinh thời trai trẻ, hi sinh tình cha con, vợ chồng, anh em cho cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Ngày trở về, em mất, vợ đã có một gia đình mới, người cha già phải sống nhờ cô con dâu tái giá, tuy đau đáu nỗi niềm, song anh hiểu “cuộc sống đã an bài… chẳng dễ thay đổi được hoàn cảnh”, anh lựa chọn cho mình tương lai của “một người lính già sống suốt đời cùng với một ông bố”, nơi có “những hình người đàn bà bằng đá đầy cô đơn”. Lại một lần nữa, Lực nhận về mình phần thiệt thòi nhưng người đọc cảm nhận rõ hơn vẻ đẹp giàu chất nhân văn của tâm hồn người Việt Nam. Trước khi ra đi vĩnh viễn, Hòa (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành) đã chia sẻ với người yêu về những dự định, những ước mơ của anh. Hòa từng “mơ tưởng sau này lớn lên sẽ chế tạo được một chiếc máy cày” để những ông già đầu bạc, những em bé không còn phải “giơ cao những chiếc cuốc rất nặng bổ xuống một cánh đồng đất rắn như gang”, để bàn tay mẹ không giống như một tấm da trâu sau mỗi vụ cày ải. Ra khỏi chiến tranh, Quỳ (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành) đã có mặt trên mặt trận kinh tế ở ngay tại mảnh đất mà người thân yêu và đồng đội của chị đã ngã xuống. Chị đã “cứu Ph ra khỏi sự lầm lạc, trả lại vị trí xứng đáng để người kỹ sư cơ khí phát huy năng lực sở trường”, “đã nhận ra được vai trò quan trọng của tài năng, của tri thức trong sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới”. Đọc các tác phẩm Nguyễn Minh Châu viết trong thời kì đổi mới, độc giả dễ dàng nhận thấy con người hiện lên qua mỗi trang văn của ông không phải là con người nhất phiến mà là con người đa chiều và phức tạp. Chứng kiến người đàn bà làng chài (Chiếc thuyền ngoài xa) bị người chồng vũ phu đánh đập, nghệ sĩ Phùng tưởng chị là người “cam chịu, đầy nhẫn nhục” bởi “không hề một tiếng kêu, không chống trả cũng không tìm cách chạy trốn”. Nhưng khi trò chuyện trực tiếp với chị, Phùng mới nhận ra sau vẻ lam lũ, khổ sở là một người phụ nữ sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. Chị khước từ sự giúp đỡ của nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu: “Các chú đừng bắt tôi bỏ nó” vì “các chú không phải là đàn bà, 16 chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông”. Chị ý thức được thiên chức của người phụ nữ: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn” và hứng chịu mọi nhọc nhằn, khổ đau để các con được hạnh phúc: “Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con, không thể sống cho mình như trên đất được”. Người phụ nữ ấy còn là người giàu lòng vị tha. Chị thấu hiểu nguyên nhân vì sao chồng lại trở nên như thế. Chị hiểu được trước đây chồng vốn là anh con trai cục tính nhưng hiền lành, cũng nghĩ cho vợ con nhưng rồi cuộc sống mưu sinh khổ nhọc làm cho anh ta tha hóa. Điều đặc biệt ở người đàn bà là chị vẫn giữ được trong tâm hồn mình ngọn lửa của hi vọng, của niềm tin. Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi: “vui nhất là lúc ngồi nhìn con tôi chúng nó được ăn no”, “ trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”. Hòa (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành) là một trung đoàn trưởng tài khiến người lính ở hàng ngũ bên kia cũng phải ngưỡng mộ. Nhưng trong sinh hoạt hàng ngày, Hoà cũng có những thói nọ tật kia như những con người bình thường khác. Anh mừng rỡ, hí hửng khi được thăng cấp; chăn một đàn gà riêng, đánh một cái quần xà lỏn đi phát rẫy; yêu người này, nói xấu sau lưng người kia; có hai bàn tay lúc nào cũng dấp dính mồ hôi… Hòa vừa là một thánh nhân nhưng cũng lại là con người phàm tục với ham hố, nhược điểm. Nhân vật Hòa là một hình mẫu hoàn toàn mới khác hẳn với những con người trong tiểu thuyết, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu trước 1975. Nguyễn Minh Châu cũng chú ý khám phá con người ở góc độ đời sống riêng tư của từng cá nhân. Thai (Cỏ lau) vừa tham gia công tác xã hội vừa chịu tù đày, một tay chôn cất em chồng và chăm sóc phụng dưỡng bố chồng. Chị có một phẩm chất đặc biệt là suốt đời chỉ có thể yêu được một người. Số phận đã đẩy chị vào hoàn cảnh trớ trêu, phải lựa chọn giữa hai người đàn ông cũng rất đặc biệt, người thì hai mươi bốn năm nay không yêu một ai, người thì khổ sở, nhục nhã vì không được vợ yêu mà lại vẫn yêu vợ, quý vợ hơn bất cứ ai. Lão Khúng (Phiên chợ Giát) có cuộc đời vô cùng khổ cực, nhọc nhằn. Lão phải 17 giành từng tấc đất với cỏ lau và đá hộc để nuôi lớn cả bầy con cứ “tự nhiên” ra đời. Con người lão “hữu danh mà vô thực”, “trong bóng đêm đối mặt với sự thật của đời mình, con người lão càng trở nên lầm lũi”. Số kiếp của lão có lẽ cũng quẩn quanh, cổ xưa như số kiếp của con bò Khoang. Lão đã giải phóng cho nó mà nó vẫn tìm về với lão. Bởi quan niệm nghệ thuật về con người thay đổi nên tất yếu giọng điệu trong những trang viết thời kì sau 1975 của Nguyễn Minh Châu không còn hào sảng, say mê, bay bổng. Giọng văn của ông trầm tĩnh hơn, xen lẫn chút chiêm nghiệm và suy ngẫm. Các nhân vật đầy suy tư, trăn trở khi nói về mình và mọi người. Dự một cuộc gặp gỡ sau hai mươi năm giữa hai mẹ con, đáng lẽ vui mừng cảm động thì lại giống như một phiên tòa đại hình, nhân vật trong truyện ngắn Mùa trái cóc ở miền Nam cảm thấy “lòng mình bị tổn thương nặng nề và hình như cả con người tôi tự nhiên bị ngập chìm trong lo âu, một nỗi lo âu sao mà lớn lao và đầy khắc khoải về con người” và thấp thoáng trước mặt anh là người mẹ chỉ có một mình vì “con người có những lúc rất cần cô độc, cũng là để đi trốn cái thế giới loài người đầy nhiễu sự và cũng để sống hết với con người mình”. Có thể nói màu sắc triết lí thấm đẫm trong nhiều truyện ngắn viết sau 1975 của Nguyễn Minh Châu. Bên cạnh đó, vì nhìn thấu những chấn động trong đời sống và tâm lí của con người, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng những dạng tình huống nhận thức thể hiện sự tự nhận thức của cá nhân con người về bản thân và xã hội. Nhĩ (Bến quê) từng đi không sót một xó xỉnh nào trên trái đất nhưng đến lúc ốm liệt giường mới phát hiện ra “một chân trời gần gũi mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến - cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa sổ nhà mình” và mơ ước được đặt chân lên bờ bên kia dù chỉ giây lát. Sự tự nhận thức về sai lầm của mình, về khả năng hữu hạn của bản thân đã làm Nhĩ ân hận, đau đớn. Anh đã không thể làm được gì để bù lấp nổi sự trống vắng, thiếu hụt của đời người vì đã đi con đường vòng chùng chình. Nhờ sự tự nhận thức: “già rồi mà vẫn chơi trồng bỏi, chắc anh đang vừa cười tôi lại vừa chửi tôi như thế”, nhà văn T (Sắm vai) đã từ bỏ lối sống giả tạo, làm đẹp lòng người khác mà đánh mất đi bản thân mình. Anh không phải là một thứ “tiện nghi”, “đồ đạc” của vợ mà là 18 một nhà văn muốn đi đến tận cùng của sự sáng tạo. Đặt ra những tình huống này, Nguyễn Minh Châu “đã tạo nên những cái cớ để trở đi trở lại, lật xới những vấn đề vốn vẫn thao thức trong ông”. Phải chăng đó là niềm băn khoăn về thước đo giá trị con người trong xã hội khi mà sự tự nhận thức đã nâng con người lên tầm cao mới, hiểu mình và đủ bản lĩnh để là mình. Như vậy, có thể nói, tiểu thuyết và đặc biệt là truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu viết sau 1975 đã có sự thay đổi mạnh mẽ về quan niệm nghệ thuật về con người, khẳng định những thành tựu nghệ thuật đặc sắc được hình thành từ sự dồn nén những trăn trở của nhà văn và những đóng góp của ông trong công cuộc đổi mới văn học nước nhà. Tìm hiểu sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước và sau 1975, chúng ta thấy quan niệm nghệ thuật về con người đã chi phối sự nghiệp sáng tác của mỗi tác giả nói chung và của nhà văn Nguyễn Minh Châu nói riêng. Sự biến đổi trong quan niệm nghệ thuật về con người là trung tâm mọi biến đổi của nền văn học, là tiêu chí để đánh giá sự đổi mới của một cây bút hay của một thời kì văn học. 19 II. Sự vận động quan điểm nghệ thuật về con người của Nguyễn Minh Châu qua Mảnh trăng cuối rừng và Chiếc thuyền ngoài xa 1. Sự vận động quan điểm nghệ thuật về con người của Nguyễn Minh Châu qua Mảnh trăng cuối rừng và Chiếc thuyền ngoài xa từ góc nhìn kiểu loại nhân vật Đối với tác phẩm tự sự, cốt truyện có thể khuyết thiếu theo dạng truyện không có cốt truyện nhưng nhân vật là yếu tố then chốt không thể bỏ qua. Đúng như Tô Hoài nói "Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác". Nhân vật có vai trò không thể phủ nhận với các yếu tố nghệ thuật khác của tác phẩm tự sự, đặc biệt nó có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người. Bởi lẽ, quan niệm nghệ thuật về con người là cách tác giả phản ánh, cắt nghĩa, lí giải con người trong cuộc sống vào trong tác phẩm văn học. Hình ảnh con người đó không thể tự dưng hiện diện mà được cụ thể hóa trong các hình tượng nhân vật. Dù nhân vật là người, vật hay đồ vật đều là những hóa thân và phản quang của chính hình ảnh con người. Vì lẽ đó, làm rõ quan niệm nghệ thuật về con người bao giờ cũng phải dựa vào nhân vật và xoay quanh nhân vật. Từ góc nhìn kiểu loại nhân vật, có rất nhiều cách phân chia. Có thể dựa trên đặc điểm tính cách, số phận, mối quan hệ với các nhân vật khác, vai trò đối với tác phẩm,… Ở mỗi cách phân chia, nhân vật lại được gọi tên khác nhau. Theo kiểu phân chia này, một nhân vật có thể thuộc nhiều kiểu loại cũng như nhiều nhân vật có thể cùng thuộc một kiểu loại. Giữa các tác phẩm khác nhau của các tác giả khác nhau, đôi khi cũng có sự trùng lặp về kiểu nhân vật bởi họ có những điểm tương đồng về quan niệm nghệ thuật về con người bị chi phối bởi các yếu tố thời đại. Sự gặp nhau giữa các quan niệm nghệ thuật về con người đã mang đến tính điển hình của thời đại và tính nhân bản, nhân văn của văn học. Với Nguyễn Minh Châu, từ giai đoạn 1945 trở về sau, do sự thay đổi của hoàn cảnh, quan niệm nghệ thuật về con người từ góc nhìn kiểu nhân vật có sự vận động rõ nét. Mảnh trăng cuối rừng và Chiếc thuyền ngoài xa đều xây dựng 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan