Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sự ảnh hưởng của học thuyết “tam tòng, tứ đức” đối với người phụ nữ việt nam hiệ...

Tài liệu Sự ảnh hưởng của học thuyết “tam tòng, tứ đức” đối với người phụ nữ việt nam hiện nay

.PDF
54
400
127

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC NGUYỄN MẠNH PHƯƠNG SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA HỌC THUYẾT “TAM TÒNG, TỨ ĐỨC” ĐỐI VỚI NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Sơn La, năm 2015 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC NGUYỄN MẠNH PHƯƠNG SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA HỌC THUYẾT “TAM TÒNG, TỨ ĐỨC” ĐỐI VỚI NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Xh2b KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Người hướng dẫn: ThS. Giáp Thị Dịu Sơn La, năm 2015 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận này tôi xin bày tỏ lòng cám ơn chân thành đến gia đình, bạn bè và các thầy cô trong khoa Lý luận chính trị (Trường Đại học Tây Bắc) đã giúp đỡ động viên tôi hoàn thành khóa luận này. Tôi cũng bày tỏ lòng biết ơn đến các cơ quan, ban ngành đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi tài liệu để phục vụ cho khóa luận như: Ban Giám hiệu Trường Đại học Tây Bắc, Phòng quản lý khoa học và quan hệ Quốc tế Trường Đại học Tây Bắc, thư viện Trường Đại học Tây Bắc, Thư viện tỉnh Sơn La. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình đến cô giáo Ths. Giáp Thị Dịu, người đã nhiệt tình chỉ bảo hướng dẫn tôi hoàn thành khóa luận này. Tôi xin chân thành cảm ơn ! Sơn La, tháng 5 năm 2015 Tác giả Nguyễn Mạnh Phương MỤC LỤC Mở đầu.................................................................................................................. 1 1. Tính cấp thiết của đề tài............................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài .........................................................................................3 3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của đề tài .............................................................. 3 3.1. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................................3 3.2. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................................... 3 4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài .................................................................................3 4.1. Mục đích ...................................................................................................................3 4.2. Nhiệm vụ ..................................................................................................................4 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ..................................................................4 6. Đóng góp của đề tài .....................................................................................................4 7. Kết cấu của đề tài.........................................................................................................4 Chương 1: HỌC THUYẾT “TAM TÒNG” “TỨ ĐỨC TRONG NHO GIÁO ............................................................................................................................... 5 1.1. Vị trí học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo .........................................5 1.1.1. Một vài nét về sự hình thành và phát triển của Nho giáo ......................................5 1.1.2. Vấn đề người phụ nữ trong Nho giáo ....................................................................6 1.2. Nội dung của học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức”......................................................7 1.2.1 Thuật ngữ “Tam tòng”, “Tứ đức” ..........................................................................7 1.2.2. " Tam tòng", “Tứ đức” trong Nho giáo nguyên thuỷ ............................................7 1.2.3. " Tam tòng", “Tứ đức” trong Hán Nho .................................................................9 1.2.4. Mối quan hệ "Tam tòng", "Tứ đức" ......................................................................9 1.3. Học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” ở Việt Nam .....................................................10 1.3.1. Vài nét về sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam ............................................10 1.3.2. Nội dung học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” ở Việt Nam ...................................12 Chương 2: ẢNH HƯỞNG CỦA HỌC THUYẾT “TAM TÒNG” “TỨ ĐỨC” ĐỐI VỚI NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY ....................... 14 2.1. Ảnh hưởng của thuyết “Tam tòng” đối với người phụ nữ Việt Nam ngày nay .....14 2.1.1. Giai đoạn từ phong kiến Việt Nam độc lập đến 1945 .........................................14 2.1.2. Giai đoạn từ 1945 đến nay...................................................................................17 2.2. Ảnh hưởng của thuyết “Tứ đức” đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay ..............21 2.2.1. Thuật ngữ "Công" ................................................................................................ 21 2.2.2 Thuật ngữ "Dung" ................................................................................................ 29 2.2.3. Thuật ngữ "Ngôn" ............................................................................................... 32 2.2.4. Thuật ngữ "Hạnh" ................................................................................................ 34 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ TIÊU CỰC CỦA HỌC THUYẾT “TAM TÒNG” “TỨ ĐỨC” ĐỐI VỚI NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY39 3.1. Phương hướng xây dựng người phụ nữ Việt Nam hiện nay ..................................39 3.1.1. Trung hậu, đảm đang ........................................................................................... 39 3.1.2. Chuẩn mực học vấn, kiến thức ............................................................................40 3.1.3. Chuẩn mực về ý thức pháp luật ...........................................................................40 3.1.4. Chuẩn mực về nghề nghiệp .................................................................................40 3.1.5. Chuẩn mực tác phong, thói quen, lối sống thanh lịch .........................................41 3.1.6. Chuẩn mực trong mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình .....................41 3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế tiêu cực của học thuyết “tam tòng”, “tứ đức” đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay ......41 3.2.1. Phát huy bình đẳng giới .......................................................................................41 3.2.2. Đổi mới chính sách xã hội đối với phụ nữ và gia đình .......................................43 3.2.3. Tâm lý ngại sinh con ở một số phụ nữ ................................................................ 44 3.2.4. Sự biến động về loại hình gia đình trong thời kỳ hiện đại ..................................44 3.2.5. Phát huy những mặt tích cực của người phụ nữ truyền thống ............................ 45 Kết luận .............................................................................................................. 47 Danh mục Tài liệu tham khảo .......................................................................... 49 Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam bước sang thời kỳ đổi mới với nhiều thay đổi lớn lao trên mọi lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá,... đã dẫn đến những thay đổi về yêu cầu, những đòi hỏi, những tiêu chí đánh giá của xã hội về người phụ nữ. Người phụ nữ trong thời đại mới phải đẹp toàn diện hơn, tài giỏi hơn, tích cực tham gia các công tác xã hội, đảm đang việc gia đình.... Và bên cạnh những nét đẹp hiện đại, người phụ nữ cần phải gìn giữ những nét đẹp truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, đánh dấu một bước chuyển mình lớn lao của dân tộc, Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới. Đổi mới là một xu hướng tất yếu của của đất nước, trên thực tế trải qua gần hai mươi năm thực hiện, nó đã tạo ra sự biến đổi mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế. Tuy nhiên, đổi mới không đơn giản chỉ là đổi mới về kinh tế mà nó kéo theo sự biến đổi toàn diện kể cả con người một cách sâu sắc, từ đó, tạo điều kiện cho sự phát triển mới về vật chất. Đảng và Nhà nước ta luôn luôn xác định: Con người là yếu tố quan trọng hàng đầu, trong đó người phụ nữ là lực lượng đông đảo, nắm vai trò to lớn trong gia đình và ngoài xã hội. Đạo Nho là một đạo chủ yếu bàn về chính trị, luân lý, đạo đức. Nho học vào Việt Nam và đã đi hết một chặng đường dài lịch sử dân tộc ta. Trên chặng đường ấy, có lúc nó giữ vai trò thúc đẩy, có lúc nó kìm hãm sự phát triển kinh tế, văn hoá, chính trị của con người Việt Nam. Nhưng dù thúc đẩy hay kìm hãm, nó đều góp phần làm nên truyền thống tư tưởng, văn hoá dân tộc; góp phần vào bước tiến của xã hội, con người Việt Nam; xây dựng nước Việt Nam ngàn năm văn hiến, trong đó, ảnh hưởng lớn nhất đến người phụ nữ Việt Nam chính là học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức”. Giai cấp phong kiến Việt Nam đã tiếp thu, vận dụng phạm trù “Tam tòng” làm công cụ để giáo hoá về tâm lý, đạo đức nhằm xây dựng mẫu người phụ nữ tiêu biểu cho xã hội cũ. “Tam tòng”, “Tứ đức” là một trong những chuẩn mực cơ bản nhất đối với người phụ nữ xưa, nó là thước đo giá trị, tài năng, đức hạnh của người đàn bà. Và quan trọng hơn cả là sự ăn sâu bén rễ của nó vào tư tưởng, tâm hồn, nhân cách, lối sống, thói quen của mọi người trong xã hội, là điều bản thân họ đặt vào tâm vào lòng để tự răn dạy và hoàn thiện. Yêu thương hết mực, hy sinh hết mình, tần tảo một nắng 1 hai sương, cam chịu, nhẫn nại… là những đức tính mãi dệt nên cuộc đời người phụ nữ Việt Nam ở xã hội phong kiến; dệt nên chân dung đậm nét của họ trong giai đoạn dài của lịch sử dân tộc. Tìm hiểu đạo xưa của cha ông là chuyện cần thiết để học và phát huy những cái hay, cái đẹp của đường lối giáo dục xưa; cách duy trì đạo lý của dân tộc. Thực tế lịch sử đã chứng minh, đất nước có nền Nho học thì phép tắc, trật tự được củng cố; người phụ nữ có đạo nho thì thuỳ mị, nết na, đức hạnh; người với người có lòng nhân ái… Tuy nhiên, mặt trái của thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức”, của Nho giáo đã gieo cho con người đầu óc địa vị, tư tưởng gia trưởng, đẳng cấp vua/tôi, cha/con, chồng/vợ. Quyền lực của vua là tuyệt đối trong quốc gia, quyền lực của cha là tuyệt đối trong gia đình. Người phụ nữ bị phụ thuộc vào người đàn ông. Họ bị cột chặt vào lĩnh vực gia đình mà không có điều kiện phát huy tài năng, thực hiện khao khát chính đáng của mình. Lịch sử sang trang. Người phụ nữ hiện đại ở thế kỷ XXI đã có quyền bình đẳng thực sự, có điều kiện xã hội - gia đình để phát huy tài năng của mình. Nhưng cũng là thời điểm khắc nghiệt của kinh tế thị trường, "vàng thau lẫn lộn", đạo đức phẩm hạnh của người phụ nữ đang bị thử thách gay gắt. Đây thực sự là cuộc đấu tranh phức tạp giữa những điều tốt đẹp và những cái xấu. Có rất nhiều người phụ nữ thành đạt trên các bình diện của cuộc sống, song cũng không ít phụ nữ sa vào các tệ nạn xã hội, huỷ hoại nhân cách, bán rẻ lương tâm, cuộc sống của mình. Thực tiễn cuộc sống mới, quy luật mới đòi hỏi người phụ nữ, người vợ, người mẹ ngày nay phải có những nhận thức, hành động mới cho phù hợp. Tổ chức cuộc sống gia đình có văn hoá về mọi mặt: vật chất, tinh thần… là điều không đơn giản. Điều này đòi hỏi họ phải có những đức tính quý báu mang tính truyền thống và trình độ, kiến thức, điều kiện, chuẩn mực hiện đại. Hơn cả là sự nỗ lực hết mình, tự chiến thắng bản thân vì những điều tốt đẹp cho xã hội, vì hạnh phúc của gia đình. Vậy phụ nữ Việt Nam vận dụng phát huy mặt tích cực của “Tam tòng”, "Tứ đức” như thế nào để xây dựng chuẩn mực hiện đại. Học thuyết "Tam tòng", "Tức đức" bên cạnh ảnh hưởng tiêu cực nó còn góp phần làm nên những nét đẹp tryền thống của người phụ nữ Việt Nam. Trong giai đoạn đất nước thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, người phụ nữ Việt Nam cần khắc phục quan niệm “Tam tòng” và tiếp thu vận dụng "Tứ đức" (công dung -ngôn -hạnh) như thế nào là một vấn đề có ý nghĩa thiết thực. 2 Vì vậy tôi chọn sự ảnh hưởng của học thuyết “Tam tòng, tứ đức” đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay là đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề ảnh hưởng của học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức”trong Nho giáo đối với người phụ nữ Việt Nam ở mức độ ít nhiều trực tiếp hay gián tiếp đã được một số tác giả Nho học, triết học các nhà bình luận.... nghiên cứu từ rất sớm. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu với nhiều góc độ khác nhau về vấn đề này. Điển hình là “Nho Giáo” của Trần Trọng Kim với hai tập: Quyển Thượng và Quyển Hạ; “Khổng học đăng” của Phan Bội Châu; “Chuyên khảo về Nho giáo” của Đặng Thai Mai; “Nho giáo xưa và nay” của Vũ Khiêu,... Trong tác phẩm “Nho giáo” của Trần Trọng Kim, ông đã khái quát quá trình lịch sử hình thành, phát triển của Nho giáo và các quan điểm cơ bản qua các thời kỳ. Ông đã phân tích khá sâu học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” trong lịch sử phát triển của Nho giáo: Nho giáo thời Xuân Thu; Nho giáo thời Lưỡng Hán; Nho giáo thời Tam Quốc; Nho giáo đời Thanh và đặc biệt là Nho giáo ở Việt Nam. Về sách, báo, tạp chí như: Báo Phụ nữ, Tạp chí Gia đình, Báo Tiền phong... phạm trù công - dung - ngôn - hạnh và đạo tam tòng cũng được bàn đến nhưng nghiên cứu dưới góc độ hẹp, đi vào từng khía cạnh nhỏ. Như vậy, những công trình nghiên cứu về đề tài này đã nêu lên nội dung cơ bản của "Tứ đức" và học thuyết “Tam tòng” nhưng xung quanh nó vẫn còn nhiều vấn đề phải bàn, tìm hiểu và nghiên cứu nhất là sự ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay. 3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của đề tài 3.1. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của học thuyết tam tòng, tứ đức đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay 3.2. Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung làm rõ một số nội dung cơ bản trong thuyết tam tòng, tứ đức của Nho giáo và sự ảnh hưởng của nó đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay 4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 4.1. Mục đích - Nghiên cứu học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo. 3 - Đánh giá ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của học thuyết này đối với người phụ nữ Việt Nam ngày nay. - Trên cơ sở đó, đề ra một số giải pháp nhằm khắc phục những mặt hạn chế; tiếp thu vận dụng sáng tạo giá trị tích cực của học thuyết "Tam tòng", "Tứ đức" góp phần vào việc xây dựng và phát huy vai trò của người phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. 4.2. Nhiệm vụ - Phân tích rõ nội hàm, ngoại diên của phạm trù: Tam tòng, tứ đức (công - dung - ngôn - hạnh) ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam. - Phân tích ảnh hưởng của học thuyết này đối với phụ nữ Việt Nam xưa (trong chế độ phong kiến), đặc biệt là đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay. - Đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy những giá trị tốt đẹp và khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của học thuyết này trong quá trình xây dựng phụ nữ Việt Nam hiện đại. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của đề tài là quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về học thuyết tôn giáo nói chung và về Nho giáo nói riêng; các tác phẩm kinh điển về Nho học; các văn kiện của Đảng; những chính sách, chiến lược xây dựng con người mới của Nhà nước... Đề tài cũng sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích, tổng hợp, lôgíc, lịch sử, so sánh, thống kê, điều tra... 6. Đóng góp của đề tài Có thể làm các tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm tìm hiểu nghiên cứu ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo phương Đông đối với con người Đề xuất những giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực hạn chế mặt tiêu cực của học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Học thuyết “Tam tòng” “Tứ đức” Trong Nho giáo Chương 2: Ảnh hưởng của học thuyết “Tam tòng” “Tứ đức” đối với người phụ nữ Việt Nam ngày nay. Chương 3: Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế tiêu cực của học thuyết “Tam tòng” “Tứ đức” đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay 4 Chương 1 HỌC THUYẾT “TAM TÒNG” “TỨ ĐỨC TRONG NHO GIÁO 1.1. Vị trí học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo 1.1.1. Một vài nét về sự hình thành và phát triển của Nho giáo Thời kỳ lịch sử Cổ - Trung đại, Trung Quốc là một trong những trung tâm văn minh lớn của thế giới. Giai đoạn này, Trung Quốc có nhiều phát minh vĩ đại như phát minh ra chữ viết, giấy, nghề in, thuốc súng, thiên văn học… Cùng với ấn Độ và các dân tộc phương Đông khác, Trung Quốc còn là quê hương của nhiều trường phái triết học lớn; là chiếc nôi của nhiều nhà tư tưởng. Trong lịch sử cũng như trong hiện tại việc đánh giá vai trò của triết học, tôn giáo Trung Quốc đối với sự phát triển của các nước chịu ảnh hưởng Hán hoá vẫn là một vấn đề được nhiều người quan tâm, bàn luận. Vào khoảng thế kỷ XVII đến thế kỷ XI (Trước Công nguyên) trên dải hoàng thổ phì nhiêu của con sông Hoàng Hà phía Bắc Trung Quốc đã xuất hiện một liên minh thị tộc lớn, một nền nông nghiệp định cư khá phát triển, chữ viết bắt đầu được sử dụng. Nhà nước với những hình thức phôi thai của nó đã xuất hiện, đó là thời Ân - Thương. Bước sang thế kỷ XI (Trước Công nguyên) bộ lạc du mục Chu từ phía Tây Bắc men theo sông Hoàng Hà tiến vào và tiêu diệt nhà Ân, lập nên nhà Chu, mở đầu thời kỳ "Văn minh dựng nước" Trung Quốc. Thời kỳ này, Trung Quốc có nhiều trường phái triết học, tiêu biểu là: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia, Âm dương gia… Có thể khẳng định: trừ Phật giáo được du nhập từ ấn Độ, các hệ thống triết học được thành lập thời kỳ này - với những tư tưởng cơ bản của nó - còn tồn tại và ảnh hưởng sâu đậm trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc. Mỗi nhà tư tưởng sau này đều tự xếp mình vào một trường phái nào đó để giải thích là phát triển những quan niệm của bậc tiền bối. Nho giáo ra đời và nó trở thành một trong sáu trường phái cơ bản của triết học Trung Quốc thời bấy giờ. Nho giáo ra đời cách đây 26 thế kỷ, tức vào khoảng thế kỷ thứ VI (Trước Công nguyên) đến thế kỷ thứ V (Trước Công nguyên). Người sáng lập ra đạo Nho là Khổng Tử. Khổng Tử sinh năm 551 Trước Công Nguyên và mất năm 479 Trước Công Nguyên, thọ 73 tuổi, tên thật là Khâu Trọng Ni, sinh ở Khúc Phụ, nước Lỗ, trong một gia đình quý tộc nhỏ. Khổng tử sống ở thời đại nhà Chu suy nhược, chư hầu lấn át, trật tự Lễ, Pháp bị đảo lộn thế cục biến loạn, dân 5 tình khổ sở. Đứng trên lập trường của bộ phận cấp tiến trong giai cấp quý tộc Chu, ông đem sách thành hiền đời trước ra lập thành một học thuyết có hệ thống, lấy Nhân – Lễ - Nghĩa – Trí – Tín mà dạy người, lấy cương thường mà hạn chế nhân dục để giữ trật tự trong xã hội cho bền vững. Khổng Tử là một nhà tư tưởng lớn, có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hoá Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam. Tài liệu chủ yếu để nghiên cứu tư tưởng của ông là cuốn Luận ngữ, ghi lại lời của Khổng Tử và học trò. Học thuyết của Khổng Tử được lưu truyền rộng và gây ảnh hưởng tới nhiều dân tộc Á Đông trong đó có Việt Nam. Trong học thuyết Khổng Tử, người phụ nữ ít được bàn đến nhưng không phải là không có. Điều này thể hiện trong học thuyết "Tam tòng", "Tứ đức". 1.1.2. Vấn đề người phụ nữ trong Nho giáo Con người là vấn đề trung tâm của Nho giáo nhưng không được bàn đến trong tất cả các mặt của nó mà chú trọng vào khía cạnh luân lí, đạo đức, nhằm mục đích xoa dịu mâu thuẫn giai cấp và ổn định trật tự xã hội. Con người trong Nho giáo được bàn đến dưới nhiều góc độ, trong đó người phụ nữ ít được bàn đền, vai trò của họ rất mờ nhạt. Một số vấn đề trong Nho giáo đề cập đến người phụ nữ như học thuyết luân lí đạo đức phong kiến; quan niệm về đạo làm vợ, đạo làm con; các quan hệ với mọi người trong gia tộc, ngoài xã hội; quan niệm về phạm vi, lĩnh vực, công việc mà họ được phép tham gia. Nhìn chung, người phụ nữ trong Nho giáo được đánh giá là một lực lượng cơ bản để xây dựng xã hội nhưng họ luôn ở vị trí phụ thuộc vào nam giới, họ chỉ tồn tại với tư cách là một yếu tố cần, cho trật tự gia đình và xã hội. Về số phận họ, cũng như số phận con người nói chung, theo Khổng Tử, con người có mệnh và không thể cưỡng lại mệnh. Còn Mạnh Tử cho rằng, trời an bài địa vị xã hội cho con người. Đổng Trọng Thư cho rằng, trời và người cảm thông với nhau, trời là chủ tể của người, người có công thì hưởng, người có tội thì phạt, bắt khổ phải khổ, cho sung sướng được sung sướng. Quan điểm này được xây dựng trên lập trường của giai cấp thống trị, nó phục vụ cho mục đích của giai cấp thống trị, nó buộc con người nói chung đặc biệt là phụ nữ vào khuôn phép nhất định của xã hội, nó xoa dịu mâu thuẫn giai cấp, khiến cho người phụ nữ luôn cam chịu, nhẫn nhục, bằng lòng với số phận mình. 6 Theo Khổng Tử, người phụ nữ phải theo Lễ để ngăn cấm đại dục, nghĩa là việc ăn uống, trai, gái là cái vốn có. Cái đại ố là ở sự chết chóc, nghèo khổ, bao giờ cũng có. Cho nên, dục ố là cái mối lớn của cái tâm, người ta giấu kín cái tâm. Khổng Tử, luôn lấy tình cảm làm trọng, nhưng theo Khổng Tử tình cảm của người thường không có giới hạn sẽ dẫn đến hư hỏng, ông chủ trương dùng “Lễ” để ngăn giữ những điều xấu từ khi chưa hình thành. Vấn đề người phụ nữ trong Nho giáo không được bàn luận nhiều và không hệ thống, có thể nói, trung tâm của vấn đề này chính là phạm trù “Tam tòng” và “Tứ đức”, nó được coi là một chuẩn mực cơ bản để xây dựng người phụ nữ xưa. 1.2. Nội dung của học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” Học thuyết của Nho giáo chủ yếu bàn về các mối quan hệ luân thường đạo lý trong xã hội, qua mỗi thời đại khác nhau, Nho giáo nói chung, phạm trù “Tam tòng” và “Tứ đức” nói riêng có những sự biến đổi về nội dung và ảnh hưởng của nó đến tư tưởng, hành động của người phụ nữ. Vậy chúng ta phải hiểu “Tam tòng” và “Tứ đức” là gì? 1.2.1 Thuật ngữ “Tam tòng”, “Tứ đức” “Tam tòng”: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử, có nghĩa là ở nhà theo cha, xuất gia theo chồng, chồng chết theo con. Tòng còn có nghĩa phục tùng, tuân theo tuyệt đối “Tứ đức”: Công – Dung – Ngôn – Hạnh. Theo từ điển Hán Việt: Công có nghĩa là khéo léo. Dung có nghĩa là dáng mạo, gồm có dung mạo: chỉ dáng điệu và sắc mặt; dung sắc: chỉ dung mạo và nhan sắc. Ngôn có nghĩa là lời nói. Hạnh là chỉ nết na đức hạnh. Còn một số quan điểm khác cho rằng: Công: có nghĩa là công việc, biết cách làm việc một cách có trí tuệ, có tỉ mỉ Dung: là dung nhan, dung mạo, nghĩa là dáng dấp thể hiện ra bên ngoài qua gương mặt, qua dáng hình khi đi đứng, nói cười, ứng xử. Ngôn: vừa mang nghĩa “thuyết” tức là ý nghĩa, trí tuệ, vừa mang nghĩa “thoại” tức lời ăn tiếng nói. Hạnh: tức đức hạnh, phẩm giá. 1.2.2. " Tam tòng", “Tứ đức” trong Nho giáo nguyên thuỷ Như đã nói, thời đại của Khổng Tử là "Bá đạo" (đạo của các nước chư hầu) đang nổi nên lấn át vương đạo (Đạo của Nhà Chu), trật tự, lễ nghĩa Nhà Chu bị đảo lộn. trước tình hình đó ông chủ trương lặp lại kỉ cương cũ của nhà Chu, ông xây dựng học thuyết 7 “Nhân – Lễ – Chí – Tín”, “Chính danh”, “Hiếu đễ”. Để học thuyết của mình trở thành hiện thực, Khổng Tử tập trung xây dựng mẫu người quân tử với chủ trương "Đức trị". Còn về phụ nữ, do quan niệm bất bình đẳng nam nữ nên hầu như ông không chú tâm vào việc xây dựng mẫu người phụ nữ cụ thể cho xã hội đương thời. Theo Khổng Tử, nếu người đàn ông tu dưỡng “Đức” và “Tài” và trở thành chính nhân quân tử thì tất yếu người phụ nữ phải đi vào khuôn phép. Ông cho rằng trong gia đình thì người phụ nữ là nhân tố sắp đặt lo toan công việc, trên cơ sở đó, Khổng Tử đưa ra chuẩn mực của người phụ nữ, người phụ nữ trước hết phải hiểu và làm theo “Tam tòng”: Tại gia tòng phụ Xuất giá tòng phu Phu tử tòng tử Có nghĩa là, người phụ nữ khi còn ở nhà thì phải nghe theo cha, lấy chồng phải theo chồng; chồng chết phải theo con, phải ở vậy "Tòng" con suốt đời, không được đi bước nữa. Phạm trù “Tứ đức”: Công - Dung - Ngôn - Hạnh. Công chỉ sự khéo léo, đảm đang trong công việc gia đình, là nữ công gia chánh; tề gia nội trợ. Dung là vẻ đẹp hình thức, thể hiện dáng vẻ tự nhiên kết hợp với trang phục, tạo nên sự đoan trang, thuỳ mị nói chung. Ngôn chỉ lời ăn tiếng nói, chỉ sự lựa chọn từ ngữ tế nhị, kín đáo, nữ tính. Hạnh chữ hạnh kiểm, đức hạnh, là lòng nhân ái, là sự tuân theo lễ nghĩa và hiếu đễ với cha mẹ, anh em… Trong bốn đức nêu trên, Khổng Tử nhấn mạnh đức "Hạnh". Theo ông, người phụ nữ đạt đến đức "Hạnh" điều căn bản là phải có tấm lòng "hiếu" nhưng phải dựa trên cơ sở "ái", "kính". Người có hiếu trước hết phải nuôi cha mẹ. Nuôi nhưng phải kính, không kính là bất hiếu. Nuôi cha mẹ cốt ở sự thành kính, dẫu phải uống nước lã, ăn gạo xấu mà làm cho cha mẹ vui, đó là hiếu. Song bên cạnh đó, ông lại có quan niệm rất tiến bộ khi cho rằng không phải sự phục tùng cha mẹ một cách thụ động không phân biệt phải trái, lấy lễ nghĩa mà thờ cha mẹ, không phải cha mẹ làm điều gì trái đạo cũng theo. Tuân Tử lại cho rằng người làm con hiếu có ba hạng, người con hiếu sở dĩ có ba điều không theo mệnh cha. Theo mệnh thì cha mẹ nguy, không theo mệnh thì cha mẹ yên, người hiếu tử không theo mệnh là hợp với đạo trung. Theo mệnh thì cha mẹ nhục, không theo mệnh thì cha mẹ vinh, người hiếu tử không theo mệnh là hợp với điều 8 nghĩa. Theo mệnh là cầm thú, không theo mệnh làm cho cha mẹ được vẻ vang, người hiếu tử không theo mệnh là kính cha mẹ. Cho nên, điều đáng theo mà không theo là không phải đạo làm con, chưa nên theo mà đã theo, là không hợp đạo trung. Biết rõ cái nghĩ đáng theo và không đáng theo mà lại hết sức cung kính, trung tín, đoan xác, rồi cứ cẩn thận mà làm, thế gọi là đạo hiếu. Như vậy, đạo “Tòng cha” là phải biết rõ điều phải trái, cái đáng làm và cái không đáng làm, nếu không dẫu có đức hạnh tốt thế nào mà con người không biết dùng hợp lý thì cũng thành ra dở. Còn Mạnh Tử thì cho rằng thông qua ngôn ngữ giao tiếp, qua lời ăn tiếng nói hàng ngày có thể đánh giá được những hạng người khác nhau trong xã hội. 1.2.3. " Tam tòng", “Tứ đức” trong Hán Nho Năm 221 TCN nhà Tần tiêu diệt Tề, kết thúc cục diện chiến quốc. Lưu Bang giành được chính quyền lập ra nhà Hán. Trong bối cảnh đó xuất hiện nhà triết học duy tâm nổi tiếng Đổng Trọng Thư (180 - 105 Trước Công nguyên). Tư tưởng triết học và chính trị của ông thể hiện mục đích phục vụ vương quyền của chế độ chuyên chế phong kiến. Ông đề cập đến phạm trù "Tam tòng", “Tứ đức” nhưng đã tước đi những yếu tố nhân văn, nhân ái, tiến bộ của Khổng Tử, thay vào đó là quan niệm nghiệt ngã một quy tắc đạo đức phi nghĩa lý: Vua bảo tôi chết, tôi phải chết, nếu không mắc tội bất trung, cha bảo con chết, con phải chết, nếu không mắc tội bất hiếu. Chồng nói, vợ tuyệt đối phải nghe theo, dù sai, dù đúng, người phụ nữ trong gia đình không có quyền tham gia hay phản kháng. Như vậy, đạo lý làm người đã trở thành quy định khắt khe, bề tôi phải trung với vua, con phải hiếu với cha mẹ, vợ phải giữ đạo tòng với chồng. Từ đó dẫn đến một lôgíc: Bề trên là chân lý, là tuyệt đối; bề dưới phải phục tùng, người phụ nữ phải phục tùng một cách tuyệt đối với cha và chồng. 1.2.4. Mối quan hệ "Tam tòng", "Tứ đức" "Tam tòng" và "Tứ đức" là hai phạm trù cơ bản, là chuẩn mực đạo đức để xây dựng mẫu người phụ nữ phong kiến của Nho giáo. Giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời. Điểm chung giữa hai phạm trù này đều là những quy tắc, lễ nghĩa, chuẩn mực bắt buộc đối với người phụ nữ. Cả hai đều được giai cấp thống trị phong kiến sử dụng ngày một triệt để như một công cụ đắc lực để giáo hoá người phụ nữ với mục đích: ổn định xã hội, bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị và của người đàn ông. 9 Tuy nhiên, giữa chúng cũng có nét khác biệt ở phạm vi, đối tượng đề cập. "Tam tòng" chỉ mối quan hệ giữa người phụ nữ với nam giới trong gia đình và ngoài xã hội, đó là: cha, chồng, con trai, đề cao sự phục tùng một chiều, sự chung thuỷ của họ đối với người đàn ông. Còn “Tứ đức” chú trọng vào sự tự tu dưỡng của chính bản thân phụ nữ. Tu dưỡng Công - Dung - Ngôn - Hạnh để đạt được "Tam tòng". "Tứ đức" là điều kiện để thực hiện tốt đạo tòng cha, tòng chồng, tòng con. Ngược lại “Tam tòng” chứng minh cho “Tứ đức”, cho phẩm hạnh của người phụ nữ. Trong bản thân phạm trù “Tứ đức” cũng có mối quan hệ với nhau. Đó là mối quan hệ giữa nội dung và hình thức. Hạnh là nội dung. Công, Dung, Ngôn là hình thức. Chúng bổ sung cho nhau, thể hiện thông qua nhau. Như vậy, Nho giáo đòi hỏi ở người phụ nữ vẻ đẹp toàn diện theo một khuôn mẫu nhất định. Sâu xa hơn, là đòi hỏi sự toàn tâm, toàn ý, sự hy sinh hết mình đối với nam giới. Khi hiểu được mối quan hệ giữa các phạm trù, chúng ta tránh hiểu chúng một cách rời rạc hoặc tuyệt đối hoá một phạm trù nào và có thái độ khách quan, biện chứng khi xem xét sự ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam. Như vậy, Nho giáo có bước thăng trầm trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, học thuyết " Tam tòng", “Tứ đức” không nằm ngoài bước thăng trầm đó. Có lúc nó chi phối vận mệnh người phụ nữ Việt Nam; có lúc lại mờ nhạt; có mặt tích cực, có điều hạn chế. Nó đi vào đời sống tư tưởng của nhân dân Việt Nam, đã ăn sâu bén rễ từ rất lâu. Vậy sự ảnh hưởng của nó như thế nào đối với phụ nữ Việt Nam? 1.3. Học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” ở Việt Nam 1.3.1. Vài nét về sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam Vị trí của Nho giáo trong lịch sử tư tưởng Việt Nam là một vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng đối với việc nghiên cứu truyền thống tư tưởng của dân tộc cũng như sự ảnh hưởng của nó đối với người dân Việt Nam. Đạo Nho được truyền bá vào Việt Nam không bằng con đường giao lưu văn hoá; cũng không bằng con đường tìm đến của người bản xứ mà bằng con đường xâm lược của phong kiến phương Bắc vào thế kỷ thứ II Sau Công nguyên (tức vào thời Tây Hán). Lúc đầu đạo Nho không được đón nhận bởi nó theo bước chân giặc vào nước ta. Về sau được truyền bá rộng rãi và phát triển manh mẽ. 10 Triều Lý (1010 - 1225) cùng với việc tôn sùng đạo Phật đã lập văn miếu thờ Khổng Tử (1070); tổ chức thi tam giáo (1074) để chọn hiền tài; lập Quốc Tử Giám trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Thời Trần bắt đầu từ năm 1267, nho sĩ được nắm quyền binh. Đó là bước ngoặt lớn đối với nho sĩ nước ta. Cuối Trần, xu thế Tống Nho đã thể hiện khá rõ ở Chu Văn An, Trương Hán Siêu, Trần Nguyên Đán. Thời Lê là thời kỳ đạo trị nước yên dân của Nho giáo có tính xuyên suốt, chi phối mọi hoạt động chính trị, xã hội. Người đương thời đặc biệt quan tâm đến các khái niệm đạo đức như "Trung, hiếu", "lễ nghĩa", … Thời Lê - đặc biệt thời Lê Thánh Tông (1260 - 1497) Đạo Nho đạt đến điểm cực thịnh. Sang thế kỷ XVI - XVIII, một thế kỷ mà xã hội Việt Nam có nhiều diễn biến phức tạp, có nhiều biến động về chính trị tư tưởng, thế kỷ XVIII - thế kỷ đánh dấu nhiều sự kiện nổi bật, đặc biệt là những biến động về chính trị, tư tưởng. Thời kỳ này Nho giáo được đề cao nhưng không tách rời Phật giáo, Đạo giáo, giữa chúng có sự nhất thể hoá. Hiện tượng "Tam giáo đồng nguyên" trên cái nền tư tưởng chi phối của Nho giáo đang là xu hướng lớn thời bấy giờ và nó tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới các bình diện tư tưởng. Thế kỷ XIX, nhà Nguyễn lật đổ chính quyền Tây Sơn giành quyền thống trị, lập triều Nguyễn. Đây cũng là thời kỳ chiến tranh liên miên, kinh tế trì trệ, đời sống nhân dân cực khổ. Để duy trì bộ máy thống trị phong kiến, nhà Nguyễn đã sử dụng Nho giáo như một công cụ đắc lực. Nhà Nguyễn chủ trương độc tôn Nho giáo, nhưng lại gặp trở ngại và sự thâm nhập ngày càng mạnh mẽ của Thiên chúa giáo. Năm 1858 Việt Nam rơi vào tay thực dân Pháp, Nho học thời kỳ này là phương tiện thể hiện lòng yêu nước và nho học không thành công. Nho học đã đi hết một chặng đường dài lịch sử nước ta, từ thời Bà Trưng, Bà Triệu, Đinh, Lê, Trần…Trên chặng đường đó, Nho giáo đã gây ảnh hưởng rất sâu đậm đến tư tưởng dân tộc Việt Nam. Ngày nay, chúng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng cho sự nghiệp xây dựng đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nho học không còn giữ vị trí chi phối nhưng ảnh hưởng của nó trong tư tưởng của quần chúng, trong những phong tục tập quán, trong nếp nghĩ, cách làm của người dân Việt vẫn tồn tại. Cụ thể là vẫn còn ảnh hưởng của quan niệm trọng nam, khinh nữ, của thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” đối với người phụ nữ. 11 Xuất phát từ những cơ sở trên, nghiên cứu ảnh hưởng của phạm trù 'Tam tòng", “Tứ đức” đối với người phụ nữ Việt Nam ngày nay chúng ta sẽ có cái nhìn tổng thể, thái độ khách quan để đánh giá về giá trị cũng như hạn chế của nó. 1.3.2. Nội dung học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” ở Việt Nam Bắt đầu một giai đoạn mới của lịch sử, người ta phải xây dựng lại cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Trong công cuộc đó, vấn đề xây dựng con người là vấn đề quan trọng hàng đầu. Với Việt Nam, sau một nghìn năm đô hộ của phong kiến phương Bắc, đã bắt tay vào xây dựng đất nước độc lập, tự chủ. Để giữ vững vị trí thống trị của mình, vấn đề đầu tiên mà giai cấp phong kiến Việt Nam đặt ra là xây dựng con người phục vụ cho chế độ phong kiến Việt Nam độc lập. Để thực hiện điều này, giai cấp phong kiến Việt Nam đã sử dụng Nho giáo làm hệ tư tưởng thống trị của xã hội, làm học thuyết để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, làm công cụ giáo huấn dân sinh, lấy thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” làm chuẩn mực cho phụ nữ noi theo. Đây là điều kiện cơ bản nhất cho sự tồn tại của Nho giáo nói chung, học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” nói riêng. Tuy nhiên, điều kiện này lại chịu sự tác động của những yếu tố mang tính đặc thù. “Tam tòng”, “Tứ đức” được tiếp nhận, vận dụng một cách sáng tạo chứ không phải bê nguyên xi nội dung như trong Nho giáo của Trung Quốc. Nho giáo vào Việt Nam và đã mang một màu sắc riêng của dân tộc. Theo giáo sư Trần Văn Đoàn, Nho Việt đã tinh giản Nho giáo Trung Quốc thành một loại hình ý thức đặc thù. Nho Việt chỉ lấy một phần có giá trị thực dụng để bảo vệ Tổ quốc khỏi ách ngoại xâm, hoặc gắn kết với quyền lực của kẻ thống trị. Theo giáo sư Phan Đại Doãn các sĩ phu Việt Nam thường "Giản yếu", "lược luận", phần lớn tiếp nhận những luân lý đạo đức cơ bản của Nho giáo để áp dụng vào công cuộc xây dựng gia đình và cộng đồng. Theo phó giáo sư Nguyễn Hùng Hậu, về đại thể, chủ yếu Nho Việt đi vào những vấn đề cấp bách thiết thực do đời sống xã hội đặt ra. Khuynh hướng chủ đạo này có cái hay là lược bỏ những phần rối rắm, phức tạp; nhưng vì thế nó cũng lược bỏ những chỗ thâm sâu vi tế; làm mất tính hệ thống, thiếu cơ sở lý luận, tính nhất quán, thiếu sự chặt chẽ, lôgíc. Điều này nói lên tính thực tế của người Việt Nam. Mặt khác, nhân dân Việt Nam có truyền thống tôn trọng phụ nữ. Trong buổi bình minh của lịch sử dân tộc nào cũng trải qua thời kỳ mẫu hệ và chế độ mẫu quyền, trong đó, phụ nữ làm chủ gia đình, dòng họ, phụ nữ có vai trò lớn lao trong đời sống kinh tế, trong sinh hoạt xã hội cũng như tinh thần. Mỗi người dân Việt Nam đều ghi nhớ một 12 huyền thoại tổ tiên, đó là: mẹ Âu Cơ, cha Lạc Long Quân là những người khai sáng ra lịch sử dân tộc. Mẹ đã đẻ ra 100 trứng, nở thành 100 chàng trai tuấn tú. Thời kỳ chuyển từ mẫu hệ sang phụ hệ, suốt thời kỳ phong kiến và mãi về sau này, xã hội Việt Nam đã thừa hưởng và bảo lưu truyền thống tốt đẹp: "Tôn trọng vai trò của người phụ nữ". Truyền thống này đã trở thành đạo lý khiến cho giai cấp phong kiến Việt Nam không thể không công nhận luật pháp nhà Lê có một số điều khoản liên quan đến phụ nữ mà các triều đại phong kiến Trung Hoa không có. Sau khi Lê Lợi lên ngôi, năm 1429 ông ban hành phép quân điền (lấy ruộng công của làng xã định kỳ phân phối cho mọi thành viên trong làng xã), từ thê thiếp của các quan viên đến các bà góa, vợ con của những người phạm tội, đều được chia ruộng công… Đến luật Hồng Đức năm 1483 đã quy định con gái được hưởng quyền chia tài sản sở hữu của gia đình bình đẳng như con trai; khi đi lấy chồng, phần tài sản này vẫn là của riêng người vợ, không bị nhập vào tài sản của nhà chồng. Điều đó cho phép người vợ có quyền tự do nhất định trong gia đình nhà chồng. Gia đình nào không có con trai thừa tự thì người con gái được hưởng thừa kế ruộng, hương hoả. Về lĩnh vực hôn nhân thì trong một số trường hợp phụ nữ được quyền ưu tiên: Con gái đã đính hôn chưa làm lễ cưới, nếu chẳng may người con trai bị phạm tội, bị tàn tật, bị phá sản, người phụ nữ có quyền từ hôn bằng cách trả lại đồ sính lễ; ngược lại, người con gái bị tàn tật, bị phạm tội thì người con trai không có quyền từ hôn. Như vậy, truyền thống tôn trọng phụ nữ của dân tộc Việt Nam không chỉ là đạo lý mà còn được Nhà nước phong kiến hợp pháp hoá. Điều này khiến cho nội dung của học thuyết "Tam tòng", "Tứ đức" không còn quá khắt khe hay ép buộc mà khiến cho người phụ nữ tự nguyện hành động theo "Tam tòng", "Tứ đức". Tuy nhiên, đồng hành với truyền thống tốt đẹp trên là những quan niệm lạc hậu, cổ hủ mà giai cấp phong kiến Việt Nam muốn duy trì để phục vụ cho mục đích của mình. Những quan niệm, phong tục này có ảnh hưởng không nhỏ đến sự tồn tại của học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” trong xã hội Việt Nam. Ví dụ như: tư tưởng "Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng", "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô" (một trai cho là có, mười gái vẫn bằng không). Tất cả những điều nêu trên là điều kiện khiến cho học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” mang những nội dung mới, rất Việt Nam. "Tam tòng", "Tứ đức" trong Nho giáo vào Việt nam và thăng trầm theo lịch sử của dân tộc. Nó không chỉ là hình thức, lý luận mà nó ăn sâu bén rễ vào đời sống, vào tư tưởng của người dân đất Việt. 13 Chương 2 ẢNH HƯỞNG CỦA HỌC THUYẾT “TAM TÒNG” “TỨ ĐỨC” ĐỐI VỚI NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Ảnh hưởng của thuyết “Tam tòng” đối với người phụ nữ Việt Nam ngày nay 2.1.1. Giai đoạn từ phong kiến Việt Nam độc lập đến 1945 Từ khi bước lên vũ đài lịch sử, giai cấp phong kiến Việt Nam rất coi trọng vấn đề gia đình và xây dựng gia đình người Việt như thế nào. Bởi trong xã hội phong kiến Việt Nam với nền sản xuất nhỏ lẻ, tự cung tự cấp, mỗi gia đình là một đơn vị sản xuất khép kín … nên trách nhiệm của gia đình đối với việc truyền thụ kinh nghiệm, giáo dục, văn hoá là rất lớn. Nguyên tắc tôn ti trật tự được giai cấp phong kiến sử dụng triệt để trong việc phân định các mối quan hệ. Đẳng cấp trong gia đình có liên quan chặt chẽ đến đẳng cấp ngoài xã hội. Giai cấp phong kiến Việt Nam chủ trương duy trì đạo “Tam tòng” trong xã hội: "Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử". Trong Nho giáo nguyên thuỷ của Trung Hoa chỉ nói đến mối quan hệ cha - con. Cha đặt đâu con ngồi đó. Nhưng ở Việt Nam lại được đề cập dưới góc độ: cha mẹ con cái: "cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó". Ở vị trí người con (đặc biệt là con gái) phải luôn nghe theo sự dạy bảo, ý kiến, những quyết định… của cha mẹ. Trong quan hệ vợ - chồng, người chồng có quyền lớn hơn người vợ trong mọi lĩnh vực; giữa những người con với nhau thì con trai có quyền, có lợi hơn người con gái: "con gái là con người ta", "con gái cái bòn". Những người nam giới có quyền lớn hơn chưa hẳn do họ có tài năng, đức độ cao hơn mà cái quyền đó là do địa vị làm chồng, làm cha, làm người đàn ông đem lại. Điều này phục vụ đắc lực cho mục đích của giai cấp lãnh đạo xã hội phong kiến: đảm bảo tôn ti, trật tự thuận theo một chiều từ trên xuống, từ trong gia đình ra ngoài xã hội. "Tại gia tòng phụ": Người con gái chưa lấy chồng thì phải nghe, theo, tuân phục cha mẹ, cha mẹ bảo sao, con nghe vậy, dù đúng, dù sai. Nếu thấy cha mẹ sai mà cãi lại hoặc làm trái lời là bất hiếu. Trong hiện thực cuộc sống, có nhiều người cha không giữ đúng đạo làm cha, sa vào các tệ nạn xã hội, huỷ hoại bản thân, đạo đức kém cỏi, bất tài… nhưng với thân phận là con gái - người con không có quyền tham gia, góp ý hay 14 khuyên bảo. Trong hôn nhân, người phụ nữ hoàn toàn không có quyền tự do tìm hạnh phúc của mình. Hôn nhân của họ được thực hiện theo nguyên tắc "cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó". Chính đạo "tòng" trong Nho giáo đã dẫn đến nhiều cuộc hôn nhân ngang trái trong xã hội như nạn tảo hôn, ép duyên làm cay đắng, ngậm ngùi bao kiếp người. Như vậy, quan niệm "Tại gia tòng phụ" chính là cơ sở đảm bảo quyền tối cao của người cha, nó hình thành cách tư duy, lối sống, tính cách gia trưởng cho người đàn ông trong gia đình, còn người phụ nữ thì cam chịu, mà thực chất là đảm bảo quyền lực tập trung trong tay vua chúa, thần dân là phải tòng vua: “vua bảo thần chết thần không thể không chết”. Người phụ nữ trong xã hội phong kiến, ngoài việc bị áp bức về dân tộc, còn chịu áp bức về giai cấp, về giới. Họ là nô lệ của những người bị nô lệ; là nạn nhân của những hủ tục lạc hậu, lễ giáo phong kiến. "Xuất giá tòng phu". Theo trật tự lôgíc của đạo “Tam tòng”, người phụ nữ khi đi lấy chồng tất yếu phải "tòng" chồng…. Nhân gian có câu "nhân vô thập toàn" (không ai hoàn thiện ), người đàn ông dù tài giỏi đến đâu cũng có những hạn chế nhất định. Nhưng theo quan điểm này thì người chồng dù tốt đẹp hay xấu xa, dù hay dù dở thì người vợ vẫn phải "tâm phục, khẩu phục", phải nghe, phải theo vô điều kiện. Cuộc sống phụ thuộc vào người khác đã biến người phụ nữ thành kẻ cam chịu, buông xuôi với số phận của mình. Họ không có quyền và không dám tự khẳng định mình trong hôn nhân, trong hạnh phúc hay khổ đau; họ phó thác cuộc đời mình cho sự may rủi. Ai may mắn thì lấy được người chồng tốt. Ai rủi ro thì lấy phải người chồng không xứng làm chồng. Như Hồ Xuân Hương đã từng nói: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn Bảy nổi ba chìm với nước non Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Mà em vẫn giữ tấm lòng son” Tròn hay méo, lành hay vỡ là do tay người nặn, do số phận an bài, hay: Thân em như hạt mưa sa Hạt rơi xuống giếng, hạt ra ngoài đồng (ca dao) Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai ? (ca dao) 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất