Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sự tiếp nối cảm hứng lãng mạn anh hùng trong văn xuôi nghệ thuật của nguyên ngọc...

Tài liệu Sự tiếp nối cảm hứng lãng mạn anh hùng trong văn xuôi nghệ thuật của nguyên ngọc sau 1975

.DOCX
38
87
116

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA NGỮ VĂN SỰ TIẾP NỐI CẢM HỨNG LÃNG MẠN ANH HÙNG TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT CỦA NGUYÊN NGỌC SAU 1975 TIỂU LUẬN GIỮA KỲ Phân môn : Văn học Việt Nam từ 1945 đến nay SV thực hiện:Trần Khoa Nguyên - K39.601.082 Tưởng Anh Thư - K39.601.126 Lê Thị Diễm My - K39.601.073 Ung Thị Hải Vân - K39.601.156 Lê Thị Hà Giang - K39.601.024 1 GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN TS. Bạch Văn Hợp Tháng 11 năm 2016 2 TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA NGỮ VĂN SỰ TIẾP NỐI CẢM HỨNG LÃNG MẠN ANH HÙNG TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT CỦA NGUYÊN NGỌC SAU 1975 TIỂU LUẬN GIỮA KỲ Phân môn : Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 SV thực hiện :Trần Khoa Nguyên- K39.601.082 Tưởng Anh Thư - K39.601.126 Lê Thị Diễm My - K39.601.073 Ung Thị Hải Vân - K39.601.156 3 Lê Thị Hà Giang - K39.601.024 GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN TS. Bạch Văn Hợp Tháng 3 năm 2016 4 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤẤN ĐỀỀ CHUNG.................................................................................6 1.1. Khái quát văn học Việt Nam sau 1975..............................................................................6 1.1.1. Bốối cảnh lịch sử –xã hội và yêu cầầu đ ổi mới văn h ọc ................................................6 1.1.2. Những đặc điểm cơ bản của quá trình đ ổi mới văn h ọc .........................................6 1.2. Cảm hứng lãng mạn anh hùng trong văn h ọc Cách m ạng Việt Nam ...............................8 1.2.1. Cảm hứng lãng mạn anh hùng trong văn học Vi ệt Nam tr ước 1975 .......................8 1.2.2. Cảm hứng lãng mạn anh hùng trong văn xuối ngh ệ thu ật Nguyên Ng ọc ..............11 CHƯƠNG 2: SỰ TIỀẤP NỐẤI NHẤẤT QUÁN TRONG CẢM HỨNG LÃNG MẠN ANH TRONG VĂN XUỐI NGHỆ THUẬT CỦA NGUYỀN NGỌC SAU 1975...........................................................................16 2.1. Sự nhấất quán trong đềề tài, chủ đềề..................................................................................16 2.1.1. Đêầ tài........................................................................................................................16 2.1.2. Chủ đềề.....................................................................................................................17 2.2. Hình tượng người anh hùng...........................................................................................18 2.2.1. Niêầm tn bầốt diệt vào chiêốn thăống c ủa dần t ộc .......................................................19 2.2.2. Sự hy sinh thầầm lặng trong chiêốn tranh...................................................................20 2.2.3. Kiên cường vượt lên sốố phận trong thời bình.........................................................21 2.3. Thái độ, tnh cảm của nhà văn đốấi với ng ười anh hùng .................................................22 2.3.1. Ca ngợi, trần trọng những phẩm chầốt cao đ ẹp của ng ười anh hùng .....................22 2.3.2. Ngậm ngùi, trăn trở trước sốố phận của người anh hùng trong th ời bình .............23 CHƯƠNG 3: BÚT PHÁP THỂ HIỆN CẢM HỨNG LÃNG MẠN ANH HÙNG TRONG VĂN XUỐI NGH Ệ THUẬT CỦA NGUYỀN NGỌC SAU 1975...................................................................................26 3.1. Điêm nhìn trấền thuật......................................................................................................26 3.2. Nghệ thuật xấy dựng nhấn vật......................................................................................28 3.3. Giọng điệu, ngốn ngữ.....................................................................................................31 3.4. Kềất cấấu lốềng ghép, đan xen.............................................................................................33 KỀẤT LUẬN...................................................................................................................... 37 TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................................39 5 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Khái quát văn học Việt Nam sau 1975 1.1.1. Bối cảnh lịch sử –xã hội và yêu cầu đổi mới văn học Với chiến thắng mùa xuân năm 1975, lịch sử dân tộc bước sang một trang mới, một kỷ nguyên hòa bình, thống nhất, độc lập tự do xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, đây cũng là một thời kì vô cùng khó khăn với nhu cầu cấp thiết là khôi phục và phát triển đất nước. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã chỉ rõ: Đổi mới là “nhu cầu bức thiết”, là“vấn đề có ý nghĩa sống còn” của toàn dân tộc. Trên đà đổi mới toàn diện và hội nhập thế giới thì các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa cũng dần thay đổi cho phù hợp, cụ thể như: nền kinh tế chuyển sang kinh tế thị trường, giao lưu văn hóa quốc tế được mở rộng, văn học dịch sách báo, các phương tiện truyền thông xuất hiện phong phú,… Hòa mình vào không khí đổi mới sôi nổi của đất nước, nền văn học cũng có những chuyển biến nhất định. Đứng trước thực tại đó, văn học với chức năng phản ánh hiện thực cần phải đổi mới. Sự đổi mới trong văn học đã manh nha vào từ cuối những 1970 qua các cuộc trao đổi về chiến tranh, qua những tìm tòi và thể nghiệm cả trên hoạt động sáng tác và phê bình văn học. Có thể khẳng định đổi mới văn học lúc này là hoàn toàn phù hợp với quy luật khách quan. Nhu cầu đổi mới văn học đã thực sử trở thành đòi hỏi chung của cả giới sáng tác, lý luận lẫn công chúng. Trong quá trình đổi mới đó văn học cũng đặt ra cho mình hai nhiệm vụ cấp thiết và quan trọng hàng đầu là: yêu cầu đổi mới trong tư duy nghệ thuật và yêu cầu đổi mới theo sự chuyển biến ý thức văn học, trình độ thẩm mỹ trong tiếp nhận. 1.1.2. Nhữngđặc điểm cơ bản của quá trình đổi mới văn học Văn học gắn liền với những thăng trầm của lịch sử dân tộc, một lần lịch sử sang trang là lại một lần văn học khoác cho mình chiếc áo mới vơi những đường nét mới. Và chính những đường nét ấy sẽ khu biệt văn học giai đoạn này với văn học giai đoạn khác. Dưới đây, nhóm người viết sẽ trình bày khát quá những đặc điểm cơ bản của quá trình đổi mới văn học sau năm 1975: a) Văn học vận động theo hướng dân chủ hóa 6 Giai đoạn sau năm 1975, dân chủ hóa trở thành xu thế bao trùm văn học. Nó biểu hiện ở nhiều bình diện của đời sống văn học. Ở bình điện ý thức nghệ thuật, dân chủ hóa thể hiện trong quan niệm về vai trò, vị trí và chức năng của văn học, nhà văn và chức năng của văn học. Xu hướng dân chủ hóa thể hiện ở bình diện sáng tác: hệ đề tài, kiểu kết cấu, môtíp chủ đề, cốt truyện, nhân vật, giọng điệu, ngôn ngữ và thể loại. Sự dân chủ hóa cũng đưa đến sự nở rộ phong cách, bút pháp và phát huy cá tính sáng tạo của từng nhà văn. b) Tinh thần nhân bản và sự thức tỉnh ý thức cá nhân Nhìn lại tiến trình văn học dân tộc có thể thấy ý thức cá nhân đã xuất hiện từ trong văn học trung đại mà rõ nét là thơ Nôm Hồ Xuân Hương và đến đầu thế kỉ XX nó đã bắt đầu rộ nở. Tuy nhiên, ở giai doạn 1945 – 1975, ý thức cá nhân có phần yếu thế bởi sự phát triển cao độ của ý thức cộng đồng, tập thể. Những năm sau đại thắng mùa xuân, con người quay về với cuộc sống đời thường với bao lo toan, vất vả và văn học lúc này cần thay đổi, cần quan tâm nhiều hơn đến cuộc sống thời bình. Sự thức tỉnh ý thức cá nhân đã mở ra một mảnh đất mới cho văn học với nhiều đề tài và chủ đề mới, làm thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người. Văn học hướng về con người toàn vẹn và quan niệm ấy đưa văn học tiến gần hơn tinh thần nhân bản. Họ không còn là những con người nhất phiến, đơn trị mà là những con người đa diện, đa trị, lưỡng phân; trong họ là sự tranh đấu giữa tranh tối, tranh sáng. Tuy nhiên, trên tinh thần nhân bản, văn học không hạ thấp, hoài nghi họ mà thay vào đó là sự thông cảm, thấu hiểu và nâng đỡ để con người luôn thức tỉnh và hướng tới cái thiện. c) Văn học phát triển phong phú và hướng đến tính hiện đại Có thể khẳng định rằng xu hướng dân chủ hóa và sự thức tỉnh ý thức cá nhân đã đưa đến sự phát triển phong phú và đa dạng văn học sau 1975. Sự đa đa dạng và phong phú về đề tài, thể loại, thủ pháp nghệ thuật, khuynh hướng sáng tác,…Tuy nhiên sự đa dạng và phong phú ấy lại gắn liền với tính phức tạp và không ổn định. Đây chính là biểu hiện tất yếu của giai đoạn giao thời văn học. Khi đất nước mở cửa đón những luồng gió mới về văn hóa, tư tưởng đi cùng với nhu cầu nội tại về đời sống văn hóa, tinh thần thì văn học cũng có sự gia tăng tính hiện đại. Chẳng hạn, văn xuôi có nhiều đổi mới về nghệ thuật tự sự như sự thay đổi từ điểm nhìn trần thuật đến nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ đối thoại và dòng ý thức, tính đa 7 thanh,… Còn trong thơ ca, thì sự cách tân mang đến nhiều trải nghiệm mới mẻ theo hướng đại chúng, thu hút sự quan tâm của cả giới sáng tác, phê bình lẫn đọc giả. Từ những đặc điểm điểm nêu trên đã dẫn đến sự chuyển biến trong quan điểm về con người trong văn học. Nếu văn học trước năm 1975 con người sử thi là đối tượng được tập trung phản ánh thì văn học giai đoạn này đào sâu khai thác con người cá nhân trong mối quan hệ đời thường. Văn chương cũng đi vào tìm tòi khám phá nhiều mặt đời sống, tính nhân loại được đề cao so với tính giai cấp của văn học thời chiến. Có thể nói văn học giai đoạn này mang tính nhân bản bởi không còn những nhân vật chỉ được khắc họa ở phẩm chất, tinh thần với đời sống ý thức mà họ còn là những con người biết sống, biết yêu, có những khát khao tự nhiên. Tóm lại: Văn học sau 1975 có vai trò quan trọng trong quá trình đổi mới văn học, có những bước đi vững chắc trên con đường hiện đại hóa dân tộc và hội nhập thế giới. Văn học giai đoạn này không chỉ hoàn tất tiến trình văn học thế kỉ XX mà còn mở ra một viễn cảnh mới cho văn học thế kỉ XIX. 1.2. Cảmhứng lãng mạn anh hùng trong văn học Cách mạng Việt Nam 1.2.1. Cảm hứng lãng mạn anh hùng trong văn học Việt Nam trước 1975 1.2.1.1. Cảm hứng lãng mạn Cảm hứng là những cảm xúc chủ đạo, chi phối sự tưởng tượng, sáng tạo, hoạt động có hiệu quả. Là nguồn gốc trực tiếp của sự sáng tạo nghệ thuật, nó là sự kết hợp hài hòa giữa tình cảm và tư tưởng trong một tác phẩm nghệ thuật, đóng vai trò quan trọng trong việc sáng tạo văn học của nhà văn. Chính cảm hứng là động lực thôi thúc nhà văn sáng tác để bày tỏ tư tưởng và tình cảm của mình về thế giới mà mình phản ánh trong tác phẩm. Lãng mạn là một trào lưu và tư tưởng nghệ thuật thịnh hành vào hồi thế kỷ XIX ở Pháp và một số nước châu Âu, đối lại với chủ nghĩa cổ điển, chủ trương vượt lên trên thực tế và dựa vào ý muốn chủ quan mà sáng tác. Khuynh hướng nghệ thuật tiến bộ tin tưởng vào cuộc sống tương lai tươi đẹp. Lãng mạn còn để chỉ tính cách hay mơ mộng, xa rời thực tế, giàu cảm xúc, tưởng tượng, hoặc yếu đuối, ủy mị... Về cảm hứng lãng mạn trong văn học ta có thể hiểu như sau: Là cảm hứng về tương lai tươi sáng trước thực tại nhiều gian khổ, hy sinh; đề cao sức mạnh tinh thần; thể hiện “cái tôi” dạt dào tình cảm cách mạng (yêu nước, yêu đảng, yêu lãnh tụ, đồng chí, đồng 8 bào, bạn bè quốc tế, tự hào dân tộc,…). Biểu hiện trong văn học niềm tin tưởng lạc quan vào chiến thắng và tương lai huy hoàng của dân tộc. Xây dựng những hình ảnh đẹp, bay bổng có khả năng nâng đỡ con người vượt qua mọi thử thách, hy sinh, gian khổ. Phản ánh cuộc sống trong quá trình phát triển cách mạng. Hướng vận động của cốt truyện, nhân vật chính diện, tư tưởng tác giả thường theo quy luật: từ bóng tối ra ánh sáng, từ gian khổ đến niềm vui, từ thất bại thành chiến thắng, từ hiện tại u ám đến tương lai xán lạn. 1.2.1.2. Hình tượng người anh hùng trong văn học cách mạng Hình tượng người anh hùng đã xuất hiện ở thời xa xưa, gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam. Ở thời cổ xưa nhân vật người anh hùng được quan niệm là người có tài năng phi thường, làm những việc lớn lao mang tầm vóc vũ trụ. Khi nói đến nhân vật người anh hùng người ta thường nói đến những đặc điểm phii thường, siêu phàm mà những người thường không có được. Hình tượng người anh hùng xuất hiện trong văn học dân gian, văn học trung đại và đến văn học Việt Nam hiện đại. Văn học Việt Nam hiện đại bắt nguồn từ thế kỉ XX và ngày càng phát triển. Ở giai đoạn văn học 1900 – 1930 được xem là thời kì mở đầu cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Trong những năm 1930 – 1945, văn học phát triển rực rỡ và ảnh hưởng nhiều từ phương Tây. Văn học giai đoạn này thiên về giày bày tâm tư, tình cảm cá nhân và phản ánh phần nào về xã hội đương thời. Sang những năm 1945 nền văn học Việt Nam đã phát triển theo một trào lưu mới. Một hiện tượng đặc thù trong văn học giai đoạn 1945 – 1975 là gắn liền và phản ánh đời sống chiến đấu của nhân dân Việt Nam qua hai lần kháng chiến. Đây là nền văn học song hành với cuộc đấu tranh hào hùng giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Đi vào tìm hiểu quan niệm và cách xây dựng nhân vật trong nền văn học hiện đại chúng ta sẽ nghiên cứu đến những vấn đề có liên quan trong nền văn học cách mạng 1945 – 1975. Không phải từ đầu thế kỉ XX đến những năm trước 1945 không có hình tượng nhân vật anh hùng nào được xây dựng trong văn học. Chính vì thế khi tìm hiểu người anh hùng trong giai đoạn này sẽ mang tính chất tập trung và cơ bản cho vấn đề nghiên cứu hình tượng người anh hùng trong văn học hiện đại. Tiêu biểu cho văn học đậm chất trữ tình, cảm hứng lãng mạn là tác phẩm Hòn đất của Anh Đức. Nhân vật trong tác phẩm là những con người hoàn hảo, mang những lí tưởng cao đẹp và trong sáng. Đóng góp đáng kể về những người anh hùng phải kể đển những tác phẩm như: Người mẹ cầm súng (Nguyễn Thi), Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng), 9 Sống như anh (Trần Đình Vân). Nhiều tác phẩm trực tiếp thể hiện hình ảnh nhân dân trong quá trình thức tỉnh cách mạng và cuộc đấu tranh đầy gian khổ nhưng anh hùng như: Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành), Quán rượu người câm (Nguyễn Quang Sáng), Một chuyện chép ở bệnh viện (Bùi Đức Ái). Ở giai đoạn này, nhân vật trung tâm của tác phẩm là người chiến sĩ. Đó là những con người đại diện cho khát vọng và ý chí chiến thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Tác giả đặt nhân vật trong hoàn cảnh gay go và thử thách trong chiến tranh để từ đó làm bật lên những vẻ đẹp và phẩm chất cao quý của họ. Họ là những con người yêu đất nước, giàu lí tưởng cách mạng. Cuộc đời của họ như hòa chung vào cuộc đời chung của vận mệnh dân tộc, suy nghĩ của họ luôn hướng đến cái chung, vì lợi ích của tập thể, của cả cộng đồng. Mặc dù sống trong hoàn cảnh sống đầy gian khổ nhưng tâm hồn của họ lại sống trong niềm vui ấm áp, đó không chỉ là tình đồng chí mà còn của cả đồng bào và trong ánh sáng rực rỡ của lí tưởng cách mạng, hi vọng những điều tốt đẹp trong tương lại. Từ những niềm vui và mơ ước ấy đã gợi lên những cảm hứng lãng mạn. Tóm lại: Cảm hứng anh hùng cách mạng đã khẳng định cái tôi tràn đầy cảm xúc, luôn hướng về lí tưởng chung. Cảm hứng lãng mạn trong văn học giai đoạn này chủ yếu thể hiện trong việc khẳng định phương diện lí tưởng của cuộc sống mới, vẻ đẹp của con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Cảm hứng lãng mạn anh hùng đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong sáng tác, nó nâng đỡ con người vượt lên thử thách trong máu lửa chiến đấu gian khổ để hướng đến chiến thắng. Cảm hứng lãng mạn đã bao trùm lên hàng loạt thơ, truyện, kí thời kì văn học 1945 – 1975. Đó là sự tổng hợp nhuần nhị giữa các yếu tố hiện thực và lãng mạn, trữ tình và anh hùng ca, cảm xúc và trí tuệ dân tộc, hiện đại, trở thành một trong những đặc điểm cơ bản của văn học thời kì này. 1.2.2. Cảm hứng lãng mạn anh hùng trong văn xuôi nghệ thuật Nguyên Ngọc 1.2.2.1.Đôi nét về nhà văn Nguyên Ngọc Tên thật là Nguyễn Văn Báu, sinh năm 1932, quê ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Bút danh thời kháng chiến chống Pháp là Nguyên Ngọc. Đến thời kháng chiến chống Mỹ ông đổi tên Nguyễn Trung Thành. 10 Ông là một nhà văn trưởng thành trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Năm 1950, ông gia nhập quân đội và hoạt động ở Tây Nguyên. Sau đó làm phóng viên rồi tập kết ra Bắc. Tác phẩm tiêu biểu giai đoạn này: Đất nước đứng lên (1954 – 1955), Mạch nước ngầm (1960), Rẻo cao (1961).. Ông cũng là nhà văn trưởng thành cả trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. Năm 1962 trở về Nam và ra tham gia chiến đấu, hoạt động văn nghệ. Tác phẩm tiêu biểu: Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc (1969), Đất Quảng (tiểu thuyết) Nói đến Nguyên Ngọc là ní đến Tây Nguyên, trong hai cuộc kháng chiến ông đều gắn bó với vùng đất Tây Nguyên. Ông là một nhà văn gần gũi, hiểu biết cuộc sống của nhân dân các dân tộc thiểu số. Trong đó, tác phẩm Đất nước đứng lên, Rừng xà nu được xem là một bản hùng ca đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn về cuộc chiến đấu của người dân Tây Nguyên. 1.2.2.2.Biểu hiện của cảm hứng lãng mạn anh hùng trong văn xuôi nghệ thuật Nguyên Ngọc a) Trước 1975 Văn học là sự phản ánh trung thực hình ảnh của đời sống xã hội. Trong các trang viết của mình, Nguyên Ngọc đều nhất quán với cảm hứng anh hùng. Những vấn đề được đề cập đến trong tác phẩm là những vấn đề trọng đại của dân tộc. Những người anh hùng trong sáng tác của ông luôn đậm tính chiến đấu, phản ánh kịp thời với những sự kiện lớn của dân tộc, của đất nước. Nguyên Ngọc luôn ý thức rõ, vai trò, sứ mệnh của nhà văn – chiến sĩ. Ông đã dùng văn chương của mình làm vũ khí chiến đấu. Tiêu biểu là tác phẩm Đất nước đứng lên, nó như một bản anh hùng ca về chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Tác phẩm còn thể hiện tinh thần quật cường, ý chí quyết chiến, quyết thắng, với lòng yêu chuộng tự do, độc lập của nhân dân Tây Nguyên dưới sự lãnh đạo của Đảng, của cách mạng họ đã đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược. Nhân vật người anh hùng trong văn học giai đọan này là những con người xuất hiện trong đời sống thường ngày. Họ là những con người nghèo khổ thuộc tầng lớp lao động trong xã hội. Trong hoàn cảnh ấy, họ đã vươn để trở thành người anh hùng cách mạng mang những lí tưởng cao đẹp. Nhân vật anh hùng Núp trong Đất nước đứng lên là một ví dụ điển hình nghệ thuật cho: người thực, việc thực, anh là người anh hùng miền núi Tây Nguyên. Ông đã xây 11 dựng nhân vật người anh hùng Núp chân thực và sinh động, vừa có giá trị nhận thức lại vừa có tác dụng giáo dục sâu sắc. Núp được trưởng thành từ trong tập thể nhân dân, yêu thương lũ làng, yêu thương gia đình và yêu tự do. Điều đó được thể hiện ở những chi tiết Núp không chịu đi xâu cho Pháp mà tìm cách đánh Pháp, đoàn kết dân làng Kông Hoa đấu tranh chống Pháp. Nhân vật Núp là người anh hùng đại diện cho quần chúng cách mạng, Núp mang đầy đủ phẩm chất người anh hùng lí tưởng đó là sự kết tinh từ phẩm chất ưu tú của dân tộc Bana. Trải qua cuộc chiến đấu chống Mỹ ác liệt. Cũng là mạch cảm hứng về người anh hùng kháng chiến, Nguyên Ngọc dùng vốn sống của mình đã viết về cuộc chiến một cách tường tận hơn, rõ ràng hơn. Đó là tác phẩm Rừng xà nu – tác phẩm là đỉnh cao cho cảm hứng lãng mạn anh hùng trong phong cách sáng tác của ông. Trong Rừng xà nu, Nguyên Ngọc đã đưa người đọc đến với cả một tập thể anh hùng. Không chỉ riêng nhân vật người anh hùng Tnú, đó còn là dân làng Xô – man. Họ tuy khác nhau về lứa tuổi, giới tính nhưng có chung một phẩm chất của người anh hùng. Họ là những con người gan dạ, dũng cảm, ý chí chiến đấu quyết liệt và sẳn sàng hi sinh và luôn hướng về cách mạng. Tóm lại: Nhân vật người anh hùng trong tác phẩm của Nguyên Ngọc là những con người giàu lòng yêu nước, mang một mốu căm thù giặc sâu sắc và họ sẳn sàng hy sinh vì mục tiêu chung. Nguyên Ngọc rất thành công khi viết về những người anh hùng trong chiến đấu. Bởi những anh hùng, những chiến công ấy đều là những sự kiện mà ông được chứng kiến, ông được sống, gắn bó, phát hiện, ngợi ca và khẳng định vẻ đẹp trong suốt của họ. Điều đó đã tạo nên một phong cách riêng của nhà văn là viết văn với cảm hứng lãng mạn anh hùng. b) Sau 1975 Khi nhiều cây bút đương thời chọn cho mình con đường mới thì Nguyên Ngọc vẫn vậy, vẫn săn tìm những tính cách anh hùng, những sự tích anh hùng trong hoài niệm và trong hiện thực. Có lẽ nhiều người cho rằng quyết định của nhà văn Đất Quảng là bất khả, khi yêu cầu bức thiết và xu thế bấy giờ là viết về thế sự viết về những góc khuất đời sống. Thế nhưng bằng chính năng lực và nhiệt huyết của mình nhà văn đã chứng minh cho chúng ta thấy rằng ông đã đúng khi suốt đời theo đuổi hình tượng anh hùng. Viết về đối tượng cũ nhưng giọng văn ngày càng hào hứng, sôi nổi song cũng không kém phần da diết, suy tư. Không bó hẹp phạm vi đề tài, giờ đây ông tìm đến những vùng núi cao hiểm 12 trở, về với biển cả xa xôi – những nơi đã và đang sinh ra những anh hùng trong chiến đấu, trong cuộc sống và trong tình yêu. Nếu trước chiến thắng 1975 lịch sử, ta bắt gặp hình ảnh hiên ngang, trung dũng của cụ Mết, Tnú, Mai,.. của anh hùng Núp,…những người dân Tây Nguyên kiên cường trong chiến đấu thì sau 1975 vẫn là những con người gan góc, kiên cường chỉ khác là họ về với cuộc sống đời thường với bộn bề lo lắng. Đến với những tác phẩm như Trở lại Mèo Vạc, Tháng ninh nông, Có một con đường mòn trên biển đông,…bạn đọc như được sống trong từng hơi thở của núi rừng hoang dại, của biển cả mênh mông bí hiểm. Người anh hùng trong văn xuôi nghệ thuật Nguyên Ngọc sau 1975 là những con người bình dị và điều đặc biệt là họ rất nổi bật. Những con người mang vẻ đẹp, sắc vóc của thiên nhiên nhưng những huyền thoại, những anh hùng sử thi. Tuy văn học giai đoạn này yêu phản ánh chân thực, “người thực, việc thực” song ta vẫn thấy trong tác phẩm của Nguyên Ngọc một luồng gió lãng mạn, lung linh hùng vĩ đến mức khó tin. Với tư cách một con người bước ra từ chiến trường ác liệt, Nguyên Ngọc vô cùng trân trọng và biết ơn những người anh hùng có tên tuổi hay vô danh đã mãi mãi nằm xuống để giành lại độc lập dân tộc. Tuy nhiên, đối với những con người may mắn sống sót để nhìn thấy thắng lợi vẻ vang của dân ta, những con người đã được trở về với gia đình, xứ sở thân yêu ông còn lại vô cùng ân hận, day dứt. Những người anh hùng năm xưa giờ đây đang chới với giữa cuộc sống, những khó khăn, bất hạnh đè nặng lên đôi vai họ. Ông chưa bao giờ thôi trăn trở về sự hy sinh và mất mát ấy. Những trang văn Nguyên Ngọc như một lời thúc giục, thức tỉnh những con người đang chìm đắm trong sung sướng, đủ đầy những con người đã quên đi cội nguồn hạnh phúc hôm nay họ đang thụ hưởng. 1.2.2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến cảm hứng lãng mạn anh hùng torng văn xuôi nghệ thuật Nguyên Ngọc Thứ nhất là tâm lí xã hội, ý thức nghệ thuật thời chiến: Giai đoạn này, cả nước đang đối mặt với cuộc chiến tranh. Yêu cầu đặt ra cho tất cả mọi người lúc này là trách nhiệm của công dân. Văn học giai đoạn này dưới sự lãnh đạo của Đảng, văn học ra đời phục vụ chính trị, công nông binh, phục vụ cách mạng làm nhiệm vụ hàng đầu. Văn học mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Văn học ca ngợi Tổ quốc, quần chúng cách mạng và những tấm gương vì nước hi sinh, kêu gọi tinh thần đoàn kết toàn dân, cỗ vũ cách mạng. 13 Thứ hai là hoàn cảnh gia đình và môi trường sống: Trong hoàn cảnh đất nước chìm trong khói lửa chiến tranh, việc kêu gọi từng người dân đứng lên đoàn kết đấu tranh. Người dân cần phải có ý thức trách nhiệm với đất nước và cảm hứng ngợi ca anh hùng là một điều tất yếu trong văn học cách mạng lúc bấy giờ. Do hoàn cảnh gia đình, Nguyên Ngọc phải di chuyển từ thành phố này đến thành phố khác, vì vậy ông có điều kiện tìm những những vùng đất khác nhau, nơi có những con người hi sinh, con người không ngại gian khổ. Thứ ba cá tính của nhà văn: Nhà văn được trưởng thành từ trong hai cuộc kháng chiến. Trong quá trình sống và chiến đấu trong lòng nhân dân, sống trong một thời đại hào hùng của dân tộc, tiếp xúc với những nguyên mẫu anh hùng thực tế đã cho ông vốn hiểu biết sâu sắc về người anh hùng của thời đại. Khi viết về Tây Nguyên ông dùng tình cảm triều mến, từ những người anh hùng đến những người dân bình thường ông đều dùng giọng văn rất triều mến, rất ngọt ngào, chan chứa tình cảm. TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 1. Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra con đường phát triển mới trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa – giáo dục. Với sự phát triển đó đã ảnh hưởng đến nền văn học nghệ thuật phát triển đánh dấu một bước ngoặc lớn và thu được nhiều thắng lợi. Như vậy văn học Việt Nam từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Giờ đây văn học nghệ thuật không còn được hiểu đơn giản chỉ như là công cụ của chính trị, là vũ khí của công tác tư tưởng, là phương tiện tuyên truyền, giáo dục quần chúng, mà “là bộ phận đặc biệt nhạy cảm của văn hóa, thể hiện khát vọng của con người về chân, thiện, mỹ, có tác dụng bồi dưỡng tình cảm, tâm hồn, nhân cách, bản lĩnh của các thế hệ công dân, xây dựng môi trường đạo đức trong xã hội…”.1 2. Giai đoạn trước 1975, với cảm hứng lãng mạn anh hùng, Nguyên Ngọc đã xây dựng hình tượng người anh hùng tiểu biểu cho sức mạnh đồng thời ca ngợi vẻ đẹp và tinh thần quả cảm. Họ là những người quên mình vì nước, hi sinh hạnh phúc riêng và đánh đổi tuổi thanh xuân của mình. Viết về người anh hùng với thái độ tôn vinh, trân trọng. Sau 1975, văn học đã có bước chuyển mình. Nguyên Ngọc vẫn nhất quán với cảm hứng lãng 1 Nghị quyết của Bộ Chính trị về văn học, nghệ thuật và văn hóa (Tuần báo Văn nghệ, số 51-52, ngày 19.12.1987). 14 mạn anh hùng. Cuộc sống phản ánh toàn diện về những góc khuất trong tâm hồn con người nên người anh hùng được nhìn một cách đa dạng, nhiều chiều hơn. Họ thay đổi ngay cả cách nhìn và cách nghĩ. Con người được nhìn ở góc độ cá nhân. 15 CHƯƠNG 2: SỰ TIẾP NỐI NHẤT QUÁN TRONG CẢM HỨNG LÃNG MẠN ANH TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT CỦA NGUYÊN NGỌC SAU 1975 2.1. Sự nhất quán trong đề tài, chủ đề 2.1.1.Đề tài Lịch sử văn học nước ta hàng ngàn năm qua chứng kiến bao người anh hùng từ Thánh Gióng, Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo,… trong văn học trung đại đến anh giải phóng quân, mẹ Bầm, mẹ Suốt,… trong văn học hiện đại, đặc biệt là dòng văn học cách mạng. Họ là những con người bình dị không kể già trẻ, lớn bé đều một lòng chiến đấu giành độc lập, tự do dân tộc. Có thể nói đề tài người anh hùng là đề tài được tập trung sáng tác nhiều nhất, ở đây các tác giả vừa ca ngợi, vừa khích lệ tinh thần chiến đấu cho toàn dân tộc. Lịch sử sang trang, nhu cầu đổi mới văn học trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết, văn học phải phản ánh chân thực và tỉnh táo đời sống xã hội lúc bấy giờ. Những con người sử thi trong thời chiến được thay thế bằng con người cá nhân, con người trong mối quan hệ với cộng đồng xã hội. Văn học đào sâu khai thác những mặt khuất lấp trong tâm hồn, những khó khăn, những tình cảnh éo le trong sinh hoạt thường nhật của những con người bước ra từ chiến tranh và những con người trong cuộc sống đời thường. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn vẫn tiếp tục song cảm hứng thế sự đời tư phát triển ngày càng mạnh mẽ và sôi nổi. Những vấn đề văn hóa, đạo đức, lối sống, những đấu tranh nội tại trong con người được thể hiện chân thực và sinh động. Riêng về người anh hùng tuy chiến tranh đã khép lại nhưng họ vẫn là đối tượng được nhiều nhà văn tập trung khai thác. Người anh hùng hiên ngang, anh dũng năm xưa quay trở về đúng nghĩa một con người bình thường nhất với yêu thương, hờn giận, tranh đấu, dục vọng,…và họ đã phải sống như thế nào trong một môi trường hoàn toàn mới là điều được các nhà văn quan tâm, trăn trở. Trong số những nhà văn ấy, phải kể đến nhà văn Nguyên Ngọc, người đã đào sâu, bám trụ và mãi kiếm tìm hình tượng người anh hùng cho riêng mình. Nói đến Nguyên Ngọc, ắt hẳn bạn đọc không thể quên hình ảnh Tnú hay anh hùng Núp – những con người tiêu biểu cho dòng văn học chống Mĩ cứu nước. Họ đại diện cho vùng đất, con người Tây 16 Nguyên hiên ngang, anh dũng chiến đấu, cố gắng bám giữ từng tất đất quê hương, xứ sở. Những hình ảnh ấy còn sống mãi trong lịch sử văn học, trong lòng công chúng. Tuy nhiên, sau đại thắng mùa xuân năm 1975, Nguyên Ngọc không chọn cho mình lối như nhiều cây bút lúc bấy giờ, nhà văn vẫn tiếp tục kiếm tìm hình tượng người anh hùng và cuộc sống, số phận của họ khitrở về từ chiến tranh. Như Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét: “Nếu nói Nguyễn Tuân suốt đời săn tìm cái đẹp, thì cũng có thể nói Nguyên Ngọc suốt đời săn tìm những tính cách anh hùng, những sự tích anh hùng”. [1] Nếu trước năm 1975, Nguyên Ngọc viết nhiều về đất Tây Nguyên thì sau năm 1975 ông còn viết về Hà Giang rồi cả vùng xuôi, vùng biển. Bởi ông tìm được phần nào hơi thở, vóc dáng người anh hùng ở con người vùng núi, vùng biển. Những con người sinh ra dưới sự đùm bọc của thiên nhiên hùng vĩ, hoang dại và cũng chất chứa nhiều điều bí mật. Đó là những cô gái như Chiện, Sáu Thùy, Thào Mỹ: “Một vẻ đẹp rất lạ, cuốn hút vô cùng, khi im lặng trầm uất như một ngọn núi Mèo cô độc, khi lẳng lơ như những bông hoa thuốc phiện quyến rũ, khi phấp phới như ngọn gió ào ạt trên đỉnh Săm Pun…” ( Trở lại Mèo Vạc) – mang vẻ đẹp hoang dã, rực rỡ, từng ngoan cường đánh giặc, rồi yêu thương đến mức cuồng nhiệt và cũng không kém phần liều lĩnh. Những người anh hùng của Nguyên Ngọc khá đặc biệt, họ ở vùng núi cao, nơi mọi người phải ngước nhìn cho rõ mặt: “hình như gần trời hơn, nên (…) to hơn, lóng lánh hơn và trong sạch hơn” (Kỷ niệm Tây Nguyên) bằng không thì họ là những con người ở vùng biển xa xôi, cống hiến lặng lẽ hoặc vĩnh viễn nằm lại dưới đáy biển sâu,… Vẫn tiếp nối hình tượng người anh hùng bằng ngòi bút lãng mạn song những con người sắt thép xưa kia đã được thay thế bởi những con người của cuộc sống đời thường, biết yêu thương và anh hùng trong tình yêu. Trước và sau chiến tranh nhà văn Đất Quảng vẫn viết về người anh hùng, nếu trước chiến tranh ông dành cho họ những lời ca ngợi thì sau chiến tranh ông lại dành nhiều sự cảm thông, trân trọng. 2.1.2.Chủ đề Mỗi nhà văn, nhà thơ có một phong cách riêng, ở đó họ thỏa sức vẫy vùng thể hiện cá tính sáng tạo và đam mê. Đề tài người anh hùng vốn là đề tài quen thuộc trong văn học. Vì vậy, để tạo nên diện mạo riêng cho mảng đề tài này người cầm bút nói chung và Nguyên Ngọc nói riêng đã có những hướng đi nhất định. 17 Nhìn lại chặng đường nghệ thuật của ông có thể thấy rằng trước giải phóng nhà văn Đất Quảng đi vào khai thác sự trưởng thành của người anh hùng trong chiến đấu. Làm sao quên được những người dân làng Xô – man, Bana trung dũng, kiên cường đánh Mĩ. Qua các tác phẩm: Đất nước đứng lên, Rừng xà nu, Đất quảng,… bạn đọc nhưđược theo dõi từng bước phát triển, ngày một trưởng thành của cả một cộng đồng, tập thể trong quá trình đánh Mĩ cứu nước.Nổi bật ở đó là sức mạnh tập thể, sức mạnh đại đoàn kết. Những con người của núi rừng chân chất, thật thà nhưng cũng vô cùng anh dũng như chính đại ngàn nơi họ sinh ra. Tiếp tục mạch cảm hứng về người anh hùng song Nguyên Ngọc, sau 1975 đã có sự chuyển hướng trong phương diện chủ đề. Giờ đây những tác phẩm của ông đi sâu vào từng ngóc ngách, len lõi vào từng góc tối cuộc sống của những người anh hùng bước ra từ chiến tranh. Đây là lúc những con người anh dũng trong chiến tranh được nhắc đến một cách toàn diện, chân thực. Những trang văn như một thước phim phóng sự quay lại cuộc đời hậu chiến của anh hùng như chị Hoa, chị Huyền, anh Toàn, anh Dương Xang,… Các mẹ, các anh, các chị có dịp nhớ và kể lại những ngày tháng gian khổ mà anh dũng. Những phút giây cái chết tưởng chừng cận kề trước mặt, thế nhưng khi mở mắt ra họ còn sống, còn tiếp tục chiến đấu. Lằn ranh giữa cái chết và sự sống sao mà mỏng manh! Thế nhưng với họ sự mất mát cá nhân không thể nào sánh bằng sự hy sinh của đồng đội, người thân, của lớp lớp người đi trước. 2.2. Hình tượng người anh hùng Trong quá trình tìm hiểu đề tài: Sự nối tiếp cảm hứng lãng mạn anh hùng trong văn xuôi nghệ thuật Nguyên Ngọc sau 1975 nhóm người viết như được lần theo bước chân nhiệt huyết, cháy bỏng của nhà văn Nguyên Ngọc trở về với núi rừng và biển cả để nghe những câu chuyện, những tâm sự của người anh hùng bước ra từ chiến tranh. Họ đã chiến đấu như thế nào? Tất cả những khó khăn, vất vả xen lẫn những tình cảm cao đẹp thời chiến sẽ được tái hiện lại qua lời kể nhân vật mà ở đây là “Người thực, việc thực”. 2.2.1. Niềm tin bất diệt vào chiến thắng của dân tộc Bất cứ tác phẩm nào viết về những cuộc kháng chiến giành độc lập điều sáng ngời niềm tin bất diệt của nhân dân vào thắng lợi của đất nước. Hầu hết sáng tác của Nguyên Ngọc cũng vậy, niềm tin ấy như tia nắng ấm áp soi chiếu và tiếp thêm sức mạnh cho người chiến sĩ. Trong hoàn cảnh thiếu thốn của chiến tranh nhưng quân dân ta vẫn cố 18 gắng xoay xở, tìm cách tiến về phía trước. Câu chuyện cảm đồng về Má Mười làm chúng tôi bâng khuâng mãi. Má được giao nhiệm vụ “Phải mua một cái ghe cỡ sáu tấn, một cái máy Yanma, xăng dầu, gạp, mắm muối, đủ đi ra tới miền Bắc. Phải có cả lưới để ngụy trang làm ghe đánh cá. Rồi phải mua mươi tấn gạo để dự trữ ở bến để chờ đón tàu vô…”(Có một con đường mòn trên biển Đông).Mười đồng thời đó thì được là bao mà má phải mua từng ấy thứ mà thứ nào cũng đắc cả. Nhưng má không ngại, bởi “dầu phải sống cùm kẹp trong ấm chiến lược của nó nhưng bụng dạ đều hướng về cách mạng”. Những con người bình thường nhưng với sức mạnh phi thường, họ mang trong mình sứ mệnh lớn lao và một niềm tin tuyệt đối vào cách mạng và chiến thắng không xa của toàn dân tộc. Dường như niềm tin tưởng, lạc quan đã bao trùm đời sống chiến đấu lúc bấy giờ. Già, trẻ lớn bé tất cả điều hân hoan, điều kiên định và anh dũng chiến đấu tới phút cuối cùng. Trong một lần trở lại Mèo Vạc – Đồng Văn, nhà văn Nguyên Ngọc có dịp tìm gặp người con gái năm xưa – Thào Mỹ, cô giao liên người H’mông. Nhiều thanh niên dân tộc như Thào Mỹ đã xung phong đánh giặc hoặc làm công việc giao liên, hậu cần. Tất cả đều căng tràn nhựa sống, đều kiên định một lòng với dân, với nước. Dường như những cực hình của giặc Mỹ chẳng là gì so với ý chí sắt đá của họ: “Hôm mới chiếm Lũng Phìn, bọn phỉ bắt được năm cô gái mậu dịch, đã giở trò tùng xẻo, cắt mũi, cắt tai, cắt vú, mổ bụng moi tim nấu ăn thật sự…còn tìm được cái chảo rán mỡ người” (Trở lại Mèo Vạc). Như đã nói, chính chiến tranh, chính bọn đế quốc thực dân man rợ đã biến nhân dân ta trở thành những con người quả cảm. Những người anh hùng thật sự chứ không phải nhân vật cổ tích, sử thi. Chiến tranh đã lùi xa nhưng chúng ta như vừa được sống lại những giây phút hào hùng, khốc liệt của cuộc kháng chiến. Những người anh hùng trong văn xuôi nghệ thuật Nguyên Ngọc là những con người có trái tim sắt thép trước những thủ đoạn tra tấn tàn ác nhưng đó lại là trái tim nồng ấm tình yêu quê hương, đất nước, đồng bào. 2.2.2. Sự hy sinh thầm lặng trong chiến tranh Hòa bình lập lại trên muôn nẻo quê hương nhưng những tổn thất và đau thương để lại là quá lớn. Chúng ta tự hào, hân hoan vì thắng lợi vẻ vang, vì độc lập tự do nhưng đằng sau nụ cười là giọt nước mắt, biết bao máu xương cha ông đã ngã xuống. Biết bao sự hy sinh trong thầm lặng để đánh đổi ngày vui hôm nay? 19 Trong tác phẩm Có một con đường mòn trên biển Đông, Nguyên Ngọc đưa đọc giả về với cuộc hành trình trên biển của Đoàn tàu Không số. Để đảm bảo bí mật và bảo toàn vũ khí chiến đấu nhiều cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh anh dũng, nằm lại giữa lòng biển bao la để bảo vệ an toàn cho đoàn tàu cũng như con đường huyền thoại. Có thể kể đến thủy thủ gan lì và trung dũng Nguyễn Văn Hiệu: “…Anh ở lại trên tàu, để đến khi tàu vòng ra xa chỗ chúng tôi nhất…lúc đó tự tay anh sẽ cho phát hỏa ngòi nổ tức thì, phá tan tàu, cùng hy sinh với tàu…”. Để giữ kín bí mật về con đường mòn trên biển Đông, con đường vận chuyển và tiếp viện của quân ta anh đã tự hủy đi đoàn tàu cùng sinh mạng của mình. Bên cạnh những chiến sĩ đã nằm xuống thì những cán bộ may mắn hơn như đồng chí Võ Bẩm, Nguyễn Chơn giờ đây đã là những cụ già tóc bạc may mắn sống sót đã có dịp kể lại những khó khăn mà họ phải vượt qua: “Đêm nào cũng vậy. Gạo hết. Cả củ chuối rừng cũng đã đào ăn hết. Hai con mắt sâu hoắm, đỏ ngầu. Vẫn chong chong sục tìm trên biển đen. Đang mùa biển động. Hầu như đêm nào cũng là bão, là tố… Một đêm. Hai đêm. Ba đêm… Mười đêm… Hai mươi đêm… Một tháng ròng…”. Những con người bình thường nhưng với tinh thần thép do cách mạng tôi rèn, họ đã vượt qua tất cả. Cái lạnh, cái đói và cả sự nguy hiểm rình rập từ biển cả không thể ảnh hưởng đến họ. Những anh hùng thầm lặng thời chiến trong văn xuôi nghệ thuật Nguyên Ngọc không sao kể hết. Mỗi người có một nhiệm vụ, một câu chuyện khác nhau. Chị Mùi phải giả câm giả điếc để không bị địch phát hiện. Rồi những người con gái như Thào Mỹ phải hy sinh tình yêu của mình cho nhiệm vụ chiến đấu. Nhiều người phụ nữ phải hy sinh bản thân như chị Huyền – chị đã cố trụ lại để giải vòng vây cho nhiều chị em khác không bị bọn Mỹ Chu Lai làm nhục. Có lẽ ám ảnh chúng tôi nhất đến giờ phút này là sự hy sinh quá lớn của chị Phan Thị Hoa – Người điên ở Bàu Bính trong Cát cháy. Đất nước thông nhất chị về với cuộc sống bình yên bên người mẹ già và một đứa con thơ. Ngày ấy còn trẻ chị làm hậu cần với nhiệm vụ tiếp tế thuốc men cho cách mạng. Thời đó, thuốc Tây quý lắm! Nó là món cần thiết nhất với bộ đội ta. Những lần bị địch càn quét, các chị bị đánh “sưng mặt, gãy tay… là chuyện thường. Có khi nó đánh chết”. Rồi có một lần không may mắn, chị Hoa bị địch dồn vào đường cùng, sợ chúng phát hiện chị đã tống hết số thuốc vào miệng. Như lời chị kể thì chị bị điên sau đó, điên mất ba tháng: “Mặt méo xệch đi. Tóc rụng sạch. Mặt sưng vù. Miệng vêu lên. Răng rụng…”. Tuy sau đó sức có yếu đi nhưng chị vẫn tiếp tục làm công việc hậu cần nguy hiểm cho đến hết chiến tranh. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất