Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sự hình thành và theo đuổi đổi mới đột phá với hệ sinh thái Drupal như một phòng...

Tài liệu Sự hình thành và theo đuổi đổi mới đột phá với hệ sinh thái Drupal như một phòng thí nghiệm sống động cho quản lý nghiên cứu & phát triển Mixel Kiemen1

.PDF
32
234
148

Mô tả:

Sự hình thành và theo đuổi đổi mới đột phá với hệ sinh thái Drupal như một phòng thí nghiệm sống động cho quản lý nghiên cứu & phát triển Mixel Kiemen1
Sự hình thành và theo đuổi đổi mới đột phá với hệ sinh thái Drupal như một phòng thí nghiệm sống động cho quản lý nghiên cứu & phát triển Mixel Kiemen1 1 [email protected] Vrije Universiteit Brussel, Pleinlaan 2, 1050 Brussels, Bỉ. The genesis and pursuit of breakthrough innovation with the Drupal ecosystem as a living-lab for R&D management Mixel Kiemen1 [email protected] Vrije Universiteit Brussel, Pleinlaan 2, 1050 Brussels, Belgium Dịch sang tiếng Việt: Lê Trung Nghĩa, [email protected] Dịch xong: 20/11/2013 Bản gốc tiếng Anh: http://www.mixel.be/files/pdf/RnDmana2010.pdf Để sử dụng trí tưởng tượng như một phương pháp quản lý nghiên cứu và phát triển (R&D), chúng ta cần các phòng thí nghiệm và các thực nghiệm để kiểm thử tính hợp lệ của tầm nhìn. Trên giấy tờ, chúng ta khai thác khả năng tiến hành nghiên cứu thực nghiệm trong thiết kế một hệ thống hỗ trợ đổi mới. Trong trường hợp của chúng tôi, hệ sinh thái Drupal được xem như một phòng thí nghiệm sống động đang nổi lên về sự quản lý R&D. Hệ sinh thái Drupal có một văn hóa nội tại và công nghệ cao và vì thế đang trở thành một người trung gian đổi mới thú vị. Một trường hợp điển hình sẽ giới thiệu hệ sinh thái Drupal và hiện tượng đổi mới tự phát tự sinh của nó. Một thử nghiệm, dựa vào trường hợp Drupal, được tiến hành với một khóa học gọi là Phát triển Dịch vụ Web cho Doanh nghiệp (Web Service Development for Business), đã và đang diễn ra 2 năm. Khóa học này thể hiện cách mà sự tự tổ chức có thể trở thành một phương pháp vận hành thông qua nghiên cứu các hành động: lên kế hoạch, hành động và phản hồi. Trong pha phản hồi hiện hành của chúng tôi, chúng tôi có thể tưởng tượng một cơ hội để nghiên cứu khoảng cách giữa quản lý đổi mới dựa vào lý thuyết và sự chỉnh hướng của công nghệ thông tin (CNTT). Điều này cho phép chúng tôi thiết kế hệ thống Lên kế hoạch Đổi mới Doanh nghiệp - EIP (Enterprise Innovation Planning) để đưa ra sự hỗ trợ bằng CNTT cho đổi mới. Sự hình thành và theo đuổi đối mới đột phá với hệ sinh thái Drupal như một phòng thí nghiệm sống động cho quản lý nghiên cứu & phát triển 1. Giới thiệu Liệu quản lý R&D và quản lý đổi mới có thực sự tạo nên những cải tiến hữu ích hay không là một câu hỏi thường thấy, đặc biệt trong môi trường có khả năng thích nghi phức tạp mà ở đó chúng vận hành. Hệ sinh thái Drupal, một Hệ Quản trị Nội dung – CMS (Content Management System) nguồn mở, minh họa cách mà sự tự tổ chức có thể dẫn dắt sự đổi mới. Sự phát triển trong hệ sinh thái Drupal nằm trong sự tương phản với những gì được biết tới trong các tài liệu quản lý ở chỗ thay vì sự tự tổ chức được sử dụng thì phân tích các dữ liệu. Như Christensen (2006) giải thích, các dữ liệu chỉ có thể cung cấp thông tin về quá khứ và vì thế lý thuyết là cần thiết cho sự ngoại suy. Các xu thế thiết kế có thể được quan sát thấy để xây dựng các lý thuyết vững mạnh bên trong một môi trường có tính thích nghi phức tạp. Một xu thế thiết kế đã bắt đầu với chỗ bị hỏng về sáng tạo của Schumpeter (1975). Thiết kế đằng sau lý thuyết này là để chia đổi mới thành một phép lưỡng phân của những vấn đề đơn giản, có tính đột phá và đối kháng. Các phép lưỡng phân tương tự là, trong số các phép khác, thành phần/kiến trúc (Henderson và Clark 1990), liên tục/không liên tục (Hamel và Prahalad 1994), từng chút một/tận gốc (Freeman và Soete 1997) và bền vững/đột phá (Christensen 1995). Xu thế thiết kế khác từng được khởi xướng bằng ưu thế cạnh tranh của Porter (1980). Thiết kế này đã tập trung vào việc quản lý giá trị kinh doanh. Nó đã chuyển sang quan điểm dựa vào tài nguyên (Wernerfelt 1984; Barney 1991) và sau đó đã chuyển sang khung các khả năng năng động (Teece, Piasno và Shuen 1997; Eisenhardt và Martin 2000). Cái thứ 3, xu thế thiết kế được phân mảnh hơn, dựa vào các liên minh. Một số lý thuyết có liên quan kết hợp xu thế này, là các lý thuyết về các năng lực hấp thụ (Cohen và Levinthal 1990), các tổ chức thuận cả 2 tay (Thusman 1996) và đổi mới mở (Chesbrough 2003). Xu thế ở trên dẫn tới các lý thuyết, và các lý thuyết có thể dẫn tới thiết kế hệ thống. 2 ví dụ của các hệ thống như vậy là thiết kế lớn - nhỏ (big-small) của Applegate and Co. (2003, trang 232) và máy tăng trưởng đột phá của Christensen (2003, trang 278). Khi các lý thuyết hội tụ lại, một khung vững mạnh hơn đã trở thành sẵn sàng để phát triển các hệ thống đổi mới thiết kế. Tuy nhiên, nghiên cứu thực nghiệm để kiểm thử và cải thiện các hệ thống thiết kế là không được biết tới. Trong tài liệu này, chúng tôi khai thác hệ sinh thái Drupal như một phòng thí nghiệm sống động cho nghiên cứu quản lý R&D, cho phép nghiên cứu thực nghiệm. Một phòng thí nghiệm sống động có nghĩa là phòng thí nghiệm đó là một môi trường thực. Xét thấy chúng tôi muốn nghiên cứu sự đổi mới, dường như là hợp lý để làm việc với một phòng thí nghiệm sống động. Sự tự tổ chức là lý do chúng tôi thấy hệ sinh thái Drupal như là phòng thí nghiệm sống động cho quản lý R&D. Tự tổ chức là về hiện tượng tự phát tự sinh đang nổi lên. Heilighen (2006) minh họa các giai đoạn đang nổi lên của các hệ thống có trật tự cao trong đó những tương tác dẫn tới sự điều phối một cách tự phát tự sinh. Chúng tôi sẽ minh họa rằng hệ sinh thái Drupal có thể biến một cách tự phát tự sinh thành một dự án đổi mới mở thông qua văn hóa nội tại và các doanh nghiệp đa dạng của nó. Văn phòng Phối hợp Phát triển Môi trường Khoa học Công nghệ, Bộ Khoa học & Công nghệ Trang 2/32 Sự hình thành và theo đuổi đối mới đột phá với hệ sinh thái Drupal như một phòng thí nghiệm sống động cho quản lý nghiên cứu & phát triển Sự tự phát tự sinh gây ra một số hiện tượng thách thức nghiên cứu quản lý hiện hành. Một hiện tượng khác bổ sung cho những hiểu biết sâu và mới trong các cơ hội thiết kế. Sự khác biệt chính giữa nghiên cứu của chúng tôi và các tài liệu đổi mới hiện hành là khái niệm nuôi dưỡng sự tự tổ chức thay vì nhu cầu kiểm soát đổi mới. Trong trường hợp của Drupal, sự đổi mới là tự phát tự sinh, vì thế có ít nhu cầu kiểm soát quản lý, tác động tới vài lý thuyết quản lý. Sự tự phát tự sinh cũng tác động tới công nghệ. Drupal là một công nghệ đang nổi lên, khi mà nó đang phát triển liên tục, và sự sử dụng công nghệ của nó luôn thay đổi. Vì những thay đổi và thách thức đó mà chúng tôi đã quyết định xem hệ sinh thái Drupal như là một phòng thí nghiệm phù hợp cho nghiên cứu quản lý R&D. Drupal là một CMS nguồn mở. Trong vòng 6 năm qua, hệ sinh thái doanh nghiệp của nó đã tăng trưởng và một số câu chuyện thành công gần đây đã nhấn mạnh tới công việc của các cửa hàng Drupal đối với một số công ty lớn hơn. Chúng tôi bắt đầu tài liệu này bằng việc giới thiệu Drupal như một trong những tay chơi trong thị trường CMS. Chúng tôi thực hiện một giả thiết hợp lý rằng Drupal đã trở thành thiết kế áp đảo trong thị trường này. Các cuộc phỏng vấn được thực hiện với các công ty để có được quan điểm về hiện tượng đang nổi lên này. Tự tổ chức là khía cạnh chính trong thực nghiệm của chúng tôi, và đối với nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi sử dụng một khóa học được gọi là Phát triển Dịch vụ Web cho Doanh nghiệp - WSDB (Web Service Development for Business). WSDB là một khóa học cường độ lớn được đưa ra cho các sinh viên năm đầu tiên làm Thạc sỹ Kinh doanh và Công nghệ (Master of Business and Technology). Việc biết cách lập trình không phải là một điều kiện tiên quyết của khóa học này, nên các sinh viên thường bị vùi tràn trong thông tin và các kỹ năng mà họ phải học. Năm đầu tiên của khóa học này phải có một gia sư (tutor) làm trung gian. Các dữ liệu chỉ ra cách mà, qua thời gian, sự trung gian từng được website của khóa học thực hiện. Sự dịch chuyển này minh họa cho việc dựng giàn giáo (scaffolding) thích đáng. Việc dựng giàn giáo là khái niệm mà chúng tôi phát hiện trong nghiên cứu có tác dụng giáo dục và nhận thức và là rộng lớn hơn so với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin (CNTT); nghĩa là, nó cũng bao gồm tri thức có trước đó như một cấu trúc hỗ trợ. Thực nghiệm WSDB đã được áp dụng bằng việc sử dụng phương pháp nghiên cứu hành động. Nghiên cứu hành động nghĩa là đang được tham gia một cách tích cực vào sự thay đổi thông qua các bước lên kế hoạch, hành động và phản hồi được lặp đi lặp lại. Trong khi nghiên cứu hành động của giáo sư Kurt Lewin của Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) có từ năm 1944, thì nó vẫn còn là một phương pháp khoa học gây tranh cãi. Trong những năm gần đây, phương pháp đó đã và đang được chấp nhận với các nghiên cứu xã hội, thực tiễn giáo dục và các chương trình phát triển phần mềm. Hiện hành, có một sự dịch chuyển sang sử dụng nghiên cứu hành động như một phương pháp quản lý đổi mới, và việc đưa sự tự tổ chức vào thông qua việc học với máy tính làm trung gian được xem như là để cải thiện cho nghiên cứu hành động mà chúng tôi sẽ gọi là việc dựng giàn giáo có phương pháp luận. Trong pha lên kế hoạch, một người trung gian được thiết kế. Trong pha hành động, sự tự tổ chức được nuôi dưỡng bằng việc sử dụng sự dựng giàn giáo. Trong pha hành động, những điều mới lạ nổi lên, nhưng chúng chỉ trở nên được nhận diện rõ ràng trong pha phản hồi. Ở thời điểm này, các giàn giáo dễ vỡ có thể được thiết kế lại để trở thành các cấu trúc hỗ trợ vững Văn phòng Phối hợp Phát triển Môi trường Khoa học Công nghệ, Bộ Khoa học & Công nghệ Trang 3/32 Sự hình thành và theo đuổi đối mới đột phá với hệ sinh thái Drupal như một phòng thí nghiệm sống động cho quản lý nghiên cứu & phát triển mạnh, chúng có thể khởi xướng một pha mới về lên kế hoạch. Trong một nỗ lực lý thuyết hơn, hệ thống Lên kế hoạch Đổi mới Doanh nghiệp - EIP (Enterprise Innovation Planning) được thiết kế như một cấu trúc hỗ trợ mức cao cho đổi mới đột phá. Tuy nhiên, kinh nghiệm WSDB có thể được sử dụng cho việc lên kế hoạch thực nghiệm hơn. Trong pha hành động EIP đầu tiên, chúng tôi không kỳ vọng một tác động lớn lên quản lý đổi mới, mà chúng tôi kỳ vọng để tạo ra một người trung gian mà với nó chúng tôi có thể có được hiểu biết sâu sắc hơn trong chiến lược. Để tạo ra một người trung gian cụ thể hơn, chúng tôi có thể được những điều mới lạ hoặc các hiệu ứng tràn tín hiệu truyền cảm hứng, chúng đã nổi lên trong pha hành động trước đó. Trong pha phản hồi hiện hành của chúng tôi, chúng tôi có thể kỳ vọng một sự tăng cường hơn nữa của hệ sinh thái Drupal như một phòng thí nghiệm sống động (sau này gọi là các phòng thí nghiệm Drupal). Với WSDB, chúng tôi chỉ ra cơ hội cho các sáng kiến nhỏ. Các sáng kiến nhỏ nằm trong sự tương phản với các sáng kiến dựa vào các tiến sĩ. Cơ hội cho các sáng kiến nhỏ được xem như là một sự phá vỡ thị trường cấp thấp đối với các trường kinh doanh. Chúng tôi cũng kỳ vọng một cơ hội cho các sáng kiến hàn lâm sẽ được sử dụng ở phần cấp cao của thị trường bằng việc nổi lên của các Văn phòng Chuyển giao Công nghệ - TTO (Technology Transfer Offices). Người ta có thể tưởng tượng TTO chủ động tích cực hơn để theo đuổi đổi mới đột phá nếu họ được một hệ thống EIP hỗ trợ phù hợp. Đối với các mục tiêu cấp thấp và cấp cao, chúng tôi với tới những người trong giới hàn lâm cũng như trong cộng đồng Drupal để làm cho các dự án của chúng tôi cùng tiến hóa. Văn phòng Phối hợp Phát triển Môi trường Khoa học Công nghệ, Bộ Khoa học & Công nghệ Trang 4/32 Sự hình thành và theo đuổi đối mới đột phá với hệ sinh thái Drupal như một phòng thí nghiệm sống động cho quản lý nghiên cứu & phát triển 2. Trường hợp Drupal Có một chủ đề của tranh luận đang diễn ra trong cộng đồng Drupal là liệu Drupal là một CMS hay là một khung phát triển web. Điều này bản chất tự nhiên là sự lai, nó nói cho chúng tôi nhiều về dự án Drupal. Drupal không chỉ là một CMS nguồn mở. Nó là một dự án cấu thành từ những người có tài muốn làm điều khác biệt; nó có văn hóa xuất sắc của công nghệ cao và vì thế, không thể phân loại dự án đó như việc chỉ có 1 hoặc 2 tính năng. Ví dụ, cũng có một tranh luận liệu mã của Drupal có là hướng đối tượng hay không. Một số người thể hiện rằng thiết kế hiện hành có những lợi ích đối với một hệ biến hóa hướng đối tượng và cả 2 hệ biến hóa cần phải được triển khai. Vì thế, ngay khi được gợi ý rằng Drupal chỉ thuần túy là X, đã có một gợi ý khác đưa ra ngược lại. Đó là vì văn hóa xuất sắc của công nghệ cao này mà Drupal đang trở thành một dự án đổi mới mở. Văn hóa Drupal ảnh hưởng tới các doanh nghiệp mà nó lôi cuốn. Hệ sinh thái các doanh nghiệp của Drupal là có thể phân biệt được đáng kể so với một số dự án phần mềm nguồn mở (PMNM) có liên quan. Thường thì, các dự án khác có một công ty chính đứng đằng sau chúng. Ví dụ, CMS WordPress có Automattic, trong khi nền tảng phần mềm Eclipse có RationalDivision của IBM. Nhiều người trỏ tới công ty Acquia khi trình bày vai trò đó đối với Drupal, nhưng những khác biệt là đáng kể. Trong khi RationalDivision đã thay đổi việc cấp phép để làm cho mã của chúng là nguồn mở, thì Drupal đã bắt đầu như một nguồn mở và một hệ sinh thái các doanh nghiệp sống động đã tồn tại trước khi có việc sáng lập Acquia vào tháng 12/2007. Chúng tôi sẽ minh họa rằng sức mạnh của Drupal là sự đa dạng của nó, làm cho nó trở thành một kinh nghiệm lớn trong đó mọi người trở nên liên kết với nhau. Một trích dẫn nổi tiếng trong cộng đồng tạo khung cho sự xuất sắc đó: “tới vì phần mềm, ở lại vì cộng đồng”. Các dự án nguồn mở thường được xem là những đổi mới đột phá, khi chúng tái định nghĩa giá trị kinh tế của sự phát triển phần mềm. Chúng hầu hết không được xem như là người dẫn dắt công nghệ. Ví dụ Tuomi (2005) chỉ trích Linux vì không phải là đổi mới thật sự, khi mà Linux đơn giản là việc tái triển khai các chức năng mà đang tồn tại rồi trong Windows. Drupal là một trường hợp rất khác; Drupal là người dẫn dắt trong các chức năng mới, và các hệ thống CMS khác áp dụng chúng. Cho tới bây giờ, Drupal thường được xem là quá phức tạp cho hầu hết các CMS, ví dụ, khi so sánh với WordPress, trong khi nó từng không được xem là phức tạp đủ đối với một khung phát triển web, ví dụ, khi so sánh với Ruby on Rails. Vào năm 2006, DeveloperWorks của IBM đã làm một phân tích những điểm mạnh, yếu, cơ hội và thách thức - SWOT (Strengths Weaknesses Opportunities and Threats), chỉ ra các chức năng độc nhất của Drupal làm cho nó là một công cụ tuyệt vời cho phát triển web1. Quả thực vị thế đột phá của Drupal làm cho nó phù hợp cho nghiên cứu đổi mới. Xu thế của hệ thống quản trị nội dung Để minh họa vai trò của Drupal trong thị trường CMS, chúng tôi sử dụng Google Trends 2. Có thể bị 1 2 http://www.ibm.com/developerworks/ibm/library/iosource1/index.html (xem ngày 02/11/2010). Xem http://www.google.com/trends (xem ngày 02/11/2010). Văn phòng Phối hợp Phát triển Môi trường Khoa học Công nghệ, Bộ Khoa học & Công nghệ Trang 5/32 Sự hình thành và theo đuổi đối mới đột phá với hệ sinh thái Drupal như một phòng thí nghiệm sống động cho quản lý nghiên cứu & phát triển chỉ trích rằng việc sử dụng Google Trends không phải là hàn lâm, khi nó không làm cho chúng tôi phải bỏ ra nỗ lực nào để xây dựng phân tích các dữ liệu. Đóng góp trong nghiên cứu của chúng tôi là sự giải thích làm sáng tỏ, dựa vào kinh nghiệm có sự tham gia của chúng tôi, chứ không chỉ bản thân sự phân tích dữ liệu. Đơn giản là Google Trends trả về một từ khóa thường xuyên mức nào từng được tìm ra qua thời gian. Biểu đồ đầu tiên của chúng tôi là để minh họa rằng thị trường CMS đang mở lại và các sản phẩm nguồn mở đang dẫn đầu. Điều này trở nên rõ ràng bằng việc so sánh 5 hệ thống có xu thế nhất: Drupal, WordPress, Joomla, Lotus và Sharepoint. Drupal, WordPress và Joomla là các hệ thống nguồn mở phổ biến nhất. 2 bộ phổ biến nhất của các doanh nghiệp là Lotus (của IBM) và Sharepoint (của Microsoft). Trong Hình 1, chúng ta có thể thấy rằng trước năm 2004, chỉ các bộ của doanh nghiệp từng có sự quan tâm, và rõ ràng, Lotus từng áp đảo. Hình 1: Nghiên cứu các xu thế của Lotus (màu xanh lá cây), Sharepoint (màu tím), WordPress (màu da cam), Joomla (màu đỏ) và Drupal (màu xanh da trời) Lotus đánh mất đáng kể xu thế của nó vào khoảng các năm 2004-2007, và tới 2008, các hệ thống nguồn mở đã vượt lên dẫn đầu. Sharepoint dường như từng hoàn toàn ổn định trong cả giai đoạn đó. Sự xuất hiện bỗng nhiên của Joomla vào năm 2005 là sự lạc hướng. Chúng tôi sẽ phân tích tỉ mỉ trường hợp của Joomla chi tiết hơn sau. Drupal từng chậm giành được sự phổ biến, nhưng không nhanh như, ví dụ, WordPress. Vì thế người ta có thể đặt câu hỏi vì sao chúng tôi xem xét Drupal (mà không WordPress) sẽ trở thành thiết kế áp đảo. Trong khi Joomla và WordPress tập trung vào việc trở thành CMS tốt nhất, thì Drupal là một sự lai mà cũng cố gắng trở thành khung phát triển web tốt nhất. Bằng việc so sánh Drupal với 4 CMS hướng kỹ thuật, chúng tôi phát hiện ra một bức tranh rất khác, ví dụ, lấy Phpnuke, Plone, Typo3 và Drupal. So sánh giai đoạn 2004-2005 (trong Hình 2) với giai đoạn 2004-2009 (Hình 1). Trước 2004, Phpnuke từng áp đảo và một lần nữa, Drupal không thật phổ biến. Tới năm 2008, rõ ràng Drupal đã thắng thế. Hình 2. Nghiên cứu các xu thế của Phpnuke (màu xanh lá cây), Plone (màu da cam), Typo3 (màu Văn phòng Phối hợp Phát triển Môi trường Khoa học Công nghệ, Bộ Khoa học & Công nghệ Trang 6/32 Sự hình thành và theo đuổi đối mới đột phá với hệ sinh thái Drupal như một phòng thí nghiệm sống động cho quản lý nghiên cứu & phát triển đỏ) và Drupal (màu xanh da trời). Lưu ý trước tiên, Plone đi xuống và Drupal tiếp tục đi lên; và ngay sau đó, Typo3 đi xuống. Chúng tôi có thể gợi ý các lý do vì sao một sự kiện như vậy (Hình 2) có lẽ đã không xảy ra như đối với Hình 1. Lưu ý (trong Hình 1) trong khi Joomla đi xuống, thì Drupal đã không đi lên. Lý do cho sự đi xuống của Joomla được hiểu tốt hơn khi chúng ta nhìn vào lịch sử của nó. Đã có một CSM quen được gọi là Mambo, cộng đồng của nó từng “bị rẽ nhánh” (nó tách thành 2 nhóm). Hình 3 minh họa sự rẽ nhánh tạo ra sự mất xung lượng như thế nào. Bây giờ Joomla, Mambo và WordPress được so sánh. Cộng đồng Joomla đã phản ứng thất vọng khi nó đã trải nghiệm phiên bản 1.5 của nó. Quá nhiều cửa hàng Joomla hiện đang chuyển đổi sang Drupal vì các cơ hội kinh doanh lớn hơn mà Drupal chào3. Nguồn: Google Trends Hình 3. Nghiên cứu các xu thế của Mambo (màu xanh lá cây), WordPress (màu da cam), Joomla (màu đỏ) và Drupal (màu xanh da trời). Dựa vào giả thiết của chúng tôi, câu hỏi quan trọng là vì sao Drupal đang không trở thành xu thế hơn. Điều này có thể đòi hỏi một nghiên cứu sâu hơn, nhưng chúng tôi có thể phỏng đoán. Trước hết, Drupal 7 từng chậm đưa ra và chúng tôi kỳ vọng một sự gia tăng từ các phiên bản mới. Thứ 2, xu thế gần đây nhất là tạo ra một phân phối Drupal, mà các phần phối đó có các tên khác nhau, sao cho chúng sẽ không được bổ sung vào Google Trend. Bằng việc nhìn vào sự tăng trưởng trong các yêu cầu công việc (Hình 4) cho từng CMS nguồn mở, chúng tôi có thể nhận diện được một số bằng chứng cho sự phỏng đoán của chúng tôi rằng Drupal đang trở thành thiết kế áp đảo. Nguồn: Indeed.com Hình 4. Các xu thế công việc của Drupal (màu xanh da trời), WordPress (màu da cam) và Joomla 3 http://buytaert.net/joomla-vs-drupal-business-models-andcommercial-ecosystem (xem ngày 02/11/2010) Văn phòng Phối hợp Phát triển Môi trường Khoa học Công nghệ, Bộ Khoa học & Công nghệ Trang 7/32 Sự hình thành và theo đuổi đối mới đột phá với hệ sinh thái Drupal như một phòng thí nghiệm sống động cho quản lý nghiên cứu & phát triển (màu xanh lá cây). Tuy nhiên, thậm chí xu thế công việc không phải là lý do đủ để kỳ vọng Drupal sẽ trở thành thiết kế áp đảo. Nhìn nhận của chúng tôi là dựa vào hành xử của các môi trường phức tạp có thể thích nghi được. Chúng tôi kỳ vọng thị trường sẽ nổi lên ở một nơi mà Drupal là phù hợp nhiều. Được kỳ vọng sự thay đổi đó sẽ có liên quan tới các nền tảng đổi mới và các hệ thống chuyên nghiệp. Để minh họa cách mà Drupal biến đổi thành một nền tảng đổi mới, hãy để chúng tôi nhìn vào cách mà Drupal đã tránh được một “sự rẽ nhánh” với Deanspace. Deanspace, sau này đã trở thành nổi tiếng như là CivicSpace, từng được thành lập vào tháng 05/2004 cho chiến dịch tranh cử tổng thống của Howard Dean. Số lượng lớn các tài nguyên sẵn sàng đã làm cho sự phát triển của Deanspace trôi khỏi Drupal. Tuy nhiên, sự thừa nhận các Giao diện Lập trình Ứng dụng - API (Application Programming Interface) mới trong phiên bản tiếp sau của Drupal và và của cộng đồng lớn của Drupal đã làm cho họ tái tham gia lại vào dự án vào tháng 03/2005. Theo một số ý nghĩa, thì Deanspace có thể được xem như một ví dụ sớm (và tự phát tự sinh) về cách mà các phân phối khác có thể dẫn dắt sự đổi mới vì Drupal. Ngày nay, Drupal dễ dàng có khả năng phát triển các phân phối khác nhau và vì thế tạo ra các cấu trúc hỗ trợ bằng CNTT để trợ giúp cho sự đổi mới. Drupal đã trở thành hệ thống hướng chuyên nghiệp. Ví dụ, Gartner (2009) 4 đã đặt Drupal vào góc phần tư huyền ảo của “Phần tư Ma thuật cho Phần mềm Xã hội ở Nơi làm việc” (Magic Quadrant for Social Software in the Workplace). Joomla và WordPress thậm chí không nằm trong biểu đồ. Những thành công gần đây về kinh doanh đã bổ sung cho sự tín nhiệm của Drupal như một giải pháp chuyên nghiệp. Để nghiên cứu những thay đổi và thành công xa hơn, chúng tôi cần có được sự hiểu biết tốt hơn về hành vi mà xác định hệ sinh thái Drupal. Những người kỹ thuật - xã hội Mọi người thể hiện tình yêu của họ đối với Drupal theo các cách thức không bình thường, như những chiếc bít tất len ngắn cổ hoặc những chiếc bánh nướng với biểu tượng Drupal, tạo ra một bài hát về Drupal, mặc quần áo được trang trí với biểu tượng Drupal và tạo ra các trò chơi Drupal. Hãy để chúng tôi gọi ra những ví dụ đó, những biểu cảm về công nghệ, chúng là những thể hiện biểu cảm khác nhau của công nghệ. Cái đầu cũng xảy ra trong mối quan hệ với các công ty công nghệ khác với một thương hiệu mạnh (như Google, Apple và IBM). Cái sau có thể giải thích những sự khích lệ của các cộng đồng nguồn mở. Ý tưởng về việc thể hiện biểu cảm bằng việc sử dụng việc lập trình là khó để hiểu cho những người không phải là các lập trình viên. Một cách khác để minh họa các biểu cảm bằng việc sử dụng công nghệ được đưa ra bằng các nghiên cứu nhân chủng học của Wesch về Youtube. Wesch (2008) 5 giải thích cách mà các video bắt chước là một cách mà cộng đồng Youtube thể hiện sự đánh giá của họ về một video đặc biệt nào đó. Trong cộng đồng Drupal, chúng tôi thấy cách mà tình yêu của một dự án là một sự khích lệ dẫn dắt tới những đóng góp tự do như: phát triển, dịch, tổ chức sự kiện, viết 4 5 http://acquia.com/community/resources/library/2009-gartnermq-social-software (xem ngày 02/11/2010). http://www.youtube.com/watch?v=TPAO-lZ4_hU (xem ngày 02/11/2010). Văn phòng Phối hợp Phát triển Môi trường Khoa học Công nghệ, Bộ Khoa học & Công nghệ Trang 8/32 Sự hình thành và theo đuổi đối mới đột phá với hệ sinh thái Drupal như một phòng thí nghiệm sống động cho quản lý nghiên cứu & phát triển các tài liệu, kiểm thử khả năng sử dụng hoặc đưa ra các khóa học Drupal tự do, … Lưu ý rằng những đóng góp đó không bị hạn chế đối với Drupal; chúng là chung cho nhiều dự án kỹ thuật của Internet. Các tài liệu về quản lý trong sự liên kết nội tại giữa các lập trình viên nguồn mở - hoặc những người đóng góp chung nhiều hơn - và các dự án của họ không mô tả rõ ràng mối quan hệ kỹ thuật - xã hội có cảm xúc. Một quan điểm lựa chọn khác có thể được thấy từ lớp sáng tạo của Florida (2002). Khái niệm này dường như phù hợp để mô tả sự phát triển của nguồn mở. Một số ví dụ định nghĩa lớp sáng tạo là một động lực nội tại xóa nhòa các biên giới giữa các giờ làm việc và không làm việc, một mạng xã hội rộng lớn, phấn đấu vì các trách nhiệm và sự lãnh đạo. Lý thuyết khác có thể bổ sung cho sự hiểu biết của các nhân viên sáng tạo là ghi chép của Davenport (2001) về khía cạnh kinh tế của sự chú ý, nó gợi ý rằng sự chú ý là một tài nguyên khan hiếm hơn tiền - ít nhất đối với những người sáng tạo. Kinh tế của sự chú ý có thể trao cho chúng ta một sự hiểu biết sâu trong cách làm việc với sự dịch chuyển từ các giá trị ngoại lai tới nội tại. Theo kinh điển, một công ty cố gắng lôi cuốn sự xuất sắc bằng việc trả cho các nhân viên nhiều tiền hơn. Chúng tôi đã lưu ý rằng sự quan tâm chính đối với các doanh nghiệp Drupal là giữ cho các nhân viên của họ hạnh phúc. Điều này có thể dường như là một sự khác biệt nhỏ, nhưng nó là một sự khác biệt mà làm ra một sự khác biệt. Hệ sinh thái Drupal là đầy các nhân viên sáng tạo. Chúng tôi có thể lấy người sáng lập như là một ví dụ điển hình. Vào năm 2001, Buytaert đã bắt đầu Drupal như một sở thích riêng cùng với nghiên cứu luận văn tiến sĩ của ông. Vào năm 2006, ông đã đồng sáng lập ra Drupal Association (một tổ chức không vì lợi nhuận), và sau đó ông đã đồng sáng lập ra 2 công ty nữa: Acquia vào năm 2007 và Mollom vào năm 2008. Khi được hỏi vì sao ông tập trung vào sự cộng tác (cộng tác cá nhân), câu trả lời ngay lập tức của ông là “điều đó là vui và dễ dàng”. Ông đã trau chuốt rằng sự cô lập mà ông đã trải nghiệm trong khi làm việc với luận án tiến sĩ của ông là sự tương phản lớn đối với sự cộng tác mà ông đã cảm thấy trong dự án Drupal và quả thực, ông đã thích thứ sau hơn. Người ta có thể kỳ vọng thấy một số lượng nhất định sự miễn cưỡng với tải công việc hiện hành của ông, nhưng ông nói ông luôn đính ước với công việc về Drupal. Buytaert thích được thách thức và cố gắng bù đắp cho bất kỳ sự yếu kém nào bằng việc cộng tác với những người còn tốt hơn ông, vì nó thách thức ông làm việc còn tốt hơn. Quả thực, ông hợp với hồ sơ của Florida một cách tuyệt vời. Chúng tôi thấy một nhân viên sáng tạo. Hệ sinh thái doanh nghiệp đang nổi lên Một hệ sinh thái của các doanh nghiệp giàu có với một sự đa dạng ấn tượng đã nổi lên xung quanh Drupal. Một tá các công ty được phỏng vấn trong nghiên cứu này tất cả từng là khác nhau ở một số mức độ. Hầu hết các công ty được cấp vốn bằng việc sử dụng tiền riêng của họ. Một số được cấp vốn bằng các hợp tác hoặc vốn đầu tư mạo hiểm. Các doanh nghiệp có thể được tổ chức tại địa phương, có thể là các công ty ảo hoặc có thể là một sự kết hợp của cả hai. Một cuộc thảo luận nhóm tại hội nghị Drupal ở Copenhagen năm 2010, rõ ràng minh họa những triển vọng khác nhau của các Văn phòng Phối hợp Phát triển Môi trường Khoa học Công nghệ, Bộ Khoa học & Công nghệ Trang 9/32 Sự hình thành và theo đuổi đối mới đột phá với hệ sinh thái Drupal như một phòng thí nghiệm sống động cho quản lý nghiên cứu & phát triển cửa hàng khác nhau6. Tuy nhiên, chúng tôi cũng có thể thấy một số tương đồng. Các công ty là khá nhỏ; hầu hết sử dụng khoảng 20 người, bất kể thị trường đang rất lớn. Các doanh nghiệp có thể dễ dàng tăng trưởng nếu họ muốn, nhưng các giá trị của họ - có càng nhiều niềm vui càng tốt và có một tác động lên các dự án Drupal - giữ cho họ lanh lẹ. Quả thực điều này tuyệt vời khớp với lưu ý của Christensen về các đội hạng nặng theo đuổi đổi mới đột phá. Để nắm bắt được sự đa dạng của hệ sinh thái doanh nghiệp, chúng tôi sẽ mở rộng trong một số câu chuyện riêng rẽ mà các công ty được phỏng vấn kể. Trật tự các câu chuyện sẽ cho phép các độc giả, không cần bất kỳ tri thức nào về hệ sinh thái các doanh nghiệp, hiểu được sự năng động của họ. Trật tự đó không theo cách nào để bình luận về tầm quan trọng của các công ty tương ứng. Các câu chuyện sẽ làm rõ ràng rằng ý tưởng có được một trật tự về sức mạnh là đối lập với văn hóa của Drupal. Thay vào đó, có một sự phân phối sức mạnh công bằng, nhằm vào sự tăng cường cho dự án Drupal càng nhiều càng tốt. Chuyện kể của doanh nghiệp Các doanh nghiệp được phỏng vấn không quan tâm về những thay đổi và thách thức. Tồn tại một tinh thần trách nhiệm, được tạo ra trong việc thiết lập các giá trị trước hết của Drupal, trước khi tập trung vào các giá trị các doanh nghiệp của họ. Một văn hóa như vậy quả thực là khớp với một môi trường phức tạp có khả năng thích nghi. Chúng tôi có thể thấy điều này trong câu chuyện của Liza Kindred về Lullabot. Bà nói rằng bà từng được thuê vào tháng 01/2006, khi Lullabot cần vài người để nói “không” với các khách hàng tiềm năng. Tại Lullabot cảm giác đã tồn tại rằng nhu cầu về Drupal từng lớn tới mức mà cần thiết phải có nhiều cửa hàng hơn. Hệ quả là, họ đã thay đổi mô hình kinh doanh của họ để trở thành một công ty huấn luyện nhiều hơn về Drupal. Đòi hỏi của một thị trường lớn có thể đưa ra các cơ hội cho sự thay đổi. Matt Cheney giải thích rằng Chapter Three từng là một hãng tư vấn vào mùa hè năm 2006. Tới năm 2008, việc kinh doanh của nó đã là việc xây dựng các site, các chủ đề và huấn luyện. Đội đó đã trở thành một đối tác huấn luyện của Acquia. Trong khi họ đã cung cấp chương trình giảng dạy, thì Acquia từng cung cấp sự marketing và bán hàng cho việc huấn luyện đó. Điều này đã cho phép họ tập trung nhiều hơn vào những gì họ thực sự muốn làm. Chúng tôi thấy theo tiếp cận này, một ví dụ thú vị về cách làm thế nào các hãng lớn hơn, đang tồn tại có thể hình thành được các liên minh với các cửa hàng Drupal có kích cỡ nhỏ hơn. Lớn nhất đối với các cửa hàng cốt lõi của Drupal là Phase2, với 40 nhân viên, một nửa trong số họ là các lập trình viên. Jeff Walpole giải thích rằng Phase2 từng là một cửa hàng Java tùy biến vào năm 2001. Ông đã muốn Phase2 được nghĩ như là một lãnh đạo trong phát triển phần mềm. Tuy nhiên, thị trường Java từng đã chín và xu thế mới từng là hướng vào việc thuê Ấn Độ làm gia công. Vì thế, đội đã tìm kiếm các dự án khác, và đã chuyển sang Drupal vào năm 2005. Ngày nay, họ có 6 http://www.archive.org/details/PanelManagingADrupalConsultingFirm (xem ngày 02/11/2010). Văn phòng Phối hợp Phát triển Môi trường Khoa học Công nghệ, Bộ Khoa học & Công nghệ Trang 10/32 Sự hình thành và theo đuổi đối mới đột phá với hệ sinh thái Drupal như một phòng thí nghiệm sống động cho quản lý nghiên cứu & phát triển vài phân phối, họ đã cộng tác trong các site chính như site của Nhà Trắng vào năm 2009 và trở thành nổi tiếng, trong số các điều khác, vì sự tinh thông về các site của chính phủ. Ngược lại, Four Kitchens là một trong những công ty nhỏ nhất, sử dụng 12 người. Four Kitchens tập trung vào hiệu năng theo yêu cầu và khả năng mở rộng phạm vi của các site, bằng việc lưu trữ caching, kiến trúc máy chủ, tối ưu hóa cơ sở dữ liệu, … Trong khi công ty bây giờ được chuyên môn hóa cao độ, thì chúng tôi thấy rằng nó đã không bắt đầu theo cách đó. Todd Ross Nienkerk giải thích rằng vào đầu năm 2006, đội từng làm việc với WordPress về một site xuất bản. Họ đã thích đội của WordPress và đã muốn trở nên sáng tạo với Internet. Sự chuyển sang Drupal đã chỉ xảy ra vào cuối năm 2006, vâng tới năm 2007, họ đã có các site yêu cầu lớn/cao, như việc tạo vốn cho quỹ Wikimedia. Palantir từng được thành lập vào năm 1996. Tiffany Farriss giải thích rằng nó ban đầu từng là một hãng tư vấn, nhưng nó đã có một CMS của riêng nó, đã có 60 khách hàng vào năm 2006. Vào năm 2007, một sự kiện đã làm thay đổi tiếp cận của họ. Họ đã làm việc trong phần mềm sở hữu độc quyền đối với một số khách hàng, bao gồm một khách hàng đã sử dụng nó để xây dựng 120 site. Sau khi các dự án đã hoàn thành, họ đã phát hiện ra rằng công ty phần mềm sở hữu độc quyền đó đã dừng sự hỗ trợ cho các khách hàng của mình mà không nói cho các khách hàng của mình biết. Bà giải thích rằng điều này từng là một điểm bước ngoặt, và họ đã quyết định tập trung sự chú ý của họ vào Drupal. Việc tổ chức hội nghị Drupal (Drupalcon) là một cách để chuyên tâm thời gian và sự chú ý vào Drupal; một vài ví dụ bao gồm Palantir đang tổ chức Drupalcon tại Chicago vào tháng 05/2011, Chapter Three đã làm Drupalcon tại San Francisco vào năm 2010 và Development Seed đã làm Drupalcon tại Washington, DC năm 2009. Development Seed là một công ty thú vị khác. Ngày nay, họ nổi tiếng vì các phân tích dữ liệu và phân phối Open Atrium của họ. Eric Gundersen giải thích rằng họ từng làm việc với các tổ chức phi chính phủ (NGO) ở Peru về tài chính vĩ mô khi tin tức về Deanspace tới được họ. Họ bắt đầu làm việc về chuyển đổi Drupal sang tiếng Tây Ban Nha. Ông thấy Development Seed như một công ty R&D tự sáng lập và với Open Atrium họ đã truyền cảm hứng cho nhiều cửa hàng Drupal. Bây giờ chiến lược của họ được định hướng vào tốc độ và làm việc với nhiều dữ liệu. Điều này được thể hiện trong dự án Searchlight, nó trông giống như một dự án R&D tiên tiến. Theo quan điểm của chúng tôi, Development Seed đang phát triển tri thức, sự tinh thông và kinh nghiệm mà cộng đồng sẽ cần để theo đuổi các phòng thí nghiệm Drupal. Trellon đã đưa ra sự bảo trợ quan trọng và có hệ thống cho các hội nghị Drupal. Trellon là một cửa hàng phát triển, nó đã bắt đầu hoạt động vào năm 2003 với dự án CMS nguồn mở khác gọi là Scoop. Vào năm 2004, Trellon đã chuyển sang Drupal. Ban đầu, dường như là Trellon là rất phổ biến đối với các cửa hàng Drupal khác. Vâng Michael Haggerty giải thích rằng dù những đóng góp của đội từng hoàn toàn là hữu hình, thì Trellon từng ít có tiếng tăm và ít được kết nối với các cửa hàng khác. Chúng tôi tin tưởng sự thiếu hụt kết nối này là do các khác biệt trong văn hóa doanh nghiệp giữa các cửa hàng gây ra. Trong khi có thể là khó khăn đối với các cửa hàng trải nghiệm việc xung đột về văn hóa, thì thực sự đây là một cơ hội lớn cho hệ sinh thái Drupal để phát triển, và Văn phòng Phối hợp Phát triển Môi trường Khoa học Công nghệ, Bộ Khoa học & Công nghệ Trang 11/32 Sự hình thành và theo đuổi đối mới đột phá với hệ sinh thái Drupal như một phòng thí nghiệm sống động cho quản lý nghiên cứu & phát triển để thực hiện nghiên cứu chính sách. Trellon minh họa sự trà xát các văn hóa của các doanh nghiệp khác nhau, trong khi Chapter Three minh họa sự đồng vận. Phổ trà xát/đồng vận này có thể dẫn tới nghiên cứu về các giao diện doanh nghiệp cho hệ sinh thái Drupal, nó sẽ được xem xét xa hơn trong nghiên cứu trong tương lai. Câu chuyện của Commerce Guys cũng bắt đầu với một xung đột, nhưng là một xung đột rất khác. Prima Supply là một công ty bán thiết bị nhà hàng mà đã phát triển một module thương mại điện tử quan trọng gọi là Ubercart. Tuy nhiên, nghiệp vụ đặc thù đó không có sự quan tâm chiến lược trong Drupal và vì thế một xung đột đã nảy sinh. Xung đột này đã tạo thành một module thương mại điện tử cạnh tranh gọi là Drupal Commerce. Cả 2 hệ thống bây giờ cùng tồn tại trong Drupal. Xung đột đó minh họa cách mà sự cạnh tranh nội bộ nổi lên. Mike O'Connor gợi ý rằng Commerce Guys có một sự quan tâm chiến lược trong sự phát triển của Drupal, nó dẫn tới các sự kiện phát triển mã. Một số ví dụ là module tính năng với Development Seed và module chuyển đổi với Cyrve. Người ta có thể nghĩ rằng làm việc với các hệ sinh thái doanh nghiệp Drupal chỉ dẫn tới xung đột với các giá trị doanh nghiệp ngoại lai. Vì thế hãy cho phép chúng tôi minh họa một trường hợp nơi mà điều này không phải là như vậy. Khi phỏng vấn NodeOne, thật ngạc nhiên để nghe về độ lớn về sân chơi của các doanh nghiệp. Nó đã đưa ra ấn tượng rằng NodeOne từng không giống chút nào với các cửa hàng khác. Tuy nhiên, họ là công ty đứng đằng sau “Drupal the Card Game”, “Kitten Killers” (một thương hiệu cứng cỏi của Drupal) và “human Drupal icon” được sử dụng trong các hội nghị ở Paris. Thomas Barregren giải thích rằng NodeOne có một chiến lược nội bộ và đối ngoại rõ ràng và hiệu quả. Vì thế một lần nữa, điều này minh họa sự đa dạng và phức tạp của hệ sinh thái Drupal. Quản lý chiến lược đang nổi lên Sự dịch chuyển từ động lực ngoại lai sang nội tại đã dẫn tới một sự tiến thoái lưỡng nan của Internet. Các công ty không biết kiếm lợi nhuận như thế nào. Họ đưa ra các quyết định chiến lược dựa vào kinh nghiệm trong các thị trường không phải thị trường số. Những chiến lược như vậy không phù hợp với Internet. Vì không có tri thức nào khác đang tồn tại, thế tiến thoái lưỡng nan của Internet, về bản chất, là thế tiến thoái lưỡng nan của sự đổi mới. Động lực chính của một dự án sáng tạo như Drupal là cho phép sự đột phá sáng tạo trở thành giá trị cốt lõi của nó. Ví dụ, trong hội nghị Drupal năm 2007 ở Barcelona, bài trình bày chủ chốt của Buytaert đã giải thích cách mà Internet từng loại bỏ người trung gian như thế nào, như Amazon đối với các cửa hàng sách, iTunes đối với các quầy âm nhạc, … Ông đã đưa ra câu hỏi: “Làm thế nào Drupal có thể loại bỏ được người chủ web (webmaster), lập trình viên và người thiết kế?” Khán phòng đầy các người chủ web, các lập trình viên và những người thiết kế đã phản ứng lại bằng tràng vỗ tay. Khi một công ty phá hủy hoạt động cốt lõi của bản thân nó, dường như có lẽ nó đang cố gắng làm cho bản thân nó là dư thừa. Bằng việc cố gắng loại bỏ hoạt động cốt lõi của riêng nó, một công ty sẽ nhận thức được nhiều hơn Văn phòng Phối hợp Phát triển Môi trường Khoa học Công nghệ, Bộ Khoa học & Công nghệ Trang 12/32 Sự hình thành và theo đuổi đối mới đột phá với hệ sinh thái Drupal như một phòng thí nghiệm sống động cho quản lý nghiên cứu & phát triển về các kỹ năng khó để buôn bán làm ăn được ẩn dấu bên trong hàng đống các hoạt động của mình. Nói cách khác, việc loại bỏ khỏi các vấn đề dễ dàng và tập trung vào các vấn đề khó khăn, cho phép một công ty tạo ra được ưu thế cạnh tranh. Khi các công ty thể hiện bản thân mình đối với các vấn đề khó, họ trở thành các chuyên gia trong lĩnh vực của họ (việc phát triển, thiết kế, tư vấn và huấn luyện...). Vì thế, trong khi Drupal có thể cố gắng loại bỏ một dạng người trung gian, thì cùng một lúc nó tạo ra một người trung gian cho các nhân viên sáng tạo. Trong các câu chuyện kể của các doanh nghiệp trước đó, chúng tôi có thể thấy vài hiện tượng khác đang nổi lên. Các lãnh đạo doanh nghiệp nhận thức được sự phù hợp của việc trở nên lanh lẹ (các công ty mềm dẻo và có trách nhiệm sử dụng khoảng 20 người). Sự lựa chọn này cũng tạo ra một cơ hội cho các công ty lớn hơn để trở thành có liên quan. Acquia được xem như một người canh gác giữa các doanh nghiệp cổ điển và các cửa hàng Drupal lanh lẹ hơn, nghĩa là, khi nó đã hỗ trợ cho việc huấn luyện của Chapter3. Ở đây, chúng ta nhận thấy một mẫu của sự phát triển cốt lõi đối lại với module. Điều này đang hiện diện đối với việc viết mã và bây giờ nó có thể nổi lên đối với các doanh nghiệp. Chúng tôi hiểu rằng cốt lõi - đối lại với - module là một thiết kế phù hợp đối với các hệ thống mở. Đối với việc viết mã có sự tồn tại của Giao diện Lập trình Ứng dụng – API. Chúng tôi đã gợi ý trước đó một giao diện doanh nghiệp cho phép các văn hóa doanh nghiệp khác nhau tương tác được với hệ sinh thái Drupal. Chúng tôi thấy Acquia và các cửa hàng khác của Drupal đang trở thành những người canh gác cho một thị trường lớn hơn và chúng tôi kỳ vọng thấy sự nổi lên tự phát tự sinh các giao diện doanh nghiệp bên trong các công ty như vậy. Chúng tôi nhận thấy các giao diện như một bản mẫu để thiết kế các hệ thống mở. Bên cạnh giao diện doanh nghiệp, sẽ có một cơ hội cho việc dạy giao diện và còn cả R&D giao diện nữa. Có một giới hạn đối với những gì có thể nổi lên một cách tự phát tự sinh, tuy nhiên sự trà xát/đồng vận hiện đang tồn tại có thể là một sự truyền cảm hứng cho việc tạo ra các giao diện một cách có hệ thống để nuôi dưỡng các hệ sinh thái Drupal. Từ các nghiên cứu về sự tự tổ chức trong các hệ thống mở, chúng tôi sẽ có một sự hiểu biết tốt hơn về cách mà sự dịch chuyển từ sự tự phát tự sinh sang có hệ thống thực sự đang tiến triển tốt. Các giai đoạn của hệ thống có trật tự cao hơn Hiện tượng tự tổ chức nảy sinh ra bên trong các hệ thống xa với trạng thái cân bằng. Vì thế, “mọi điều” chỉ nổi lên nếu sự đa dạng đủ đang tồn tại và nếu một qui trình lựa chọn tự nhiên có thể hệ thống hóa được các hiệu ứng. Sự biến động và sự lựa chọn tự động có xu hướng tạo ra các hệ thống có trật tự cao hơn bên ngoài các thành phần độc lập. Điều này xảy ra thông qua sự duy trì có lựa chọn các bộ phận lắp ráp ổn định (Heylighen 1999). Điều này có thể gây ra cái gọi là các tôn ti trật tự năng động phức tạp (Simon 1962). Heylighen (2006): thể hiện các giai đoạn đang nổi lên của các hệ thống có trật tự cao hơn như sau: Từng bộ sưu tập các đại lý tương tác có một hệ thống các khía cạnh mà đơn giản là người trung gian sẽ triển khai những tương tác đó. Trong khi người trung gian đó ban đầu khai thác hoạt động của các đại lý để sống sót và tăng Văn phòng Phối hợp Phát triển Môi trường Khoa học Công nghệ, Bộ Khoa học & Công nghệ Trang 13/32 Sự hình thành và theo đuổi đối mới đột phá với hệ sinh thái Drupal như một phòng thí nghiệm sống động cho quản lý nghiên cứu & phát triển trưởng, thì sự lựa chọn sẽ làm cho nó tiến hóa thành một người nuôi trồng, người cải thiện cho sự phù hợp tập thể của các đại lý bằng việc làm yếu đi xung đột và thúc đẩy sự đồng vận. Chúng tôi đã gọi giai đoạn tiếp sau của sự tiến hóa này là “người điều chỉnh” (xem Hình 5). Một người điều chỉnh làm giảm lực cản, sự phí phạm các tài nguyên và rủi ro xung đột hoặc lừa bịp, và làm gia tăng sự bổ sung và sự hỗ trợ bằng việc cưỡng ép hoặc định hướng các hành động tự quản của các đại lý sao cho để đạt được sự phối hợp tốt nhất có thể. Trong giai đoạn cuối cùng, mà chúng tôi gọi là “người quản lý”, người điều chỉnh can thiệp tích cực để làm cho các đại lý thực hiện các hành động chính xác mà có thể làm lợi cho tập thể. Hình 5. Các giai đoạn của hệ thống có trật tự hơn đang nổi lên. Drupal hiện được xem như là một người trung gian đang nổi lên thành một người điều chỉnh. Nó có một sự đa dạng sống động với ít sự dư thừa đáng ngạc nhiên. Quả thực, nhiều xung đột được giải quyết rồi và các hiệu ứng đồng vận được thừa nhận. Hệ quả là, sự điều phối tự phát tự sinh nảy sinh. Khi điều này trở thành được hệ thống hóa, thì Drupal trở thành một người điều chỉnh. Trong các cuộc phỏng vấn, một số người từng có quan tâm về khái niệm “người quản lý”. Điều được nhận biết chung như là một người quản lý là sự kiểm soát đầy nỗ lực và đôi khi là ép buộc. Tuy nhiên, ngược lại, Heylighen gợi ý đây là một sự kiểm soát tự tổ chức. Hơn nữa, không có sự khác biệt giữa từng giai đoạn và không phải tất cả các hệ thống đều tiến hóa để trở thành những người quản lý. Ví dụ, xã hội của chúng ta có một số sự kiểm soát đối với các cư dân của nó thông qua các thể chế (pháp lý, chính trị, giáo dục, …). Tuy nhiên, một đàn (như các con kiến, ong, mối) có sự kiểm soát nhiều hơn, khi sự năng động của cả đàn thực sự có thể xác định dạng đại lý nào được gây giống (như, công nhân, binh lính, bà hoàng). Một đàn là một hệ thống, nó nằm giữa xã hội của chúng ta và là một sự biến đổi đầy đủ của siêu hệ thống, nó có thể là người quản lý; ví dụ, cơ thể của chúng ta quản lý các tế bào của chúng ta. Quan điểm lựa chọn trong một số tài liệu quản lý Trường hợp Drupal và các lý thuyết về tự tổ chức cho phép chúng tôi đưa ra một quan điểm rất khác về các tài liệu quản lý đang tồn tại. Chúng tôi sẽ xem xét 2 ví dụ để phát triển tuyên bố của chúng tôi, một về quản lý đổi mới và một về điều chỉnh CNTT. Điều này minh họa cho các cơ hội có khả năng cho nghiên cứu quản lý R&D, và, vì điều này không phải là trọng tâm của tài liệu hiện hành, chúng tôi sẽ giữ cho nó ngắn gọn tóm tắt. Deeds và Hill (1996) minh họa rằng một quan hệ tích cực chỉ có thể phát triển giữa hiệu năng đổi mới và một số lượng chắc chắn các liên minh (xem Hình 5). Một khi đạt được ngưỡng này, thì nhiều liên minh hơn sẽ là phản tác dụng, vì chúng sẽ trở thành quá khó để quản lý. Quả thực, sự tương tác trở thành một nút cổ chai. Văn phòng Phối hợp Phát triển Môi trường Khoa học Công nghệ, Bộ Khoa học & Công nghệ Trang 14/32 Sự hình thành và theo đuổi đối mới đột phá với hệ sinh thái Drupal như một phòng thí nghiệm sống động cho quản lý nghiên cứu & phát triển Hình 6: Hiệu năng tối ưu phụ thuộc vào số lượng đúng các liên minh Trong trường hợp của Drupal, những tương tác được phối hợp nhưng không bị kiểm soát. Sự phối hợp nảy sinh giống như một dạng nuôi dưỡng của hệ sinh thái, nó cho phép một số lượng không hạn chế các liên minh vì chúng được hệ thống hấp thụ. Drupal hấp thụ các liên minh thông qua sự hỗ trợ bằng CNTT của nó. CNTT từng được tạo ra để hỗ trợ các lập trình viên nguồn mở, nó đã trao cho các lập trình viên nhiều sự trực quan. Như một hiệu ứng, đã trở nên khá dễ dàng để chỉ ra ai là chuyên gia cho một module cụ thể. Nếu một công ty khác phát triển một sự quan tâm nghiệp vụ trong module đó, thì họ thấy một liên minh trong lập trình viên đó. Một vài câu chuyện minh họa cách mà các lập trình viên hoạt động như những người thương thảo bên trong các công ty của riêng họ. Trong hầu hết các trường hợp, điều này dẫn tới sự cộng tác giữa các công ty. Trong một số trường hợp, như, module Ubercart đối với Commerce, điều này có thể dẫn tới sự cạnh tranh trong nội bộ. Sự rẽ nhánh không luôn là tiêu cực. Như được Deanspace minh họa, sự khảo sát điều tra có thể vẫn dẫn tới sự tích hợp sau đó tiếp tục. Bằng việc nuôi dưỡng sự tự tổ chức, chúng tôi có thể làm cho sự điều chỉnh cho phù hợp của nó hữu dụng hơn cho hỗ trợ đổi mới và trả lời được cho những lưu ý tiêu cực còn lại về sự điều chỉnh CNTT cho phù hợp (Yolande, Blaize và Reich 2007): 1. Nghiên cứu sự điều chỉnh cho phù hợp là cơ học và không nắm bắt được thực tế cuộc sống. 2. Sự điều chỉnh cho phù hợp là không thể nếu chiến lược kinh doanh là không rõ hoặc đang trong quá trình. 3. Sự điều chỉnh cho phù hợp không được mong muốn như một sự kết thúc trong tự bản thân nó khi mà doanh nghiệp phải luôn luôn thay đổi 4. CNTT thường thách thức doanh nghiệp, chứ không đi theo doanh nghiệp. Không có lưu ý nào ở trên giữ được đối với trường hợp của Drupal. Những gì chúng tôi quan sát thấy được với Drupal là sự điều chỉnh cho phù hợp một cách lanh lẹ, hoặc những gì chúng tôi thích gọi là việc dựng giàn giáo có phương pháp luận. Việc dựng giàn giáo có phương pháp luận là nghiên cứu hành động với sự hỗ trợ của CNTT mà biến đổi trong các pha khác nhau. Cấu trúc hỗ trợ được thiết kế trong pha lên kế hoạch, nó trở thành việc dựng giàn giáo trong pha hành động, và sau đó nó trở thành vững mạnh (được tái thiết kế) trong pha phản hồi. Sự điều chỉnh CNTT cho phù hợp thực sự nổi lên qua sự lặp đi lặp lại, nên nó nắm bắt được thực tế cuộc sống (lưu ý 1). Phương pháp lặp đi lặp lại của nghiên cứu hành động là một chiến lược để làm việc với sự không chắc chắn Văn phòng Phối hợp Phát triển Môi trường Khoa học Công nghệ, Bộ Khoa học & Công nghệ Trang 15/32 Sự hình thành và theo đuổi đối mới đột phá với hệ sinh thái Drupal như một phòng thí nghiệm sống động cho quản lý nghiên cứu & phát triển (lưu ý 2). các nhu cầu nghiệp vụ làm thay đổi khi CNTT nổi lên làm cho nghiệp vụ trước đó trở thành một mặt hàng (lưu ý 3) và vì thế, sự điều chỉnh CNTT cho phù hợp thách thức doanh nghiệp (lưu ý 4). Nuôi dưỡng sự tự tổ chức với sự hỗ trợ của CNTT Một loạt hỗ trợ bằng CNTT - giống như một kho đối với các đóng góp (mã, tài liệu, bản dịch, …) và các kênh giao tiếp truyền thông (các diễn đàn, Internet Relay Chat (IRC), các nhóm, các hàng đợi các vấn đề, các site tổ chức sự kiện) - tồn tại để điều phối các tương tác. Tuy nhiên, với các hoạt động dịch chuyển, luôn có một sự chênh lệch giữa những gì có thể được CNTT hỗ trợ và những gì cần nỗ lực thêm để quản lý. Ví dụ, một kho cho các phân phối là một nhu cầu hỗ trợ bằng CNTT đang nổi lên. Trường hợp của Deanspace từng là một hiện tượng hãn hữu và tự phát tự sinh. Ngày nay, các công ty đang tạo ra một cách có hệ thống các phân phối khác nhau, như OpenPublish của Phase2, Open Atrium của Development Seed hoặc Commons của Acquia, … Vì thế, khoảng cách để cộng tác làm gia tăng sự hỗ trợ mới dựa vào CNTT đối với các phân phối là một phản ứng để cố gắng khỏa lấp đóng lại khoảng cách đó. Tuy nhiên, vì các hoạt động dịch chuyển, sẽ luôn có một số khoảng cách bên trong sự hỗ trợ bằng CNTT. Miễn là khoảng cách đó là nhỏ, đây không phải là một vấn đề. Trong các trường hợp như vậy, các khoảng cách đó là phù hợp cho các doanh nghiệp. Ngay khi khoảng cách này trở nên phổ biến hơn, thì các nhu cầu hỗ trợ bằng CNTT bắt đầu nổi lên. Chúng tôi thấy trong Drupal một hệ sinh thái đổi mới mở đang nổi lên. More (1996) minh họa cách mà toàn bộ một hệ sinh thái doanh nghiệp nổi lên xung quanh các hoạt động của các doanh nhân, như trường hợp của Starlight Telecommunication ở Somalia. Chesbrough (2003) minh họa với trường hợp của XEROX PARC, có bao nhiêu quyết định sai có thể dẫn tới sự tạo ra một hệ sinh thái doanh nghiệp mà không nắm bắt được giá trị của nó. Với trường hợp của Drupal, chúng tôi có thể hiểu cách tạo ra sự hỗ trợ của nó, như một hạ tầng công cộng cho hệ sinh thái đó, có thể làm gia tăng sự phù hợp của tất cả các đại lý của hệ sinh thái đó. Tuy nhiên, điều này có thể không phải là giải pháp theo đó nhiều tập đoàn đang hy vọng. Hầu hết các công ty vẫn còn đang có động lực tác động từ bên ngoài vào, nó mang chúng tôi trở lại các giao diện doanh nghiệp. Chúng tôi có thể nhận diện các cấu trúc xây dựng giàn giáo hiện hành cho các giao diện doanh nghiệp. Giống như sự hỗ trợ cho “các vai trò” bên trong hệ sinh thái. Ngày nay, chỉ những người tin cậy nhất trong cộng đồng duy trì một số vai trò, như những người duy trì cốt lõi, những người tổ chức hội nghị, những người quản lý tài liệu,... Các vai trò đó trao cho mọi người sức mạnh để kiểm soát các khía cạnh chính của dự án Drupal. Hạ tầng để hỗ trợ kiểm soát là khá mới. Quỹ có thể hoạt động như một cơ quan để bảo vệ và hỗ trợ cho các giá trị của cộng đồng Drupal. Các công ty như Acquia có thể hoạt động như những người canh gác giữa các cửa hàng Drupal và các thị trường lớn hơn. Hơn nữa, sự hỗ trợ tổ chức chỉ là một phần của bức tranh. Chúng tôi thấy sự nổi lên mới về sự hỗ trợ bằng CNTT mà sẽ duy trì nó như một hệ sinh thái mở. Ngày nay, việc xây dựng giàn giáo tồn Văn phòng Phối hợp Phát triển Môi trường Khoa học Công nghệ, Bộ Khoa học & Công nghệ Trang 16/32 Sự hình thành và theo đuổi đối mới đột phá với hệ sinh thái Drupal như một phòng thí nghiệm sống động cho quản lý nghiên cứu & phát triển tại giống như “chứng chỉ Drupal đối với viên đá”7. Vì thế, những gì là mức hỗ trợ bằng CNTT tiếp theo mà có thể phát triển nếu các vai trò trở thành vững mạnh hơn và các kênh giao tiếp truyền thông trở nên rẻ hơn? Từ các câu chuyện, chúng tôi nhận thức được 3 vấn đề: sự chuyên môn hóa nghiệp vụ, việc huấn luyện và phát triển sản phẩm bằng R&D. Drupal là một sự lai giữa kỹ thuật và xã hội và mỗi vấn đề có liên quan tới các tính năng của nó. Chiều xã hội có thể trở thành giao diện doanh nghiệp, chiều kỹ thuật có thể trở thành sự hỗ trợ R&D, trong khi việc huấn luyện kết hợp cả 2. Để hiểu được các khả năng, chúng tôi phải chủ động tích cực và làm việc trong các dự án đi tiên phong, và còn con đường nào tốt bằng để thực hiện điều này hơn là với một dự án giáo dục. 7 http://certifiedtorock.com (xem ngày 02/11/2010). Văn phòng Phối hợp Phát triển Môi trường Khoa học Công nghệ, Bộ Khoa học & Công nghệ Trang 17/32 Sự hình thành và theo đuổi đối mới đột phá với hệ sinh thái Drupal như một phòng thí nghiệm sống động cho quản lý nghiên cứu & phát triển 3. Phát triển dịch vụ web cho doanh nghiệp - WSDB Có nhiều cơ hội để triển khai một nghiên cứu, nhưng chúng phải phù hợp với nhu cầu địa phương. Chúng tôi đã nắm lấy một cơ hội phù hợp vào năm 2006 và đã thiết kế khóa học Phát triển Dịch vụ Web cho Doanh nghiệp (WSDB). Mục đích cơ bản đối với WSDB là để dạy cho các sinh viên kinh doanh cách để quản lý phát triển phần mềm. Mục tiêu cơ bản được kế thừa từ khóa học trước có tên là “Lập trình”. Có được những khích lệ đúng, sao cho các sinh viên có thể thực sự học được các kỹ năng có giá trị từng không đạt được với khóa học trước. Chúng tôi đã quyết định nắm lấy tiếp cận khác biệt tận gốc rễ. Các sinh viên trước hết cần phải phát triển các ý tưởng. Sau đó họ cần phải khai thác các cơ hội API gần đây để xây dựng các dự án của họ. Drupal từng được sử dụng cho các dự án đó, như cái gọi là máy trộn. Điều này có nghĩa là Drupal từng được sử dụng như một khung phát triển để tích hợp các API, nhưng đồng thời, nó được vận hành như một CMS để cung cấp các dịch vụ cho người tiêu dùng. Quả thực, chúng tôi đã thực hiện một nỗ lực để đạt được một sự lai như vậy. Các sinh viên từng được truyển cảm hứng để nắm lấy các rủi ro vì các tâm điểm của họ từng không phụ thuộc vào cách mà dự án từng là vững mạnh hay không, mà thay vào đó là vào bản mẫu của họ liệu có đủ thuyết phục hay không. Tương tự, các tiêu chí từng được xác định để đảm bảo rằng các sinh viên tương tác với nhau về mục tiêu của họ. Các sinh viên từng được tràn ngập với thông tin và các kỹ năng mà họ cần phải học. Tất cả các chức năng đó từng được chọn lựa cẩn thận để tạo ra người trung gian phù hợp cho sự tự tổ chức để nổi lên. Khóa học WSDB cũng vận hành như nghiên cứu về học tập có máy tính làm trung gian. Christensen (2008) chi tiết hóa rằng các dịch vụ huấn luyện các doanh nghiệp mới thực sự có thể dẫn tới sự đột phá của các trường nghiệp vụ được thành lập vì tiếp cận của họ, giống như là chức năng hỗ trợ học tập có máy tính làm trung gian và các khóa học theo module. Trong khi chúng tôi đã thích ý tưởng này, thì chúng tôi đã không nghĩ trường hợp này từng được phát triển đủ. Vì thế, chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm của riêng chúng tôi và điều này đã dẫn tới một số công bố mạnh về đổi mới đột phá của các trường nghiệp vụ. Trước khi chúng tôi giải thích các công bố đó, chúng tôi trước hết cần đưa ra một sự tổng quan chung về các lý thuyết sư phạm phù hợp. Hỗ trợ học tập bằng việc xây dựng giàn giáo Trong các nghiên cứu sư phạm, chúng tôi thấy có các mối quan hệ giữa sự hỗ trợ bằng CNTT và học tập có máy tính làm trung gian. Trong thực tế, hỗ trợ bằng CNTT chỉ là một tập con của một khái niệm rộng lớn hơn được gọi là xây dựng giàn giáo. Việc xây dựng giàn giáo lần đầu từng được Bruner (xem Wood, Bruner and Ross 1976) giới thiệu để mô tả sự có được ngôn ngữ miệng của trẻ em. Vì trẻ em thiếu tri thức trước đó như một cấu trúc hỗ trợ, nên việc xây dựng giàn giáo khác sẽ được tạo ra để làm cho trẻ em học được. Clark (1997, 1998, 2008) sử dụng việc xây dựng giàn giáo để giải thích cách mà môi trường có thể có được chức năng hỗ trợ về nhận thức. Ví dụ, người ta có thể thực hiện các tính toán trí óc có giới hạn, nhưng bằng việc sử dụng bút, giấy và một số qui tắc Văn phòng Phối hợp Phát triển Môi trường Khoa học Công nghệ, Bộ Khoa học & Công nghệ Trang 18/32 Sự hình thành và theo đuổi đối mới đột phá với hệ sinh thái Drupal như một phòng thí nghiệm sống động cho quản lý nghiên cứu & phát triển đơn giản, các tính toán phức tạp có thể được thực hiện. Chúng ta có thể thấy cách mà các sự kiện giống như các hội nghị thực sự là các giàn giáo cho việc ra quyết định tập thể bằng việc sử dụng các ràng buộc đơn giản, như thời gian và phân phối đặc biệt. Lưu ý của Bruner về việc xây dựng giàn giáo có liên quan chặt chẽ với lý thuyết về Kinh nghiệm Học tập có Trung gian - MLE (Mediated Learning Experience) của Feuerstein (1991). MLE là một phương pháp làm cho việc học tập có hiệu quả hơn. Các kỹ thuật của nó bao gồm việc tạo ra động lực đúng đắn cho sinh viên và tạo ra các bài tập được đề ra tốt sao cho sinh viên cảm thấy kiểm soát được. Vygotsky (1978) làm một sự khác biệt giữa việc giải quyết vấn đề một cách độc lập và một Vùng Phát triển Tiệm cận - ZPD (Zone of Proximal Development). ZPD là một vùng mà có thể được ai đó học tập nếu được một giáo viên trợ giúp. Sự trung gian và việc xây dựng giàn giáo có thể mở rộng cả vùng giải quyết các vấn đề độc lập và ZPD. Trong khóa học WSDB, chúng tôi có một số dữ liệu để chứng minh cách mà tri thức trước đó có thể là một giàn giáo mà dẫn tới sự trung gian dựa vào nội dung. Các sinh viên đã phải tạo ra các blog về các dự án của họ. Các dự án như vậy đã đi rất tốt vượt ra khỏi các khả năng của riêng chúng (nó từng là một phần của ZPD). Trong năm đầu, người hướng dẫn (tutor) đã phải chỉnh cho đúng hầu như mọi blog (xem Hình 7). Đây không phải là lỗi của các sinh viên, mà vì chúng tôi đã thiếu kinh nghiệm về cách làm thế nào để dạy họ về ZPD, mà có nghĩa rằng tư liệu khóa học phải được sửa cho đúng trên cơ sở hàng tuần. Điều này đã cho phép chúng tôi hiểu cách mà các sinh viên đã trải nghiệm ZPD. Quả thực, sự biết trước là tốt để tạo ra hành động, nhưng chỉ có phản hồi bằng trải nghiệm có thể được sử dụng để xây dựng tri thức. Các sinh viên đã thấy vừa thú vị vừa ngạc nhiên. Các bài viết ban đầu đã có những tiêu đề dạng như “Vì tôi là người Bỉ, nên khóa học ngày hôm qua từng là một cú sốc về văn hóa” 8. Năm thứ 2 đã có một bài kiểm tra chạy trong chương trình nghiệp vụ của một thạc sĩ - sau thạc sĩ trong quá trình học 2 năm đầu và nó đã trở thành một phần của “năm đầu của chương trình giáo dục Cao học về Công nghệ Kinh doanh” từ năm thứ 3 trở đi. Trong năm đó, sự điều phối từng chỉ cần thiết lúc ban đầu khóa học. Trong năm thứ 4, sự điều phối của người hướng dẫn được giảm tới tối thiểu. Một số câu hỏi từng không phải là tầm thường, nhưng ý kiến phản hồi tập thể từng là tốt như bất kỳ phản hồi nào mà người hướng dẫn có thể đưa ra. 8 Xem http://mosi.vub.ac.be/webdev/?q=node/46 (xem ngày 02/11/2010). Văn phòng Phối hợp Phát triển Môi trường Khoa học Công nghệ, Bộ Khoa học & Công nghệ Trang 19/32 Sự hình thành và theo đuổi đối mới đột phá với hệ sinh thái Drupal như một phòng thí nghiệm sống động cho quản lý nghiên cứu & phát triển Hình 7. Các hoạt động được đưa lên về WSDB qua thời gian, đồ thị phía trên cùng tính theo tuần, đồ thị phía dưới cùng tính theo tháng. Việc tính số trang tách bạch mà các sinh viên đã đưa lên, số bình luận mà các sinh viên đã đưa ra và số lượng ý kiến phản hồi mà người hướng dẫn phải cung cấp. Số lượng sinh viên là: năm đầu là 15; năm thứ 2 là 20; năm thứ 3 là 33 và năm thứ 4 là 34. Một ít hiệu ứng tràn tín hiệu thú vị đã xảy ra trong năm thứ 3; một số sinh viên từng bán các dự án của họ. Tuy nhiên, các sinh viên tốt nhất đã làm thứ gì đó quá sáng tạo mà có thể là một bản mẫu cho một dịch vụ nghiệp vụ mới. Để cải thiện đầu ra của các bản mẫu, các chỉnh sửa đã được thực hiện ở năm thứ 4. Điều này đã tạo ra nhiều bản mẫu hơn mà cũng nhiều hơn sự không thành công như thường lệ, chỉ những sinh viên tốt nhất và đáng tin nhất có thể theo đuổi để tạo ra một bản mẫu. Sự xây dựng các bản mẫu đã đi vượt ra khỏi những kỳ vọng của nghiên cứu. Một bản mẫu đã bắt đầu nổi lên trong các dự án: bằng việc đưa ra một dịch vụ công tự do, người sử dụng đã tạo ra một người trung gian duy nhất. Người trung gian đó sau đó đã phát triển một ưu thế cạnh tranh, nó có thể được sử dụng để nhằm vào một thị trường cụ thể. Quả thực, một lần nữa, chúng tôi đã thấy ý tưởng của việc nuôi dưỡng sự tự tổ chức ở một người trung gian, nhưng lần này nó được sử dụng như một mô hình nghiệp vụ. Chiến lược đó trông giống như một phương pháp thanh lịch để làm việc với thế tiến thoái lưỡng nan của Internet. Các bản mẫu WSDB, trường hợp cái tủ trực tuyến Để đưa ra một ví dụ, chúng tôi sẽ kiểm tra một dự án trong năm thứ 3 của nó. Đã có các dự án xuất sắc và sáng tạo khác, nhưng dự án này đã đòi hỏi ít tri thức kỹ thuật, là những gì đã làm cho nó thậm chí còn khác thường hơn. Dự án đó từng được gọi là cái tủ trực tuyến, và đã được El-Ali Randa tạo ra. Ý tưởng từng để có một cái tủ trực tuyến bằng việc tải lên các hình ảnh và tạo thành cụm (clustering) cho chúng theo người sử dụng, như được minh họa ở bên trái của Hình 8. Những người sử dụng khác có thể chơi với các hình ảnh đang tồn tại và tạo ra các kết hợp. Cái tủ trực tuyến là ngộ nghĩnh và khuyến khích việc tải các hình ảnh lên. Bằng việc nắm bắt các hoạt động của những người sử dụng (như, các kết hợp quần áo có khả năng), một số dữ liệu thú vị có thể được Văn phòng Phối hợp Phát triển Môi trường Khoa học Công nghệ, Bộ Khoa học & Công nghệ Trang 20/32
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan