Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kế toán - Kiểm toán Kiểm toán Sự ảnh hưởng của đặc điểm ủy ban kiểm toán đến đạo đức tự nguyện công bố thông ...

Tài liệu Sự ảnh hưởng của đặc điểm ủy ban kiểm toán đến đạo đức tự nguyện công bố thông tin.

.DOCX
15
623
105

Mô tả:

Bài báo này nói về những ảnh hưởng của ủy ban kiểm toán đến đạo đức tự nguyện công bố thông tin trong các doanh nghiệp niêm yết
TÊN ĐỀ TÀI: SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẶC ĐIỂM ỦY BAN KIỂM TOÁN ĐẾN ĐẠO ĐỨC TỰ NGUYỆN CÔNG BỐ THÔNG TIN. TÓM LƯỢC: Nghiên cứu này khảo sát sự ảnh hưởng của đặc điểm Ủy ban kiểm toán đến đạo đức tự nguyên công bố thông tin của 94 Công ty hàng đầu được niêm yết trên Bursa Malaisia. Nghiên cứu đã sử dụng và phân tích báo cáo hàng năm của các công ty và sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính đa biến để xem xét mối quan hệ giữa đạo đức tự nguyện công bố thông tin với đặc điểm của Ủy ban kiểm toán Công ty. Kết quả của nghiên cứu cho thấy rằng chỉ có duy nhất 2 đặc điểm của Ủy ban kiểm toán (nhiệm kỳ và sự kiêm nhiệm) có liên quan đến đạo đức trong việc tự nguyện công bố thông tin, trong khi tính độc lập, chuyên môn, tần suất các cuộc họp và quy mô thì không ảnh hưởng. Nghiên cứu này để giúp các bên liên quan trong việc chú trọng hơn vào đặc điểm của Ủy ban kiểm toán trong việc xác định đạo đức trong việc công bố thông tin của công ty. 1. Giới thiệu: Đạo đức là một khía cạnh quan trọng trong hoạt động kinh doanh, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải phù hợp và nằm trong khuôn khổ pháp luật theo các quy định và các quy tắc được thừa nhận. Sự sụp đổ của một số tập đoàn kinh tế lớn như Enron, WorldComto và Parmalat như một tấm gương chứng minh cho những hậu quả cực kỳ nghiêm trọng khi tổ chức thực hiện những phương tiện phi đạo đức trong hoạt động kinh doanh (Muhammad, Shahimi, Yahya and Mahzan, 2009). Các quy tắc đạo đức là cần thiết để các Doanh nghiệp giải quyết các mâu thuần trong thành lập các quy tắc của sự cam kết và thủ đoạn gian lận. Theo Bealing và Baker (2006), vụ bê bối của công ty đã tác động xấu đến nhiều tổ chức kinh tế bao gồm cả những đôi tượng khác, các thị trường, các nhà đầu tư, các quy định báo cáo kinh doanh và đốc công quy định người bảo vệ các nhóm lợi ích như khách hàng, nhà quản lý và các cơ quan lập pháp. Trước nhiều thất bại cũng như các vụ bê bối của các Công ty thì phải sớm có hành động cần thiết để sửa chữa những hành vi phi đạo đức trước khi nó trở nên leo thang và mất kiểm soát. Leftkowitz (2006, p.247) nhắc lại Witmerr’s (2001) ý nghĩa của hành vi phi đạo đức như là “một hành động cụ thể - hay một quyết định không hành động - có đạo đức nếu những hậu quả tiềm năng của sự lựa chọn của một hoặc nhiều người được dự kiến sẽ có tác động đáng kể trên phúc lợi của người khác và có thể vi phạm một hoặc nhiều nguyên tắc đạo đức truyền thống ... ".Leone (2010) and Persons (2011) tiếp tục nhấn mạnh rằng hành vi phi đạo đức có tác động tiêu cực đến các công ty. Nó làm hoen ố hình ảnh và uy tín của công ty, ảnh hưởng đến lợi nhuận và giá trị thị trường của Công ty; gây tốn kém cho công ty và cổ đông của mình và làm mất lòng tin từ công chúng. Friedman (2008) nói rằng không chỉ gói cứu trợ tài chính là cần thiết cho các công ty, mà công ty cũng sơm cần một gói cứu trợ về đạo đức. Theo Sullivan và Shkolnikov (2006), đạo đức trong công bố thông tin là một công bố tự nguyện được thực hiện bởi các công ty nhất định để tăng cường quản trị doanh nghiệp của họ. Tự nguyện công bố thông tin được thực hiện bởi các công ty hơn là yêu cầu bắt buộc công bố thông tin (Qu, Cooper, Wise và Leung, 2012). Công bố thông tin tự nguyện, được phân loại thành các thông tin chiến lược, thông tin tài chính và thông tin phi tài chính (Eng và Mak, 2003), và đây là một mối quan tâm đáng kể ở các nước đang phát triển với các thị trường mới nổi như Malaysia, nơi sự phát triển và bền vững của thị trường vốn dựa nhiều vào việc giảm khoảng cách thông tin giữa quản lý và nhà đầu tư. Ling và Lee (2012) quan sát thấy rằng Malaysia là một trong những quốc gia ở Đông Nam Á đã tăng trưởng nhanh chóng trong vốn hóa thị trường, nơi công bố thông tin tự nguyện có thể dẫn đến vốn hóa thị trường cao hơn tạo ra giá trị tiềm năng cho việc báo cáo bền vững như một công cụ trong quan hệ giữa quản lý và nhà đầu tư. Rouf (2011) tìm thấy mức độ công bố thông tin tự nguyện chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố; các yếu tố kinh tế, những thay đổi trong thái độ của xã hội và các yếu tố hành vi như văn hóa doanh nghiệp. Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng giá trị công ty có thể được cải thiện bằng cách tăng các tự nguyện công bố thông tin (Barry và Brown, 1985; Fishman và Hagerty, 1989; Diamond và Verrecchia, 1991; Peters, Abbott và Parker, 2000). Vấn đề quản trị kém nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, các nhà nghiên cứu và các nhà đầu tư (Akhtaruddin, Hossain, Hossain, Yao, 2009; Akhtaruddin and Haron, 2010; Hussain Alkdai, 2012). Nhiều vụ bê bối của công ty xảy ra như là kết quả của quản trị kém và làm xói mòn niềm tin của chủ đầu tư. Một cơ chế quản trị doanh nghiệp để đảm bảo các công ty thực hiện các hành vi đạo đức và có trách nhiệm đối với đạo đức là Ủy ban kiểm toán. Vai trò của Ủy ban kiểm toán trong quản trị doanh nghiệp là một chủ đề của gia tăng sự quan tâm đến các quy định (Abbott, Parker và Peters, 2003). Ủy ban kiểm toán giúp nâng cao đạo đức công bố thông tin trong các doanh nghiệp và hiệu quả giám sát quản lý. Nghiên cứu này tập trung vào các Ủy ban kiểm toán vì hầu hết các công ty đã giao nhiệm vụ giám sát đạo đức cho ủy ban này. Như vậy, phận sự của Hội đồng quản trị, các nhà hoạch định chính sách và các nhà đầu tư là cho thấy tầm quan trọng của đặc điểm Ủy ban kiểm toán trong việc xác định đạo đức công bố thông tin của các công ty. Yuen, Liu, Zhang và Lu (2009) nhận thấy sự hiện diện của một Ủy ban kiểm toán có liên quan đáng kể đến mức tự nguyện công bố thông tin như cơ cấu hội đồng quản trị và lợi ích các bên liên quan trong khi Forker (1992) lập luận rằng Ủy ban kiểm toán là một trong những cơ chế giám sát hiệu quả nhất để nâng cao chất lượng công bố thông tin và hệ thống kiểm soát nội bộ trong khi giảm chi phí của Tổ chức. Hussain Alkdai (2012) cho biết trong khi nhiệm vụ và trách nhiệm của Ủy ban kiểm toán đối với báo cáo tài chính đã không thay đổi, thì thách thức là trong việc lựa chọn những người phù hợp để được vào ban kiểm toán. Tại Malaysia, hầu hết các công ty đại chúng niêm yết đã giao Ủy ban kiểm toán vai trò quan trọng là giám sát, phân tích, kiểm tra và tư vấn nhà quản lý, kiểm toán viên bên ngoài trong việc chuẩn bị báo cáo tài chính, thực hiện kiểm toán, và thực hiện hệ thống kiểm soát kế toán nội bộ (Liu và Sun, 2010 ). Trong đó, đặc điểm của Ủy ban kiểm như tính độc lập của Ủy ban kiểm toán, quy mô, tần suất các cuộc họp và chuyên môn là rất quan trọng để đảm bảo tính hiệu quả của các Ủy ban kiểm toán. Các nghiên cứu trước đó cho rằng các đặc điểm của Ủy ban kiểm toán là rất quan trọng để tác động đến các Ủy ban kiểm toán trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình chứ không chỉ duy trì một sự hiện diện (Abbott and Parker, 2000; Beasley, Carcello, Hermanson and Lapides, 2000; Carcello and Neal 2003; Raghunandan, Read and Rama, 2001). Do đó nghiên cứu này cố gắng kiểm tra xem các đặc điểm của Ủy ban kiểm toán có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến đạo đức công bố thông tin. Câu hỏi nghiên cứu sau đây là cơ sở cho nghiên cứu này; Có sự ảnh hưởng của đặc điểm Ủy ban kiểm toán đến đạo đức tự nguyện công bố thông tin không? Trong câu trả lời cho câu hỏi nghiên cứu, nghiên cứu này nhằm mục đích để kiểm tra ảnh hưởng của đặc điểm ủy ban kiểm toán đến đạo đức công bố thông tin. Giới thiệu này được xem xét trong hoàn cảnh thích hợp giữa ủy ban kiểm toán và công bố thông tin tự nguyện, cơ sở khái niệm và phát triển giả thuyết, phương pháp, phân tích và kết quả, thảo luận và kết luận cuối cùng. 2. Xem xét tài liệu liên quan. Có nghiên cứu cụ thể thực hiện về sự giới hạn trong đạo đức công bố thông tin. Theo Akhtaruddin et al. (2009), có rất ít nghiên cứu xem xét cơ chế quản trị doanh nghiệp với tự nguyện công bố thông tin. Persons (2009; 2010) đã chỉ ra một số nghiên cứu về đạo đức tự nguyện công bố thông tin với ủy ban kiểm toán và gian lận báo cáo tài chính tại các công ty ở Hoa Kỳ. Quy tắc đạo đức đại diện cho các giá trị và nguyên tắc được cung cấp bởi các công ty để đảm bảo rằng toàn bộ các tổ chức tuân thủ và thực hiện theo các quy tắc và hành động có đạo đức. Theo Marnburg (2000) và Preuss (2009), quy tắc đạo đức, chính sách đạo đức, hướng dẫn đạo đức, đạo đức kinh doanh, nguyên tắc hoạt động và báo cáo của thực tiễn kinh doanh và nguyên tắc, tất cả đều hướng đến quy tắc đạo đức. Hơn nữa, nó là một tiêu chuẩn, hướng dẫn hành vi chuyên nghiệp của nhân viên (Schwartz, 2001; Cleeck và Leonard, 1998), các nhà quản lý (Myers, 2003; Braswell; Foster và Poe, 2009) và cả các tổ chức (Marnburg, 2000; Schwartz, 2001). Quy tắc đạo đức cũng bao gồm các giá trị cốt lõi của công ty, hướng dẫn cho các vấn đề như mối quan hệ với khách hàng và nhà cung cấp, quan hệ lao động, thông tin bí mật, xung đột lợi ích, cạnh tranh và những người khác. Hơn nữa, dựa trên Preuss (2009), nghiên cứu bao gồm các trách nhiệm của công ty đối với các bên liên quan và / hoặc thực hiện kỳ vọng của công ty đối với nhân viên của mình. Quy tắc đạo đức theo quy định của Valentine và Barnett (2002) là một văn bản chính thức và bao gồm các chính sách định hướng về mặt đạo đức mà được miêu tả như là tiêu chuẩn đạo đức, giá trị cốt lõi và các hướng dẫn hoặc như một tuyên bố chung của các tổ chức đạo đức và bao gồm nguyên tắc nhất định đến hành vi của nhân viên (Pater và Gil, 2003). Các nhân tố thường xuyên nhất quyết định công bố thông tin tự nguyện là quy mô kiểm toán hoặc chất lượng kiểm toán (DeAngelo, 1981; Hashim và Mohd Saleh, 2007), đầu cơ (Hossain, Perera và Rahman, 1995; Hashim và Mohd Saleh, 2007), các loại hình công nghiệp (Cooke, 1989; Meek, Roberts và Gray, 1995; Watson, Shrives và Martson, 2002; Hashim và Mohd Saleh, 2007), lợi nhuận (Haniffa và Cooke, 2002; Hashim và Mohd Saleh, 2007), quy mô của công ty (Chow và Wong-Boren, 1987; Cooke, 1989;. Hossain et al, 1995;. Meek et al, 1995; Raffournier, 1995; Belkaoui năm 2001;. Watson et al, 2002; Hashim và Mohd Saleh, 2007), tập trung quyền sở hữu (Châu & Gray, 2002; Haniffa & Cooke, 2002; Mohd Ghazali & Weetman, 2006; Hashim và Mohd Saleh, 2007) và mức độ đa quốc gia hoặc quốc tế hóa (Cooke, 1989; Raffournier, 1995; Belkaoui, 2001; Hashim và Mohd Saleh, 2007). Nhiều các tài liệu về đặc điểm ủy ban kiểm toán tập trung vào các đặc điểm khác nhau và các biến khác nhau. Các nghiên cứu của Akhtaruddin et al. (2009) đã xác định mối quan hệ giữa tỷ lệ của các thành viên ủy ban kiểm toán trong tổng số thành viên trong hội đồng quản trị với mức độ công bố thông tin tự nguyện. Hayek và Hayek (2012) đã kiểm tra đặc điểm ủy ban kiểm toán (độc lập; chuyên môn về tài chính và cơ cấu bồi thường) có hiệu lực như thế nào vào nhận thức về đạo đức trong gian lận báo cáo tài chính. Zhou và Chen (2004) đã nghiên cứu mối liên quan giữa đặc điểm ban kiểm toán (chuyên môn quản trị, hội họp, quy mô, chuyên môn và độc lập tài chính) với thu nhập của quản lý thông qua các quy định rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, như các vấn đề có liên quan, có một vài nghiên cứu về mối quan hệ giữa các đặc điểm ban kiểm toán và công bố thông tin tự nguyện. Nghiên cứu này cho biết thêm bằng chứng mới về đặc điểm của ủy ban kiểm toán. Nó tập trung vào sáu đặc điểm của ủy ban kiểm toán là: ủy ban kiểm toán độc lập, chuyên môn, tần suất của các cuộc họp, quy mô, chức vụ và nhiệm kỳ của giám đốc. 3. Phát triển các giả thuyết. 3.1. Ủy ban kiểm toán độc lập. The Public Oversight Board (POB, 1994); Blue Ribbon Committee (BRC, 1999a), National Association of Corporate Directors (NACD, 1999) và Pricewaterhouse Coopers (2000) cho rằng chất lượng của ủy ban kiểm toán cao khi các thành viên độc lập và nó sẽ dẫn đến hiệu quả trong việc nâng cao uy tín của báo cáo tài chính. Theo Persons (2005) một người không có mối quan hệ tài chính và cá nhân với các công ty và điều hành công ty đó được gọi là thành viên ủy ban độc lập. Theo Persons (2005), khi ủy ban kiểm toán đảm bảo được tính độc lập thì gian lận ít có khả năng xảy ra. Klein (2002) phát hiện ra rằng có một mối quan hệ tiêu cực giữa ủy ban kiểm toán độc lập với hoạt động quản lý thu nhập. Nó cho thấy rằng một ủy ban kiểm toán độc lập có hiệu quả hơn trong việc kiểm soát quản lý các khoản thu nhập (Bedard, Chtourou và Courteau, 2004). Một nghiên cứu trước đó (Abbott et al, 2002;. 2004) phát hiện ra rằng có một mối liên hệ tiêu cực giữa ủy ban kiểm toán độc lập và gian lận báo cáo tài chính và sai sót trọng yếu. Persons (2009) nhấn mạnh rằng ủy ban kiểm toán độc lập là điều cần thiết trong việc đo lường hiệu quả của đạo đức công bố thông tin. Tuy nhiên, Bronson, Carcello và Raghunandan (2006) cho rằng ủy ban kiểm toán độc lập không có mối liên quan với mức độ hiệu quả của ủy ban kiểm toán. Dựa trên Persons (2005, 2009), nghiên cứu này mặc nhiên cho rằng một ủy ban kiểm toán độc lập ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả của quá trình thực hiện báo cáo tài chính, họ có thể thực hiện nhiệm vụ của mình có đạo đức và điều này sẽ dẫn đến đạo đức công bố thông tin. H1: Có mối quan hệ tích cực giữa ủy ban kiểm toán độc lập và đạo đức công bố thông tin. 3.2. Khả năng chuyên môn của thành viên ủy ban kiểm toán. The Public Oversight Board (POB, 1993) thấy rằng các thành viên ủy ban kiểm toán sẽ sẽ làm việc có hiệu quả hơn nếu tỷ lệ các thành viên có chuyên môn về kế toán, kiểm toán, kiểm soát nội bộ và các lĩnh vực về tài chính. The Malaysian Code of Corporate Governance (MCCG, 2002) cần ít nhất một thành viên của ủy ban kiểm toán có chuyên môn về kế toán hoặc chuyên môn về tài chính. Persons (2005) cho rằng kiến thức chuyên môn mà ủy ban kiểm toán không liên quan đến các gian lận xảy ra. Theo Defond, Hann và Hu (2005), công ty sẽ cải thiện quản trị doanh nghiệp của họ nếu các thành viên ủy ban kiểm toán có chuyên môn về tài chính trong thực hiện nhiệm vụ của họ. McMullen và Raghunanthan (1996) đã nêu trong nghiên cứu của họ rằng các vấn đề liên quan đến tài chính không có khả năng xảy ra tại các công ty kiểm toán nếu thành viên ủy ban kiểm toán công ty đó có chuyên môn về tài chính. Tuy nhiên, Hussain Alkdai (2012) nhấn mạnh rằng vai trò chuyên gia kế toán không liên quan nhiều trong việc giảm thiểu quản lý các khoản thu nhập. Theo Bedard et al. (2004) quản lý các khoản thu nhập có liên quan tiêu cực với chuyên môn thành viên ủy ban kiểm toán. Tương tự như vậy, Xie, Davidson và Dadalt (2003) và Felo, Krishnamurthy và Solieri (2003) cũng nhận thấy rằng có những phương pháp trích trước nhỏ hơn tùy ý khi các thành viên ủy ban kiểm toán có chuyên môn về tài chính. Persons (2009) đã đề cập rằng các thành viên độc lập của một ủy ban kiểm toán có chuyên môn về tài chính kế toán có nhiều khả năng để phát hiện bất kỳ sai sót trọng yếu về tài chính hay giao dịch kinh doanh không đúng bởi vì họ cần phải thực hiện theo quy tắc chuyên môn riêng của họ về đạo đức để duy trì danh tiếng của họ. Vì vậy, nghiên cứu này mặc nhiên cho rằng ủy ban kiểm toán có chuyên môn nên có hiệu quả hơn bởi vì anh ta hoặc cô ta sẽ theo dõi các công ty. Họ cũng có thể thực hiện nhiệm vụ của mình có đạo đức và sẽ dẫn đến đạo đức công bố thông tin. H2: Có một mối quan hệ tích cực giữa chuyên môn của các thành viên ủy ban kiểm toán và đạo đức tự nguyện công bố thông tin. 3.3: Tần suất các cuộc họp của ủy ban kiểm toán. Abdul Rahman , Mohamed Ali (2006), Mohd Saleh, Mohd Iskandar và Rahmat (2007) đã không đưa ra được bằng chứng cho thấy số lượng các cuộc họp ủy ban kiểm toán liên quan đến việc giảm số lượng của khoản trích trước tùy ý. Mặt khác, Raghunandan et al. 2001 nhấn mạnh rằng một ủy ban kiểm toán thường xuyên tổ chức các cuộc họp thì nhiều khả năng sẽ được thông báo đầy đủ hơn và hiểu biết về các vấn đề kế toán và kiểm toán hiện hành để thực hiện nhiệm vụ của mình. Tương tự như vậy, Abbott et al. (2003; 2004) với điều kiện là một ủy ban kiểm toán hàng năm tổ chức các cuộc họp tối thiểu bốn lần sẽ ít có khả năng kiểm tra lại báo cáo tài chính của họ. Persons (2009) nhận thấy rằng một ủy ban kiểm toán thường xuyên tổ chức các cuộc họp thì công ty đó nhiều khả năng sẽ hành động có đạo đức trong việc tự nguyện công bố thông tin. Khác hơn thế, Xie et al. (2003) nói rằng có một mối liên hệ tiêu cực giữa số lượng các cuộc họp và các khoản trích trước tùy ý. Dựa trên Persons (2009) and Xie et al. (2003) nghiên cứu này hy vọng tần suất các cuộc họp ủy ban kiểm toán có hiệu quả hơn trong việc kiểm tra, giám sát các công ty và sẽ dẫn đến đạo đức công bố thông tin. Vì vậy, giả thuyết sau đây được đề xuất: H3: Có một mối quan hệ tích cực giữa tần suất các cuộc họp của một ủy ban kiểm toán và đạo đức công bố thông tin. 3.4. Quy mô của ủy ban kiểm toán. MCCG (2012) nói rằng một ủy ban kiểm toán phải bao gồm ít nhất ba giám đốc. Các nghiên cứu trước đã cho thấy rằng một ủy ban kiểm toán có quy mô lớn sẽ dẫn đến cuộc tranh luận không cần thiết và sự chậm trễ trong việc đưa ra quyết định, cũng như giao tiếp kém và quá trình ra quyết định (Lin, Xiao và Tang, 2008; Steiner, 1972; Hackman, 1990). Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng một ủy ban kiểm toán có quy mô lớn có lợi cho đạo đức công bố thông tin vì khả năng một ủy ban kiểm toán sẽ bao gồm các thành viên có đạo đức cao hơn, người có thể ảnh hưởng đến đạo đức công bố thông tin (Persons, 2009). Các nghiên cứu trước (Dalton, Daily, Johnson và Ellstrand., 1999) phát hiện ra rằng có một mối quan hệ tích cực giữa quy mô và chức năng giám sát của hội đồng quản trị với kết quả làm việc hiệu suất cao hơn. Theo Yang và Krishnan (2005), có một mối liên hệ tiêu cực giữa quy mô ủy ban kiểm toán và quản lý các khoản thu nhập. Xie et al. (2003) và Hussain Alkdai (2012) nói rằng không có mối liên quan giữa quy mô của một ủy ban kiểm toán và các khoản trích trước tùy ý. Do đó, nghiên cứu này hy vọng rằng quy mô củaa ủy ban kiểm toán lớn hơn thì hiệu quả trong việc giám sát các công ty cũng lớn hơn và sẽ dẫn đến đạo đức công bố thông tin. Vì vậy, giả thuyết sau đây được đề xuất: H4: Có một mối quan hệ tích cực giữa quy mô ủy ban kiểm toán và đạo đức tự nguyện công bố thông tin. 3.5. Nhiệm kỳ của ủy ban kiểm toán. Các thành viên ủy ban kiểm toán có nhiệm kỳ dài sẽ dẫn đến hiệu suất cao hơn, hiệu quả, giám sát, kiến thức và kinh nghiệm để xử lý các hoạt động của công ty (Bedard et al, 2004;. Thoopsamut và Jiakengkit, 2009). SET (1999) nhấn mạnh rằng thời hạn phục vụ của các thành viên ủy ban kiểm toán phải được cố định và trang trải một thời hạn hợp lý từ 2-5 năm để đảm bảo sự ổn định của công việc của ủy ban kiểm toán. Persons (2005) cho rằng khi các thành viên ủy ban kiểm toán có nhiệm kỳ dài hơn, khả năng gian lận thấp. Yang và Krishan (2005) và Liu và Sun (2010) nói rằng có một mối quan hệ tiêu cực giữa nhiệm kỳ trung bình của các thành viên ủy ban kiểm toán với quản lý thu nhập. Như vậy, trong nghiên cứu này, nó được mặc nhiên công nhận rằng nhiệm kỳ của thành viên ủy ban kiểm toán dài hơn, thì hiệu quả trong việc giám sát các công ty cũng lớn hơn và sẽ dẫn đến đạo đức công bố thông tin. H5: Có một mối quan hệ tích cực giữa nhiệm kỳ của ban kiểm toán và đạo đức tự nguyện công bố thông tin. 3.6. Sự kiêm nhiệm nhiều chức vụ của các thành viên Ủy ban kiểm toán. Sự kiêm nhiệm mô tả các thành viên chấp hành các chỉ đạo trong nhiều hội đồng. Sự kiêm nhiệm đòi hỏi nhiều thời gian và nỗ lực để giám sát có hiệu quả công tác quản lý (Morck, Shleifcr và Vishny, 1988; Persons, 2005). Shivdasani và Yermack (1999) nói rằng các giám đốc kiêm nhiệm nhiều chức vụ có hiệu quả trong việc theo dõi quản lý. Core et al. (1999), Fich và Shivdasani (2006) và Liu và Sun (2010) tìm thấy rằng các giám đốc giữ quá nhiều chức vụ đã không có đủ thời gian và quá bận rộn để giám sát việc quản lý và điều này gây hiệu quả thấp trong việc theo dõi. Core, Holthausen và Larcker (1999) nói rằng các giám đốc kiêm nhiệm nhiều chức vụ sẽ không kiểm tra đầy đủ về quản lý. Vì vậy, trong nghiên cứu này, nó được mặc nhiên công nhận rằng sự kiêm nhiệm nhiều chức vụ bởi các thành viên ủy ban kiểm toán sẽ đẫn đến sự kém hiệu quả trong việc giám sát các công ty và có khả năng công ty sẽ làm giảm đạo đức trong công bố thông tin. H6: Có một mối quan hệ tiêu cực giữa sự kiêm nhiệm nhiều chức vụ của các thành viên ủy ban kiểm toán và đạo đức tự nguyện công bố thông tin. 4. Phương pháp nghiên cứu. Mẫu cho nghiên cứu này bao gồm 100 công ty niêm yết hàng đầu tại Bursa Malaysia. Danh sách 100 công ty hàng đầu thu được từ trang web của Bursa Malaysia. Các công ty được xếp hạng dựa trên vốn hóa thị trường. 100 công ty hàng đầu được chọn vì chúng đại diện cho các công ty niêm yết lớn nhất và, do đó, họ có nhiều khả năng báo cáo công bố thông tin tự nguyện hơn so với các công ty nhỏ hơn. Theo Persons (2011) rằng các công ty lớn có nhiều khả năng để áp dụng một quy tắc đạo đức hơn là một công ty nhỏ bởi vì nhiều khả năng các nhà đầu tư sẽ họ do thương hiệu nổi tiếng và thông tin công bố đầy đủ hơn. Sáu công ty được loại trừ khỏi các phân tích vì họ không có báo cáo hàng năm trong năm 2011 và mới được niêm yết. Như vậy, các mẫu cuối cùng thu được tổng cộng 94 công ty. Bảng 1 dưới đây tóm tắt các lựa chọn mẫu của công ty đại chúng niêm yết và phân loại chúng dựa trên các ngành công nghiệp của họ tương ứng. Nghiên cứu này sử dụng các báo cáo hàng năm và phân tích nội dung như là nguồn chính trong việc thu thập tất cả các thông tin có liên quan. Bảng 1: Danh sách các công ty trong mẫu được lựa chọn 4.1: Các biến. Nghiên cứu này sử dụng biến phụ thuộc là đạo đức tự nguyện công bố thông tin và các đặc điểm của ủy ban kiểm toán là biến độc lập. Việc đo lường các công ty có đạo đức công bố thông tin được dán nhãn là "1." Nếu công ty không có đạo đức công bố thông tin nó được dán nhãn là "0". 18 khía cạnh đạo đức công bố thông tin được sử dụng trong nghiên cứu này đã được chuyển thể từ Persons (2009). Theo Persons (2009), các khía cạnh là những khía cạnh thông thường về đạo đức công bố thông tin được công bố trong báo cáo thường niên của công ty đại chúng ở Hoa Kỳ. Biến độc lập bổ sung được sử dụng trong nghiên cứu này bao gồm các đặc điểm ban kiểm toán; ủy ban kiểm toán độc lập, chuyên môn ban kiểm toán, tần suất của các cuộc họp của một ủy ban kiểm toán, quy mô ban kiểm toán, nhiệm kỳ ủy ban kiểm toán và sự kiêm nhiệm nhiều chức vụ của các thành viên ủy ban kiểm toán. Các nghiên cứu trước tập trung vào một số đặc tính của một ủy ban kiểm toán. Ví dụ, Hayek và Hayek (2012) đã kiểm tra độc lập ủy ban kiểm toán và chuyên môn của một ủy ban kiểm toán. Ngoài ra, Xie et al. (2003) nghiên cứu về ủy ban kiểm toán độc lập, chuyên môn, quy mô và tần suất của cuộc họp. Hussain Alkdai (2012) chỉ được mô tả quy mô ủy ban kiểm toán, chuyên môn và độc lập. Một nghiên cứu được tiến hành bởi Bedard et al. (2004) đã kiểm tra ủy ban kiểm toán độc lập, chuyên môn và nhiệm kỳ của một ủy ban kiểm toán. Liu và Sun (2010) đã nghiên cứu nhiệm kỳ ủy ban kiểm toán và chức năng của một ủy ban kiểm toán. Do đó có thể suy ra rằng có những nghiên cứu hạn chế tập trung vào tất cả sáu đặc điểm ban kiểm toán. Vì vậy, nghiên cứu này đã chọn để kiểm tra tất cả sáu đặc tính cho các công ty. Các bản tóm tắt của các phép đo sử dụng được cung cấp trong bảng 2 như sau: Bảng 2: Đo lường biến độc lập và biến phụ thuộc. Trong nghiên cứu này, phân tích nội dung và phân tích hồi quy đa tuyến tính được sử dụng để giải quyết các câu hỏi nghiên cứu. Số liệu thu thập từ các báo cáo hàng năm sẽ được phân tích bằng cách sử dụng chỉ số tự nguyện công bố thông tin (Hashim và Mohd Saleh, 2007). Mối quan hệ giữa đạo đức tự nguyện công bố thông tin và đặc điểm ủy ban kiểm toán được phân tích bằng cách sử dụng phân tích hồi quy. Mô hình này là như sau: ĐẠO ĐỨC CÔNG BỐ THÔNG TIN= β0 + β1*INDAUD + β2*AUDACC + 5. Kết quả nghiên cứu và thảo luận. β3*AUDMET + β4*AUDSIZE + β5*AUDTEN + β6*DIRSHIP + ε Bảng 3: Bảng phân tích mô tả đạo đức tự nguyện công bố thông tin Bảng 3 trung bình tổng thể của đạo đức công bố thông tin là 0,65 cho thấy hầu hết các công ty có đạo đức trong công bố thông tin. 64,9% (61 công ty) các công ty thực hành đạo đức công bố thông tin, trong khi 35,1% (33 công ty) của các công ty thì không. Phần lớn các công ty (61 trong tổng số 94 tương đương 64.9%) tiết lộ rằng họ đã có văn bản quy tắc đạo đức và họ có một ủy ban giám sát trách nhiệm liên quan đến đạo đức. Một ủy ban như vậy là một ủy ban kiểm toán đối với hầu hết các công ty (61 trong tổng số 61, 100%). 13 trong số 94 công ty (13,8%) đã có một đạo đức công ty hoặc nhân viên thực hiện. Chỉ có ba trong số 94 công ty (3,2 %) xem xét đạo đức bằng cách thuê một giám đốc hoặc giám đốc điều hành. Không ai trong số các công ty chấp hành bồi thường cho hành vi đạo đức của công ty. 39 trong số 94 (41,5%) các công ty có đào tạo về đạo đức cho nhân viên hoặc yêu cầu nhân viên của họ ký một lá thư xác nhận rằng họ đã đọc và sẽ tuân thủ các quy tắc đạo đức. Trong số 12 lĩnh vực đạo đức, ba công bố thông tin đầu tiên là phù hợp với luật pháp và các quy định hiện hành (60 trong 94 công ty, 63,8%). Nó phù hợp với các nghiên cứu của Persons (2009) rằng việc tuân thủ pháp luật là hành động đạo đức nhất trong việc công bố thông tin của các công ty. Tiếp theo là báo cáo của kế toán và khiếu nại hành vi bất hợp pháp (51 trong số 94 công ty, 54,3%) và xung đột về lợi ích giữa các mối quan hệ cá nhân và tổ chức (49 trong số 94 công ty, 52,1%). Những kết quả thể hiện rằng mặc dù hầu hết các công ty nói rằng họ đã có văn bản quy tắc ứng xử và đạo đức kinh doanh đã nêu trong báo cáo hàng năm hoặc trang web của họ, tuy nhiên đa số họ đã không tiết lộ chi tiết về các lĩnh vực áp dụng đạo đức (Persons, 2009). Việc duy trì các ghi nhận công ty chính xác được gắn với giao tiếp với công chúng (44 trong số 94 công ty, 46,8%). Ngoài ra, 42 trong số 94 (44,7 %) các công ty tiết lộ về việc xử lý các thông tin bí mật. 34 trong số 94 (36,2 %) các công ty tiết lộ các khu vực đạo đức về việc sử dụng tài sản công ty. Không có công ty nào đề cập về việc chống gia đình trị. Lĩnh vực đạo đức khác được tiết lộ bởi các công ty là hối lộ thương mại (37 trong 94 công ty, 39,4 %), cạnh tranh và giao dịch công bằng (25 trong số 94 công ty, 26,6 %), giao dịch nội gián cổ phiếu của công ty (24 trong số 94 công ty, 25,5 %) và biện pháp kỷ luật đối với hành vi sai phạm quy định (35 trong số 94 công ty, 37,2%). 5.1. Phân tích mô tả đặc điểm ban kiểm toán. Các đặc điểm ủy ban kiểm toán bao gồm các ủy ban kiểm toán độc lập, chuyên môn, tần suất của các cuộc họp, quy mô, nhiệm kỳ và sự kiêm nhiệm của các thành viên ủy ban kiểm toán. Bảng 4 cho thấy điểm trung bình của các kiểm toán viên ủy ban độc lập là 87.05% (SD = 0,14318). Kết quả cho thấy điểm trung bình ủy ban kiểm toán với chuyên môn về tài chính là 39,83% (SD = 0,20989). Điểm trung bình của tần suất cuộc họp ủy ban kiểm toán là 5-6 lần (5.60) một năm. Điểm trung bình của quy mô ủy ban kiểm toán là 3-4 thành viên (3,64). Điểm trung bình của nhiệm kỳ ủy ban kiểm toán là bảy năm (7.17). Trong khi đó, điểm số trung bình của sự kiêm nhiệm các thành viên ủy ban kiểm toán là ba (3,09). Kết quả này chỉ ra rằng các thành viên ủy ban kiểm toán kiêm nhiệm hơn 3 nhiệm vụ cho mỗi công ty. Bảng 4: Bảng phân tích mô tả đặc điểm của ủy ban kiểm toán. 5.2: Hệ số tương quan. Phân tích mối tương quan được sử dụng như là một thử nghiệm sơ bộ để đo lường mối quan hệ giữa các biến và độ mạnh của các biến trong sự liên kết (Pallant, 2001). Từ Bảng 5, chỉ có các mối quan hệ có ý nghĩa tiêu cực có thể được nhìn thấy giữa độc lập ủy ban kiểm toán và quy mô ban kiểm toán (27,6 %). Hơn nữa, đó là mối quan hệ có ý nghĩa tích cực giữa độc lập ủy ban kiểm toán và nhiệm kỳ ủy ban kiểm toán (21 %). Ngoài ra, mối quan hệ có ý nghĩa tiêu cực tồn tại giữa chuyên môn của các thành viên ủy ban kiểm toán và quy mô ban kiểm toán (26,9%). Lớn hơn là quy mô của ủy ban kiểm toán, thấp hơn là sự độc lập ủy ban kiểm toán. Lớn hơn các nhiệm kỳ ủy ban kiểm toán, thấp hơn là sự độc lập ủy ban kiểm toán. Tiếp theo, lớn hơn là quy mô ban kiểm toán, thấp hơn là chuyên môn của các thành viên ủy ban kiểm toán. Bảng 5: phân tích mối quan hệ tương quan. 5.3: Hồi quy đa biến. Phân tích hồi quy giúp trong việc dự đoán mối quan hệ giữa hai biến phụ thuộc và độc lập (Pallant, 2001). Các xét nghiệm được sử dụng bao gồm F-test, hệ số xác định và thử nghiệm trên các hệ số hồi quy. Bảng 6: phân tích hồi quy tuyến tính đa biến. Bảng 6 báo cáo về phân tích hồi quy tuyến tích đa biến cho tất cả các công ty trong mẫu. Giá trị R-squared (R2) chỉ ra tỷ lệ phần trăm của các biến có thể được giải thích bằng mô hình hồi quy vào nhóm các biến số (Field, 2009). Trong nghiên cứu này, các giá trị của R2 là 0,202. Như vậy, kết quả thống kê cho thấy rằng 20,2% của những thay đổi trong đạo đức tự nguyện công bố thông tin được giải thích bởi sự biến đổi của các đặc tính ban kiểm toán (Ủy ban kiểm toán độc lập, chuyên môn của thành viên Ủy ban kiểm toán, Ủy ban Kiểm toán, tần suất cuộc họp Ủy ban Kiểm toán, Quy mô Ủy ban Kiểm toán, nhiệm kỳ và sự kiêm nhiệm của thành viên Ủy ban Kiểm toán). Theo Field (2009), điều chỉnh R-squared (R2) có thể được giải thích như giá trị của phương sai trong các kết quả mà các mô hình giải thích trong dân số. Ngoài ra, giá trị điều chỉnh R2 bằng 0,147 chỉ ra rằng, trên cơ sở điều chỉnh, các biến độc lập có liên quan 14,7% đến đạo đức tự nguyện công bố thông tin. Giá trị F-statistics bằng 3,678 cho thấy một mối quan hệ đáng kể giữa tất cả các biến độc lập và đạo đức tự nguyện công bố thông tin. Hơn nữa, các giá trị Durbin- Watson bằng 1,909 cho cho thấy rằng không có sự tự tương quan, do đó cho thấy sự độc lập dữ liệu giữa các biến độc lập với đạo đức tự nguyện công bố thông tin. Các kết quả cho thấy tất cả các biến độc lập không liên quan và không có ảnh hưởng đến kết quả phân tích. Trong nghiên cứu này, giả thuyết H1 được đề xuất để kiểm tra xem có một mối quan hệ tích cực giữa độc lập ủy ban kiểm toán và đạo đức tự nguyện công bố thông tin. Kết quả cho thấy rằng, đối với giả thuyết H1, ủy ban kiểm toán độc lập không có mối quan hệ tích cực với đạo đức tự nguyện tiết lộ nơi t-value với ủy ban kiểm toán độc lập là 0,886 với p-value bằng 0,378. Điều này chỉ ra rằng mặc dù các ủy ban kiểm toán có hiệu quả và độc lập, nó không đảm bảo rằng các công ty sẽ có đạo đức tự nguyện tiết lộ công bố thông tin. Do đó, các giả thuyết H1 bị từ chối vì nó có thể kết luận rằng ủy ban kiểm toán độc lập đã không có ảnh hưởng đến đạo đức công bố thông tin tự nguyện. Tương tự như vậy, kết quả chứng minh rằng chuyên môn của các thành viên ủy ban kiểm toán không có mối quan hệ tích cực với đạo đức tự nguyện công bố thông tin nơi mà t- value cho chuyên môn của các thành viên ủy ban kiểm toán là 0,619 và p-value là 0,538. Kết quả cho thấy khi ủy ban kiểm toán có chuyên môn về tài chính; nó không đảm bảo đạo đức công bố thông tin trong những công ty do các thành viên ủy ban kiểm toán chính mình do đó không giữ đạo đức trong việc thực hiện trách nhiệm của mình. Như vậy, giả thuyết H2 là bị từ chối và kết quả là, nó cho thấy rằng chuyên môn của thành viên ủy ban kiểm toán không có ảnh hưởng về đạo đức tự nguyện công bố thông tin. Những phát hiện từ nghiên cứu cho thấy rằng tần suất các cuộc họp của ủy ban kiểm toán không có mối quan hệ tích cực đáng kể với đạo đức tự nguyện công bố thông tin nơi t-value với tần suất của cuộc họp là 1,241 và p-value là 0,218. Menon và Williams (1994) thấy rằng số lượng các cuộc họp không cung cấp bất kỳ bằng chứng về việc hoàn thành công việc. Như vậy, giả thuyết H3 cũng bị từ chối, với kết luận rằng tần suất các cuộc họp của ủy ban kiểm toán không có ảnh hưởng đến đạo đức công bố thông tin tự nguyện. Ngược lại, phân tích các dữ liệu cho thấy rằng không có mối quan hệ tích cực giữa quy mô ban kiểm toán và đạo đức tự nguyện công bố thông tin nơi t-value so với quy mô ủy ban kiểm toán là 1,383 và p-value là 0,170. Phát hiện này hỗ trợ các đối số của Lin et al. (2008); Steiner (1972) và Hackman (1990), người phát hiện ra rằng ủy ban kiểm toán quy mô lớn hơn sẽ chỉ dẫn đến cuộc tranh luận không cần thiết và sự chậm trễ trong việc đưa ra quyết định cũng như giao tiếp kém trong quá trình ra quyết định. Điều này chỉ ra rằng mặc dù quy mô ban kiểm toán là nhỏ hay lớn, nó không ảnh hưởng mức độ đạo đức tự nguyện công bố thông tin trong công ty. Nó có thể được liên kết với các quyết định và ảnh hưởng từ ban giám đốc để thực hiện công bố thông tin như vậy hay không. Do đó, giả thuyết H4 bị từ chối, nơi nó có thể được kết luận rằng quy mô ban kiểm toán không có ảnh hưởng đến đạo đức công bố thông tin tự nguyện. Có một mối quan hệ tích cực giữa nhiệm kỳ của ủy ban kiểm toán và đạo đức tự nguyện công bố thông tin nơi t-value so với nhiệm kỳ thành viên ủy ban kiểm toán là 1,980 và p-value là 0.051. Các nghiên cứu của Bedard et al. (2004) và Thoopsamut và Jiakengkit (2009) nhận thấy rằng khi các thành viên của một ủy ban kiểm toán có nhiệm kỳ dài hơn, nó sẽ dẫn đến hiệu suất và hiệu quả của các ủy ban cao hơn. Như vậy, giả thuyết H5 được chấp nhận và có thể kết luận rằng nhiệm kỳ của Ban kiểm toán có ảnh hưởng về đạo đức công bố thông tin tự nguyện. Kết quả cho thấy rằng có mối quan hệ tiêu cực giữa sự kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ của các thành viên ủy ban kiểm toán và đạo đức tự nguyện công bố thông tin với tvalue so sự kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ của các thành viên ủy ban kiểm toán là 2,997 và p-value là 0.004. Điều này cho thấy rằng khi các thành viên ủy ban kiểm toán giữ quá nhiều nhiệm vụ trong các công ty khác, nó sẽ cung cấp cho tác động tiêu cực về hiệu quả của họ trong việc theo dõi quản lý. Kết quả là phù hợp với những phát hiện của Core et al. (1999); Fich và Shivdasani (2006) và Liu và Sun (2010). Họ phát hiện ra rằng các giám đốc giữ quá nhiều nhiệm vụ đã quá bận rộn để theo dõi quản lý. Do đó, giả thuyết H6 được chấp nhận là nó có thể kết luận rằng sự kiêm nhiệm của các thành viên ủy ban kiểm toán có thể yêu cầu thêm thời gian, sự chú ý nhiều hơn và nỗ lực trong việc quản lý nhiệm vụ của mình và điều này sẽ dẫn đến ít đạo đức tự nguyện công bố thông tin. 6. Kết luận Nghiên cứu này xem xét ảnh hưởng của các đặc điểm của ủy ban kiểm toán đến đạo đức tự nguyện công bố thông tin. Những phát hiện từ nghiên cứu bác bỏ giả thuyết H1 có nghĩa rằng không có mối quan hệ tích cực đáng kể giữa ủy ban kiểm toán độc lập và đạo đức tự nguyện công bố thông tin. Các nghiên cứu cũng bác bỏ giả thuyết H2 mà tuyên bố rằng không có mối quan hệ tích cực giữa chuyên môn của các thành viên ủy ban kiểm toán và đạo đức tự nguyện công bố thông tin. Giả thuyết H3 cũng bị từ chối. Do đó không có mối quan hệ tích cực giữa tần suất các cuộc họp của ủy ban kiểm toán và đạo đức tự nguyện công bố thông tin. Các nghiên cứu đã bác bỏ giả thuyết H4 là không có mối quan hệ tích cực giữa quy mô ban kiểm toán và đạo đức tự nguyện công bố thông tin. Giả thuyết H5 được chấp nhận cho thấy có một mối quan hệ tích cực giữa nhiệm kỳ của thành viên ủy ban kiểm toán và đạo đức tự nguyện công bố thông tin. Cuối cùng, giả thuyết H6 được chấp nhận, điều đó có nghĩa là một mối quan hệ tiêu cực giữa sự kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ của các thành viên ủy ban kiểm toán và đạo đức tự nguyện công bố thông tin. Một cuộc khảo sát được thực hiện bởi Korn / Ferry International (1998) nhấn mạnh các thành viên có nhiều sự kiêm nhiệm cần nhiều thời gian và sự chú ý, vì vậy nó ảnh hưởng đến khả năng của họ để theo dõi quản lý. Hơn nữa, người (năm 2005) đã phỏng đoán rằng khả năng gian lận thấp khi các thành viên ủy ban kiểm toán ít có sự kiêm nhiệm hơn. Như vậy, có khả năng là các thành viên ủy ban kiểm toán với sự kiêm nhiệm sẽ dẫn đến ít đạo đức trong công bố thông tin.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan