TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN
SỰ TIẾP NỐI CẢM HỨNG LÃNG MẠN ANH
HÙNG TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT CỦA
NGUYÊN NGỌC SAU 1975
TIỂU LUẬN GIỮA KỲ
Phân môn : Văn học Việt Nam từ 1945 đến nay
SV thực hiện:Trần Khoa Nguyên - K39.601.082
Tưởng Anh Thư
- K39.601.126
Lê Thị Diễm My
- K39.601.073
Ung Thị Hải Vân
- K39.601.156
Lê Thị Hà Giang
- K39.601.024
1
GIẢNG VIÊN HƯỚNG
DẪN
TS. Bạch Văn Hợp
Tháng 11 năm 2016
2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN
SỰ TIẾP NỐI CẢM HỨNG LÃNG MẠN ANH
HÙNG TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT CỦA
NGUYÊN NGỌC SAU 1975
TIỂU LUẬN GIỮA KỲ
Phân môn : Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945
SV thực hiện :Trần Khoa Nguyên- K39.601.082
Tưởng Anh Thư
- K39.601.126
Lê Thị Diễm My
- K39.601.073
Ung Thị Hải Vân
- K39.601.156
3
Lê Thị Hà Giang
- K39.601.024
GIẢNG VIÊN HƯỚNG
DẪN
TS. Bạch Văn Hợp
Tháng 3 năm 2016
4
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤẤN ĐỀỀ CHUNG.................................................................................6
1.1. Khái quát văn học Việt Nam sau 1975..............................................................................6
1.1.1. Bốối cảnh lịch sử –xã hội và yêu cầầu đ ổi mới văn h ọc ................................................6
1.1.2. Những đặc điểm cơ bản của quá trình đ ổi mới văn h ọc .........................................6
1.2. Cảm hứng lãng mạn anh hùng trong văn h ọc Cách m ạng Việt Nam ...............................8
1.2.1. Cảm hứng lãng mạn anh hùng trong văn học Vi ệt Nam tr ước 1975 .......................8
1.2.2. Cảm hứng lãng mạn anh hùng trong văn xuối ngh ệ thu ật Nguyên Ng ọc ..............11
CHƯƠNG 2: SỰ TIỀẤP NỐẤI NHẤẤT QUÁN TRONG CẢM HỨNG LÃNG MẠN ANH TRONG VĂN XUỐI
NGHỆ THUẬT CỦA NGUYỀN NGỌC SAU 1975...........................................................................16
2.1. Sự nhấất quán trong đềề tài, chủ đềề..................................................................................16
2.1.1. Đêầ tài........................................................................................................................16
2.1.2. Chủ đềề.....................................................................................................................17
2.2. Hình tượng người anh hùng...........................................................................................18
2.2.1. Niêầm tn bầốt diệt vào chiêốn thăống c ủa dần t ộc .......................................................19
2.2.2. Sự hy sinh thầầm lặng trong chiêốn tranh...................................................................20
2.2.3. Kiên cường vượt lên sốố phận trong thời bình.........................................................21
2.3. Thái độ, tnh cảm của nhà văn đốấi với ng ười anh hùng .................................................22
2.3.1. Ca ngợi, trần trọng những phẩm chầốt cao đ ẹp của ng ười anh hùng .....................22
2.3.2. Ngậm ngùi, trăn trở trước sốố phận của người anh hùng trong th ời bình .............23
CHƯƠNG 3: BÚT PHÁP THỂ HIỆN CẢM HỨNG LÃNG MẠN ANH HÙNG TRONG VĂN XUỐI NGH Ệ
THUẬT CỦA NGUYỀN NGỌC SAU 1975...................................................................................26
3.1. Điêm nhìn trấền thuật......................................................................................................26
3.2. Nghệ thuật xấy dựng nhấn vật......................................................................................28
3.3. Giọng điệu, ngốn ngữ.....................................................................................................31
3.4. Kềất cấấu lốềng ghép, đan xen.............................................................................................33
KỀẤT LUẬN...................................................................................................................... 37
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................................39
5
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái quát văn học Việt Nam sau 1975
1.1.1. Bối cảnh lịch sử –xã hội và yêu cầu đổi mới văn học
Với chiến thắng mùa xuân năm 1975, lịch sử dân tộc bước sang một trang mới, một
kỷ nguyên hòa bình, thống nhất, độc lập tự do xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, đây cũng là
một thời kì vô cùng khó khăn với nhu cầu cấp thiết là khôi phục và phát triển đất nước.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã chỉ rõ: Đổi mới là “nhu cầu bức thiết”,
là“vấn đề có ý nghĩa sống còn” của toàn dân tộc. Trên đà đổi mới toàn diện và hội nhập
thế giới thì các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa cũng dần thay đổi cho phù hợp, cụ thể
như: nền kinh tế chuyển sang kinh tế thị trường, giao lưu văn hóa quốc tế được mở rộng,
văn học dịch sách báo, các phương tiện truyền thông xuất hiện phong phú,…
Hòa mình vào không khí đổi mới sôi nổi của đất nước, nền văn học cũng có những
chuyển biến nhất định. Đứng trước thực tại đó, văn học với chức năng phản ánh hiện thực
cần phải đổi mới. Sự đổi mới trong văn học đã manh nha vào từ cuối những 1970 qua các
cuộc trao đổi về chiến tranh, qua những tìm tòi và thể nghiệm cả trên hoạt động sáng tác
và phê bình văn học. Có thể khẳng định đổi mới văn học lúc này là hoàn toàn phù hợp với
quy luật khách quan. Nhu cầu đổi mới văn học đã thực sử trở thành đòi hỏi chung của cả
giới sáng tác, lý luận lẫn công chúng.
Trong quá trình đổi mới đó văn học cũng đặt ra cho mình hai nhiệm vụ cấp thiết và
quan trọng hàng đầu là: yêu cầu đổi mới trong tư duy nghệ thuật và yêu cầu đổi mới theo
sự chuyển biến ý thức văn học, trình độ thẩm mỹ trong tiếp nhận.
1.1.2. Nhữngđặc điểm cơ bản của quá trình đổi mới văn học
Văn học gắn liền với những thăng trầm của lịch sử dân tộc, một lần lịch sử sang trang
là lại một lần văn học khoác cho mình chiếc áo mới vơi những đường nét mới. Và chính
những đường nét ấy sẽ khu biệt văn học giai đoạn này với văn học giai đoạn khác. Dưới
đây, nhóm người viết sẽ trình bày khát quá những đặc điểm cơ bản của quá trình đổi mới
văn học sau năm 1975:
a) Văn học vận động theo hướng dân chủ hóa
6
Giai đoạn sau năm 1975, dân chủ hóa trở thành xu thế bao trùm văn học. Nó biểu hiện
ở nhiều bình diện của đời sống văn học. Ở bình điện ý thức nghệ thuật, dân chủ hóa thể
hiện trong quan niệm về vai trò, vị trí và chức năng của văn học, nhà văn và chức năng
của văn học. Xu hướng dân chủ hóa thể hiện ở bình diện sáng tác: hệ đề tài, kiểu kết cấu,
môtíp chủ đề, cốt truyện, nhân vật, giọng điệu, ngôn ngữ và thể loại. Sự dân chủ hóa cũng
đưa đến sự nở rộ phong cách, bút pháp và phát huy cá tính sáng tạo của từng nhà văn.
b) Tinh thần nhân bản và sự thức tỉnh ý thức cá nhân
Nhìn lại tiến trình văn học dân tộc có thể thấy ý thức cá nhân đã xuất hiện từ trong
văn học trung đại mà rõ nét là thơ Nôm Hồ Xuân Hương và đến đầu thế kỉ XX nó đã bắt
đầu rộ nở. Tuy nhiên, ở giai doạn 1945 – 1975, ý thức cá nhân có phần yếu thế bởi sự phát
triển cao độ của ý thức cộng đồng, tập thể. Những năm sau đại thắng mùa xuân, con
người quay về với cuộc sống đời thường với bao lo toan, vất vả và văn học lúc này cần
thay đổi, cần quan tâm nhiều hơn đến cuộc sống thời bình.
Sự thức tỉnh ý thức cá nhân đã mở ra một mảnh đất mới cho văn học với nhiều đề tài
và chủ đề mới, làm thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người. Văn học hướng về con
người toàn vẹn và quan niệm ấy đưa văn học tiến gần hơn tinh thần nhân bản. Họ không
còn là những con người nhất phiến, đơn trị mà là những con người đa diện, đa trị, lưỡng
phân; trong họ là sự tranh đấu giữa tranh tối, tranh sáng. Tuy nhiên, trên tinh thần nhân
bản, văn học không hạ thấp, hoài nghi họ mà thay vào đó là sự thông cảm, thấu hiểu và
nâng đỡ để con người luôn thức tỉnh và hướng tới cái thiện.
c) Văn học phát triển phong phú và hướng đến tính hiện đại
Có thể khẳng định rằng xu hướng dân chủ hóa và sự thức tỉnh ý thức cá nhân đã đưa
đến sự phát triển phong phú và đa dạng văn học sau 1975. Sự đa đa dạng và phong phú về
đề tài, thể loại, thủ pháp nghệ thuật, khuynh hướng sáng tác,…Tuy nhiên sự đa dạng và
phong phú ấy lại gắn liền với tính phức tạp và không ổn định. Đây chính là biểu hiện tất
yếu của giai đoạn giao thời văn học.
Khi đất nước mở cửa đón những luồng gió mới về văn hóa, tư tưởng đi cùng với nhu
cầu nội tại về đời sống văn hóa, tinh thần thì văn học cũng có sự gia tăng tính hiện đại.
Chẳng hạn, văn xuôi có nhiều đổi mới về nghệ thuật tự sự như sự thay đổi từ điểm nhìn
trần thuật đến nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ đối thoại và dòng ý thức, tính đa
7
thanh,… Còn trong thơ ca, thì sự cách tân mang đến nhiều trải nghiệm mới mẻ theo
hướng đại chúng, thu hút sự quan tâm của cả giới sáng tác, phê bình lẫn đọc giả.
Từ những đặc điểm điểm nêu trên đã dẫn đến sự chuyển biến trong quan điểm về con
người trong văn học. Nếu văn học trước năm 1975 con người sử thi là đối tượng được tập
trung phản ánh thì văn học giai đoạn này đào sâu khai thác con người cá nhân trong mối
quan hệ đời thường. Văn chương cũng đi vào tìm tòi khám phá nhiều mặt đời sống, tính
nhân loại được đề cao so với tính giai cấp của văn học thời chiến. Có thể nói văn học giai
đoạn này mang tính nhân bản bởi không còn những nhân vật chỉ được khắc họa ở phẩm
chất, tinh thần với đời sống ý thức mà họ còn là những con người biết sống, biết yêu, có
những khát khao tự nhiên.
Tóm lại: Văn học sau 1975 có vai trò quan trọng trong quá trình đổi mới văn học, có
những bước đi vững chắc trên con đường hiện đại hóa dân tộc và hội nhập thế giới. Văn
học giai đoạn này không chỉ hoàn tất tiến trình văn học thế kỉ XX mà còn mở ra một viễn
cảnh mới cho văn học thế kỉ XIX.
1.2. Cảmhứng lãng mạn anh hùng trong văn học Cách mạng Việt Nam
1.2.1. Cảm hứng lãng mạn anh hùng trong văn học Việt Nam trước 1975
1.2.1.1. Cảm hứng lãng mạn
Cảm hứng là những cảm xúc chủ đạo, chi phối sự tưởng tượng, sáng tạo, hoạt động
có hiệu quả. Là nguồn gốc trực tiếp của sự sáng tạo nghệ thuật, nó là sự kết hợp hài hòa
giữa tình cảm và tư tưởng trong một tác phẩm nghệ thuật, đóng vai trò quan trọng trong
việc sáng tạo văn học của nhà văn. Chính cảm hứng là động lực thôi thúc nhà văn sáng tác
để bày tỏ tư tưởng và tình cảm của mình về thế giới mà mình phản ánh trong tác phẩm.
Lãng mạn là một trào lưu và tư tưởng nghệ thuật thịnh hành vào hồi thế kỷ XIX ở
Pháp và một số nước châu Âu, đối lại với chủ nghĩa cổ điển, chủ trương vượt lên trên
thực tế và dựa vào ý muốn chủ quan mà sáng tác. Khuynh hướng nghệ thuật tiến bộ tin
tưởng vào cuộc sống tương lai tươi đẹp. Lãng mạn còn để chỉ tính cách hay mơ mộng, xa
rời thực tế, giàu cảm xúc, tưởng tượng, hoặc yếu đuối, ủy mị...
Về cảm hứng lãng mạn trong văn học ta có thể hiểu như sau: Là cảm hứng về tương
lai tươi sáng trước thực tại nhiều gian khổ, hy sinh; đề cao sức mạnh tinh thần; thể hiện
“cái tôi” dạt dào tình cảm cách mạng (yêu nước, yêu đảng, yêu lãnh tụ, đồng chí, đồng
8
bào, bạn bè quốc tế, tự hào dân tộc,…). Biểu hiện trong văn học niềm tin tưởng lạc quan
vào chiến thắng và tương lai huy hoàng của dân tộc. Xây dựng những hình ảnh đẹp, bay
bổng có khả năng nâng đỡ con người vượt qua mọi thử thách, hy sinh, gian khổ. Phản ánh
cuộc sống trong quá trình phát triển cách mạng. Hướng vận động của cốt truyện, nhân vật
chính diện, tư tưởng tác giả thường theo quy luật: từ bóng tối ra ánh sáng, từ gian khổ đến
niềm vui, từ thất bại thành chiến thắng, từ hiện tại u ám đến tương lai xán lạn.
1.2.1.2. Hình tượng người anh hùng trong văn học cách mạng
Hình tượng người anh hùng đã xuất hiện ở thời xa xưa, gắn liền với quá trình hình
thành và phát triển của dân tộc Việt Nam. Ở thời cổ xưa nhân vật người anh hùng được
quan niệm là người có tài năng phi thường, làm những việc lớn lao mang tầm vóc vũ trụ.
Khi nói đến nhân vật người anh hùng người ta thường nói đến những đặc điểm phii
thường, siêu phàm mà những người thường không có được. Hình tượng người anh hùng
xuất hiện trong văn học dân gian, văn học trung đại và đến văn học Việt Nam hiện đại.
Văn học Việt Nam hiện đại bắt nguồn từ thế kỉ XX và ngày càng phát triển. Ở giai
đoạn văn học 1900 – 1930 được xem là thời kì mở đầu cho nền văn học Việt Nam hiện
đại. Trong những năm 1930 – 1945, văn học phát triển rực rỡ và ảnh hưởng nhiều từ
phương Tây. Văn học giai đoạn này thiên về giày bày tâm tư, tình cảm cá nhân và phản
ánh phần nào về xã hội đương thời. Sang những năm 1945 nền văn học Việt Nam đã phát
triển theo một trào lưu mới. Một hiện tượng đặc thù trong văn học giai đoạn 1945 – 1975
là gắn liền và phản ánh đời sống chiến đấu của nhân dân Việt Nam qua hai lần kháng
chiến. Đây là nền văn học song hành với cuộc đấu tranh hào hùng giải phóng dân tộc, giải
phóng đất nước. Đi vào tìm hiểu quan niệm và cách xây dựng nhân vật trong nền văn học
hiện đại chúng ta sẽ nghiên cứu đến những vấn đề có liên quan trong nền văn học cách
mạng 1945 – 1975. Không phải từ đầu thế kỉ XX đến những năm trước 1945 không có
hình tượng nhân vật anh hùng nào được xây dựng trong văn học. Chính vì thế khi tìm
hiểu người anh hùng trong giai đoạn này sẽ mang tính chất tập trung và cơ bản cho vấn đề
nghiên cứu hình tượng người anh hùng trong văn học hiện đại.
Tiêu biểu cho văn học đậm chất trữ tình, cảm hứng lãng mạn là tác phẩm Hòn đất của
Anh Đức. Nhân vật trong tác phẩm là những con người hoàn hảo, mang những lí tưởng
cao đẹp và trong sáng. Đóng góp đáng kể về những người anh hùng phải kể đển những tác
phẩm như: Người mẹ cầm súng (Nguyễn Thi), Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng),
9
Sống như anh (Trần Đình Vân). Nhiều tác phẩm trực tiếp thể hiện hình ảnh nhân dân
trong quá trình thức tỉnh cách mạng và cuộc đấu tranh đầy gian khổ nhưng anh hùng như:
Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành), Quán rượu người câm (Nguyễn Quang Sáng), Một
chuyện chép ở bệnh viện (Bùi Đức Ái).
Ở giai đoạn này, nhân vật trung tâm của tác phẩm là người chiến sĩ. Đó là những con
người đại diện cho khát vọng và ý chí chiến thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Tác giả đặt nhân vật trong hoàn cảnh gay go và thử thách trong chiến tranh để từ đó làm
bật lên những vẻ đẹp và phẩm chất cao quý của họ. Họ là những con người yêu đất nước,
giàu lí tưởng cách mạng. Cuộc đời của họ như hòa chung vào cuộc đời chung của vận
mệnh dân tộc, suy nghĩ của họ luôn hướng đến cái chung, vì lợi ích của tập thể, của cả
cộng đồng. Mặc dù sống trong hoàn cảnh sống đầy gian khổ nhưng tâm hồn của họ lại
sống trong niềm vui ấm áp, đó không chỉ là tình đồng chí mà còn của cả đồng bào và
trong ánh sáng rực rỡ của lí tưởng cách mạng, hi vọng những điều tốt đẹp trong tương lại.
Từ những niềm vui và mơ ước ấy đã gợi lên những cảm hứng lãng mạn.
Tóm lại: Cảm hứng anh hùng cách mạng đã khẳng định cái tôi tràn đầy cảm xúc, luôn
hướng về lí tưởng chung. Cảm hứng lãng mạn trong văn học giai đoạn này chủ yếu thể
hiện trong việc khẳng định phương diện lí tưởng của cuộc sống mới, vẻ đẹp của con
người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tin tưởng vào tương lai tươi sáng
của dân tộc. Cảm hứng lãng mạn anh hùng đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong sáng tác,
nó nâng đỡ con người vượt lên thử thách trong máu lửa chiến đấu gian khổ để hướng đến
chiến thắng. Cảm hứng lãng mạn đã bao trùm lên hàng loạt thơ, truyện, kí thời kì văn học
1945 – 1975. Đó là sự tổng hợp nhuần nhị giữa các yếu tố hiện thực và lãng mạn, trữ tình
và anh hùng ca, cảm xúc và trí tuệ dân tộc, hiện đại, trở thành một trong những đặc điểm
cơ bản của văn học thời kì này.
1.2.2. Cảm hứng lãng mạn anh hùng trong văn xuôi nghệ thuật Nguyên Ngọc
1.2.2.1.Đôi nét về nhà văn Nguyên Ngọc
Tên thật là Nguyễn Văn Báu, sinh năm 1932, quê ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng
Nam. Bút danh thời kháng chiến chống Pháp là Nguyên Ngọc. Đến thời kháng chiến
chống Mỹ ông đổi tên Nguyễn Trung Thành.
10
Ông là một nhà văn trưởng thành trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Năm
1950, ông gia nhập quân đội và hoạt động ở Tây Nguyên. Sau đó làm phóng viên rồi tập
kết ra Bắc. Tác phẩm tiêu biểu giai đoạn này: Đất nước đứng lên (1954 – 1955), Mạch
nước ngầm (1960), Rẻo cao (1961)..
Ông cũng là nhà văn trưởng thành cả trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. Năm
1962 trở về Nam và ra tham gia chiến đấu, hoạt động văn nghệ. Tác phẩm tiêu biểu: Trên
quê hương những anh hùng Điện Ngọc (1969), Đất Quảng (tiểu thuyết)
Nói đến Nguyên Ngọc là ní đến Tây Nguyên, trong hai cuộc kháng chiến ông đều gắn
bó với vùng đất Tây Nguyên. Ông là một nhà văn gần gũi, hiểu biết cuộc sống của nhân
dân các dân tộc thiểu số. Trong đó, tác phẩm Đất nước đứng lên, Rừng xà nu được xem là
một bản hùng ca đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn về cuộc chiến đấu của người dân
Tây Nguyên.
1.2.2.2.Biểu hiện của cảm hứng lãng mạn anh hùng trong văn xuôi nghệ thuật
Nguyên Ngọc
a) Trước 1975
Văn học là sự phản ánh trung thực hình ảnh của đời sống xã hội. Trong các trang viết
của mình, Nguyên Ngọc đều nhất quán với cảm hứng anh hùng. Những vấn đề được đề
cập đến trong tác phẩm là những vấn đề trọng đại của dân tộc. Những người anh hùng
trong sáng tác của ông luôn đậm tính chiến đấu, phản ánh kịp thời với những sự kiện lớn
của dân tộc, của đất nước.
Nguyên Ngọc luôn ý thức rõ, vai trò, sứ mệnh của nhà văn – chiến sĩ. Ông đã dùng
văn chương của mình làm vũ khí chiến đấu. Tiêu biểu là tác phẩm Đất nước đứng lên, nó
như một bản anh hùng ca về chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Tác phẩm còn thể hiện tinh
thần quật cường, ý chí quyết chiến, quyết thắng, với lòng yêu chuộng tự do, độc lập của
nhân dân Tây Nguyên dưới sự lãnh đạo của Đảng, của cách mạng họ đã đứng lên chống
lại kẻ thù xâm lược. Nhân vật người anh hùng trong văn học giai đọan này là những con
người xuất hiện trong đời sống thường ngày. Họ là những con người nghèo khổ thuộc
tầng lớp lao động trong xã hội. Trong hoàn cảnh ấy, họ đã vươn để trở thành người anh
hùng cách mạng mang những lí tưởng cao đẹp.
Nhân vật anh hùng Núp trong Đất nước đứng lên là một ví dụ điển hình nghệ thuật
cho: người thực, việc thực, anh là người anh hùng miền núi Tây Nguyên. Ông đã xây
11
dựng nhân vật người anh hùng Núp chân thực và sinh động, vừa có giá trị nhận thức lại
vừa có tác dụng giáo dục sâu sắc. Núp được trưởng thành từ trong tập thể nhân dân, yêu
thương lũ làng, yêu thương gia đình và yêu tự do. Điều đó được thể hiện ở những chi tiết
Núp không chịu đi xâu cho Pháp mà tìm cách đánh Pháp, đoàn kết dân làng Kông Hoa
đấu tranh chống Pháp. Nhân vật Núp là người anh hùng đại diện cho quần chúng cách
mạng, Núp mang đầy đủ phẩm chất người anh hùng lí tưởng đó là sự kết tinh từ phẩm
chất ưu tú của dân tộc Bana.
Trải qua cuộc chiến đấu chống Mỹ ác liệt. Cũng là mạch cảm hứng về người anh
hùng kháng chiến, Nguyên Ngọc dùng vốn sống của mình đã viết về cuộc chiến một cách
tường tận hơn, rõ ràng hơn. Đó là tác phẩm Rừng xà nu – tác phẩm là đỉnh cao cho cảm
hứng lãng mạn anh hùng trong phong cách sáng tác của ông. Trong Rừng xà nu, Nguyên
Ngọc đã đưa người đọc đến với cả một tập thể anh hùng. Không chỉ riêng nhân vật người
anh hùng Tnú, đó còn là dân làng Xô – man. Họ tuy khác nhau về lứa tuổi, giới tính
nhưng có chung một phẩm chất của người anh hùng. Họ là những con người gan dạ, dũng
cảm, ý chí chiến đấu quyết liệt và sẳn sàng hi sinh và luôn hướng về cách mạng.
Tóm lại: Nhân vật người anh hùng trong tác phẩm của Nguyên Ngọc là những con
người giàu lòng yêu nước, mang một mốu căm thù giặc sâu sắc và họ sẳn sàng hy sinh vì
mục tiêu chung. Nguyên Ngọc rất thành công khi viết về những người anh hùng trong
chiến đấu. Bởi những anh hùng, những chiến công ấy đều là những sự kiện mà ông được
chứng kiến, ông được sống, gắn bó, phát hiện, ngợi ca và khẳng định vẻ đẹp trong suốt
của họ. Điều đó đã tạo nên một phong cách riêng của nhà văn là viết văn với cảm hứng
lãng mạn anh hùng.
b) Sau 1975
Khi nhiều cây bút đương thời chọn cho mình con đường mới thì Nguyên Ngọc vẫn
vậy, vẫn săn tìm những tính cách anh hùng, những sự tích anh hùng trong hoài niệm và
trong hiện thực. Có lẽ nhiều người cho rằng quyết định của nhà văn Đất Quảng là bất khả,
khi yêu cầu bức thiết và xu thế bấy giờ là viết về thế sự viết về những góc khuất đời sống.
Thế nhưng bằng chính năng lực và nhiệt huyết của mình nhà văn đã chứng minh cho
chúng ta thấy rằng ông đã đúng khi suốt đời theo đuổi hình tượng anh hùng. Viết về đối
tượng cũ nhưng giọng văn ngày càng hào hứng, sôi nổi song cũng không kém phần da
diết, suy tư. Không bó hẹp phạm vi đề tài, giờ đây ông tìm đến những vùng núi cao hiểm
12
trở, về với biển cả xa xôi – những nơi đã và đang sinh ra những anh hùng trong chiến đấu,
trong cuộc sống và trong tình yêu.
Nếu trước chiến thắng 1975 lịch sử, ta bắt gặp hình ảnh hiên ngang, trung dũng của
cụ Mết, Tnú, Mai,.. của anh hùng Núp,…những người dân Tây Nguyên kiên cường trong
chiến đấu thì sau 1975 vẫn là những con người gan góc, kiên cường chỉ khác là họ về với
cuộc sống đời thường với bộn bề lo lắng. Đến với những tác phẩm như Trở lại Mèo Vạc,
Tháng ninh nông, Có một con đường mòn trên biển đông,…bạn đọc như được sống trong
từng hơi thở của núi rừng hoang dại, của biển cả mênh mông bí hiểm. Người anh hùng
trong văn xuôi nghệ thuật Nguyên Ngọc sau 1975 là những con người bình dị và điều đặc
biệt là họ rất nổi bật. Những con người mang vẻ đẹp, sắc vóc của thiên nhiên nhưng
những huyền thoại, những anh hùng sử thi. Tuy văn học giai đoạn này yêu phản ánh chân
thực, “người thực, việc thực” song ta vẫn thấy trong tác phẩm của Nguyên Ngọc một
luồng gió lãng mạn, lung linh hùng vĩ đến mức khó tin.
Với tư cách một con người bước ra từ chiến trường ác liệt, Nguyên Ngọc vô cùng trân
trọng và biết ơn những người anh hùng có tên tuổi hay vô danh đã mãi mãi nằm xuống để
giành lại độc lập dân tộc. Tuy nhiên, đối với những con người may mắn sống sót để nhìn
thấy thắng lợi vẻ vang của dân ta, những con người đã được trở về với gia đình, xứ sở
thân yêu ông còn lại vô cùng ân hận, day dứt. Những người anh hùng năm xưa giờ đây
đang chới với giữa cuộc sống, những khó khăn, bất hạnh đè nặng lên đôi vai họ. Ông
chưa bao giờ thôi trăn trở về sự hy sinh và mất mát ấy. Những trang văn Nguyên Ngọc
như một lời thúc giục, thức tỉnh những con người đang chìm đắm trong sung sướng, đủ
đầy những con người đã quên đi cội nguồn hạnh phúc hôm nay họ đang thụ hưởng.
1.2.2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến cảm hứng lãng mạn anh hùng torng văn xuôi
nghệ thuật Nguyên Ngọc
Thứ nhất là tâm lí xã hội, ý thức nghệ thuật thời chiến: Giai đoạn này, cả nước đang
đối mặt với cuộc chiến tranh. Yêu cầu đặt ra cho tất cả mọi người lúc này là trách nhiệm
của công dân. Văn học giai đoạn này dưới sự lãnh đạo của Đảng, văn học ra đời phục vụ
chính trị, công nông binh, phục vụ cách mạng làm nhiệm vụ hàng đầu. Văn học mang
khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Văn học ca ngợi Tổ quốc, quần chúng cách
mạng và những tấm gương vì nước hi sinh, kêu gọi tinh thần đoàn kết toàn dân, cỗ vũ
cách mạng.
13
Thứ hai là hoàn cảnh gia đình và môi trường sống: Trong hoàn cảnh đất nước chìm
trong khói lửa chiến tranh, việc kêu gọi từng người dân đứng lên đoàn kết đấu tranh.
Người dân cần phải có ý thức trách nhiệm với đất nước và cảm hứng ngợi ca anh hùng là
một điều tất yếu trong văn học cách mạng lúc bấy giờ. Do hoàn cảnh gia đình, Nguyên
Ngọc phải di chuyển từ thành phố này đến thành phố khác, vì vậy ông có điều kiện tìm
những những vùng đất khác nhau, nơi có những con người hi sinh, con người không ngại
gian khổ.
Thứ ba cá tính của nhà văn: Nhà văn được trưởng thành từ trong hai cuộc kháng
chiến. Trong quá trình sống và chiến đấu trong lòng nhân dân, sống trong một thời đại hào
hùng của dân tộc, tiếp xúc với những nguyên mẫu anh hùng thực tế đã cho ông vốn hiểu
biết sâu sắc về người anh hùng của thời đại. Khi viết về Tây Nguyên ông dùng tình cảm
triều mến, từ những người anh hùng đến những người dân bình thường ông đều dùng
giọng văn rất triều mến, rất ngọt ngào, chan chứa tình cảm.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
1. Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra con đường phát triển mới trên các lĩnh
vực: kinh tế, chính trị, văn hóa – giáo dục. Với sự phát triển đó đã ảnh hưởng đến nền văn
học nghệ thuật phát triển đánh dấu một bước ngoặc lớn và thu được nhiều thắng lợi. Như
vậy văn học Việt Nam từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất
phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn.
Giờ đây văn học nghệ thuật không còn được hiểu đơn giản chỉ như là công cụ của
chính trị, là vũ khí của công tác tư tưởng, là phương tiện tuyên truyền, giáo dục quần
chúng, mà “là bộ phận đặc biệt nhạy cảm của văn hóa, thể hiện khát vọng của con
người về chân, thiện, mỹ, có tác dụng bồi dưỡng tình cảm, tâm hồn, nhân cách, bản lĩnh
của các thế hệ công dân, xây dựng môi trường đạo đức trong xã hội…”.1
2. Giai đoạn trước 1975, với cảm hứng lãng mạn anh hùng, Nguyên Ngọc đã xây
dựng hình tượng người anh hùng tiểu biểu cho sức mạnh đồng thời ca ngợi vẻ đẹp và tinh
thần quả cảm. Họ là những người quên mình vì nước, hi sinh hạnh phúc riêng và đánh đổi
tuổi thanh xuân của mình. Viết về người anh hùng với thái độ tôn vinh, trân trọng. Sau
1975, văn học đã có bước chuyển mình. Nguyên Ngọc vẫn nhất quán với cảm hứng lãng
1 Nghị quyết của Bộ Chính trị về văn học, nghệ thuật và văn hóa (Tuần báo Văn nghệ, số 51-52, ngày
19.12.1987).
14
mạn anh hùng. Cuộc sống phản ánh toàn diện về những góc khuất trong tâm hồn con
người nên người anh hùng được nhìn một cách đa dạng, nhiều chiều hơn. Họ thay đổi
ngay cả cách nhìn và cách nghĩ. Con người được nhìn ở góc độ cá nhân.
15
CHƯƠNG 2: SỰ TIẾP NỐI NHẤT QUÁN TRONG CẢM HỨNG LÃNG
MẠN ANH TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT CỦA NGUYÊN NGỌC SAU
1975
2.1. Sự nhất quán trong đề tài, chủ đề
2.1.1.Đề tài
Lịch sử văn học nước ta hàng ngàn năm qua chứng kiến bao người anh hùng từ Thánh
Gióng, Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo,… trong văn học trung đại đến anh giải phóng quân,
mẹ Bầm, mẹ Suốt,… trong văn học hiện đại, đặc biệt là dòng văn học cách mạng. Họ là
những con người bình dị không kể già trẻ, lớn bé đều một lòng chiến đấu giành độc lập,
tự do dân tộc. Có thể nói đề tài người anh hùng là đề tài được tập trung sáng tác nhiều
nhất, ở đây các tác giả vừa ca ngợi, vừa khích lệ tinh thần chiến đấu cho toàn dân tộc.
Lịch sử sang trang, nhu cầu đổi mới văn học trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết, văn
học phải phản ánh chân thực và tỉnh táo đời sống xã hội lúc bấy giờ. Những con người sử
thi trong thời chiến được thay thế bằng con người cá nhân, con người trong mối quan hệ
với cộng đồng xã hội. Văn học đào sâu khai thác những mặt khuất lấp trong tâm hồn,
những khó khăn, những tình cảnh éo le trong sinh hoạt thường nhật của những con người
bước ra từ chiến tranh và những con người trong cuộc sống đời thường.
Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn vẫn tiếp tục song cảm hứng thế sự đời tư
phát triển ngày càng mạnh mẽ và sôi nổi. Những vấn đề văn hóa, đạo đức, lối sống, những
đấu tranh nội tại trong con người được thể hiện chân thực và sinh động. Riêng về người
anh hùng tuy chiến tranh đã khép lại nhưng họ vẫn là đối tượng được nhiều nhà văn tập
trung khai thác. Người anh hùng hiên ngang, anh dũng năm xưa quay trở về đúng nghĩa
một con người bình thường nhất với yêu thương, hờn giận, tranh đấu, dục vọng,…và họ
đã phải sống như thế nào trong một môi trường hoàn toàn mới là điều được các nhà văn
quan tâm, trăn trở.
Trong số những nhà văn ấy, phải kể đến nhà văn Nguyên Ngọc, người đã đào sâu,
bám trụ và mãi kiếm tìm hình tượng người anh hùng cho riêng mình. Nói đến Nguyên
Ngọc, ắt hẳn bạn đọc không thể quên hình ảnh Tnú hay anh hùng Núp – những con người
tiêu biểu cho dòng văn học chống Mĩ cứu nước. Họ đại diện cho vùng đất, con người Tây
16
Nguyên hiên ngang, anh dũng chiến đấu, cố gắng bám giữ từng tất đất quê hương, xứ sở.
Những hình ảnh ấy còn sống mãi trong lịch sử văn học, trong lòng công chúng.
Tuy nhiên, sau đại thắng mùa xuân năm 1975, Nguyên Ngọc không chọn cho mình
lối như nhiều cây bút lúc bấy giờ, nhà văn vẫn tiếp tục kiếm tìm hình tượng người anh
hùng và cuộc sống, số phận của họ khitrở về từ chiến tranh. Như Nguyễn Đăng Mạnh
nhận xét: “Nếu nói Nguyễn Tuân suốt đời săn tìm cái đẹp, thì cũng có thể nói Nguyên
Ngọc suốt đời săn tìm những tính cách anh hùng, những sự tích anh hùng”. [1]
Nếu trước năm 1975, Nguyên Ngọc viết nhiều về đất Tây Nguyên thì sau năm 1975
ông còn viết về Hà Giang rồi cả vùng xuôi, vùng biển. Bởi ông tìm được phần nào hơi
thở, vóc dáng người anh hùng ở con người vùng núi, vùng biển. Những con người sinh ra
dưới sự đùm bọc của thiên nhiên hùng vĩ, hoang dại và cũng chất chứa nhiều điều bí mật.
Đó là những cô gái như Chiện, Sáu Thùy, Thào Mỹ: “Một vẻ đẹp rất lạ, cuốn hút vô
cùng, khi im lặng trầm uất như một ngọn núi Mèo cô độc, khi lẳng lơ như những bông
hoa thuốc phiện quyến rũ, khi phấp phới như ngọn gió ào ạt trên đỉnh Săm Pun…” ( Trở
lại Mèo Vạc) – mang vẻ đẹp hoang dã, rực rỡ, từng ngoan cường đánh giặc, rồi yêu
thương đến mức cuồng nhiệt và cũng không kém phần liều lĩnh. Những người anh hùng
của Nguyên Ngọc khá đặc biệt, họ ở vùng núi cao, nơi mọi người phải ngước nhìn cho rõ
mặt: “hình như gần trời hơn, nên (…) to hơn, lóng lánh hơn và trong sạch hơn” (Kỷ niệm
Tây Nguyên) bằng không thì họ là những con người ở vùng biển xa xôi, cống hiến lặng lẽ
hoặc vĩnh viễn nằm lại dưới đáy biển sâu,…
Vẫn tiếp nối hình tượng người anh hùng bằng ngòi bút lãng mạn song những con
người sắt thép xưa kia đã được thay thế bởi những con người của cuộc sống đời thường,
biết yêu thương và anh hùng trong tình yêu. Trước và sau chiến tranh nhà văn Đất Quảng
vẫn viết về người anh hùng, nếu trước chiến tranh ông dành cho họ những lời ca ngợi thì
sau chiến tranh ông lại dành nhiều sự cảm thông, trân trọng.
2.1.2.Chủ đề
Mỗi nhà văn, nhà thơ có một phong cách riêng, ở đó họ thỏa sức vẫy vùng thể hiện cá
tính sáng tạo và đam mê. Đề tài người anh hùng vốn là đề tài quen thuộc trong văn học.
Vì vậy, để tạo nên diện mạo riêng cho mảng đề tài này người cầm bút nói chung và
Nguyên Ngọc nói riêng đã có những hướng đi nhất định.
17
Nhìn lại chặng đường nghệ thuật của ông có thể thấy rằng trước giải phóng nhà văn
Đất Quảng đi vào khai thác sự trưởng thành của người anh hùng trong chiến đấu. Làm sao
quên được những người dân làng Xô – man, Bana trung dũng, kiên cường đánh Mĩ. Qua
các tác phẩm: Đất nước đứng lên, Rừng xà nu, Đất quảng,… bạn đọc nhưđược theo dõi
từng bước phát triển, ngày một trưởng thành của cả một cộng đồng, tập thể trong quá
trình đánh Mĩ cứu nước.Nổi bật ở đó là sức mạnh tập thể, sức mạnh đại đoàn kết. Những
con người của núi rừng chân chất, thật thà nhưng cũng vô cùng anh dũng như chính đại
ngàn nơi họ sinh ra.
Tiếp tục mạch cảm hứng về người anh hùng song Nguyên Ngọc, sau 1975 đã có sự
chuyển hướng trong phương diện chủ đề. Giờ đây những tác phẩm của ông đi sâu vào
từng ngóc ngách, len lõi vào từng góc tối cuộc sống của những người anh hùng bước ra từ
chiến tranh. Đây là lúc những con người anh dũng trong chiến tranh được nhắc đến một
cách toàn diện, chân thực. Những trang văn như một thước phim phóng sự quay lại cuộc
đời hậu chiến của anh hùng như chị Hoa, chị Huyền, anh Toàn, anh Dương Xang,… Các
mẹ, các anh, các chị có dịp nhớ và kể lại những ngày tháng gian khổ mà anh dũng. Những
phút giây cái chết tưởng chừng cận kề trước mặt, thế nhưng khi mở mắt ra họ còn sống,
còn tiếp tục chiến đấu. Lằn ranh giữa cái chết và sự sống sao mà mỏng manh! Thế nhưng
với họ sự mất mát cá nhân không thể nào sánh bằng sự hy sinh của đồng đội, người thân,
của lớp lớp người đi trước.
2.2. Hình tượng người anh hùng
Trong quá trình tìm hiểu đề tài: Sự nối tiếp cảm hứng lãng mạn anh hùng trong văn
xuôi nghệ thuật Nguyên Ngọc sau 1975 nhóm người viết như được lần theo bước chân
nhiệt huyết, cháy bỏng của nhà văn Nguyên Ngọc trở về với núi rừng và biển cả để nghe
những câu chuyện, những tâm sự của người anh hùng bước ra từ chiến tranh. Họ đã chiến
đấu như thế nào? Tất cả những khó khăn, vất vả xen lẫn những tình cảm cao đẹp thời
chiến sẽ được tái hiện lại qua lời kể nhân vật mà ở đây là “Người thực, việc thực”.
2.2.1. Niềm tin bất diệt vào chiến thắng của dân tộc
Bất cứ tác phẩm nào viết về những cuộc kháng chiến giành độc lập điều sáng ngời
niềm tin bất diệt của nhân dân vào thắng lợi của đất nước. Hầu hết sáng tác của Nguyên
Ngọc cũng vậy, niềm tin ấy như tia nắng ấm áp soi chiếu và tiếp thêm sức mạnh cho
người chiến sĩ. Trong hoàn cảnh thiếu thốn của chiến tranh nhưng quân dân ta vẫn cố
18
gắng xoay xở, tìm cách tiến về phía trước. Câu chuyện cảm đồng về Má Mười làm chúng
tôi bâng khuâng mãi. Má được giao nhiệm vụ “Phải mua một cái ghe cỡ sáu tấn, một cái
máy Yanma, xăng dầu, gạp, mắm muối, đủ đi ra tới miền Bắc. Phải có cả lưới để ngụy
trang làm ghe đánh cá. Rồi phải mua mươi tấn gạo để dự trữ ở bến để chờ đón tàu
vô…”(Có một con đường mòn trên biển Đông).Mười đồng thời đó thì được là bao mà má
phải mua từng ấy thứ mà thứ nào cũng đắc cả. Nhưng má không ngại, bởi “dầu phải sống
cùm kẹp trong ấm chiến lược của nó nhưng bụng dạ đều hướng về cách mạng”. Những
con người bình thường nhưng với sức mạnh phi thường, họ mang trong mình sứ mệnh lớn
lao và một niềm tin tuyệt đối vào cách mạng và chiến thắng không xa của toàn dân tộc.
Dường như niềm tin tưởng, lạc quan đã bao trùm đời sống chiến đấu lúc bấy giờ. Già,
trẻ lớn bé tất cả điều hân hoan, điều kiên định và anh dũng chiến đấu tới phút cuối cùng.
Trong một lần trở lại Mèo Vạc – Đồng Văn, nhà văn Nguyên Ngọc có dịp tìm gặp người
con gái năm xưa – Thào Mỹ, cô giao liên người H’mông. Nhiều thanh niên dân tộc như
Thào Mỹ đã xung phong đánh giặc hoặc làm công việc giao liên, hậu cần. Tất cả đều căng
tràn nhựa sống, đều kiên định một lòng với dân, với nước. Dường như những cực hình
của giặc Mỹ chẳng là gì so với ý chí sắt đá của họ: “Hôm mới chiếm Lũng Phìn, bọn phỉ
bắt được năm cô gái mậu dịch, đã giở trò tùng xẻo, cắt mũi, cắt tai, cắt vú, mổ bụng moi
tim nấu ăn thật sự…còn tìm được cái chảo rán mỡ người” (Trở lại Mèo Vạc). Như đã nói,
chính chiến tranh, chính bọn đế quốc thực dân man rợ đã biến nhân dân ta trở thành
những con người quả cảm. Những người anh hùng thật sự chứ không phải nhân vật cổ
tích, sử thi.
Chiến tranh đã lùi xa nhưng chúng ta như vừa được sống lại những giây phút hào
hùng, khốc liệt của cuộc kháng chiến. Những người anh hùng trong văn xuôi nghệ thuật
Nguyên Ngọc là những con người có trái tim sắt thép trước những thủ đoạn tra tấn tàn ác
nhưng đó lại là trái tim nồng ấm tình yêu quê hương, đất nước, đồng bào.
2.2.2. Sự hy sinh thầm lặng trong chiến tranh
Hòa bình lập lại trên muôn nẻo quê hương nhưng những tổn thất và đau thương để lại
là quá lớn. Chúng ta tự hào, hân hoan vì thắng lợi vẻ vang, vì độc lập tự do nhưng đằng
sau nụ cười là giọt nước mắt, biết bao máu xương cha ông đã ngã xuống. Biết bao sự hy
sinh trong thầm lặng để đánh đổi ngày vui hôm nay?
19
Trong tác phẩm Có một con đường mòn trên biển Đông, Nguyên Ngọc đưa đọc giả
về với cuộc hành trình trên biển của Đoàn tàu Không số. Để đảm bảo bí mật và bảo toàn
vũ khí chiến đấu nhiều cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh anh dũng, nằm lại giữa lòng biển bao la
để bảo vệ an toàn cho đoàn tàu cũng như con đường huyền thoại. Có thể kể đến thủy thủ
gan lì và trung dũng Nguyễn Văn Hiệu: “…Anh ở lại trên tàu, để đến khi tàu vòng ra xa
chỗ chúng tôi nhất…lúc đó tự tay anh sẽ cho phát hỏa ngòi nổ tức thì, phá tan tàu, cùng
hy sinh với tàu…”. Để giữ kín bí mật về con đường mòn trên biển Đông, con đường vận
chuyển và tiếp viện của quân ta anh đã tự hủy đi đoàn tàu cùng sinh mạng của mình. Bên
cạnh những chiến sĩ đã nằm xuống thì những cán bộ may mắn hơn như đồng chí Võ Bẩm,
Nguyễn Chơn giờ đây đã là những cụ già tóc bạc may mắn sống sót đã có dịp kể lại
những khó khăn mà họ phải vượt qua: “Đêm nào cũng vậy. Gạo hết. Cả củ chuối rừng
cũng đã đào ăn hết. Hai con mắt sâu hoắm, đỏ ngầu. Vẫn chong chong sục tìm trên biển
đen. Đang mùa biển động. Hầu như đêm nào cũng là bão, là tố… Một đêm. Hai đêm. Ba
đêm… Mười đêm… Hai mươi đêm… Một tháng ròng…”. Những con người bình thường
nhưng với tinh thần thép do cách mạng tôi rèn, họ đã vượt qua tất cả. Cái lạnh, cái đói và
cả sự nguy hiểm rình rập từ biển cả không thể ảnh hưởng đến họ.
Những anh hùng thầm lặng thời chiến trong văn xuôi nghệ thuật Nguyên Ngọc không
sao kể hết. Mỗi người có một nhiệm vụ, một câu chuyện khác nhau. Chị Mùi phải giả câm
giả điếc để không bị địch phát hiện. Rồi những người con gái như Thào Mỹ phải hy sinh
tình yêu của mình cho nhiệm vụ chiến đấu. Nhiều người phụ nữ phải hy sinh bản thân như
chị Huyền – chị đã cố trụ lại để giải vòng vây cho nhiều chị em khác không bị bọn Mỹ
Chu Lai làm nhục. Có lẽ ám ảnh chúng tôi nhất đến giờ phút này là sự hy sinh quá lớn của
chị Phan Thị Hoa – Người điên ở Bàu Bính trong Cát cháy. Đất nước thông nhất chị về
với cuộc sống bình yên bên người mẹ già và một đứa con thơ. Ngày ấy còn trẻ chị làm
hậu cần với nhiệm vụ tiếp tế thuốc men cho cách mạng. Thời đó, thuốc Tây quý lắm! Nó
là món cần thiết nhất với bộ đội ta. Những lần bị địch càn quét, các chị bị đánh “sưng
mặt, gãy tay… là chuyện thường. Có khi nó đánh chết”. Rồi có một lần không may mắn,
chị Hoa bị địch dồn vào đường cùng, sợ chúng phát hiện chị đã tống hết số thuốc vào
miệng. Như lời chị kể thì chị bị điên sau đó, điên mất ba tháng: “Mặt méo xệch đi. Tóc
rụng sạch. Mặt sưng vù. Miệng vêu lên. Răng rụng…”. Tuy sau đó sức có yếu đi nhưng
chị vẫn tiếp tục làm công việc hậu cần nguy hiểm cho đến hết chiến tranh.
20
- Xem thêm -