ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA LỊCH SỬ
-------------------------
TRẦN THANH HOA
SỰ ĐÓNG GÓP CỦA NGƢỜI DÂN
VÀO CÁC HOẠT ĐỘNG TẠI ĐÌNH, CHÙA
(QUA NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP LÀNG GIANG XÁ, HOÀI ĐỨC, HÀ NỘI)
Chuyên ngành: Dân tộc học
Mã số: 60 22 70
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS LÂM BÁ NAM
HÀ NỘI-2009
1
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Hà Nội, ngày 20 tháng 10 năm 2009
Tác giả luận văn
Trần Thanh Hoa
2
LỜI CẢM ƠN
Luận văn không chỉ dừng lại là một đề tài tốt nghiệp, giúp học viên rèn luyện,
củng cố kiến thức và hoàn thiện kỹ năng nghiên cứu, mà đề tài này còn đóng góp tư
liệu cho cho lĩnh vực nghiên cứu. Bản luận văn này người viết mong muốn đạt được
những tham vọng đó.
Công trình này là sự tập hợp nhiều tư liệu và đối tượng nghiên cứu, nếu tự bản
thân người viết sẽ không hoàn thành tốt được. Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả
đã nhận được sự giúp đỡ, động viên từ các thầy cô giáo, những người thân trong gia
đình và bạn bè.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo trong bộ môn Nhân học,
các thầy cô giáo trong khoa Lịch Sử, trường ĐHKHXH&NV- ĐHQGHN và đặc biệt là
sự quan tâm tận tình của PGS.TS Lâm Bá Nam đã hướng dẫn tôi trong quá trình thực
hiện đề tài nghiên cứu này.
Qua đây, cho phép tôi gửi lời cảm ơn đến UBND thị trấn Trạm Trôi -Hoài Đức Hà Nội, nhân dân làng Giang Xá và đặc biệt là các cụ trong Ban khánh tiết đã tạo điều
kiện giúp đỡ tôi trong quá trình thâm nhập thực tế và lấy tư liệu. Nhân dịp này, cho
phép tôi bày tỏ lòng biết ơn vô hạn tới tất cả những sự giúp đỡ quý báu đó!
Hà Nội, ngày 20/10/2009
Học viên: Trần Thanh Hoa
3
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
Trang 1
1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
8
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
9
5. Cấu trúc của luận văn
10
CHƢƠNG 1: Tổng quan về lý thuyết và địa bàn nghiên cứu
12
1.1 Lý thuyết phát triển cộng đồng và sự tham dự của ngƣời dân vào các
12
hoạt động văn hóa
1.1.1 Định nghĩa phát triển cộng đồng
12
1.1.2 Lý thuyết phát triển cộng đồng về mặt xã hội
16
1.1.3. Bảo tồn di sản có sự tham dự của cộng đồng
18
1.2 Tổng quan về làng giang Xá
22
1.2.1. Vị trí địa lý và cảnh quan
22
1.2.2. Tình hình dân cư
24
1.2.3. Đời sống kinh tế
24
1.2.4 Các thiết chế văn hoá và hoạt động tế tự, lễ hội của làng
26
CHƢƠNG 2: Hoạt động công đức từ góc độ kinh tế
30
2.1 Công đức trong các hoạt động tu sửa, tôn tạo
30
2.2 Công đức trong các hoạt động tế tự thường ngày
33
2.3 Công đức trong các lễ hội của làng
35
2.4 Các hoạt động công đức đặc biệt khác
59
CHƢƠNG 3: Hoạt động công đức và những tác động đối với ngƣời dân và
64
cộng đồng
4
3.1 Các lý do công đức của người dân
65
3.2. Các đồng thuận xã hội
67
3.3. Các xung đột trong quản lý, sử dụng công quỹ và những đóng góp vượt trội
70
3.4 Các động thái biến chuyển văn hoá xã hội của cộng đồng nông thôn
76
KẾT LUẬN
80
TÀI LIỆU THAM KHẢO
84
PHỤ LỤC
87
5
MỞ ĐẦU
1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài:
Đình, chùa được hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện trong suốt chiều
dài lịch sử dân tộc, trở thành biểu tượng cho làng xã Việt trong lịch sử, là sự kết tinh,
hội tụ của văn hoá truyền thống của dân tộc. Đình và chùa có vai trò, vị trí quan trọng
trong đời sống của một cộng đồng, đặc biệt là trong đời sống tinh thần của người dân
trong các cộng đồng làng xã nông thôn vùng đồng bằng Sông Hồng.
Như chúng ta đều biết, đình, chùa là một thiết chế văn hoá, biểu thị những giá trị
tiêu biểu của một cộng đồng, một dân tộc, là trung tâm sinh hoạt văn hóa cộng đồng.
Vì thế, từ lâu, đình, chùa đã trở thành đối tượng của nhiều ngành khoa học như dân tộc
học, kiến trúc, nghệ thuật học,… đặc biệt là trong ngành nghiên cứu văn hóa dân gian.
Tuy nhiên, những nghiên cứu về đình, chùa trong tương quan với đời sống văn hóa
đương đại, đặt chúng trong bối cảnh xã hội mới là còn ít, đặc biệt còn thiếu những
nghiên cứu có tính định lượng.
Ở vùng nông thôn đồng bằng Sông Hồng, trong suốt một thời gian hàng chục
năm, do hoàn cảnh khách quan, đặc biệt là do chiến tranh và một số lý do về mặt chính
sách văn hóa mà đình, chùa bị phá hủy, xuống cấp nghiêm trọng; đời sống tôn giáo tín
ngưỡng không được duy trì, thậm chí bị coi là mê tín dị đoan, cần phải loại bỏ. Vì thế,
nhiều sinh hoạt văn hóa cộng đồng gắn với đình, chùa trong thời gian dài không được
tổ chức. Kết quả là, ở hầu hết các làng xã, các tổ chức xã hội phi quan phương gắn với
các loại hình sinh hoạt văn hoá này bị thu hẹp, mai một dần. Cho đến giữa những năm
80 của thế kỷ XX, với đường lối đổi mới của Đảng, đời sống của nhân dân có bước
chuyển biến căn bản. Cùng với sự cải thiện điều kiện sống, gia tăng mức sống, quá
trình dân chủ hoá đời sống xã hội ở nông thôn là những cơ sở để nhu cầu tâm linh bị
6
dồn nén từ lâu nay được dịp “bung ra” một cách mạnh mẽ, ngược hẳn lại với tình hình
trước đó của những năm 60, 70 của thế kỷ trước.
Các nhà quản lý đã nhận thức được nhu cầu tôn giáo tín ngưỡng là nhu cầu có
thực, khách quan của nhân dân, nhu cầu này cần phải được thoả mãn một cách chính
đáng… Tuy nhiên để đánh giá tác động của quá trình đó không phải đơn giản. Đình và
chùa là nơi diễn ra các hoạt động tế tự theo mùa, theo các ngày sóc vọng mỗi tháng
hoặc các hoạt động tế tự trong ngày. Với các lễ hội đình, chùa cũng như cúng hàng
tháng, hai trung tâm văn hoá này đã thu hút được sự đóng góp của nhiều cá nhân, tổ
chức xã hội trong và ngoài cộng đồng, tạo nên sức sống mãnh liệt của các hoạt động
văn hoá truyền thống trong đời sống các cộng đồng nông thôn vùng đồng bằng Sông
Hồng. Sự đóng góp của người dân trong các hoạt động tế tự tại đình, chùa trong bối
cảnh gia tăng mức sống và quá trình tự do tôn giáo tín ngưỡng sau đổi mới, cả về số
lượng, tần suất, kèm theo đó là các quan điểm sống, các tâm tư, nguyện vọng của mỗi
nhóm xã hội trong cộng đồng ký thác qua sự đóng góp đó, đã là một chủ đề nghiên cứu
có sức thu hút lớn.
Để góp phần vào việc nghiên cứu đời sống văn hoá vật chất và tinh thần của
người dân thông qua những đóng góp (công đức) của cộng đồng nông thôn đương đại,
tôi đã chọn mảng vấn đề công đức trong các hoạt động tại đình, chùa làm nội dung
nghiên cứu chính của mình. Qua các đóng góp có tính chất tài chính đó, chúng ta có
thể đọc ra được một số động thái về chuyển biến văn hoá - xã hội của các cộng đồng
nông thôn đang chuyển đổi từ nền kinh tế lấy nông nghiệp là chính sang nền kinh tế
hỗn hợp, trong đó các hoạt động công thương, dịch vụ ngày càng có một vai trò quan
trọng, đó là quá trình dân chủ hoá xã hội, sự phân hoá xã hội theo các giai tầng, là thái
độ coi văn hoá truyền thống như một công cụ cân bằng mới trong xã hội đang ngày
càng trọng vật chất hơn, về sự xuất hiện các ý thức cá nhân thay vì mỗi người đều tồn
tại ở tư cách là thành viên cộng đồng như trong xã hội truyền thống. Đó là cả một quá
7
trình biến chuyển bên trong của cộng đồng làng xã, phản ánh các biến chuyển của xã
hội Việt Nam thời hiện đại.
Để hiện thực hoá ý tưởng trên, chúng tôi đã nghiên cứu làng Giang Xá (có tên
Nôm là làng Giang) như một nghiên cứu trường hợp. Đây là một làng đã hội tụ được
nhiều những biến động văn hóa xã hội thời kỳ vừa qua, có thể coi như một mẫu nghiên
cứu khá điển hình cho các vấn đề nêu ở trên.
Mục tiêu chung: Thông qua việc phân tích các đóng góp của người dân trong
trong đình, chùa, luận văn tìm hiểu các động thái tham dự của người dân vào các hoạt
động tế tự như là một biểu hiện của các biến chuyển văn hoá-xã hội nông thôn vùng
đồng bằng Sông Hồng hiện nay, trong một nghiên cứu trường hợp là làng Giang Xá,
thị trấn Trạm Trôi, thành phố Hà Nội.
Mục tiêu cụ thể:
-
Nghiên cứu sự đóng góp của người dân trong các hoạt động tế tự tại đình, chùa,
trong các dịp lễ hội của cộng đồng làng và các dịp lễ khác;
-
Nghiên cứu sự tham dự của các nhóm xã hội trong cộng đồng như một biểu hiện
tăng cường tính dân chủ, sự phân tầng xã hội, sự cân bằng các khía cạnh tinh thần và
vật chất của người dân, mối quan hệ cá nhân và cộng đồng.
-
Góp phần vào sự nhận diện quá trình biến chuyển của xã hội nông thôn Việt
Nam trước quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa hiện nay, cách ứng xử của cộng
đồng đương đại với vấn đề bảo lưu truyền thống trong xã hội đang được đô thị hóa
nhanh chóng như ở làng Giang Xá.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Đề tài nghiên cứu của luận văn là sự đóng góp của người dân, trong đó những
đóng góp về tài chính là chủ yếu, của cộng đồng vào các hoạt động tại đình, chùa, qua
một nghiên cứu trường hợp. Song các tư liệu về vấn đề này cũng còn rất mỏng, chủ yếu
trên các phương tiện truyền thông đại chúng là báo viết và trên các website, mang tính
chất phản ánh các vấn đề thời sự cấp bách đặt ra vào thời điểm đó.
8
Đầu tiên phải kể đến các tài liệu viết về đình, chùa và lễ hội. Đây là mảng tư liệu
có tính chất nền tảng cho luận văn, với nhiều tác phẩm được viết qua các thời kỳ, trên
các tạp chí nghiên cứu trong nước như Tạp chí Kiến trúc, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử,
Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Tạp chí Dân tộc học, Tạp chí Khảo cổ học, cũng như tại
một số nhà xuất bản. Đó là các công trình của nhóm tác giả Hà Văn Tấn và Nguyễn
Văn Kự với nhan đề tiếng Anh: Community Halls in Vietnam, nhà xuất bản Khoa học
Xã hội xuất bản năm 1998. Cuốn “Chùa Việt Nam”, xuất bản năm 2008 của Hà Văn
Tấn, Nguyễn Văn Kự và Phạm Ngọc Long. Các công trình nghiên cứu của Chu Quang
Trứ, Trần Lâm Biền, Nguyễn Du Chi cũng làm sáng tỏ các giá trị của đình và chùa
trong đời sống nông thôn truyền thống và hiện tại. Bên cạnh các mô tả về kiến trúc và
điêu khắc đình, chùa, các tác phẩm trên cũng khẳng định đình, chùa là trung tâm của
đời sống sinh hoạt văn hóa làng xã, đồng thời là các thể chế duy trì trật tự trong cộng
đồng. Các công trình nghiên cứu về lễ hội của các tác giả như Nguyễn Văn Huyên,
Trần Quốc Vượng, Tô Ngọc Thanh, Ngô Đức Thịnh, Lê Trung Vũ… đã nêu bật các
giá trị của lễ hội, nơi biểu đạt các triết lý, các thế ứng xử của người dân nông thôn.
Ngoài các công trình nghiên cứu chuyên sâu, còn có nhiều tác phẩm mang tính giới
thiệu chung về đình, chùa và lễ hội đình, chùa được xuất bản.
Với khía cạnh sự tham gia, đóng góp của người dân vào các hoạt động tại đình
chùa, chúng tôi chủ yếu tìm thấy các bài viết trên báo chí, bao gồm cả báo viết truyền
thống và báo mạng.
Trước hết là các bài viết mang tính chất thông tin, chủ yếu xuất hiện trên các báo
ra hàng ngày miêu tả thực trạng, các nguyên nhân xung quanh hoạt động công đức,
đóng góp của người dân ở đình chùa, ở các lễ hội tại đình chùa. Tiêu biểu như: bài “Cụ
bà 96 tuổi cung tiến 1000m2 đất xây chùa” của Đức Chính đăng báo
http://phattuvietnam.net, ngày 17/3/2009; “Khó ngăn đốt vàng mã, đặt tiền công đức
bừa bãi”, đăng trên Báo Đất Việt phát hành ngày 18/3/2010; loạt bài: “Công đức và
ứng xử khi lễ chùa”
của tác giả Hồng Quang, trích trên website phongthuy.net.vn
9
(09/03/2010 - http://phongthuy.net.vn). Các bài viết phản ánh khá chân thực thực trạng
công đức tiền, hiện vật vào các đình chùa. Phổ biến hơn cả là cúng tiến xây chùa, công
đức vào các dịp sóc vọng tại chùa và đóng góp tiền công đức tại các lễ hội quy mô lớn
trong vùng. Đây là hoạt động vốn trở thành truyền thống của người Việt từ hàng ngàn
năm nay và có xu hướng ngày càng gia tăng theo quy luật “phú quý sinh lễ nghĩa”.
Cũng theo các bài viết, động thái của người dân trong các hoạt động công đức này là
xuất phát từ tâm nguyện làm việc thiện, cầu phúc, cầu tài, chút tiền gọi là “tiền giọt
dầu” đặt vào chùa để nhà chùa chăm lo đèn nhang hàng ngày, cầu mong được nhà Phật
ghi nhận tấm lòng thành tâm. Cũng có những ý kiến khá trái chiều, tiêu biểu như ý kiến
của Giáo sư Trần Lâm Biền: không ít người tham gia lễ hội để cầu tiền tài, chức tước,
danh vọng hoặc coi lễ hội chỉ như một điểm vui chơi, giải trí. Xu thế này ngày càng rộ
lên ở giới trẻ. Không ai nói rằng việc cầu tài lộc, địa vị, chức tước là không chính đáng,
nhưng xét kỹ thì đó là điều đáng lo, bởi đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến
tình trạng thương mại hóa, "đời" hóa lễ hội. Ông còn gọi đây là sự “hối lộ” thần thánh,
trong bài: “Mặt trái tại các lễ hội: cần sớm dẹp bỏ ”, đăng báo Hà Nội mới, ngày
13/3/2009 [11; tr5]
Bên cạnh đó, có nhiều bài báo đưa tin về hoạt động từ thiện của các nhân vật nổi
tiếng, như bài: “Hương Lan, Đàm Vĩnh Hưng quyên tiền xây chùa”, của Thoại Hà trên
báo Phật tử Việt Nam (http://phattuvietnam.net), được sự quan tâm của nhiều độc giả.
Tuy vậy, một thực trạng khá phổ biến hiện nay là người dân đặt tiền khá tùy
tiện, bừa bãi, không vào đúng nơi quy định gây hình ảnh mất phản cảm. Nguyên nhân
chủ yếu là do sự thiếu hiểu biết và ý thức của người dân, cộng với sự quá tải trong các
hoạt động cúng lễ. Số lượng các hòm tiền công đức quá nhiều, mang tính trục lợi bất
chính của một số tập thể, cá nhân. Một số tác giả đánh giá lễ hội và hoạt động công đức
đang bị thương mại hóa quá nhiều “Chất văn hóa giảm, lượng thương mại tăng” –
chùm bài “Mặt trái tại các lễ hội: cần sớm dẹp bỏ ”, đăng báo Hà Nội mới, ngày
13/3/2009
10
Tiếp đó, cần kể đến các loạt bài mang tính chuyền đề, đi sâu vào phân tích các
động thái, biến chuyển xung quanh vấn đề công đức của người dân, nhấn mạnh khía
cạnh quản lý và sử dụng nguồn tiền công đức. Đây là các chủ đề khá nhạy cảm và tồn
tại nhiều luồng ý kiến trái chiều. Tiêu biểu nhất là các bài: “Cần có cái nhìn công bằng
hơn về Lễ hội truyền thống” của Đại đức Thích Thanh Thắng, báo Giác Ngộ tháng
1/2010; chùm bài “Mặt trái tại các lễ hội: cần sớm dẹp bỏ ”, đăng báo Hà Nội mới,
ngày 13/3/2009 của Thái Hà - Minh Ngọc. Những bài viết này không dừng lại ở mô tả
hoạt động công đức tại chùa chiền, lễ hội mà đưa ra những quan điểm riêng của các
chuyên gia, của người viết, đưa ra những giải pháp, đề xuất. Bài: Quản lý tiền “công
đức”: quản "thu chi" hay quản cả "tùy tâm"? trên báo Nhân dân ra ngày 23-03-2009;
Đóng khoán công đức Phủ Dầy, trên www.vietbao.vn, ngày 8/4/2005, và Nhà chùa
“chia” tiền công đức cho chính quyền? của Minh Thúy (http://vneconomy.vn) chỉ ra
những mập mờ trong vấn đề quản lý tiến công đức. Một loạt các bài viết khác liên quan
như: Tiền “công đức” - ai được phép sử dụng? của Quỳnh Vân, Báo An Ninh thủ đô ra
ngày 20/03/2009; tác giả Hồng Hà với “Sẽ có quy chế sử dụng tiền công đức” http://www.toquoc.gov.vn; Xây dựng Thông tư quản lý nguồn thu công đức, trên
website http://baoonline.vn...., đã chỉ ra một hiện tượng tại các địa phương, mỗi nơi
đang diễn ra một quy chế ngầm khác nhau và việc quản lý cấp nhà nước tỏ ra khá lúng
túng. Nơi thì Ban quản lý di tích quản lý, nơi thì Sở Văn hóa, thể thao và du lịch, hội
Phật giáo, nhiều nơi thì việc quản lý, tiếp nhận chi tiêu tiền công đức được giao cho thủ
nhang, thủ đền quản lý… Vì thế, nguồn tiền này gần như không thể kiểm soát được.
Chính do không quản lý được số tiền cúng tiến nên cũng dẫn tới tình trạng tu sử di tích
còn tùy tiện nhất nhất là tại các di tích do các thủ nhang, thủ đền đứng ra trông nom.
Thậm chí nhiều nơi còn xẩy ra tình trạng gia đình hóa di tích, di tích hóa gia đình…
Thực tế là, vấn đề quản lý về mặt tài chính trong các hoạt động tại đình chùa
vốn là tồn tại lớn mà cơ quan chủ quản là Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch cũng đang
tìm cách tháo gỡ và đưa ra những quy chế chung. Bộ sẽ kiến nghị Bộ Tài chính xây
11
dựng Thông tư liên tịch hướng dẫn quản lý và sử dụng các nguồn thu này từ lễ hội và
di tích để đảm bảo mục tiêu xã hội hóa của lễ hội được thực hiện đúng. Song, chúng ta
chỉ có thể tiếp tục trông chờ những văn bản chặt chẽ và phù hợp hơn trong tương lai
gần.
Tóm lại, các nghiên cứu chuyên sâu về những đóng góp về mặt tài chính của
cộng đồng đối với các sinh hoạt của đình, chùa tuy chưa xuất hiện trong hệ thống
nghiên cứu mang tính chuyên khảo, nhưng luôn là sự quan tâm của báo chí và dư luận.
Cuối cùng, là nhóm các tư liệu viết về nơi chúng tôi khảo sát và nghiên cứu.
Trong các thư tịch cổ, đình và chùa làng Giang Xá đã được ghi chép như những ngôi
đình và chùa nổi tiếng của tỉnh Hà Tây (cũ), ở đây có lễ hội đình tôn vinh Đức Thượng
đẳng thần được tôn Thánh, được tổ chức theo qui mô nghi lễ của triều đình, ngày xưa,
phải 5, 10 hay 15 năm lễ hội mới được tổ chức một lần, nay tổ chức cách nhau 5 năm
(2004 và gần đây nhất là 2010); có lễ hội chùa được coi là lễ hội Phật giáo lớn của
vùng. Với làng Giang Xá, đã có hai khóa luận tốt nghiệp đại học nghiên cứu về lễ hội
và các tổ chức phi quan phương trong làng xã của Nguyễn Thị Thanh Hoa, thực hiện
năm 2004, và của Bùi Thị Kim Phương thực hiện năm 2005. Đây là hai nghiên cứu khá
chi tiết về hội làng và sự vận hành của các tổ chức xã hội trong làng xã, thông qua việc
nghiên cứu này, luận văn này đã có những tư liệu cơ bản về cộng đồng đang nghiên
cứu, tuy nhiên, các tư liệu cũng đã cũ, cần cập nhật và các số liệu nguồn tiền công đức
là chưa có.
Nghiên cứu định lượng về tiền công đức của người dân là một trong những
nghiên cứu đầu tiên ở nước ta về sự đóng góp của người dân đối với sinh hoạt của cộng
đồng ở đình, chùa. Đây là nghiên cứu có tính liên ngành giữa lịch sử văn hóa, nhân học
và xã hội học, thông qua một vấn đề là sự đóng góp của người dân tại đình, chùa để
nghiên cứu các động thái biến đổi của làng Việt trong giai đoạn hiện nay. Luận văn
tiếp cận với một đối tượng nghiên cứu mới này, hy vọng rằng sẽ mở hướng nghiên cứu
tiếp tục cho các công trình mà cá nhân người viết luận văn này có ý định theo đuổi tiếp.
12
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động đóng
góp công đức bằng tiền, bằng hiện vật của người dân, các hội đồng niên, khách thập
phương, các tổ chức đối với các hoạt động tế tự tại đình, chùa, bao gồm: lễ hội làng,
các hoạt động tôn tạo, sửa chữa; các hoạt động tế tự hàng ngày. Trong đó, hoạt động
đóng góp rõ nét nhất là tại lễ hội đình và chùa, hai hoạt động còn lại có phần mờ nhạt
hơn.
Các hoạt động tham dự này được ghi nhận không chỉ là các đóng góp tiền mặt
và các đóng góp vật chất, công sức quy ra tiền mà còn là các thái độ, niềm tin, các
nguyện ước trong quá trình tham dự. Đó không chỉ là vấn đề của mỗi cá nhân mà còn
là của các nhóm xã hội khác nhau trong cộng đồng, thể hiện những vấn đề của chính
cộng đồng đó trong bối cảnh của những biến chuyển kinh tế, chính trị, xã hội và văn
hoá, rộng hơn là các vấn đề của xã hội nông thôn Việt Nam.
Phạm vi không gian: luận văn tự hạn chế trong phạm vi các hoạt động đóng
góp tại đình, chùa làng Giang Xá, nay là thị trấn Trạm Trôi, thành phố Hà Nội, trước
thuộc Hà Tây cũ - nơi đậm đặc di tích lịch sử văn hoá, người dân có ý thức về việc tôn
tạo di tích, tổ chức lễ hội và các hoạt động tế tự khác.
Phạm vi thời gian: Nghiên cứu công đức của người dân trong làng trong các năm
từ 2008 đến 2010, trong đó hai năm 2008 và 2009 là không tổ chức lễ hội đình với quy
mô lớn, nên chủ yếu là thu thập các số liệu định lượng; năm 2010 là năm tổ chức lễ hội
đình theo chu kỳ 5 năm (đại đám), chủ yếu là thu thập các dữ liệu định tính, quan sát,
chụp ảnh, các dữ liệu định lượng chưa thể tập hợp được do thời điểm tổ chức lễ hội rất
gần với thời điểm kết thúc luận văn, Ban Khánh Tiết chưa công bố. Có một số dữ liệu
từ ngay thời kỳ đầu tu sửa lớn đình (1998), chùa (2001), tuy không đầy đủ, đã được
chúng tôi thu thập và đưa vào nghiên cứu để thấy được tính chất lâu bền của các hoạt
động đóng góp của người dân.
13
Do những hạn chế về sự tiếp cận các số liệu thống kê từ các năm trước nên tác giả
luận văn thiếu những cơ sở phân tích dài hơi hơn về chủ đề này. Các cuộc chuyển giao
về nhân sự trong Ban Khánh Tiết hàng năm, việc lưu trữ chưa được khoa học tại đình,
chùa đã không cho phép có được những dãy số liệu có thể so sánh dài hơn trong dịp lễ
hội. Có một số mảng vấn đề có thể có được số liệu, nhất là các đóng góp của người dân
vào tu sửa đình, chùa, công đức các khoản lớn, các khoản nhỏ có thể còn chưa đầy đủ
do các hoạt động ghi chép ở đây còn có những thiếu sót, lưu trữ không khoa học.
Đây là lý do khách quan khiến cho luận văn chưa có được đầy đủ dữ liệu. Phần
lớn chúng được ghi chép trong những cuốn sổ còn lưu giữ của các cá nhân đã tham gia
vào việc quản lý tài chính tại đình, chùa. Các sổ sách này đã được tổng hợp lại, đối
chiếu, so sánh giữa sổ ghi chép với trí nhớ của người dân trong hai năm. Để bảo đảm
độ chính xác hơn, các số liệu này được chúng tôi kiểm chứng bằng cách hỏi lại, so sánh
với từng người đã tham gia vào Ban Khánh Tiết theo mỗi năm.
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
Các nguồn tư liệu được sử dụng cho luận văn bao gồm:
1. Nguồn thứ nhất: tư liệu điền dã dân tộc học: các biên bản phỏng vấn sâu, các
ghi chép, ảnh… được ghi chụp tại địa bàn nghiên cứu. Các bảng biểu thống kê, các báo
cáo, tài liệu sưu tầm do UBND thị trấn Trạm Trôi, và một số cá nhân cung cấp.
2. Nguồn thứ hai: sách, luận án, chuyên khảo, bài nghiên cứu từ tạp chí, các
website về chủ đề có liên quan.
Trong đó, nguồn tư liệu điền dã đóng vai trò quan trọng nhất được tác giả thu thập
từ việc khảo sát và nghiên cứu thực địa.
Cơ sở lý luận của luận văn là các lý thuyết về phát triển cộng đồng và phát triển
cộng đồng về mặt văn hóa; các lý thuyết về bảo tồn di sản có sự tham gia của cộng
đồng. Một đặc điểm chung của các lý thuyết này là cách tiếp cận từ dưới lên, tôn trọng
ý kiến của chủ thể văn hóa, khẳng định vai trò to lớn của cộng đồng trong các vấn đề
quản lý xã hội và văn hóa.
14
Luận văn lấy phân tích định lượng là phương pháp chủ đạo trong nghiên cứu này,
trong đó trước hết phải đo lường được số lượng, tần suất tham gia của các thành phần
xã hội vào quá trình đóng góp tại đình, chùa. Tác giả luận văn đã dành nhiều thời gian
và công sức cho việc thu thập các dữ liệu này, phân tích, so sánh, xử lý định lượng
bằng phần mềm SPSS.
Các phương pháp phân tích định tính như quan sát – thâm nhập, phỏng vấn, phân
tích văn bản cũng đã được sử dụng nhằm đi sâu nghiên cứu các động thái bên trong của
sự đóng góp của người dân tại đình, chùa, bao gồm các kỹ thuật:
Phỏng vấn sâu;
Quan sát tham dự;
Phân tích các tài liệu sẵn có.
Ngoài các phương pháp kể trên, trong quá trình viết, chúng tôi đã sử dụng một số
phương pháp khác như:
Phương pháp mô tả;
Phương pháp thống kê;
Phương pháp phân tích - tổng hợp.
5. Cấu trúc của luận văn
Để thể hiện nội dung chính nêu trên, kết cấu của luận văn ngoài phần Mở đầu và
Kết luận, gồm 3 chương :
- Chương 1: Tổng quan về lý thuyết và địa bàn nghiên cứu. Chương này đặt cơ sở
lý luận cho các nghiên cứu thực tiễn của chương 2, trong đó nhấn mạnh đến vai trò
quan trọng của cộng đồng trong các vấn đề quản lý xã hội và văn hóa. Đây là một
hướng tiếp cận về bảo tồn di sản gắn với quan điểm phát triển bền vững.
- Chương 2: Hoạt động công đức từ góc độ kinh tế. Chương này đi sâu phân tích
các đóng góp từ góc độ kinh tế của người dân trong các dịp lễ hội, trong tôn tạo, tu bổ
di tích, cả về công sức, tiền và hiện vật tại làng Giang Xá. Đặc biệt, đi sâu vào các so
15
sánh về giá trị công đức xét trên các biến số về: tuổi, giới tính, nghề nghiệp, địa bàn cư
trú, thời gian lễ hội…
- Chương 3: Hoạt động công đức và sự tác động đối với người dân và cộng đồng.
Trên nền tảng thực tiễn của một cộng đồng nông thôn đang chuyển đổi, chương 3 tìm
hiểu các lý do công đức của người dân, các tâm tư, nguyện vọng, thái độ của họ trong
hoạt động công đức. Đồng thời, đi sâu phân tích các động thái biến chuyển bên trong
dòng đóng góp tài chính của cộng đồng dân cư: các đồng thuận xã hội, các mâu thuẫn,
xung đột trong quản lý sử dụng công quỹ và những đóng góp mang tính vượt trội.
Những phân tích mang tính chất định tính này kết hợp với phân tích định lượng ở
chương 2 cho ta cái nhìn khá toàn diện, đa chiều về hoạt động công đức, những xu
hướng, tác động đối với người dân của một cộng đồng làng trong cơn lốc đô thị hóa,
hiện đại hóa
Mặc dù đã hết sức cố gắng trong quá trình điền dã, thu thập tư liệu, trong quá
trình xử lý thông tin, giải quyết các vấn đề đặt ra, song trong khuôn khổ của một luận
văn thạc sĩ cũng như hạn chế của bản thân tác giả, không thể tránh được thiếu sót và
hạn chế trong luận văn này. Chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý, phê bình của các
thầy cô, các nhà nghiên cứu và các bạn có quan tâm tới chủ đề này.
16
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ LÝ THUYẾT
VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
Chương này có nhiệm vụ xây dựng các cơ sở lý thuyết cho việc phân tích sự
đóng góp của người dân tại đình, chùa làng Giang Xá, huyện Hoài Đức, thành phố Hà
Nội. Các vấn đề lý thuyết này đặt nền tảng cho việc nghiên cứu sự tham dự của người
dân trong tiến trình phát triển chung, cũng như các hoạt động văn hóa xã hội khác. Sự
đóng góp của người dân trong các hoạt động tại cộng đồng cần phải có cách nhìn nhận
mới từ dưới lên, thay vì cách nhìn từ trên xuống - một cách tiếp cận mang tính nhà
nước, không thích hợp khi phân tích các hoạt động dân sự, đặc biệt trong lĩnh vực có
liên quan tới tâm linh, đời sống tinh thần của con người.
1.1. Lý thuyết phát triển cộng đồng và sự tham dự của ngƣời dân vào các hoạt
động văn hóa
1.1.1 Định nghĩa phát triển cộng đồng:
Lý thuyết phát triển cộng đồng là một cách tiếp cận phát triển xuất hiện vào
những năm 1940 tại các nước thuộc địa của Anh. Đến năm 1950, Liên hiệp quốc công
nhận khái niệm phát triển cộng đồng và khuyến khích các quốc gia sử dụng khái niệm
này nhằm phát triển các quốc gia, kết hợp với nhiều chương trình viện trợ qui mô lớn
về kỹ thuật, phương pháp và tài chính vào thập kỷ 50 - 60. Sau này, các tổ chức phi
chính phủ và chính phủ đã triển khai nhiều dự án phát triển cộng đồng huy động sự
đóng góp từ nhà nước và người dân để thực hiện các công trình phúc lợi công cộng như
xây dựng hệ thống giao thông nông thôn, hệ thống thuỷ lợi, nước sạch, xây dựng
trường học, trạm y tế, xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội, quản lý các hoạt động văn
hóa tinh thần v.v... Đây là sự cộng tác từ trên xuống, từ dưới lên, thay vì cách tiếp cận
chỉ từ trên xuống từ phía nhà nước [25, tr.10,11].
17
Cách tiếp cận không mang tính áp đặt từ trên xuống, dựa vào nhu cầu cụ thể của
từng cộng đồng, nhóm xã hội là đặc điểm lớn nhất của phong trào này. Số cộng đồng
“trắng” về cơ sở hạ tầng được giảm đi, nhiều chỉ số phát triển kinh tế-xã hội được cải
thiện, đặc biệt, sự thay đổi về nhận thức, hành vi của người dân để tiếp nhận tiến trình
hiện đại hoá và phát triển, sự tham dự của người dân vào các tiến trình ra quyết định
của hệ thống công quyền, triển khai các dự án phát triển, giám sát và phản biện xã hội
đã được nâng cao hơn.
Ở Việt Nam, lần đầu tiên khái niệm phát triển cộng đồng được giới thiệu vào giữa
thập kỷ 50 thông qua một số các hoạt động phát triển cộng đồng tại các tỉnh phía Nam,
trong lĩnh vực giáo dục. Từ ngành giáo dục, phát triển cộng đồng chuyển sang lĩnh vực
công tác xã hội. Thập kỷ 60-70 hoạt động phát triển cộng đồng được đẩy mạnh thông
qua các chương trình phát triển nông thôn của sinh viên, của phong trào Phật giáo... Từ
thập kỷ 80 cho đến nay, phát triển cộng đồng được biết đến một cách rộng rãi hơn qua
các chương trình viện trợ phát triển của nước ngoài tại Việt Nam, ở đó, chúng cần có
sự tham dự của người dân tại cộng đồng như một trong những nhân tố quyết định để
chương trình đạt được tính hiệu quả bền vững. Các chương trình hoặc dự án thuộc
nhiều lĩnh vực phát triển nông nghiệp nông thôn, tín dụng, xoá đói giảm nghèo, chăm
sóc sức khoẻ, kế hoạch hoá gia đình... đã phổ cập hoá những quan niệm và phương
pháp cơ bản về phát triển cộng đồng tại Việt Nam trên một quy mô và chất lượng mới.
Kinh nghiệm về phát triển cộng đồng đã được chúng ta tích luỹ phong phú hơn rất
nhiều so với các thời kỳ trước, trên thực tiễn triển khai của Việt Nam. Thời kỳ này đã
có đào tạo bậc đại học về phát triển cộng đồng trong khuôn khổ bộ môn xã hội học và
công tác xã hội.
Theo các tác giả cuốn Phát triển cộng đồng- Lý thuyết và vận dụng, khái niệm
phát triển cộng đồng là một khái niệm mới và mang tính phức tạp [15, tr 15].
18
Ở tầm mức kỹ thuật, phát triển cộng đồng thực chất là quá trình tăng trưởng kinh
tế cộng đồng cùng với tiến bộ cộng đồng theo hướng hoàn thiện các giá trị chân, thiện,
mỹ, với các hoạt động chủ yếu sau:
- Cộng đồng xác định các vấn đề cần giải quyết (Nhu cầu và mục tiêu).
- Chọn lựa các vấn đề ưu tiên bằng các phân tích định lượng và định tính (Nhu
cầu và mục tiêu ưu tiên).
- Xây dựng các chương trình hành động trên cơ sở phối hợp các nguồn lực bên
trong và bên ngoài.
- Triển khai, bao gồm cả điều chỉnh các chương trình hành động, sau khi có các
bước trên.
- Lượng giá các chương trình hành động, trong đó nhấn mạnh đến tiến trình tạo
ra những chuyển biến xã hội hơn là một số hiệu quả trước mắt hoặc mang tính hình
thức, không căn bản.
Cũng theo các tác giả trên, lý thuyết phát triển cộng đồng bao gồm 3 nguyên lý
như sau: (1) Nguyên lý tính tương đối của phát triển cộng đồng; (2) Nguyên lý tính đa
dạng của phát triển cộng đồng; (3) Nguyên lý tính bền vững của phát triển cộng đồng.
2
Nguyên lý tương đối
1
Nguyên lý đa dạng
3
Nguyên lý bền vững
Trong lý thuyết phát triển cộng đồng, có 3 lĩnh vực mà nó quan tâm đặc biệt:
- Các chỉ số phát triển cơ sở hạ tầng, nói theo ngôn ngữ thông dụng ở nông thôn
nước ta hiện nay là điện, đường, trường, trạm. Đây là những yếu tố cơ bản, vừa là
thước đo trình độ phát triển một cộng đồng, vừa là điều kiện cho sự phát triển của mỗi
cộng đồng. Cơ sở hạ tầng là một chỉ báo tổng hợp kinh tế-xã hội, vừa có ý nghĩa là các
19
cơ sở vật chất kỹ thuật, vừa có ý nghĩa là các thành tựu tinh thần của một xã hội. Cơ sở
hạ tầng là cốt lõi của môi trường nhân tạo.
- Những chỉ số phát triển bền vững. Đây là những quan niệm mở rộng, có một
loạt các chỉ số có liên quan như chỉ số bảo vệ môi trường, phát triển con người. Phát
triển kinh tế-xã hội mà không bảo vệ môi trường thì có nguy cơ sẽ dẫn tới mặt trái của
nó, tức là suy thoái mà thế giới hiện đại đã có quá nhiều bài học.
Giải quyết các vấn đề phát triển một cách tổng thể, thay vì chỉ chú trọng, chạy
theo sự tăng trưởng kinh tế bằng bất cứ giá nào. Dưới cách hiểu này, nhân danh sự
tiến bộ về văn minh, nhân danh một tư duy phát triển theo kiểu lấy tăng trưởng kinh tế
làm trọng để “đánh giá“, “xem xét” các tư duy và cách làm khác, cho rằng đó là không
tiến bộ, chậm phát triển, là một cách nhìn có tính áp đặt. Các quốc gia, các cộng đồng
có thể tìm mục tiêu phát triển không chỉ là tăng trưởng kinh tế. Từ sáng kiến của các
cộng đồng, gia tăng tính năng động xã hội vi mô và giảm trừ độc quyền Nhà nước vĩ
mô, đạt được sự tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Phát triển nguồn lực con người,
bảo đảm ngay từ đầu các cân bằng về phát triển xã hội và môi trường tự nhiên, không
tạo ra những xung đột trong kế thừa truyền thống và giao lưu, hội nhập quốc tế... đó là
những cách đi có ý nghĩa, là một cách đặt vấn đề khác với các quan niệm phát triển
chạy theo tăng trưởng.
Phát triển cộng đồng là tổng thể những quá trình làm cho cộng đồng biến dạng
và có thể dẫn tới những thay đổi về chất. Những biến dạng và đổi thay về chất nào
cũng phải đảm bảo những yêu cầu phát triển chung của xã hội, tức là phải đảm bảo sự
bền vững của cộng đồng, sự công bằng xã hội cho các nhóm xã hội vốn có những lợi
ích riêng, hướng tới xây dựng năng lực tự tổ chức, tự quản lý các vấn đề của cộng
đồng trên cơ sở hội nhập được các nguồn lực bên trong và bên ngoài, đảm bảo sự tăng
trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội [15, tr 10] 1
ở cấp độ phát triển cộng đồng, khái niệm phát triển được thao tác hoá bằng một loạt các chỉ báo đo
như: (1) Các nhóm thiệt thòi có thể cải thiện điều kiện sống và thoả mãn các nhu cầu cơ bản như việc
1
20
- Xem thêm -