Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sự kế thừa và phát triển tư tưởng giáo dục của khổng tử...

Tài liệu Sự kế thừa và phát triển tư tưởng giáo dục của khổng tử

.PDF
89
519
89

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ  CAO THỊ MAI HOA SỰ KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ Ở HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2012 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ  CAO THỊ MAI HOA SỰ KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ Ở HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Chuyên ngành: Triết học Mã số: 60 22 80 Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. NGUYỄN HÙNG HẬU HÀ NỘI - 2012 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 Chương 1. TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ - CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG .................................................................................... 6 1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng giáo dục của Khổng Tử........................... 6 1.1.1. Hoàn cảnh kinh tế - xã hội Trung Quốc cổ đại .................................. 7 1.1.2. Tiền đề tư tưởng ................................................................................. 9 1.2. Nội dung tư tưởng giáo dục của Khổng Tử ..................................... 14 1.2.1. Mục đích, đối tượng giáo dục .......................................................... 14 1.2.2. Nội dung giáo dục ............................................................................ 19 1.2.3. Phương pháp giáo dục của Khổng Tử .............................................. 25 Chương 2. HỒ CHÍ MINH KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ ...................................................................... 37 2.1. Sự kế thừa tư tưởng giáo dục của Khổng Tử ở Hồ Chí Minh ........ 38 2.1.1. Những đánh giá của Hồ Chí Minh về Khổng Tử và tư tưởng của ông .................................................................................................... 38 2.1.2. Hồ Chí Minh kế thừa những yếu tố hợp lý trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử ............................................................................ 40 2.2. Sự phát triển tư tưởng giáo dục của Khổng Tử ở Hồ Chí Minh ...... 45 2.2.1. Tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh về giáo dục cho mọi người .......... 46 2.2.2. Tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh về vai trò, nhiệm vụ của giáo dục ...... 49 2.2.3. Tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh về nội dung giáo dục ................... 53 2.2.4. Tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh về phương pháp dạy và học ........ 59 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 78 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hồ Chí Minh là vị anh hùng dân tộc - danh nhân văn hóa thế giới mà tư tưởng của Người thấm đượm chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc. Trong những tư tưởng đó, tư tưởng về giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành cơ sở lý luận cho đường lối chính sách giáo dục, cho sự phát triển khoa học giáo dục Việt Nam, cho chiến lược xây dựng con người mới của đất nước. Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn của nhà tư tưởng giáo dục và nhà sư phạm mẫu mực. Bất cứ ở thời đại nào, quốc gia nào, giáo dục cũng ở vị trí quan trọng hàng đầu. Chính sách giáo dục được coi là chính sách ưu tiên trên con đường phát triển của mỗi đất nước. Lê Thánh Tông (1442-1479) đã cho khắc vào bia Quốc Tử Giám cương lĩnh của đất nước: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia Nguyên khí mạnh thì thế nước cường Nguyên khí suy thì thế nước tàn”. Vua Quang Trung (1753-1792) đã ra tuyên ngôn: “Xây dựng đất nước phải lấy việc khuyến học làm đầu Tìm lẽ trị bình lấy tuyển nhân tài làm gốc” Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, đối với nước ta, chính sách giáo dục là chìa khóa để đất nước phát triển kinh tế, xã hội. Vì vậy xây dựng tư tưởng giáo dục khoa học có giá trị phương pháp luận phổ quát làm cơ sở lý luận cho các chính sách giáo dục là một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục cách đây hàng nửa thế kỷ vẫn là kim chỉ nam giúp nền giáo dục nước ta xác định được hướng đi và cách thức để giáo dục gắn bó với phát triển kinh tế xã hội. Các quốc gia ngày nay đi vào nền kinh tế tri thức trước bối cảnh toàn cầu hóa đều xác định chiến lược con người, chiến 1 lược giáo dục. Những tư tưởng về giáo dục của Hồ Chí Minh chính là kim chỉ nam cho chúng ta hiện thực hóa được chiến lược có ý nghĩa trọng đại này. Tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh là sự kết tinh tinh hoa văn hóa giáo dục nhân loại và truyền thống giáo dục văn hiến của đất nước Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là sự kế thừa, tiếp thu có phê phán tư tưởng văn hóa phương Đông, đặc biệt là tư tưởng giáo dục của Nho giáo. Khổng Tử là người lập ra đạo Nho, người thầy cao nhất của tất cả các thế hệ nhà Nho, được tôn là “vạn thế sư biểu”. Tư tưởng về giáo dục của Khổng Tử có nhiều điểm tiến bộ trong thời kỳ phong kiến và có giá trị đến tận ngày nay đối với sự nghiệp giáo dục. Hồ Chí Minh coi lời dạy của Lênin “Học, học nữa, học mãi” và lời dạy của Khổng Tử: “Học không biết chán, dạy không biết mỏi” là phương châm sống, phương châm hành động của mình. Ở Hồ Chí Minh và Khổng Tử có sự gặp gỡ trong tư tưởng về giáo dục. Đồng thời, Hồ Chí Minh đã kế thừa tư tưởng giáo dục của Khổng Tử một cách có phê phán trên lập trường của giai cấp vô sản cách mạng, phát triển thành những quan điểm giáo dục có giá trị bền vững. Nhận thấy có điểm tương đồng trong tư tưởng về giáo dục của Hồ Chí Minh và Khổng Tử, sự phát triển tư tưởng những tư tưởng giáo dục của Khổng Tử ở Hồ Chí Minh, trong phạm vi nghiên cứu của một đề tài luận văn thạc sĩ, tôi muốn nghiên cứu theo hướng này. Chính với những lý do trên tôi chọn “Sự kế thừa và phát triển tư tưởng giáo dục của Khổng Tử ở Hồ Chí Minh” là đề tài luận văn thạc sỹ của mình. 2 2. Tình hình nghiên cứu Khổng Tử và học thuyết của ông - Nho giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến các nước phương Đông, trong đó có Việt Nam. Tư tưởng của Khổng Tử, trong đó có tư tưởng về giáo dục vẫn còn có ý nghĩa cho đến hiện nay. Đề cập đến quan điểm về giáo dục của Khổng Tử đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, chuyên khảo, các bài viết đăng trong các tạp chí chuyên ngành: + Tác phẩm “Nho giáo xưa và nay” của tác giả Quang Đạm - Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1999, có một chương: “Vấn đề học tập” nói về các quan điểm trong giáo dục của Nho giáo nói chung và của Khổng Tử nói riêng như: “Quan điểm và thái độ học tập”, “Phương châm và phương pháp trong giáo dục”. + Tác giả Tạ Ngọc Ái trong tác phẩm “Trí tuệ của Khổng Tử” - Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2008 căn cứ vào những câu nói của Khổng Tử dạy học trò, những câu đối đáp của các môn đệ Khổng Tử trong tác phẩm “Luận ngữ” và “Lễ kí” để bàn về cách dạy và cách học của Khổng Tử, như quan điểm “Dạy cho nhiều loại người”, “Dạy và học cùng giúp nhau”, “Thấy trò phụ tử”… + Luận văn thạc sỹ “Tìm hiểu tư tưởng giáo dục của Khổng Tử” của tác giả Võ Văn Nam thuộc chuyên ngành Giáo dục học, Đại học Sư phạm - Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999, đã đi sâu tìm hiểu hệ thống tư tưởng giáo dục của Khổng Tử. Các nhà nghiên cứu đều quan tâm đến đóng góp của Khổng tử về tư tưởng giáo dục và đi đến nhận định: Khổng Tử là nhà giáo dục lớn cùng những quan điểm về giáo dục có vai trò và tầm ảnh hưởng to lớn, xuyên suốt chiều dài lịch sử, có nhiều giá trị tích cực đến tận ngày nay. Tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh cũng đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, nghiên cứu: 3 + Cuốn “Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục” của Hà Thế Ngữ, Nxb Giáo dục, Hà Nội sưu tầm khá đầy đủ những bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục, qua đó có thể tìm hiểu những quan điểm cơ bản về giáo dục của Hồ Chí Minh. + Tác phẩm “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề học tập” của GS Nguyễn Quang Uẩn, “Tình giản dị sâu sắc trong lời dạy của Bác Hồ của TS Nguyễn Minh Hùng đã đem lại cho người đọc những hiểu biết chung nhất, khái quát nhất về tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh. Bên cạnh các tác phẩm kể trên còn có nhiều cuốn sách đề cập đến tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh: “Học tập quan điểm giáo dục của đồng chí Hồ Chí Minh” của Hoàng Ngọc Di, Nxb Giáo dục 1962; “Hồ Chí Minh bàn về công tác giáo dục”, Nxb Sự thật Hà Nội, 1972. Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên, ở những góc độ khác nhau đã giải quyết được những vấn đề cơ bản trong việc nghiên cứu những tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, nhưng chưa có một công trình nào đi vào nghiên cứu sự kế thừa và phát triển của Hồ Chí Minh đối với những tư tưởng giáo dục của Khổng Tử. Đây cũng là vấn đề tôi mong muốn được giải quyết trong phạm vi đề tài này. . M c đ ch, nhi nghiên cứu 3.1. Mục đích Luận văn tập trung nghiên cứu một số nội dung tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, từ đó làm rõ sự kế thừa và phát triển những tư tưởng giáo dục của Khổng Tử ở Hồ Chí Minh 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ sau đây: - Trình bày một cách có hệ thống một số tư tưởng giáo dục của Khổng Tử - Phân tích sự kế thừa và phát triển tư tưởng giáo dục của Khổng Tử ở Hồ Chí Minh. 4 . Đối tư ng à h 4.1 i i nghiên cứu hi c : Nghiên cứu tư tưởng giáo dục của Khổng Tử và tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh, tìm hiểu sự kế thừa và phát triển hạt nhân hợp lý trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử ở Hồ Chí Minh 4.2 h m vi hi c : Luận văn xác định giới hạn phạm vi nghiên cứu tư tưởng giáo dục của Khổng Tử và tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh trong hai nguồn tư liệu là Luận ngữ, và Hồ Chí Minh toàn tập. 5. Cơ s ý u n à hương h nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lênin mà hạt nhân là ph p biện chứng duy vật và chủ nghĩa duy vật lịch sử, quán triệt nguyên lý về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, lý luận gắn liền với thực tiễn. Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp: phân tích, tổng hợp, phương pháp lịch sử - logic, phương pháp so sánh, đối chiếu, khái quát,… 6. Đóng gó c a u n n Một là, luận văn góp phần giải quyết vấn đề nguồn gốc hình thành tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh, góp phần lý giải sâu sắc hơn về tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh, vấn đề kế thừa các giá trị của tư tưởng giáo dục của Khổng Tử trong thời đại ngày nay. Hai là, luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên trong học tập, nghiên cứu và giảng dạy. . Kết c u c a u n n Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 4 tiết: Chương 1: Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử - cơ sở hình thành và nội dung. Chương 2: Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển tư tưởng giáo dục của Khổng Tử. 5 Chương 1 TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ - CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG 1.1. Cơ s hình thành tư tư ng gi o d c c a Khổng Tử Khổng Tử (551-479 trước Công nguyên), tên Khâu, tự Trọng Ni. Ông là người nước Lỗ, sinh ra trong một gia đình quý tộc nhỏ đã sa sút. Thời đại của Khổng Tử là thời đại mà xã hội Trung Quốc có rất nhiều biến động sâu sắc trên tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trên bình diện chính trị và tổ chức xã hội, đó là thời kỳ mà sự thống trị của nhà Chu ngày càng suy yếu và đứng trước bờ vực của sự sụp đổ. Bá đạo - đạo của chư hầu nổi lên lấn át Vương đạo - đạo của thiên tử nhà Chu. Khổng Tử đại diện cho bộ phận quý tộc cấp tiến. Ông không chấp nhận hiện trạng xã hội đương thời, mà muốn cải tạo nó, cải tạo theo hướng khôi phục lại những giá trị cố hữu của Chu Lễ. Để thực hiện ý nguyện của mình, ông đã mở trường dạy học, sáng lập học thuyết và cùng học trò đi truyền bá học thuyết của mình ở nhiều nước chư hầu. Học thuyết của Khổng Tử chủ yếu đề cập đến những vấn đề chính trị xã hội. Tuy nhiên, do góc độ tiếp cận và hướng giải quyết những vấn đề chính trị - xã hội đương thời của Khổng Tử là tập trung vào nhân tố con người, mở rộng từ cá nhân con người đến xã hội, trong đó chú trọng đến vai trò của giáo dục đối với con người và xã hội. Tư tưởng chính trị và tư tưởng giáo dục của Khổng Tử có sự thống nhất hữu cơ với nhau. Xuất phát từ đặc điểm chung ấy, việc nghiên cứu tư tưởng giáo dục của Khổng Tử cần xoay quanh quan điểm của ông về con người, về chính trị, từ đó phát hiện ra những n t đặc thù trong tư tưởng giáo dục của ông. 6 1.1.1. Hoà cả h ki h ế - xã hội Tr Q c cổ đ i Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử hình thành và phát triển trên cơ sở những điều kiện kinh tế - xã hội của thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc (770-221 TCN). Khổng Tử sống trong thời kỳ xã hội đang có những chuyển biến hết sức căn bản và lớn lao. Chế độ chiếm hữu nô lệ theo kiểu phương Đông mà đỉnh cao là chế độ “tông pháp” nhà Chu đang suy tàn, chế độ phong kiến sơ kỳ đang hình thành. Những biến đổi sâu sắc trên tất cả các mặt của đời sống xã hội Trung Quốc thời kỳ này đã tạo điều kiện cho sự giải phóng tư tưởng của con người khỏi thế giới quan mang tính chất thần bí và ảnh hưởng đến sự phát triển của các tư tưởng triết học. Thời kỳ Xuân Thu (năm 770 đến 476 TCN), những biến đổi về mặt kinh tế đã dẫn đến những biến đổi về mặt chính trị. Ở thời kỳ này, sự ra đời của đồ sắt và những cải tiến mạnh mẽ trong công cụ sản xuất nông nghiệp đã thúc đẩy nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng. Chế độ “tỉnh điền” dần tan rã, chế độ tư hữu ruộng đất từng bước được hình thành, mặt khác, đã hình thành trong xã hội một giai cấp mới - giai cấp địa chủ. Đồ sắt ra đời không chỉ thúc đẩy nền nông nghiệp Trung Quốc phát triển mà còn thúc đẩy nền thủ công nghiệp phát triển . Đồ sắt được sử dụng phổ biến làm cho sự phân công lao động trong sản xuất thủ công nghiệp đạt tới trình độ cao hơn, góp phần phá vỡ nền kinh tế thuần nông. Đồng thời, thương nghiệp phát triển, hoạt động giao lưu buôn bán diễn ra sôi động. Những biến đổi về mặt kinh tế tất yếu dẫn đến những biến đổi về mặt chính trị trong thời Xuân Thu. Thời Tây Chu, chế độ tông pháp vừa có ý nghĩa về mặt kinh tế, vừa có ý nghĩa về mặt chính trị, ràng buộc về huyết thống có tác dụng tích cực làm cho nhà Chu giữ được sự hưng thịnh trong một thời gian dài. Đến thời Xuân Thu, chế độ tông pháp nhà Chu không còn được tôn trọng, đầu mối các quan hệ kinh tế, chính trị, quân sự giữa thiên tử và các nước chư hầu trở nên lỏng lẻo, huyết thống ngày càng xa, trật tự lễ 7 nghĩa nhà Chu không còn được duy trì như trước. Thiên tử nhà Chu hầu như không còn quyền uy gì đối với các nước chư hầu. Nhiều nước chư hầu mở rộng thế lực đất đai, thôn tính các nước nhỏ, tranh giành địa vị bá chủ thiên hạ. Thời Xuân Thu có khoảng 294 năm nhưng đã xảy ra tới 483 cuộc chiến tranh lớn nhỏ. Những nước hùng mạnh nhất thời bấy giờ như nước Tần, Tề, Tấn, Tống, Ngô, Việt, Sở đều tập trung tất cả tài lực và vật lực cho các cuộc chiến tranh. Các quốc gia này đều thi hành chính sách “bá đạo”, ra sức bóc lột nhân dân, điều này hoàn toàn khác với chính sách nhân nghĩa “vương đạo” của thánh nhân xưa. Hậu quả của những cuộc tranh giành, thôn tính, chinh phạt lẫn nhau của tầng lớp quý tộc đã dẫn tới sự diệt vong của hàng loạt các nước chư hầu nhỏ, đạo đức xã hội bị suy đồi, các tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng, mâu thuẫn giai cấp trong xã hội trở nên sâu sắc, kể cả mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và nhân dân cũng như giữa giai cấp thống trị với nhau, làm cho xã hội ngày càng thêm rối loạn. Lễ nghĩa nhà Chu bị phá hoại, đặc biệt những nghi lễ chặt chẽ, tôn nghiêm trước đây đã từng góp phần bảo vệ và làm hưng thịnh chế độ tông pháp nhà Chu, thì đến nay cũng bị xem thường. Mâu thuẫn xã hội thời Xuân thu lên đến đỉnh cao đưa chế độ chiếm hữu nô lệ Trung Quốc đi nhanh đến suy tàn. Thời Chiến quốc (năm 403 đến 221 TCN), kinh tế phát triển mạnh mẽ với sự xuất hiện của nhiều trung tâm luyện sắt lớn, tiền tệ bằng kim loại ra đời, thương nghiệp hưng thịnh… Về mặt chính trị, chiến tranh xảy ra với quy mô lớn hơn và tàn khốc hơn. Mạnh Tử viết: “đánh nhau tranh thành, giết người thây chết đầy thành; đánh nhau giành đất, giết người thây chết đầy đồng” [15, tr.405-406]. Cục diện Trung Quốc đã có sự biến đổi, trong đó rất nhiều nước chư hầu vừa và nhỏ bị thôn tính, chỉ còn lại bảy nước là Tề, Sở, Hàn, Yên, Ngụy, Triệu, Tần là các nước chư hầu chủ yếu trong thời kỳ Chiến Quốc. 8 Bên cạnh đó, việc mua bán ruộng đất được tự do và sự phổ biến của chế độ tư hữu đã mở đường cho sự tập trung ruộng đất vào một số ít lãnh chúa. Trong lòng xã hội đã xuất hiện những yếu tố của quan hệ sản xuất mới đó là chế độ phong kiến, đưa chế độ tông pháp nhà Chu và chế độ chiếm hữu nô lệ Trung Quốc đi nhanh vào hồi kết. Với việc Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc năm 221 TCN đã đặt dấu chấm hết cho sự tồn tại của nhà Chu và mở ra một chế độ mới ở Trung Quốc - chế độ phong kiến. Chính trong thời đại lịch sử đầy biến động của thời kỳ Xuân Thu Chiến quốc đã đặt ra cho các nhà tư tưởng những dấu hỏi lớn về mặt triết học, chính trị, đạo đức, pháp luật, quân sự đòi hỏi các nhà tư tưởng phải có những tìm hiểu, nghiên cứu để đưa ra những câu trả lời, đưa ra những giải pháp giải quyết những vấn đề thực tiễn xã hội lúc bấy giờ. Vì vậy, trong thời kỳ này đã xuất hiện hàng loạt các nhà tư tưởng lớn và học thuyết lớn. Có thể nói đây là thời kỳ phát triển rực rỡ của triết học Trung Quốc, nhiều nhà nghiên cứu gọi đây là thời kỳ “bách hoa đế phóng, bách gia tranh minh” (trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng). Những tư tưởng thời kỳ này không những đóng vai trò thúc đẩy nhất định chính trị, kinh tế lúc đó mà còn có ảnh hưởng sâu xa cho đến ngày nay, trở thành một trang không thể phai mờ trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc. Giáo sư Nguyễn Tài Thư đã nhận x t: “Có một thời kỳ lịch sử Trung Quốc mà ngày nay nhớ đến có người còn xốn xang bởi sự sôi động của nó, bởi nhiều sự kiện lịch sử xuất hiện dồn dập, nhiều học thuyết triết học và chính trị - xã hội ra đời, nhiều khối óc tài ba làm nên sắc thái văn hóa và tư tưởng của Trung Quốc sau này” [44, tr.13]. 1.1.2. Tiề đề ở Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử được ra đời dựa trên những điều kiện kinh tế - xã hội, đồng thời còn bắt nguồn từ xu thế vận động chung của đời sống tư tưởng chính trị Trung Quốc thời đại Khổng Tử sống. 9 Có thể hình dung đại thể xu hướng vận động của tư tưởng chính trị Trung Quốc cho đến thời Khổng Tử như quá trình đấu tranh giữa thần quyền và vương quyền và xu thế chiến thắng của vương quyền. Cùng với sự phát triển của sức sản xuất và những bước tiến trong hoạt động nhận thức, tư tưởng, con người đã hình dung về một tổ chức xã hội của các vị thần dựa trên hình mẫu cách thức tổ chức xã hội của con người. Vai trò của các vị thần đối với đời sống xã hội vốn được tâm thức dân gian xây dựng nên dần bị tầng lớp thống trị trong xã hội (vương quyền) nắm lấy, củng cố và tăng cường thêm, và dựa vào đó củng cố và tăng cường địa vị thống trị của họ trong xã hội. Được vương quyền sử dụng và trở thành một chỗ dựa của vương quyền, các vị thần từ chỗ chỉ chi phối một cách vô hình trong đời sống tinh thần của xã hội đã trở thành một sức mạnh hữu hình và chi phối đời sống hiện thực. Trong điều kiện xã hội Trung Quốc đương thời, tầng lớp thống trị không thể không sử dụng thần quyền để củng cố và thực hiện vương quyền , nhưng lại không thể chấp nhận sự lấn át của thần quyền đối với vương quyền. Vương quyền sẽ phải khẳng định địa vị đứng trên của nó đối với thần quyền. Mặt khác, để duy trì sự thống trị, lực lượng thống trị trong xã hội ngày càng nhận thức rõ sức mạnh của nhân dân, và để nhân dân thừa nhận uy quyền tối thượng của họ thì dù muốn, dù không cũng không thể không quan tâm, dù ở một mức độ nào đó, đến đời sống của nhân dân. Đối với nhà Chu, một triều đại được dựng nên sau khi phát động phong trào nhân dân đấu tranh lật đổ sự thống trị của nhà Ân, thì điều này lại càng quan trọng. Việc quan tâm đến đời sống của nhân dân mở đường cho xu hướng đạo đức hóa chính trị. Chính vì thế, ngay trong Kinh Thư, bên cạnh những ghi ch p khẳng định xu thế lấn át của vương quyền đối với thần quyền, người ta còn thấy những tư tưởng thể hiện sự quan tâm đến đời sống nhân dân. Thậm chí, những người cầm quyền đã tiến hành thống nhất sức mạnh của thần quyền với sức mạnh 10 của nhân dân, chẳng hạn cái gọi là “thiên mệnh” tuy có uy quyền tối cao, song lại thể hiện ra, thậm chí đồng nhất với “ý dân”. Như vậy, song song với quá trình vương quyền vượt lên trên thần quyền và tiếp tục sử dụng thần quyền làm chỗ dựa cho vương quyền, thì xu hướng chủ đạo đức hóa chính trị cũng dần trở nên rõ n t. Đây chính là những tiền đề tư tưởng quan trọng mà từ đó sẽ hình thành nên tư tưởng giáo dục của Khổng Tử. Đến cuối thời Xuân Thu, nghĩa là thời mà Khổng Tử sống, sự suy đồi trong tầng lớp thống trị, sự khốn cùng của đời sống nhân dân đã một lần nữa làm lay chuyển địa vị của thần quyền. Các học thuyết thời kỳ này đều cố gắng đưa ra những lý giải và giải pháp của riêng mình để giải quyết vấn đề thực tiễn xã hội đặt ra. Thuyết Mặc gia, đại biểu là Mặc Định đã đề xuất thuyết “kiêm ái”, giải thích căn nguyên của chiến tranh và mâu thuẫn xã hội là do con người không thương yêu nhau, hiềm thù nhau mà ra. Theo thuyết “kiêm ái”, sự yêu thương nhau sẽ loại trừ tai họa cho thiên hạ, vì khi thương yêu nhau, con người sẵn sàng xả thân giúp đỡ lẫn nhau, làm lợi cho nhau. Phái Pháp gia, mà đại diện là Hàn Phi cho rằng nguyên nhân gây rối loạn xã hội xuất phát từ chỗ pháp luật không nghiêm. Vì vậy, để lập lại trật tự xã hội thì phải dùng pháp trị. Mặt khác, Lão Tử đại diện cho Đạo gia lại cho rằng Đạo là bản nguyên của vạn vật, tất cả mọi vật đều từ Đạo mà ra và để trở về với nguồn gốc là đạo. Do đó, Lão Tử cho rằng tính của vạn vật sinh ra đã có, là tính của tự nhiên và tính của con người sinh ra đã có. Đạo là cái tự nhiên, vô danh, là quy luật tự nhiên, vô vi, bản thân tự nhiên là chuẩn mực, là chân lý. Bởi vậy, theo Lão Tử quay về với bản tính tự nhiên ban đầu của con người hoàn thiện nhất, và để xã hội thịnh trị thì con người cần phải giữ được cái tính giản dị, thuần phác, tự nhiên của con người. Ông mong muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp dựa trên quan hệ xã hội thuần phác tự nhiên. Để có được một xã hội như vậy, 11 ông chủ trương thực hiện đường lối “vô vi”. “Vô vi” là phương thức sống thuận theo tự nhiên, không làm gì trái với quy luật của tự nhiên. Thực hiện được điều này sẽ giúp con người ngộ được đạo, trở về với tự nhiên, sống trường sinh cùng tự nhiên. Bên cạnh đó, nhà tư tưởng có ảnh hưởng lớn nhất trong thời kỳ này Khổng Tử, người sáng lập học thuyết Nho giáo cho rằng xã hội rối loạn là do con người vô đạo, không theo đạo lý, muốn xã hội ổn định thì phải làm cho xã hội có đạo, dẫn dắt con người về với đạo lý. Với lý do đó, Khổng Tử đã đề cao giáo dục, lấy giáo dục làm phương tiện nhằm thay đổi xã hội từ “loạn” thành “trị”. Thời đại Khổng Tử là thời đại “Bá đạo” nổi lên lấn át “Vương đạo” của của nhà Chu, trật tự lễ pháp cũ của nhà Chu bị đảo lộn. Đại diện cho giới quý tộc cũ, Khổng Tử rất đau xót trước thực trạng xã hội đương thời, ông chủ trương lập lại pháp chế, kỉ cương nhà Chu, kế thừa sự nghiệp của Văn Vương, Chu Công trước đây. Khổng Tử mong có một “xã hội hòa”. Chủ trương của ông là “Lễ chi dụng, hòa vi quý” (tác dụng của lễ là lấy hòa làm quý). Một “xã hội hòa” theo quan niệm của Khổng Tử là xã hội không có sự phản kháng, không có sự đấu tranh lẫn nhau, xã hội không có bạo lực, xung đột, tranh giành lợi ích. Các quan hệ trong xã hội điều hòa, tốt đẹp theo nguyên tắc hai chiều, người dưới cần có thái độ an phận, kính trọng những người có địa vị thuộc tầng lớp trên, còn người trên đối với người dưới thì phải tôn trọng. Mọi người, mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội phải có sự hòa hợp với nhau. Theo Khổng Tử, giáo dục là con đường duy nhất để thực hiện lý tưởng chính trị, giáo hóa dân chúng, thay đổi cách cư xử trong xã hội và cao hơn cả là làm cho thái bình, thịnh trị. Ông chủ trương học ở mọi nơi, mọi lúc mọi người, “học không biết chán”. Trên cương vị là một người thầy, Khổng Tử là một tấm gương mẫu mực của việc lấy nhân cách của mình để tác thành nhân cách của học trò. Khổng Tử đề cao việc tự học và phương pháp dạy học theo 12 cách đàm thoại, phù hợp với từng đối tượng. Lí tưởng của việc là hướng tới tạo dựng những nhân cách mẫu mực của con người. Khổng Tử đề cao ba mẫu người tiêu biểu: kẻ sĩ, kẻ đại trượng phu và mẫu người quân tử. Trong đó, mẫu người quân tử là danh hiệu cao quý nhất. Mục đích giáo dục của Khổng Tử là tạo dựng, phát triển, hoàn thiện nhân cách con người, giúp con người có được đầy đủ những phẩm chất, năng lực để tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Quan niệm về con người là một vấn đề trung tâm trong triết học Trung Quốc cổ đại nói chung cũng như Khổng Tử nói riêng. Bởi vì vấn đề nguồn gốc, bản chất con người là cơ sở, điểm xuất phát để từ đó các nhà tư tưởng đề xuất những học thuyết chính trị, đạo đức, và giáo dục. Thời kỳ này, có rất nhiều triết gia, trường phái triết học đi sâu vào nghiên cứu về vấn đề bản tính con người. Tuân Tử cho rằng bản tính con người là ác, cái tham lam, cái gian ác, đố kỵ là thuộc về bản năng vốn có của con người. Tuân Tử viết: “Tính của người ta vốn ác, nó mà hóa thiện được là do công của người ta. Tính con người sinh ra vốn hiếu lợi, thuận theo tính đó thì thành ra tranh đoạt lẫn nhau mà sự từ nhượng không có, sinh ra đố kỵ thuận theo tính đó thì thành ra tàn tặc mà lòng trung tín không có, sinh ra có lòng ham muốn của tai mắt, có lòng thích về thanh sắc, thuận theo tính đó thì thành ra dâm loạn mà lễ nghĩa, văn lý không có. Như thế thì theo tính của người ta, thuận theo cái tính của người ta, tất sinh ra tranh đoạt, phạm vào cái phận, làm loạn cái lý mà mắc phải tội tàn bạo” [22, tr.113]. Theo Tuân Tử, lòng hiếu lợi, lòng đố kỵ và ham muốn dục vọng là đầu mối của tính người (tính ác), khi mới sinh ra đã có rồi. Tuy nhiên, Tuân Tử khẳng định tính ác của con người không phải là cái nhất thành bất biến, mà con người có thể chuyển ác thành thiện nhờ vào hoàn cảnh và giáo dục. Ông nói: “Tính là cái ta không thể làm ra, nhưng mà có thể cải hóa” [22, tr.53]. Tuân Tử đã nhận thấy vai trò tác động của nhân tố xã hội, của sự học tập đối với tính người. Từ đó, Tuân Tử chủ trương học theo lễ nghĩa để hoàn 13 thiện con người, đề cao việc giáo hóa con người nhằm điều tiết cái bản năng, hướng con người tới cái thiện. Bên cạnh đó, theo Lão Tử, thì vạn vật đều từ Đạo mà ra và trở về với nguồn gốc là Đạo. Do đó, tính của vạn vật sinh ra đã có, là tính của tự nhiên. Tính của con người sinh ra đã có, đó là cái tính giản dị, mộc mạc, thuần phác, không bị nhào nặn, gọt dũa bởi con người. Nếu tính đó đã bị nhiễm một cái gì như nhân, nghĩa,… thì không còn là tính nữa. Bởi vậy, theo Lão Tử con người chỉ cần hoạt động theo lẽ tự nhiên là đạt Đạo, là chân lý. Để xã hội thịnh trị thì quay về với bản tính tự nhiên ban đầu của con người là hoàn thiện nhất, con người cần phải giữ được cái tính giản dị, thuần phác, tự nhiên và như vậy không nên khổ công giáo dục con người theo nhân, nghĩa, lễ làm gì, vì đó là những việc làm trái với lẽ tự nhiên. Các học thuyết khác ra đời ở thời kỳ này cũng có chú ý tới việc giáo hóa dân. Phái Mặc gia khuyên mọi người học những điều Thiên Tử cho là đúng. Cái gì Thiên Tử khen thì dân cũng khen, Thiên Tử chê thì dân chê. Phái Pháp gia mới chỉ có ý định dạy cho dân biết pháp luật để họ đừng trái ph p nước. Cũng như các nhà tư tưởng thời kỳ này, Khổng Tử quan tâm đặc biệt đến vấn đề con người. Về vấn đề bản tính con người, trong cuốn Trung Dung, Khổng Tử đã giải thích: “Cái mà mệnh trời phú cho gọi là Tính, noi theo tính là đạo, tu theo Đạo gọi là Giáo” (Thiên mệnh chi vị tính, suất tính chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo) [3, tr.39]. Theo Khổng Tử, Tính là cái có nguồn gốc từ trời, là nguyên lý tự nhiên mà trời phú cho con người. Tính là cái bẩm sinh ban đầu, là cái nguyên sơ mà con người có được từ trời. Ông cho rằng, bản tính con người là ngay thật: “nhơn chi sanh dã trực” [4, tr.92-93], có nghĩa là khi sinh ra con người hoàn toàn nguyên sơ, tự nhiên, chưa bị tác động của ngoại cảnh, và các yếu tố xã hội. Ở đây, Khổng Tử không nói bản tính con người là thiện hay ác, mà khẳng định cái bản tính ban đầu của con người có thể bị biến 14 đổi bởi các điều kiện, yếu tố ngoại cảnh, bởi ở chính sự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của con người. Khổng Tử cho rằng: “người ta tất thảy đều giống nhau, vì ai nấy đều có bản tính ngay thật; nhưng bởi nhiễm thói quen, nên họ thành ra khác nhau” (Tính tương cận dã, tập tương viễn dã) [4, tr.268-269]. Khi mới sinh ra mọi người đều có bản tính giống nhau, nhưng trong cuộc sống mỗi người lại có một hoàn cảnh, một điều kiện khác nhau, nghề nghiệp khác nhau, tập quán khác nhau,… làm cho mọi người xa dần bản tính ban đầu. Để mọi người gần nhau và trở lại bản tính ban đầu, làm cho xã hội vô đạo trở về với hữu đạo, Khổng Tử chủ trương giáo hóa, mọi người phải học tập, tu dưỡng hướng tới những điều nhân nghĩa để giữ bản tính thiện của mình. Như vậy, vấn đề con người và giáo dục con người được rất nhiều nhà tư tưởng thời kỳ này quan tâm nhưng không một học phái nào đề cao đúng mức và đạt được thành tựu về mặt giáo dục bằng Khổng Tử. Khổng Tử chủ trương giáo hóa, mọi người phải học tập, tu dưỡng hướng tới những điều nhân nghĩa để giữ bản tính thiện của mình, xa rời cái ác, cái bất nhân, hiểu được đạo và trở về với đạo thì xã hội sẽ tốt đẹp hơn. Cống hiến cuộc đời Khổng Tử chủ yếu là nghề dạy học. Khổng Tử bắt đầu dạy học từ năm 19 tuổi. Khổng Tử đã đào tạo được hàng ngàn học trò, nhiều thế hệ học trò nối tiếp nhau dạy học tạo thành tầng lớp Nho sĩ, tầng lớp giữ vị trí then chốt trong triều đại về sau của Trung Quốc. Đặc biệt hơn nữa, Khổng Tử còn để lại cho hậu thế một di sản vô giá về giáo dục, từ quan điểm tiến bộ đến mục đích giáo dục rõ ràng, nội dung phong phú, nguyên tắc rạch ròi, phương pháp cụ thể. Thân thế và sự nghiệp của Khổng Tử lưu lại cho đời sau những giá trị bất hủ. Nên người đời sau mới tôn tặng ông danh hiệu nhà giáo dục tiêu biểu của muôn đời “Vạn thế sư biểu”. Tóm lại, toàn bộ những điều kiện kinh tế - xã hội và những tiền đề tư tưởng trên vừa đặt ra vấn đề, vừa cung cấp điều kiện để giải quyết những vấn 15 đề ấy, và Khổng Tử đã nhận thức và đảm đương được sứ mệnh xây dựng nền tảng cho một hệ tư tưởng mới - hệ tư tưởng Nho giáo, trong đó tư tưởng giáo dục có vai trò quan trọng. 1.2. Nội dung tư tư ng gi o d c c a Khổng Tử 1.2.1. Mục đích, đ i iáo dục Về mục đích giáo dục: Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử ra đời trên cơ sở kinh tế - xã hội của thời đại và từ quan niệm về con người, bản tính con người của ông. Những cơ sở đó là những vấn đề đòi hỏi phải được luận giải và giải quyết trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử. Trong thời đại Khổng Tử, xã hội rối loạn do chiến tranh diễn ra liên tục giữa các nước chư hầu, thiên hạ trở nên vô đạo, nên mục đích giáo dục của Khổng Tử không chỉ là đào tạo những người biết đạo, hiểu đạo, mà còn là đào tạo ra người có đủ năng lực để tham gia vào việc gánh vác công việc quốc gia, bình ổn xã hội. Mục đích giáo dục của Khổng Tử là đào tạo con người tài, đức song toàn, đó là đào tạo mẫu người quân tử. Nếu giáo dục được Khổng Tử xem là phương tiện chính góp phần cải biến xã hội từ loạn thành trị, thì người quân tử là nhân tố cốt lõi, là động lực dẫn dắt xã hội đến thịnh trị. Đối với Khổng Tử, giáo dục trước hết nhằm mục đích đào tạo những con người có lòng nhân. Nhân là trung tâm trong học thuyết chính trị của Khổng Tử. Nhân bao hàm nhiều nội dung, nhưng nội dung cơ bản của nhân chính là đạo lý làm người, vừa thương người (ái nhân) vừa phải giúp người (cứu nhân). Vì vậy, một người dù quán triệt nhiều tiêu chuẩn đạo đức Nho giáo, nhưng không đảm bảo được hai mặt ái nhân và cứu nhân thì cũng chưa được coi là người có nhân. Đồng thời, đối với Khổng Tử, nhân bao giờ cũng gắn với lễ. Lễ là những nguyên tắc ứng xử để điều chỉnh hành vi của con 16 người cho đúng với nhân (khắc kỉ phục lễ vi nhân). Như vậy, lễ là sự biểu hiện của nhân, đồng thời là điều kiện để đạt tới điều nhân. Bên cạnh đó, người quân tử cần có trí (tri thức). Con người phải có tri thức mới thực hành được điều nhân một cách triệt để. Muốn có tri thức thì phải học tập: “Ngọc bất trác bất thành khí Nhân bất học bất tri đạo” Ngọc không mài giũa không nên vật trang sức quý; Người không học không có tri thức. Đồng thời, người quân tử dám vì nghĩa quên mình, không sợ cường quyền bạo lực, có như vậy mới thực hiện được cứu nhân. Người quân tử vừa có lòng nhân, vừa trí và dũng. Theo Khổng Tử, học để làm người quân tử với chí khí của bậc đại trượng phu - hình mẫu của con người trong xã hội phong kiến. Chiều sâu trong mục đích giáo dục của Khổng Tử đó là học để thấu đạo (tri đạo), thấu đạo rồi mới hành đạo, giúp đời, cứu người. Khổng Tử cho rằng, mục đích của học giả đời xưa là học để có tri thức, để sửa mình, còn mục đích của học giả đời nay là học để có địa vị và danh phận trong xã hội, tức là học để làm quan, để dẫn dắt xã hội tới thịnh trị: “Người đời xưa vì mình mà học đạo; người đời nay vì người mà học đạo” (Cổ chi học giả vị kỷ, kim chi học giả vị nhơn) [23, 226-227]. Tư tưởng “Học chí dĩ dụng”, tức là học để ứng dụng , phục vụ cho lợi ích quốc gia, luôn là mục đích cao nhất của người học. Tuy nhiên, mục đích giáo dục của Khổng Tử không chỉ là đào tạo, bồi dưỡng người quân tử, mà đồng thời còn là giáo dục cho cả bậc thứ dân. Để truyền bá tư tưởng nhân nghĩa của mình, mục đích giáo dục của Khổng Tử còn là giáo dục cho dân chúng đạo lý tam cương, ngũ thường, nên sống đúng với cái danh của mình, tất cả cũng nhằm duy trì trật tự, kỷ cương và ổn định của xã hội phong kiến. Ông nói: “Người quân tử ở ngôi trên nhờ học đạo mà thương mến dân chúng; kẻ tiểu nhân ngồi ở bậc dưới nhờ học đạo mà biết 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan