Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sử dụng biện pháp so sánh trong dạy học thơ xuân diệu ở trường trung học phổ thô...

Tài liệu Sử dụng biện pháp so sánh trong dạy học thơ xuân diệu ở trường trung học phổ thông luận văn ths. giáo dục học

.PDF
118
275
122

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC VŨ THỊ THANH TUYỀN SỬ DỤNG BIỆN PHÁP SO SÁNH TRONG DẠY HỌC THƠ XUÂN DIỆU Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC (BỘ MÔN NGỮ VĂN) Mã số: 60 14 10 Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Ái Học HÀ NỘI – 2012 i MỤC LỤC Trang Lời cảm ơn ................................................................................................... i Danh mục viết tắt ......................................................................................... ii Danh mục các bảng ...................................................................................... iii Mục lục ........................................................................................................ iv MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BIỆN PHÁP SO SÁNH TRONG DẠY HỌC VĂN Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ............................................................................................. 10 1.1. Cơ sở lý luận ......................................................................................... 10 1.1.1. Biện pháp dạy học so sánh .................................................................. 10 1.1.2. Biện pháp so sánh trong dạy học văn .................................................. 12 1.2. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................... 19 1.2.1. Thực trạng dạy văn, học văn ở nhà trường trung học phổ thông ......... 19 1.2.2. Điều tra thực trạng .............................................................................. 20 Tiểu kết ........................................................................................................ 31 Chƣơng 2: SỬ DỤNG BIỆN PHÁP SO SÁNH TRONG DẠY HỌC THƠ XUÂN DIỆU Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ............. 32 2.1. Vị trí nhà thơ Xuân Diệu ....................................................................... 32 2.1.1. Vị trí nhà thơ Xuân Diệu trong văn học Việt Nam .............................. 32 2.1.2. Vị trí nhà thơ Xuân Diệu trong nhà trường THPT Việt Nam .............. 35 2.2. Các chặng đường sáng tác và trong phong cách nghệ thuật thơ Xuân Diệu .................................................................................................... 37 2.2.1. Các chặng đường sáng tác .................................................................. 37 2.2.2. Một số đặc điểm nổi bật trong phong cách thơ Xuân Diệu .................. 40 2.2.3. Định hướng sử dụng biện pháp so sánh khi dạy thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám ......................................................................... 61 -5- 2.3. Định hướng sử dụng biện pháp so sánh khi dạy bài thơ “Vội vàng” 77 2.3.1. Vị trí của “Vội vàng” trong chương trình Ngữ văn trung học phổ thông 77 2.3.2. Cách thức sử dụng biện pháp so sánh khi dạy bài thơ “Vội vàng” (So sánh lịch đại và đồng dại) ...................................................................... 78 Tiểu kết 2 ..................................................................................................... 90 Chƣơng 3: THỂ NGHIỆM SƢ PHẠM ..................................................... 91 3.1. Những vấn đề chung .............................................................................. 91 3.1.1. Yêu cầu thực nghiệm .......................................................................... 91 3.1.2. Mục đích của việc thực nghiệm .......................................................... 91 3.1.3. Thời gian và địa bàn thực nghiệm ....................................................... 91 3.1.4. Nội dung, phương pháp tiến hành thực nghiệm .................................. 91 3.2. Thiết kế bài soạn thực nghiệm ............................................................... 92 3.3. Kết quả thực nghiệm .............................................................................107 3.3.1. Nhận xét giáo án đối chứng ................................................................107 3.3.2. Nhận xét giáo án thực nghiệm ............................................................108 3.3.3. Kết quả thực nghiệm...........................................................................108 Tiểu kết 3 .....................................................................................................110 KẾT LUẬN .................................................................................................111 TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................113 -6- DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT BPDH Biện pháp dạy học ĐC Đối chứng DH Dạy học ĐHSPHN Đại học sư phạm Hà Nội GS Giáo sư GV Giáo viên HS Học sinh NSND Nghệ sỹ nhân dân PGS. TS Phó giáo sư tiến sĩ SGK Sách giáo khoa SGV Sách giáo viên THPT Trung học phổ thông TN Thực nghiệm TPVC Tác phẩm văn chương VH Văn học VHVN Văn học Việt nam -3- DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Trang Bảng 1.1: Bảng thống kê việc sử dụng biện pháp so sánh trong giáo án dạy bài thơ “Vội vàng”. ............................................................................ 24 Bảng 1.2: Bảng thống kê tình trạng học văn, học bài thơ “Vội vàng” của HS. 25 Bảng 3.1: Bảng thống kê kết quả bài viết của học sinh sau khi học bài thơ “Vội vàng”. ........................................................................................ -4- 109 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Bước vào thế kỷ XXI là bước vào một thế kỷ của khoa học kỹ thuật, của công nghệ thông tin. Sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, sự gia tăng như thác lũ của lượng thông tin đòi hỏi con người phải có cách ứng sử khoa học kỹ năng thích hợp hơn so với thời đại trước. Con người muốn tồn tại, muốn hoà nhập, muốn tự khẳng định mình thì nhất định phải là những thành viên năng động, tích cực, sáng tạo, có óc quan sát nhạy bén, trí tuệ linh hoạt, có thái độ lựa chọn thông tin và hiểu thông tin một cách sáng tạo. Đáp ứng yêu cầu đó của xã hội, nhiệm vụ hiện đại hoá giáo dục được đặt ra như một trong những nhiệm vụ quan trọng của công tác phát triển giáo dục, trong đó đổi mới nội dung phương pháp dạy và học là vấn đề then chốt trong chiến lược: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào quá trình dạy - học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh nhất là sinh viên đại học” (Văn kiện hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội 1997, tr.4). Trên tinh thần đó, văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc khoá IX khi nói về giáo dục đào tạo đã nhấn mạnh “Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung phương pháp dạy và học phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn… ” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia 2001, tr108,109). Như vậy trên con đường hội nhập với thế giới, Đảng, Nhà nước ta đặc biệt chú trọng vào việc nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, trong đó yêu cầu phải đổi mới nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy là vấn đề then chốt. -7- Gần đây nhất, trong lần thay sách giáo khoa Ngữ văn 2006, việc đổi mới chương trình sách giáo khoa đã đặt trọng tâm vào việc đổi mới phương pháp dạy học. Chỉ có đổi mới cơ bản phương pháp dạy và học chúng ta mới có thể tạo được sự đổi mới trong giáo dục, mới có thể đào tạo được lớp người năng động, sáng tạo, có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh nhiều nước trên thế giới đang hướng tới nền kinh tế tri thức. Môn Văn vừa nằm trong hệ thống các môn khoa học xã hội và nhân văn, bộ môn thuộc lĩnh vực giáo dục thẩm mỹ, vừa là một bộ môn có tính chất công cụ. Nó không những nuôi dưỡng tâm hồn mà còn giúp con người hình thành và phát triển và hoàn thiện nhân cách. Dạy Văn có thể coi là một nghệ thuật, nghệ thuật cảm thụ cái đẹp và phô diễn cái đẹp, nó lắng đọng trong tâm hồn, là khát vọng vươn tới chân, thiện, mỹ. Người giáo viên là chiếc cầu nối không thể thiếu để học sinh đến được với những giá trị đích thực của tác phẩm văn chương. Bằng tâm huyết, tri thức và khả năng sư phạm của mình, người thầy sẽ đem đến cho học sinh những điều mới mẻ, củng cố niềm tin, sự hứng thú, khơi dậy niềm đam mê và tình yêu văn học, để rồi văn học chiếm vị trí xứng đáng trong hành trang tri thức của các em. Cũng từ đây, các em sẽ lớn dần lên qua những giờ dạy Văn hiệu quả ấy, bởi văn học có khả năng thanh lọc tâm hồn con người, thấy yêu đời, yêu người và hoàn thiện mình hơn. Trong chương trình Ngữ văn trung học phổ thông, khối lượng thơ lãng mạn khá lớn nên việc giảng dạy sao cho đạt hiệu quả là điều hết sức cần thiết. Nó có tác dụng nâng cao trình độ thưởng thức, nâng cao phẩm chất đạo đức, nhân cách cho học sinh trong thời đại mới. Thơ lãng mạn- phong trào Thơ Mới (1930-1945) đánh dấu bước chuyển mình của nền văn học dân tộc từ truyền thống sang hiện đại, không ít tác phẩm giai đoạn này được đánh giá ngang tầm với các tác phẩm xuất sắc của nền văn học phương Tây hiện đại. Trong giai đoạn này, vai trò của chủ thể sáng tạo (cái Tôi cá nhân, cá thể) in dấu ấn đậm nét và chính điều đó đã tạo nên sự đa dạng về phong cách cũng như bút pháp nghệ thuật. Mỗi người -8- một quan điểm, một phong cách riêng nhưng đều đóng góp vào quá trình cách tân, hiện đại hoá giúp cho thơ Việt nam phát triển mạnh mẽ cả bề rộng lẫn chiều sâu, đánh dấu mốc son chói lọi trên thi đàn văn học. Trong số những cây bút lãng mạn xuất sắc đóng góp to lớn vào sự phát triển, trưởng thành và cách tân thơ Việt Nam giai đoạn 1930-1945 nói riêng và của nền Văn học Việt Nam thế kỷ XX nói chung được đưa vào giảng dạy ở trường trung học phổ thông, không thể không kể tới Xuân Diệu – nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ Mới. Một nhà thơ lãng mạn số một của văn học Việt Nam lúc bấy giờ, ông hoàng của thơ tình. Ông là một trong số không nhiều nhà thơ đã có nhiều cống hiến cho nền văn chương Việt Nam thế kỷ XX. Mỗi trang viết của ông đều thể hiện dạt dào cảm xúc, sự táo bạo, mới lạ... Xuân Diệu đã để lại một sự nghiệp văn học đồ sộ với nhiều thể loại: Thơ, văn xuôi, tiểu luận, phê bình, dịch thuật. Văn nghiệp của Xuân Diệu trải qua hai giai đoạn, trước và sau cách mạng tháng Tám. Trước cách mạng tháng Tám Ông xứng đáng được coi là một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hoá lớn. Năm 1983, ông được bầu là Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật Cộng hoà dân chủ Đức. Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I). Xuân Diệu và tác phẩm của ông được đưa vào giảng dạy từ sau năm 1980 cùng một số nhà thơ cùng thời một họ dần dần đã có chỗ đứng trong chương trình và sách giáo khoa phổ thông. Đặc biệt từ thập kỷ 90 của thế kỷ trước lại đây, học sinh được học nhiều hơn về Xuân Diệu, học tới 5 tiết ở lớp 11 (sau Nam Cao; bằng Tố Hữu và ngang bằng Nguyễn Tuân), trong đó bài thơ "Vội vàng" rút ra từ tập “Thơ thơ” in năm 1938, được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn lớp 11 hiện nay là tác phẩm có nhiều mới, lạ và độc đáo. Bài thơ tập trung cao nhất niềm khát khao giao cảm với đời đến cuống quýt; là hồn thơ hăm hở, sôi nổi, yêu đời yêu sống đến cuồng nhiệt; là cái khát vọng của mình giữa tuổi trẻ và xuân tình; là một cảm xúc triết học một quan niệm nhân sinh mới mẻ. Mà để chiếm lĩnh, cảm nhận được những -9- niềm cảm xúc đó và cảm nhận được cái mới mẻ xưa nay chưa từng có trong tác phẩm vậy phải tìm đến biện pháp dạy học so sánh. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Sử dụng biện pháp so sánh trong dạy học thơ Xuân Diệu ở trường trung học phổ thông”. 2. Lịch sử vấn đề Xuân Diệu một tác gia lớn, có vị trí quan trọng trong nền văn học hiện đại Việt nam. Hơn nửa thế kỷ cầm bút ông đã để lại cho đời một di sản văn học đồ sộ. Thực tế cho thấy các tác phẩm của Xuân Diệu ngay từ khi mới ra đời đã gây xôn xao dư luận bởi trong thơ ông một phong cách mới, lạ, độc đáo một phong cách rất Tây. Tác phẩm của ông được nhiều thế hệ đón nhận với niềm say mê, yêu thích, được đưa vào giảng dạy trong nhà trường. Những tác phẩm ấy đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Trên thực tế đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về Xuân Diệu, về biện pháp giảng dạy thơ Xuân Diệu. 2.1. Nghiên cứu của chuyên ngành văn học Việt Nam Trước cách mạng tháng Tám - Thế Lữ giới thiệu tập “Thơ thơ”(1938) của Xuân Diệu: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây trên đất của một tấm lòng trần gian… ” - Năm 1941, trong cuốn “Thi nhân Việt Nam”NXB Văn học,2003, Hoài Thanh đã ca ngợi Xuân Diệu là một “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. - Năm 1942, Vũ Ngọc Phan trong cuốn “Nhà văn hiện đại”(Hà Nội tân dân, 1942) đã khẳng định: “Xuân Diệu mới nhất, đằm thắm và nồng nàn nhất trong tất cả thơ mới”. Và trong cuốn “Việt Nam văn học sử yếu”, Dương Quảng Hàm có đánh giá tập “Thơ thơ”: “Thơ thơ là một tập thơ chan chứa tình cảm lãng mạn, trong đó có nhiều từ mới lạ, tỏ ra tác giả thật có tâm hồn thi sĩ nhưng cũng có nhiều câu vụng về, non nớt chứng tỏ tác giả chưa lão luyện về kĩ thuật của nghề thơ”[tr.18 - 82]. - 10 - Sau Cách mạng tháng Tám năm đến năm 1975 Phong trào Thơ mới nói chung, thơ ca Xuân Diệu nói riêng trở thành đối tượng bị phê phán, công kích. Mãi đến cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980, các công trình nghiên cứu đề cập đến thơ ca Xuân Diệu mới xuất hiện. - Trong “Nhà thơ Việt Nam hiện đại”(công trình tập thể), các tác giả Mã Giang Lân, Nguyễn Văn Long coi Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biểu nhất ở giai đoạn phát triển mạnh mẽ và rực rỡ của phong trào Thơ mới. Giữa những năm 1975 đến nay - Trong cuốn “Xuân Diệu – về tác gia và tác phẩm” của Lưu Khánh Thơ tuyển chọn và giới thiệu, cuốn sách tập hợp khá đầy đủ và tương đối có hệ thống những bài viết về sự nghiệp văn và cuộc đời của tác giả - Trong cuốn “Con mắt thơ”, Đỗ Lai Thúy đã phản ánh những cố gắng, tìm tòi của các nhà nghiên cứu về phong cách và thi pháp thơ Xuân Diệu. - Trong cuốn “Thơ mới những bước thăng trầm”, tác giả Lê Đình Kỵ đã thể hiện tâm hồn nồng nàn, nồng nhiệt của Xuân Diệu và chỉ rõ đặc sắc nghệ thuật của ông. Ngoài những công trình nghiên cứu trên còn có những công trình khác như: “Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca”(do Huy Cận và Hà Minh Đức chủ biên), “Thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám năm 1945”(qua “Thơ thơ” và “Gửi hương cho gió”) của Lý Hoài Thu, luận án tiến sĩ “Thế giới nghệ thuật thơ ca Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám 1945” của tác giả Lê Quang Hưng, và cuốn “Ba đỉnh cao Thơ mới” của Chu Văn Sơn. Ngoài ra còn một số bài viết như: “Trường nghĩa của từ yêu trong thơ Xuân Diệu (So sánh với Nguyễn Bính)” Của Vũ Thi Ân Báo Ngôn ngữ số 9 [tr. 27-37]- 2003; “Hư từ và giá trị biểu đạt của hư từ trong bài thơ “Vội vàng”Xuân Diệu” của Bùi Thanh Hoa-Tạp chí khoa học số 2 [tr. 42-45] 2005;… Tóm lại, Xuân Diệu là nhà thơ lớn trong phong trào Thơ mới nói riêng và nền văn học hiện đại nói chung. Xuân Diệu đã là một mảnh đất nghiên cứu - 11 - lớn cho nhiều nhà nghiên cứu và sẽ còn nhiều vấn đề được khai thác và tìm hiểu ở tác giả này qua những tác phẩm của ông. 2.2. Nghiên cứu của chuyên ngành phƣơng pháp Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về việc giảng dạy thơ văn của Xuân Diệu trong nhà trường cũng đã có những đóng góp đáng kể: “Phương pháp dạy học văn chương trong nhà trường” của PGS.TS.Nguyễn Viết Chữ đã gợi ý phân tích tác phẩm “Thơ duyên” và “Vội vàng” của Xuân Diệu”;; “Thiết kế bài giảng ngữ văn 11” của Nguyễn Văn Đường… Ngoài ra còn có một số khóa luận như: “Phương pháp phân tích tác phẩm trữ tình của Xuân Diệu trong nhà trường PT” của Nguyễn Kim Hằng, “Một số phương pháp và biện pháp dạy học thơ lãng mạn của Xuân Diệu trong chương trình lớp11 THPT” của Nguyễn Thị Mai Phương, luận văn thạc sĩ “Hướng dạy học mới bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu” của Trương Văn Thắng, “Phương pháp giảng dạy thơ mới từ góc độ thi pháp” của Nguyễn Thị Lượm… Về biện pháp dạy học so sánh cũng có một số công trình nghiên cứu như: cuốn “Phương pháp dạy học văn” của GS. Phan Trọng Luận; Luận văn thạc sỹ “So sánh nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Nam Cao (Việt Nam) và Ruinôxkê Akutagawa (Nhật Bản)” của nguyễn Thị Thuỳ Dương; sáng kiến kinh nghiệm “Sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu trong dạy học Ngữ văn 7” và “Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương từ tư duy hệ thống” của TS. Nguyễn Ái Học đã so sánh thời gian trong thơ Xuân Diệu và thời gian trong thơ Hàn Mạc Tử trong bài “dạy “Đây thôn Vĩ Dạ” từ tư duy hệ thống... Đã có nhiều luận văn về Xuân Diệu, biện pháp dạy học thơ Xuân Diệu, song vẫn chưa có ai nghiên cứu vận dụng biện pháp dạy học so sánh trong dạy thơ Xuân Diệu ở trường phổ thông. Hơn nữa, việc cảm nhận thơ Xuân Diệu đối với học sinh trong nhà trường trung học phổ thông luôn là một khó khăn chính vì vậy để tăng hiệu quả tiếp nhận cho học sinh chúng tôi đi nghiên cứu - 12 - cụ thể hơn về việc sử dụng biện pháp so sánh trong dạy học thơ Xuân Diệu ở trường trung học phổ thông. 3. Mục tiêu nghiên cứu Sử dụng biện pháp so sánh trong dạy học thơ Xuân Diệu lớp 11 cơ bản và thiết kế phương án dạy học với biện pháp đó. 4. Đối tƣợng nghiên cứu Biện pháp dạy học so sánh. Tác gia và tác phẩm Xuân Diệu. Tác giả và tác phẩm Nguyễn Bính. Thơ Trung đại. Sách ngữ văn 11 Phong trào Thơ mới 5. Mục đích nghiên cứu Đề xuất biện pháp so sánh trong dạy học thơ Xuân Diệu trong trường trung học phổ thông để nâng cao khả năng cảm nhận thơ Xuân Diệu. 6. Phạm vi nghiên cứu Biện pháp so sánh trong dạy học thơ Xuân Diệu ở trường trung học phổ thông (lớp 11 cơ bản). 7. Giả thuyết khoa học Việc sử dụng biện pháp so sánh trong dạy học thơ Xuân Diệu ở lớp 11 cơ bản sẽ nâng cao khả năng cảm nhận thơ Xuân Diệu của học sinh trung học phổ thông. 8. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu tài liệu, sách báo liên quan đến đề tài để xác định cơ sở lí luận của việc sử dụng biện pháp so sánh trong dạy học thơ Xuân Diệu ở trường trung học phổ thông. - Điều tra, khảo sát thực trạng dạy học thơ Xuân Diệu trong trường trung học phổ thông. - 13 - - Sử dụng biện pháp so sánh trong dạy học thơ Xuân Diệu trong sách giáo khoa Ngữ văn 11 ban cơ bản ở trường trung học phổ thông. - Thiết kế phương án dạy học cho bài thơ “Vội vàng” - Xuân Diệu Ngữ văn 11 cơ bản có sử dụng biện pháp so sánh. - Thực nghiệm sư phạm, kiểm nghiệm tính hiệu quả của việc sử dụng biện pháp so sánh trong dạy học thơ Xuân Diệu trong sách giáo khoa ngữ văm 11 ban cơ bản ở trường trung học phổ thông. 9. Phƣơng pháp nghiên cứu 9.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận Sử dụng biện pháp nghiên cứu các tài liệu, sách báo liên quan đến đề tài để xác định cơ sở lí luận của đề tài. 9.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Điều tra giáo dục, sử dụng phương pháp này để khảo sát tình hình dạy học ngữ văn nói chung, dạy học bằng biện pháp so sánh nói riêng ở một số trường trung học phổ thông trong tỉnh Bắc Giang thông qua hình thức phiếu hỏi và phỏng vấn trực tiếp giáo viên và học sinh. Từ biện pháp này, người viết sẽ có được những số liệu thực tế của vấn đề nghiên cứu. - Quan sát sư phạm: phương pháp này được sử dụng trong quá trình dự giờ giáo viên. - Tọa đàm với giáo viên về biện pháp dạy học Ngữ văn nói chung, dạy học sử dụng biện pháp so sánh trong dạy Ngữ văn nói riêng. - Thực nghiệm sư phạm: sử dụng biện pháp này để kiểm nghiệm tính khoa học, khả thi, hiệu quả của biện pháp so sánh trong dạy học thơ Xuân Diệu. 9.3. Sử dụng phương pháp thống kê toán học Sử dụng phương pháp thống kê trong quá trình nghiên cứu với mục đích xử lí số liệu điều tra thực tế và thực nghiệm sư phạm. 9.4. Phương pháp so sánh, đối chiếu So sánh, đối chiếu được sử dụng trong luận văn với mục đích làm nổi bật những ưu thế của việc sử biện pháp so sánh khi giảng dạy thơ Xuân Diệu với các biện pháp khác. - 14 - 9.5. Phương pháp phân tích hệ thống Sử dụng phương pháp phân tích hệ thống đặt tác phẩm được nghiên cứu và các biện pháp giảng dạy vào hệ thống mang tính đặc thù, từ đó có điều kiện để tìm hiểu sâu sắc hơn đối tượng. Hệ thống hóa lại những ý kiến đánh giá của người đi trước, cùng với sự tìm hiểu, cảm nhận của bản thân, chúng tôi phân tích các vấn đề liên quan tới biện pháp so sánh vận dụng vào dạy học thơ Xuân Diệu trong trường trung học phổ thông nhằm làm nổi bật đặc điểm riêng nhà thơ lãng mạn này. Chọn một tác phẩm giảng dạy trong chương trình trung học phổ thông (lớp 11) để tìm ra hướng khơi gợi làm tăng hứng thú cho học sinh khi tiếp nhận văn bản. Các phương pháp nghiên cứu trên không tồn tại độc lập mà luôn có sự đan xen, hỗ trợ nhau trong quá trình nghiên cứu tạo ra sự cộng hưởng về hiệu quả. 10. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm có 3 chương Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về biện pháp so sánh trong dạy học văn ở trường trung học phổ thông. Chƣơng 2: Sử dụng biện pháp so sánh trong dạy học thơ Xuân Diệu ở trường trung học phổ thông. Chƣơng 3: Thực nghiệm sư phạm. - 15 - CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BIỆN PHÁP SO SÁNH TRONG DẠY HỌC VĂN Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 1.1. Cơ sở lý luận Thuyết trình kiểu so sánh, tổng hợp: Nếu nội dung của vấn đề trình bày chứa đựng những mặt tương phản thì giáo viên cần xác định những tiêu chí để so sánh từng mặt, thuộc tính hoặc quan hệ giữa hai đối tượng đối lập nhau nhằm rút ra kết luận cho từng tiêu chí so sánh. Mặt khác, giáo viên có thể sử dụng số liệu thống kê để phân tích, so sánh rút ra kết luận nhằm góp phần làm tăng tính chính xác và tính thuyết phục của vấn đề. 1.1.1. Biện pháp dạy học so sánh 1.1.1.1. So sánh Khái niệm so sánh So sánh chính là một thao tác của hoạt động tư duy lôgíc nhằm giúp con người tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt khi đưa đối tượng này ra đối chiếu với đối tượng khác dựa trên một tiêu chí nào đó, từ đó nhận thức sâu sắc và làm nổi bật đối tượng. Cuốn “Từ điển Tiếng Việt” của Hoàng Phê (chủ biên) đã đưa ra cách hiểu về so sánh là:“nhìn vào cái này để thấy cái kia, để thấy sự giống và khác nhau hoặc sự hơn kém” [30, tr.861]. Cuốn “Phong cách học Tiếng Việt hiện đại” của tác giả Hữu Đạt cũng đưa ra khái niệm so sánh là việc “đặt hai hay nhiều sự vật, hiện tượng vào các mối quan hệ nhất định nhằm tìm ra sự giống và khác nhau giữa chúng”[13, tr.294]. Cuốn “Giáo trình tâm lí học đại cương”, tác giả Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên) đã đưa ra cách hiểu về so sánh “là quá trình dùng trí óc để xác định sự giống nhau hay khác nhau, sự đồng nhất hay không đồng nhất, sự bằng nhau hay không bằng nhau giữa các đối tượng nhận thức (sự vật, hiện tượng)”[49, tr.116]. Như vậy, cách hiểu về so sánh của “Từ điển Tiếng Việt”, của tác giả Hữu Đạt và của giáo trình tâm lí học đại cương đều có quan điểm chung về so sánh là để thấy sự giống và khác - 16 - nhau của các sự vật, hiện tượng, từ đó thấy rõ đặc điểm và giá trị của mỗi sự vật, hiện tượng. Cuốn “Lôgic học” của tác giả Phan Trọng Hoà tuy không trực tiếp bàn về so sánh, nhưng đã bàn đến việc đem so sánh các sự vật, hiện tượng với nhau mà hình thành các phán đoán, nhận xét. Chẳng hạn, để hình thành khái niệm niệm “nước”, con người phải trải qua một quá trình phân tích, so sánh, đối chiếu nó với một số chất khác gần gũi với nó như “không khí”, “mực”, “dầu”,” “rượu trắng”… và cuối cùng người ta rút ra một số nhận xét “nước trong suốt”, “nước không có màu”, “nước không có mùi”, “nước không có vị”… [19, tr.46]. Như vậy so sánh là thao tác lôgic dùng để rút ra các phán đoán, nhận xét để nhận thức đối tượng được cụ thể. Và để so sánh, người ta phải dựa trên cùng một tiêu chí, nếu khác tiêu chí, so sánh sẽ trở nên khập khiễng, thiếu sức thuyết phục, từ đó dễ dẫn đến nhận xét, đánh giá sai lệch. Tác giả Ngô Doãn Tá trong “Giáo trình lôgic học” đưa ra ba dạng định nghĩa bằng so sánh: so sánh tương đồng, so sánh ngược, so sánh khác biệt [46, tr.69- 70]. Như vậy so sánh là thao tác lôgic đem đối tượng này đặt cạnh đối tượng khác vạch ra các dấu hiệu “tương tự dấu hiệu cơ bản của đối tượng trong các đối tượng khác” hay “dấu hiệu không tồn tại ở đối tượng cần định nghĩa nhưng lại có trong đối tượng dùng để so sánh với nó khi định nghĩa”. Từ đó chúng ta có thể hiểu muốn nhận thức đối tượng sâu sắc cần so sánh, đặt nó với đối tượng khác. Trong cuốn sách giáo khoa Ngữ văn 6 thì “So sánh là đối chiếu sự vật, sự việc này với sự vật, sự việc khác có nét tương đồng, nhằm tăng sức gợi hình gợi cảm cho sự diễn đạt”. Trong thực tế đời sống, trong giao tiếp hàng ngày, chúng ta rất hay dùng biện pháp so sánh, đối chiếu để làm nổi bật đặc điểm riêng, những nét riêng độc đáo của một đối tượng nào đó. Như thế, so sánh là một thao tác nhằm đối chiếu hai hay nhiều sự vật hoặc là các mặt trong cùng một sự vật để thấy sự giống và khác nhau. So sánh cũng được đưa vào giảng dạy trong nhà - 17 - trường phổ thông như một thao tác chủ đạo. Đây là một thao tác thúc đẩy quá trình vận động tư duy để tìm tòi cái mới. Tác dụng của biện pháp so sánh So sánh vừa có tác dụng gợi hình, giúp cho việc miêu tả sự vật, sự việc được cụ thể, sinh động, vừa có tác dụng biểu hiện tư tưởng, tình cảm sâu sắc của người nói hay người nghe. Chẳng hạn để giúp người nghe hình dung rõ sự vật, đối tượng người nói có thể lấy những sự vật, đối tượng có những nét tương đồng để so sánh: Khi miêu tả con mèo người nói có thể lấy những hình ảnh của con hổ để so sánh, muốn diễn tả hoạt động của mèo có thể so sánh với một số con vật khác có nét tương đồng, nhưng cũng có khi lấy những nét khác biệt để so sánh làm nổi bật đối tượng... 1.1.1.2. Biện pháp so sánh trong dạy học Trong dạy học ở các cấp học nói chung và ở trường trung học phổ thông nói riêng biện pháp so sánh được sử dụng tương đối rộng dãi. Bởi để tăng hiệu quả tiếp nhận cho học sinh ngoài các biện pháp dạy học tích cực khác thì biện pháp so sánh là một trong những biện pháp đem lại hiệu quả cao trong dạy học. Để nắm bài sâu sắc giáo viên có thể so sánh đối chiếu các bài, các sự vật hiện tượng có những nét tương đồng để học sinh nắm bài vững hơn...ở bất kỳ môn học nào... 1.1.2. Biện pháp so sánh trong dạy học văn 1.1.2.1. Khái niệm biện pháp dạy học so sánh trong dạy học văn Biện pháp so sánh trong văn chương là so sánh đối chiếu tác phẩm với tác phẩm, giai đoạn với giai đoạn: hình tượng; nội dung; nghệ thuật: tình tiết, sự kiện nhân vật ngôn từ, các biện pháp tu từ,...để bật lên sự giồng và khác nhau của đối tượng làm cho giờ học đạt hiệu quả cao, tạo sự hứng thú học sinh. 1.1.2.2.Tác dụng của biện pháp dạy học so sánh trong dạy học văn Trong phân tích văn học, so sánh đã trở thành một biện pháp khá phổ biến. So sánh không giới hạn mà có thể sử dụng so sánh rộng rãi nhiều mặt. - 18 - Theo khảo sát công trình nghiên cứu, phê bình văn học có giá trị của một số nhà văn, nhà nghiên cứu, phê bình nhận thấy biện pháp so sánh được sử dụng rộng rãi và có hiệu lực thực sự. Đọc Hoài Thanh, nhà phê bình văn học nửa thế kỷ nay, ta thấy biện pháp so sánh đặc biệt đã được sử dụng một cách tài tình và linh hoạt. Các nhà văn, nhà thơ Nam Cao, Chế Lan Viên, Xuân Diệu,… trong những bài phê bình, phân tích văn học của mình luôn sử dụng biện pháp so sánh để phát hiện những vẻ đẹp độc đáo của bài văn bài thơ. Có thể nhận thấy một cách rõ ràng là tuy mục đích và nhất là kết quả có thể rất khác nhau nhưng trong phân tích văn học biện pháp so sánh khá phổ biến và giới hạn của so sánh thì đa diện. Rất nhiều công trình phê bình, nghiên cứu khoa học có giá trị của một số nhà văn, nhà nghiên cứu, phê bình quen thuộc khác chúng ta thấy biện pháp so sánh đặc biệt đã được sử dụng một cách tài tình và linh hoạt. Những nhà văn, nhà thơ nhà phê bình nghiên cứu Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hoài Thanh, Hoài Chân... trong những bài phê bình, phân tích văn học của mình cũng đã luôn sử dụng biện pháp so sánh để phát hiện vẻ đẹp độc đáo của bài văn, bài thơ. Ngày nay, biện pháp so sánh Văn học đã vượt quá giới hạn và tính chất của một phương pháp khoa học để trở thành một khuynh hướng, một trào lưu nghiên cứu văn học ở nhiều nước. Ở đây, chỉ giới hạn vấn đề trong phạm vi một phương pháp văn học. Trong thực tế so sánh nghiên cứu phê bình lí luận cũng như giảng dạy văn học trở thành một biện pháp có hiệu lực và khá quen thuộc của nhiều nhà khoa học có kinh nghiệm. Mặc dù chưa được công nhận trong các công trình biện pháp phân tích văn học, thậm chí ngay cả trong ý thức của bản thân những người sử dụng nó lấy đó làm một công cụ có hiệu lực thực sự. Chúng ta cần trả nó về đúng vị trí ban đầu của nó trong các công trình lí luận về biện pháp phân tích văn học trong cũng như ngoài nhà trường. Có thể thấy gắn với việc dạy học văn trong nhà thường phổ thông thì so sánh trong dạy học có một vai trò quan trọng. - 19 - Giáo viên sẽ cung cấp được cho học sinh những kiến thức không chỉ trong tác phẩm mà còn ngoài tác phẩm. Đặc biệt khi sử dụng biện pháp so sánh lịch đại học sinh sẽ nắm rõ hơn tiến trình phát triển của văn học. Khi sử dụng biện pháp so sánh đồng đại học sinh sẽ nắm khái quát, tổng hợp và mở rộng kiến thức. Nhưng giáo viên dạy văn học so sánh cần phải đảm bảo được những yêu cầu sau: Thứ nhất, nắm vững, sâu sắc kiến thức trong bài mình định dạy. Thứ hai, nắm, thông hiểu kiến thức ngoài văn bản để vận dụng biện pháp so sánh chỉ ra điểm giống và khác nhau trong văn bản. thứ ba, nội dung đem ra phải vừa phải vừa sức phù hợp, không xa rời văn bản và thời lượng giảng dạy. Đối với học sinh thì cần chuẩn bị bài kỹ theo câu hỏi sách giáo khoa và của giáo viên hướng dẫn. 1.1.3.3. Những nguyên tắc so sánh trong dạy học văn Giới hạn của so sánh trong phân tích tác phẩm văn học theo GS. Phan Trọng Luận phải dựa vào cơ cấu nội tại của tác phẩm và những mối quan hệ hữu cơ vốn có của tác phẩm với cuộc sống sản sinh, nuôi dưỡng nó. Cho nên so sánh trong phân tích văn học thật đa dạng và phong phú. Tuy vậy, khả năng và giới hạn của so sánh không phải là chuyện có thể tuỳ tiện, chủ quan. Việc so sánh luôn được xác định trên những cơ sở những nguyên tắc chặt chẽ. Trên thực tế phê bình văn học cũng như giảng văn không phải là hiếm những hiện tượng lạm dụng so sánh làm cho hiệu quả phân tích không được như mong muốn mà còn gây hoài nghi đối với bàn thân phương pháp so sánh vốn có những cơ sở khoa học xác đáng. Nếu lạm dụng so sánh dẫn tới hiện tượng thoát li tác phẩm; và việc phân tích văn học đi sang lĩnh vực xã hội học dung tục. Những khuynh hướng lệch lạc vượt quá giới hạn cho phép đều bắt nguồn từ sự vi phạm những nguyên tắc khách quan đã xác định. Một nguyên tắc hàng đầu trong so sánh văn học là không được lấy nội dung thay thế cho việc khám phá, phân tích tác phẩm. So sánh không phải là - 20 - mục đích, so sánh chỉ là phương tiện, là con đường đi vào tác phẩm. Chính sự bất lực trước tác phẩm mà nhiều người lạm dụng việc so sánh tác phẩm với yếu tố ngoài tác phẩm. Như vậy nhu cầu biểu hiện, khám phá bản thân tác phẩm lại không được thoả mãn. Nguyên tắc thứ hai là khi liên hệ so sánh ngoài tác phẩm không được làm dứt mối với đường dây chủ đề của tác phẩm. Liên tưởng vốn là một hiện tượng rất chủ quan. Một liên tưởng vượt quá giới hạn sẽ biến phân tích thành một công việc bình luận không căn cứ. Có trường hợp người phân tích đi rất sâu, rất rộng, rất xa bằng cách so sánh với nhiều tác phẩm cổ kim, nhiều tác phẩm gần gũi hoặc đối lập về chủ đề nhưng bạn đọc vẫn cảm thấy có thể chấp nhận được. Một nguyên tắc rất quan trọng nữa trong so sánh là khi so sánh phải tôn trọng tính chỉnh thể của bài văn. Trong phân tích không được tách chọn một từ ngữ, một chi tiết, một hình ảnh ra khỏi chính thể để so sánh với các yếu tố ít liên quan với tác phẩm rồi bình luận một cách chủ quan, xa rời chủ đề của tác phẩm. 1.1.3.4. Giới hạn so sánh trong dạy học văn Trong phân tích văn học phạm vi của so sánh khá rộng rãi. Theo GS. Phan Trọng Luận có thể chia so sánh thành ba nhóm chính như sau: Nhóm so sánh thứ nhất So sánh đối tượng phân tích với những tác phẩm cùng đề tài, chủ đề, cùng mô típ nhưng khác nhau về loại hinh. Có thể so sánh một tác phẩm trong nhà trường với một kịch bản hay một sáng tác đã được chuyển thể có thể là phim ảnh,… có thể mang so sánh với tác phẩm đã được sân khấu hoá. So sánh vậy càng làm nổi bật chủ đề, ý nghĩa của tác phẩm đang phân tích vừa làm sáng rõ đặc thù về loại hình. Ở các nước khoa học kĩ thuật phát triển trong việc giảng văn, người ta sử dụng một cách rộng rãi và thành công bằng phương tiện màn ảnh, tivi, những bức tranh minh hoạ nghệ thuật có giá trị. Thế giới thẩm mỹ của học sinh không những được phát triển một cách tự - 21 -
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất