Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sự giao lưu văn hóa việt – hoa tại các hội quán người hoa ở hội an...

Tài liệu Sự giao lưu văn hóa việt – hoa tại các hội quán người hoa ở hội an

.PDF
12
1065
74

Mô tả:

Sự giao lưu văn hoá Việt – Hoa tại các hội quán người Hoa ở Hội An (Quảng Nam) VÕ THỊ ÁNH TUYẾT (Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ) Hội quán của người Hoa là sản phẩm của sinh hoạt cộng đồng trên cơ sở những người cùng quê và mang đậm truyền thống của thương nhân Trung Hoa. Hội quán, tiếng Hoa viết là: “會 館”, tiếng Anh gọi là “Assembly hall”. Đây là nơi hội họp của người trong bang, nơi để cộng đồng người Hoa tha hương gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm làm ăn, gởi gắm tình cảm. Đồng thời, hội quán còn là nơi thờ Thiên Hậu và nhiều vị thần linh theo tín ngưỡng dân gian của dân tộc Hoa, là nơi sinh hoạt tế lễ hàng năm của các cộng đồng dân cư. Ở Việt Nam, hội quán của người Hoa được xây dựng ở nhiều nơi như Hội An (Quảng Nam), khu vực Chợ Lớn (Thành phố Hồ Chí Minh), Phan Thiết (Bình Thuận)… Đây là hình thức tổ chức cộng đồng quan trọng của cộng đồng người Hoa ở Việt Nam và cũng là loại hình di tích kiến trúc nghệ thuật thể hiện dấu ấn của người Hoa khi đến định cư buôn bán, giao lưu và hoà nhập vào cộng đồng dân tộc Việt Nam. I. Giới thiệu về các hội quán của người Hoa ở Hội An Hội An (Quảng Nam) là vùng đất có nhiều điều kiện địa lý, tự nhiên thuận lợi, có bề dày lịch sử, văn hóa lâu đời, được kết tinh qua nhiều thời đại. Nhờ có các yếu tố thuận lợi trong và ngoài nước, sau thế kỷ 15, thương cảng Hội An được hình thành. Đến thế kỷ 1718, Hội An trở thành một đô thị - thương cảng phồn thịnh. Các thương thuyền Trung Quốc, Nhật Bản, Hà Lan, Xiêm La, Bồ Đào Nha, Anh, Pháp, Philippines… đã cập bến đến buôn bán ở Hội An. Trong đó, người Hoa đóng một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội ở Hội An thời bấy giờ. Bên cạnh những người Hoa nhập quốc tịch Ðại Việt gọi là người Minh Hương còn có nhiều người Hoa khác vẫn giữ quốc tịch Trung Hoa và được gọi là người Hoa. Người Hoa ở Hội An có nguồn gốc từ 5 địa phương của Trung Quốc, họ lập ra 5 bang: Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hải Nam và Gia Ứng. Khi đến Hội An, họ đã lập ra các hình thức kiến trúc thông thường như nhà ở, cửa hàng, chợ... Mỗi bang có trường học, bệnh viện, ngân hàng, chùa miếu, nghĩa trang... riêng và xây dựng hội quán theo từng bang. Có 4 hội quán riêng của 4 bang là: hội quán Triều Châu, hội quán Quỳnh Phủ, hội quán Phúc Kiến, hội quán Quảng Triệu và 1 hội quán chung của 5 bang - hội quán Trung Hoa, bang Gia ứng không có hội quán nhưng vẫn sinh hoạt tại hội quán Trung Hoa. Theo đại tự bằng chữ Hán trên các hoành phi treo ở cổng chính và cửa ra vào tiền điện, thì các hội quán ở Hội An có tên gọi chính thức bằng chữ Hán là: “福 建 會 館 ” Phúc Kiến hội quán; “中 華 會 館” Trung Hoa hội quán; “潮 州 會 館” Triều Châu hội quán; “瓊 府 會 館” Quỳnh Phủ hội quán và “廣 肇 會 館” Quảng Triệu hội quán. Các hội quán này còn có thêm nhiều tên gọi khác: hội quán Phúc Kiến: Mân Thương hội quán; hội quán Trung Hoa: hội quán Ngũ Bang, hội quán Dương Thương, hội quán Giang Triết, trường Lễ nghĩa; hội quán Quảng Triệu: hội quán Quảng Đông; hội quán Triều Châu: chùa ông Bổn hay Âm bổn và hội quán Quỳnh Phủ: hội quán Hải Nam. Niên đại ra đời của các hội quán ở Hội An trong khoảng thế kỷ 18 và 19. Hội quán Trung Hoa và hội quán Phúc Kiến ra đời sớm nhất: đầu thế kỷ 18. Các hội quán khác có niên đại muộn hơn: hội quán Triều Châu: 1845, hội quán Quỳnh Phủ: 1875, hội quán Quảng Triệu nửa cuối thế kỷ 19. Hội quán của người Hoa ở Hội An là những công trình kiến trúc cổ tiêu biểu của đô thị cổ Hội An. Mỗi hội quán có đặc điểm riêng về kiến trúc, đối tượng thờ cúng, di vật, niên đại… thể hiện yếu tố đặc trưng cho từng cộng đồng người Hoa ở Hội An. Hội quán Phúc Kiến có kiểu mái hai tầng đặc trưng với đường bờ nóc cong giống hình dáng chiếc thuyền, hội quán có đối tượng thờ cúng đặc biệt: ngoài thờ các thần thánh của cộng đồng người Hoa nói chung, họ còn thờ thêm “Lục Tánh” là có 6 vị tướng người Mân - tỉnh Phúc Kiến đã nổi dậy phản Thanh, phục Minh. Hội quán triều Châu nổi bật với các trang trí đặc sắc bằng cách khảm sành sứ, thủy tinh nhiều màu sắc trên các nếp mái hay nghệ thuật điêu khắc gỗ độc đáo với các khám thờ, bộ cửa thờ…, hội quán Triều Châu chọn Mã Viện làm đối tượng thờ cúng chính là trường hợp đặc biệt ở Việt Nam. Hội quán Quảng Triệu nổi bật với kiến trúc hỗn hợp đá-gỗ-gạch, ở mỗi chất liệu đều đến trình độ cao về nghệ thuật xây dựng và trang trí, đặc biệt nhất là kỹ thuật chạm gạch ở mặt trước tường tiền điện và chính điện. Hội quán Quỳnh Phủ có kiểu song mái đặc sắc ở phương đình, hội quán chọn đối tượng thờ cúng chính là “108 vị anh linh”- vốn là đối tượng thờ cúng riêng của người Hải Nam ở miền trung Việt Nam. Tuy nhiên, các hội quán của người Hoa ở Hội An có nhiều đặc điểm chung phù hợp với chức năng của hội quán nói chung và tương ứng với các điều kiện về lịch sử ra đời, quá trình di dân của người Hoa đến Hội An, với thiên nhiên khí hậu của Hội An nói riêng hay khu vực Trung bộ nói chung. Các hội quán ở Hội An vẫn bảo lưu được nét kiến trúc độc đáo riêng của mình và còn lưu giữ nhiều cổ vật quý hiếm với tổng số có 847 di vật, trong đó có hơn một nửa là cổ vật, có niên đại trước thế kỷ 20. Hội quán Phúc Kiến và Quảng Triệu có số lượng di vật lớn nhất. Bộ sưu tập di vật phong phú, đa dạng, gồm bốn chất liệu chủ yếu: đá, gỗ, đồng, gốm. Với những nét độc đáo riêng, mỗi hội quán và các hội quán ở Hội An nói chung đã góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng cho kiến trúc, văn hóa của các hội quán người Hoa tại Hội An nói riêng và kiến trúc, văn hóa của phố cổ Hội An nói chung. Nghiên cứu các hội quán ở Hội An dưới góc độ khảo cổ học, lịch sử, văn hóa đã chứng minh quá trình người Hoa tụ cư ở Hội An và sự giao lưu văn hóa Việt – Hoa trong lịch sử. II. Sự giao lưu và hội nhập văn hóa Việt – Hoa tại các hội quán của người Hoa ở Hội An Sự giao lưu văn hóa Việt – Hoa tại các hội quán ở Hội An được thể hiện dưới nhiều góc độ: kiến trúc, trang trí; đối tượng được thờ cúng; bộ sưu tập di vật; tên gọi, chức năng của các hội quán; phong tục tập quán, lễ hội, tín ngưỡng của người dân phố Hội xưa và nay... Đây là mối quan hệ hai chiều: các yếu tố văn hóa Việt đã được thể hiện tại các hội quán dưới nhiều góc độ. Ngược lại, những dấu ấn văn hóa Trung Hoa cũng ảnh hưởng đến đời sống tâm linh của người Việt ở Hội An. 1.Giao lưu văn hoá qua kết cấu kiến trúc và trang trí nội thất Các hội quán ở Hội An đều xây dựng theo phong cách, nguyên tắc kiến trúc truyền thống Trung Hoa với quan niệm vũ trụ âm dương, thẩm mỹ, chủ trương đối xứng vững vàng và chỉnh tề nghiêm ngặt. Các hội quán được kiến tạo trên nền đất rộng, cao ráo, thiên về chiều sâu theo trục Bắc Nam, phía sau cao hơn trước, quay mặt về hướng nam, hướng sông Hội An, và đều được xây dựng lệch đi so với trục Bắc Nam. Bố cục mặt bằng tổng thể kiến trúc các hội quán theo hình chữ “Khẩu 口” hay chữ “Quốc 國”, "nội công 工, ngoại quốc 國" (trong hình chữ công ngoài hình chữ quốc) hay cũng có thể được gọi là hình cái ấn. Trên cùng một trục chủ đạo Bắc – Nam, các đơn nguyên kiến trúc được sắp thành 3 trục nhỏ: trục chính ở giữa và hai trục phụ hai bên đối xứng qua trục chính, gồm: Cổng tam quan, tiếp đến là sân trước, tiền điện, sân, chính điện, hai bên các điện thờ nằm ngang là hai dãy nhà đông tây nằm dọc, nối từ trước ra sau, giữa các tòa nhà tạo thành một khoảng không gian trống gọi là sân thiên tỉnh. Các nếp nhà trong từng hội quán hình chữ nhật hay vuông. Kiến trúc ở trục giữa là nơi tôn nghiêm dành cho các hoạt động tín ngưỡng. Khu vực phía sau cùng là vườn cây. Trong các sân có trồng cây xanh, hồ nước. Việc chọn hướng nam và thế đất cao thể hiện ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Trung Hoa nhằm đề cao thần linh và khả năng chi phối của họ[1]. Đồng thời còn do người Hoa rất coi trọng việc xem phong thủy, khi xây dựng họ nhờ thầy địa lý xem hướng đất. Bên cạnh đó, kiến trúc và trang trí của các hội quán cũng thể hiện ảnh hưởng của văn hóa Việt. Giống nhưng nhiều cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo khác của người Hoa được xây dựng trên đất nước ta. Ban đầu xây dựng, các nguyên vật liệu, hiện vật cổ hầu hết đều được đưa từ Trung Quốc sang nhưng các công trình chạm trổ hiện tồn bên trong các hội quán đã có không ít những sản phẩm do thợ người Việt tạo tác. Vào thời điểm các hội quán ở Hội An được xây dựng, sông Hội An còn vào tận sát phía nam đường Trần Phú nên rất thuận lợi cho việc chuyên chở nguyên vật liệu từ Trung Quốc bằng đường thủy. Các cột gỗ, cột đá to hiện còn ở các hội quán đều được mang từ Trung Quốc sang. Tuy nhiên, qua thời gian các hội quán đã thực hiện nhiều đợt trùng tu lớn, người Hoa đã sử dụng thêm các nguyên vật liệu, kỹ thuật tại địa phương để tu bổ, gia cố cho hội quán. Đó là các nguyên vật liệu của làng mộc Kim Bồng, làng đá Non Nước, làng gạch ngói và gốm Thanh Hà. Các thợ đá Non Nước, nghệ nhân làng mộc Kim Bồng, thợ nề Cẩm Kim… góp phần quan trọng cho xây dựng, trùng tu hội quán. Hiện nay, các cổng chính của các hội quán đã được xây lại theo kiểu tam quan thể hiện ảnh hưởng của các tam quan trong kiến trúc chùa Việt. Trang trí đầu mái đao cong hình hồi long và các đề tài rồng, lân, mây, hoa... cũng thể hiện sự ảnh hưởng văn hóa Việt do các hình thức trang trí này phổ biến trong trang trí mái đao đình chùa Việt. Sân thiên tỉnh – khoảng sân trống nằm giữa lòng kiến trúc khép kín của hội quán vốn là đặc điểm của nhiều chùa, miếu Hoa, giúp hội quán có đủ diện tích thoáng, rộng để thông gió, đón nhận khí trời, lấy được ánh sáng tự nhiên đầy đủ cho khu vực thờ cúng, thoát khói hương và thoát nước. Ở Hội An, hai hội quán Quảng Triệu và Triều châu có sân thiên tỉnh được đặt trước chính điện theo truyền thống Trung Hoa. Nhưng bên cạnh đó, hội quán Phúc kiến có cả hai sân thiên tỉnh đặt trước và sau chính điện. Việc xây dựng sân thiên tỉnh sau chính điện đã thể hiện ảnh hưởng văn hoá Việt. Các hội quán có bộ khung đỡ mái gồm: rui, đòn đông, đòn tay, bộ vì... Bộ khung làm bằng các loại gỗ tốt như mít, lim, kiền kiền… Các cấu kiện gỗ lớn và còn tồn tại đến ngày nay đều do đưa từ Trung Quốc sang. Theo truyền thống Trung Hoa, hệ khung này thường được khắc chạm cầu kỳ và sơn các màu khác tương phản và sặc sỡ. Tuy nhiên, các hội quán được xây theo kiểu nhà rường truyền thống ở miền Trung, sử dụng đa dạng các bộ vì khác nhau: vì trính chồng trụ đội, vì chồng rường giả thủ, vì chồng rường, vì vỏ cua, vì kèo. Một số cấu kiện đã được để mộc hay sơn màu đen của gỗ. Thay vì dựng các cột gỗ được sơn son thếp vàng, khắc chạm liễn đối lên trên và sơn các màu sắc sặc sỡ theo văn hóa truyền thống Trung Hoa. Các hội quán ở Hội An đã sử dụng các cột có chân đá tán hay chân đá tảng, tức cột không chôn xuống mặt đất mà được đặt trực tiếp lên bệ đá nhỏ. Các cột này giống với kiến trúc các ngôi đình của người Việt. Cột gỗ thường chỉ sơn đen, nâu đen hay đỏ và không khắc chạm liễn đối lên trên thân cột mà treo bên ngoài. Yếu tố văn hóa Việt cũng được thể hiện trong trang trí tại các hội quán ở Hội An. Các hội quán đã sử dụng các đề tài chạm khắc như các con vật, các loại cây trái gần gũi với người dân Việt. Cụ thể, các loại trái cây như: quất, mãng cầu, dây bầu, dây bí, chim, cua, cá… vốn gần gũi và thể hiện cuộc sống của người dân địa phương đã được chọn để trang trí cho các di vật và kiến trúc của hội quán. 2.Giao lưu văn hoá qua các đối tượng được thờ cúng Đối tượng được thờ cúng trong các hội quán người Hoa ở Hội An thể hiện mối quan hệ, giao lưu văn hoá Việt-Hoa khá rõ nét. Các hội quán của người Hoa tại Hội An có đối tượng thờ cúng khá phong phú, đa đạng gồm nhiều thể loại như: nhân thần (Quan Công, Thiên Hậu, 108 vị anh linh, Lục Tánh, Mã Viện), thần bảo sanh (Ba bà Chúa sanh thai cùng 12 Bà mụ, Quan Âm…); thần kiết tường (Phúc, Lộc, Thọ; Thần tài…), thần động vật (Hổ, Ngựa…); tiền hiền, danh nhân, cô bác và những đối tượng thờ cúng khác. Trong đó, có các đối tượng được thờ chính là nhân thần như: Thiên Hậu, Quan Thánh, 108 vị anh linh và Mã Viện. Ở từng hội quán của mỗi nhóm cộng dông người Hoa, các đối tượng được thờ chính, thờ phụ khác nhau và mang đặc trưng riêng. Việc thờ tự kết hợp nhiều đối tượng khác nhau ngoài Thiên hậu Thánh mẫu tại các hội quán đã cho thấy sự đa dạng trong đời sống tâm linh của người Hoa khi đến định cư ở vùng đất mới và sự ảnh hưởng của văn hóa Việt. Người Hoa đã chủ động thờ các vị thần phù hộ cho sự cuộc sống hàng ngày của họ được bình an, mua may bán đắt. Do đó họ thờ thêm các vị thần như Ông Bổn (trước đây được thờ ở hội quán Triều Châu), Phúc Đức Chính Thần (mới thờ thêm ở hội quán Quỳnh Phủ và Quảng Triệu)… Thần Tài còn gọi là Tài Bạch Tinh Quân là một vị thần có nhiệm vụ phù hộ giàu sang, phú quý, đem lại may mắn cho những người kinh doanh buôn bán. Cư dân Hội An nói chung và những người Hoa hoạt động thương nghiệp đều lập khám thờ Thần Tài. Tất cả hội quán ở Hội An đều thờ Thần Tài với các tên gọi kèm theo thể hiện là một bảng gỗ ghi chữ bằng tiếng Việt: “Thần tài công” (hội quán Quảng Triệu và hội quán Trung Hoa) hay Tài Thần công (hội quán Phúc Kiến). Điểm đặc biệt ở các hội quán người Hoa ở Hội An là bên cạnh các vị thần kể trên, hầu hết các hội quán còn thờ các vị tiền hiền, bang trưởng, bang phó, danh nhân, cô bác dưới dạng những bài vị ghi tên bằng chữ Việt và chữ Hán ở cuối nhà đông tây, trừ hội quán Trung Hoa chỉ có bài vị Tiền hiền ở chính điện. Điều này thể hiện quá trình hoà hợp, hội nhập và giao lưu giữa hai dân tộc Việt – Hoa. Thờ Thiên Hậu vốn là tín ngưỡng của người Hoa khi du nhập vào Việt Nam bắt gặp tục thờ Mẫu của người Việt nên dễ dàng được người dân địa phương tiếp nhận, người Việt vẫn đến các hội quán để cầu nguyện Thiên Hậu phù hộ cho sức khỏe, mua may bán đắt và đường con cái. Tính chất hỗn dung, hòa hợp trong vấn đề tín ngưỡng còn được thể hiện ở việc thờ chung thần, Phật và người ở các hội quán theo kiểu “tiền Phật hậu thần” như tại hội quán Phúc Kiến. Ở chính điện hội quán Phúc Kiến, Thiên hậu được thờ chính ở gian giữa nhưng còn thờ thêm Đức Quan Âm Thế Bồ Tát và đức Thái Thượng Lão Quân ở bàn thờ phía trước trước. Do đó, có thể thỏa mãn được nhu cầu tâm linh của mọi tầng lớp nhân dân. Cũng do tiếp thu, ảnh hưởng của văn hóa Việt, các hội quán còn thờ cả Thổ địa bên cạnh Thần tài như trường hợp của hội quán Quảng Triệu, hội quán Phúc Kiến. Điều này giống cách thờ tự của rất nhiều gia đình người Việt. Đặc biệt hơn, cả những yếu tố mâu thuẫn trong lịch sử hoặc sự không đồng nhất trong tín ngưỡng lại được người Hội An chấp nhận, dung hòa hết sức dễ dàng, như: ở hội quán Triều Châu thờ thần chủ là Phục ba tướng quân Mã Viện nhưng người dân Hội An, nhất là ngư dân các làng Cẩm An, Cẩm Kim, Tân Hiệp vào các ngày vía Ông vẫn đến dâng lễ với tâm nguyện được Ông phù hộ bể yên sóng lặng; hay hội quán Quỳnh Phủ thờ 108 người Hoa vùng Hải Nam bị quan quân giết nhầm vì nghi là cướp biển, đã trở thành chùa Giải Oan của người dân Hội An, nơi đây được người dân Hội An tìm đến cầu xin cởi giải oan khuất. Ngày nay không chỉ người Hoa mà người Việt cũng đến cầu tài lộc, con cái... ở các hội quán. Các lễ hội được tổ chức ở các hội quán đã trở thành lễ hội chung của thành phố, thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng - tâm linh không chỉ có ý nghĩa đối với người Hoa mà còn cả với người Việt, thu hút rất đông người Việt và các du khách nước ngoài tham gia, tạo không khí tăng cường tình đoàn kết gắn bó cộng đồng Việt – Hoa và trở thành nét văn hóa chung của dân tộc Việt Nam. 3.Giao lưu văn hoá qua các bộ sưu tập di vật Các bộ sưu tập di vật được thờ cúng tại các hội quán cũng ảnh hưởng văn hóa Việt như: Trừ một số ít các tượng thờ có niên đại sớm được đưa từ Trung Hoa sang. Hầu hết các tượng thờ còn ở các hội quán đã được các nghệ nhân địa phương dân gian hóa, tạo nên sự gần gũi gắn bó giữa Thần và người, nên khi bước chân vào hội quán, ta không thấy sơ sệt mà thấy thỏa mái như có sự đồng cảm, giao hòa, che chở từ các vị thần. Các tượng có niên đại muộn do các nghệ nhân địa phương như: thợ mộc Kim Bồng, thợ nề, thợ gốm… tạo tác bằng gỗ mít, xi măng... Tiêu biểu có ông Huỳnh Ri – nghệ nhân Kim Bồng. Qua đó cho thấy nét đặc trưng, tài năng và sự sáng tạo trong nghệ thuật điêu khắc tượng thờ của các nghệ nhân địa phương người Việt. Hơn nữa, việc bài trí các tượng thờ cũng thể hiện ảnh hưởng yếu tố Việt và sáng tạo của các nghệ nhân đại phương. Xích Thố là ngựa của Quan Công, nổi tiếng trong Tam Quốc và được xem như một trong những Thần Mã của lịch sử Trung Quốc. Thờ Xích Thố đã được thực hiện ở các miếu của người Hoa ca ngợi sự trung thành của con người, nhưng chỉ thờ một con. Tuy nhiên, ở hai bên tả hữu chính điện hội quán Quảng Triệu đã thờ thêm Bạch mã đối xứng với Xích thố. Việc chọn thờ hai con ngựa này trong chính điện giống như miếu Quan Thánh (Chùa Ông) ở Hội An. Qua đó nhằm tôn thêm không khí linh thiêng cho chính điện, thể hiện sự cân đối, hài hòa và tư duy sáng tạo của người Hội An và đã trở thành nét độc đáo cho các hội quán ở Hội An. Các cơ sở tín ngưỡng của người Hoa thường thờ bộ ngũ sự, tức 5 món đồ thờ gồm: một lư trầm, hai đồ cắm đèn cầy, hai bình cắm hoa ( hay một dĩa đựng trái cây và một bình cắm hoa). Tuy nhiên, hội quán Phúc Kiến, Trung Hoa, Quỳnh Phủ và Quảng Triệu đã thờ bộ tam sự bên cạnh bộ ngũ sự hay thay thế hẳn bộ ngũ sự. Bộ tam sự gồm 3 món đồ thờ: một lư trầm hoặc lư hương ở giữa; hai bên là giá cắm đèn cầy. Việc thờ bộ tam sự thể hiện sự ảnh hưởng của các cơ sở thờ cũng của người Việt. Bàn thờ Quan Thánh ở hội quán Quảng Triệu có thờ cặp qui-hạc (hạc đứng trên rùa) vốn là hiện vật phổ biến trong các ngôi đình của người Việt. 4.Giao lưu văn hoá qua tên gọi, chức năng của các hội quán Người Việt nói chung thường hay gọi các “hội quán” là “chùa” vì một số hội quán có thờ cả Phật. Nhưng có hội quán không thờ Phật cũng vẫn được gọi là chùa, mặc dù, chùa chủ yếu là nơi thờ Phật, nơi định vị của các tăng đồ Phật giáo, thuần túy có tính chất tôn giáo. Quá trình chung sống giữa người Việt và người Hoa ở địa phương đã làm cho cả người Việt lẫn người Hoa ở Hội An đều gọi các “hội quán” là “chùa”: “chùa Phúc Kiến” là tên gọi khác của “hội quán Phúc Kiến”; “chùa Trung Hoa” hay “chùa Ngũ Bang” là tên gọi khác của “hội quán Trung Hoa”, “chùa Quảng Triệu” hay “chùa Quảng Đông” là tên gọi khác của “hội quán Quảng Triệu”; “chùa ông Bổn” hay “chùa Âm Bổn” là tên gọi khác của “hội quán Triều Châu”; “chùa Hải Nam” là tên gọi khác của “hội quán Quỳnh Phủ”. Ngày nay, về Hội An, chúng ta hỏi thăm các vị trí của các “hội quán” thì người dân địa phương thường không biết, còn nếu chúng ta gọi đó là các “chùa” thì hầu như tất cả mọi người dân đều biết cả. Do tính chất đặc biệt của một đô thị thương cảng Hội An và hoạt động kinh tế, thương mại của người Hoa ở Hội An trong lịch sử đã quy định nên những nét đặc trưng cho các hội quán người Hoa ở Hội An. Người Hoa ở Hội An bấy giờ mạnh về thương mại, mối quan hệ cộng đồng, giúp đỡ nhau trong hoạt động kinh tế là yếu tố chính gắn kết cộng đồng người Hoa ở Hội An. Ban đầu cộng đồng người Hoa ở Hội An thành lập “Dương Thương hội quán”, vốn là nơi hội họp công thương của người Hoa. Chính vì lẽ đó, khác những nơi khác, chức năng thờ cúng, tín ngưỡng không phải là chức năng cơ bản mà chính chức năng cộng đồng, giúp đỡ nhau trong hoạt động kinh tế mới là chức năng chính gắn kết cộng đồng người Hoa ở Hội An trong lịch sử. Ngày nay, khi hoạt động của thương cảng Hội An không còn nữa, người Hoa ở Hội An không còn mạnh về hoạt động thương mại như trước kia và dần hòa nhập với cộng đồng người Việt thì các hội quán vẫn là những nơi hội họp của những người trong bang, của cộng đồng người Hoa, người Việt gốc Hoa ở Hội An. Bên cạnh đó, các hội quán vẫn thờ cúng và là cơ sở tín ngưỡng chung cho người Việt, người Hoa và trở thành điểm tham quan của du khách. Chức năng thờ cúng ở đây vẫn không nổi trội hơn chức năng cộng đồng. Chính vì vậy, các hội quán ở Hội An vẫn không được gọi là “miếu” – nơi thờ thần và thiên chức năng tín ngưỡng của người Hoa như các miếu Hoa ở Tp. Hồ Chí Minh và những nơi khác. 5.Giao lưu văn hoá qua các phong tục tập quán, lễ hội, tín ngưỡng của người dân phố Hội xưa và nay Trong lịch sử và cả hiện tại, các hội quán đóng vai trò hết sức quan trọng đối với đời sống cư dân. Các hội quán không chỉ là sở hữu của người Hoa mà thực sự trở thành nơi tín ngưỡng dân gian của đông đảo cư dân ở Hội An và các vùng phụ cận, là cơ sở tín ngưỡng chung cho người Việt, người Hoa. Từ xưa đến nay, cả cư dân Việt – Hoa ở Hội An đều đến các hội quán để gởi gắm tâm linh của mình. Họ cầu mong những điều tốt đẹp nhất cho bản thân và gia đình như: cầu sức khỏe, tài lộc, đường con cái…Thậm chí, ngày xưa một số hội quán còn là nơi để cư dân đến xin xăm, vay lộc về làm ăn, tiêu biểu như ở chùa Ông Bổn/ Âm Bổn tức hội quán Triều Châu. Trước đây trong ngày lễ vía Bà, vía Ông, người Hoa tổ chức lễ diễu hành qua nhiều đường phố, tổ chức hoạt động văn hoá-nghệ thuật. Qua đó đã thu hút rất nhiều người Việt tham gia, người Việt cũng đã xuống đường diễu hành hay tham gia vào các lễ hội của người Hoa. Hiện nay, hàng ngày các hội quán đón nhận khá đông người đến tham quan, cúng lễ, cầu tài, cầu lộc, cầu con, cầu phước cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc, làm ăn may mắn. Đây là những cư dân Hội An và khách thập phương nói chung chứ không phải của riêng người Hoa. Cho nên các di vật được thờ cúng hay các lời hướng dẫn tại các hội quán đều được ghi chú bằng hai thứ chữ Việt - Hoa. Trong năm, các hội quán tổ chức cúng, lễ lớn vào dịp Tết Nguyên Đán, Tết Nguyên Tiêu, Tết Thanh minh, Tết Đoan Ngọ, Tam triều (đưa Ông bà), Tết Trung thu, Rằm tháng 10, Đông chí, Tất niên, các “ngày vía” tức là ngày sinh của các vị thần được thờ. Vào những dịp cúng lễ, các hội quán thu hút đông đảo bà con người Hoa, Hoa kiều từ các nơi qui tụ về đây để gặp mặt, làm lễ tưởng niệm và cúng bái, cầu nguyện. Bên cạnh đó còn có sự tham gia của người Việt và du khách trong và ngoài nước. Qua đó thể hiện sự hòa hợp giữa đời sống tâm linh vào cuộc sống hàng ngày, đồng thời là dịp thể hiện tinh thần đoàn kết của cộng đồng các dân tộc Việt– Hoa. Tại Hội An, bên cạnh những ảnh hưởng của văn hóa Việt đến các hội quán của người Hoa, những dấu ấn văn hóa Trung Hoa cũng ảnh hưởng sâu đậm đến nhiều khía cạnh khác nhau trong đời sống của người Việt ở Hội An. Một số vị thần thánh của người Hoa được thờ trong các hội quán đã được cư dân Hội An thờ cúng trong các gia đình, tiêu biểu là tục thờ Quan Thánh rất phổ biến của cư dân phố Hội. Các người thợ Hội An tiếp thu kiểu trụ đội trái bí mang phong cách Hoa Bắc (Trung Quốc) để cấu thành bộ vì trính chồng – trụ đội các nhà cổ. Trang trí mắt cửa trước các nhà cổ vốn có nguồn gốc từ tín ngưỡng thờ Môn thần của người Hoa[2]. Là kết quả của mối quan hệ Hoa-Việt nhiều thế kỷ, người Hoa ở Hội An đã có hôn nhân hỗn hợp với người Việt, hiện nay người Hoa đã nói tiếng Việt phổ biến. Nhưng vẫn có một số gia đình gốc Hoa đã sử dụng cả hai thứ tiếng: Việt, Hoa. Đa số các hội quán, trong tổ chức hội quán, thành phần hội viên đã có sự tham gia của người Việt gốc Hoa, thậm chí có cả người Việt bên cạnh thành phần chủ đạo là người Hoa… III. Một số nhận xét Thương cảng Hội An ra đời và trù phú nhờ nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có vai trò đặc biệt của người Hoa. Các hội quán của người Hoa ở Hội An là những công trình kiến trúc đặc sắc có giá trị lịch sử – văn hoá, đánh dấu sự định cư và phát triển của người Hoa, phản ánh các giai đoạn lịch sử hình thành, hưng hịnh và suy tàn của vùng đất Hội An – Quảng Nam. Qua đó cũng khẳng định sự tồn tại và vai trò đời sống văn hóa tâm linh của cộng đồng người Hoa trong lịch sử phát triển của địa phương. Các hội quán ra đời đã khẳng định sự có mặt và định cư với số lượng lớn người Hoa ở Hội An, tập trung chủ yếu vào các thế kỷ 17-19. Người Hoa ở Hội An, đặc biệt là các thương nhân có hoạt động kinh tế vững mạnh, có mối liên hệ mật thiết nhau qua sự thành lập hội quán Trung Hoa chung cho 5 bang. Đồng thời người Hoa ở Hội An cũng có mối quan hệ với cộng đồng người Việt, người Minh Hương ở Hội An, người Hoa ở những nơi khác và có mối quan hệ với quê hương Trung Hoa của mình thông qua các hội quán còn tồn tại. Trong suốt quá trình di cư, làm ăn buôn bán, định cư ở Hội An, người Hoa đã trải qua bao biến cố lịch sử, lúc thăng, lúc trầm nhưng họ đã có nhiều đóng góp quan trọng trong công cuộc khai phá, xây dựng vùng đất Hội An nói riêng và diễn trình lịch sử văn hóa xứ Quảng nói chung. Quá trình hội nhập, giao lưu văn hoá giữa tộc người Hoa với người Việt tại Hội An vốn một xu thế tất yếu, đã diễn ra rất tự nhiên và hoà bình. Do đó, các yếu tố đặc sắc vốn có của văn hóa Việt Nam, văn hóa Trung Hoa vẫn được lưu giữ và mang nét độc đáo riêng. Qua đó, tạo nên sự đa dạng cho văn hóa Hội An, văn hóa xứ Quảng và văn hóa Việt Nam. Mối quan hệ văn hóa Việt – Hoa, Hoa – Việt tại các hội quán đã chứng minh cụ thể sự có mặt của người Hoa ở Hội An, vai trò quan trọng của họ đối với sự ra đời và thịnh đạt của đô thị - thương cảng Hội An trong lịch sử Việt Nam thời trung – cận đại. Đặc biệt hơn, các bằng chứng về giao lưu văn hóa này còn thể hiện quá trình giao lưu, hội nhập kinh tế, văn hoá diễn ra sôi động ở Hội An xưa và nay. Qua đó đóng góp vào quá trình giao lưu kinh tế, văn hoá giữa Việt Nam và Trung Hoa trong lịch sử kinh tế, văn hóa Việt Nam. Hiện tại, một số hội quán đã trở thành những di sản văn hoá kiến trúc cấp quốc gia, là những điểm tham quan của du khách trong hành trình khám phá di sản văn hoá thế giới Hội An.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan