1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong nền văn học Trung Quốc, Lỗ Tấn là nhà tư tưởng của cách mạng,
nhà văn nghệ mở đầu cho cả một thời đại, là nhà khoa học lịch sử thực sự cầu thị,
nhà giáo dục gương mẫu, là người quốc tế chủ nghĩa thiết tha mong nhân loại được
giải phóng. Thành tựu mọi mặt đều có thể khiến Lỗ Tấn trở nên bất hủ và dường
như những thành tựu của ông kết hợp một cách hài hòa với nhau, kết tinh thành một
nhà văn hóa lớn của dân tộc. Không nghi ngờ gì nữa, ảnh hưởng của ông ngày càng
rộng, càng sâu.
Trong văn học thế giới, đạt được một địa vị vinh quang như Lỗ Tấn quả không
nhiều. Lỗ Tấn được coi là người đặt nền móng cho nền văn học mới, là người tiên
phong, mở đường trong việc hiện đại hóa nền văn học Trung Quốc. Với hai tập
truyện ngắn Gào thét và Bàng hoàng, Lỗ Tấn đã xác lập cho mình một vị trí quan
trọng trong nền văn học hiện đại. “Không có Gào thét, Bàng hoàng của Lỗ Tấn, thì
sẽ không có bước vững chắc nhất trong giai đoạn thứ nhất trên hành trình hiện đại
hóa tiểu thuyết Trung Quốc, tiểu thuyết Lỗ Tấn có ý nghĩa vạch thời đại trên lịch sử
văn học Trung Quốc đã được thể hiện ở đó”[90 ;117].
Lỗ Tấn có một vị trí quan trọng trong nền văn học thế giới. Trong thập niên 20
của thế kỷ XX, những tiểu thuyết của Trung Quốc được người nước ngoài dịch ra
hầu hết là tác phấm của Lỗ Tấn. Hiện nay, hầu như các nước trên thế giới đều đã
dịch AQ chính truyện. Tác phẩm của Lỗ Tấn đã được dịch sang hơn 12 thứ tiếng
trên thế giới như: Nga, Nhật, Đức, Tây Ban Nha, Triều Tiên, A- rập, Thái Lan... Ơ
Việt Nam, năm 1944, tác phẩm Lỗ Tấn đã đựợc GS. Đặng Thai Mai dịch và giới
thiệu đến bạn đọc qua tập tiểu luận Lỗ Tấn, thân thế văn nghệ do nhà xuất bản Thời
đại ấn hành. Từ đó đến nay, nghiên cứu về Lỗ Tấn đã đạt được những thành tựu lớn
với nhiều chuyên luận như: Lỗ Tấn, thân thế văn nghệ (Đặng Thai Mai, Nxb Thời
đại năm 1944), Lỗ Tấn chủ tướng của cách mạng văn hoá Trung Quốc (Lê Xuân
Vũ, Nxb 1958), Lỗ Tấn nhà lý luận văn học (Phương Lựu, Nxb Đại học và THCN,
1977)… Ngoài ra, nhiều nhà nghiên cứu cũng chọn Lỗ Tấn làm đề tài tốt nghiệp
tiến sỹ, thạc sỹ của mình, tiêu biểu là các luận án tiến sỹ Thi pháp truyện ngắn Lỗ
Tấn (Lê Huy Tiêu, 1988), Nhân vật trong truyện ngắn Lỗ Tấn (Trần Lê Hoa Tranh,
2006), Nghệ thuật tự sự của Lỗ Tấn qua hai tập truyện ngắn “Gào thét” và “Bàng
hoàng” (Nguyễn Thị Mai Chanh, 2008). Cùng với các chuyên luận, luận án tiến sỹ
là các bài viết đăng trên các tạp chí uy tín cũng như nhiều luận văn thạc sỹ trong các
trường đại học có khoa Ngữ văn hoặc khoa Ngôn ngữ và văn hoá Trung Quốc. Điều
2
này chứng tỏ Lỗ Tấn có một sức hút lớn đối với độc giả Việt Nam.
1.2. Nam Cao là một nhà văn hiện thực có vị trí quan trọng trong văn học Việt
Nam giai đoạn 1930-1945, đặc biệt là trong trào lưu văn học hiện thực phê phán.
“Tác phẩm của Nam Cao phần lớn ra đời trong những năm chiến tranh thế giới lần
thứ hai, đánh dấu bước phát triển của trào lưu văn học hiện thực phê phán trong một
thời kỳ tưởng chừng như bế tắc”[58; 471]. Sáng tác của ông đã vượt qua được
những thử thách khắc nghiệt của thời gian, đúng như một nhà nghiên cứu nhận xét
"càng thử thách lại càng ngời sáng". Thời gian càng lùi xa, tác phẩm của Nam Cao
cùng tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp của nghệ thuật điêu luyện, độc đáo càng
chứng minh được sức mạnh nghệ thuật to lớn của nó.
Gần nửa thế kỷ qua, con người và tác phẩm của Nam Cao đã thu hút sự chú ý
của các nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình, cùng với một khối lượng độc giả tương
đối lớn. Có thể nói, Nam Cao là một trong số những nhà văn lớn của thế kỷ XX
được nghiên cứu nhiều nhất và đạt thành tựu rực rỡ nhất tại Việt Nam với hơn 200
công trình nghiên cứu lớn nhỏ.
1.3. Như vậy, Lỗ Tấn và Nam Cao là những nhà văn có vị trí quan trọng trong
nền văn học hiện đại Trung Quốc và Việt Nam. Tìm hiểu văn xuôi tự sự Trung
Quốc và Việt Nam, không thể không nghiên cứu sáng tác của hai cây bút bậc thầy
này. Sáng tác của Lỗ Tấn và Nam Cao, từ đề tài, chủ đề, tư tưởng đến hình thức
nghệ thuật, có những nét tương đồng, và tất nhiên cũng có nhiều điểm khác biệt cơ
bản, tạo nên phong cách nghệ thuật của mỗi nhà văn. Lựa chọn đề tài So sánh văn
xuôi tự sự của Lỗ Tấn và Nam Cao, chúng tôi mong muốn được góp phần tìm hiểu
sâu hơn giá trị tư tưởng, nghệ thuật sáng tác của mỗi nhà văn, qua đó, nhận thức đầy
đủ và sâu sắc hơn những cống hiến vẻ vang của họ đối với tiến trình lịch sử của mỗi
dân tộc. Chúng tôi hy vọng, qua việc khám phá những nét tương đồng và những sác
thái khác nhau của văn xuôi Lỗ Tấn và Nam Cao, có thể đưa Nam Cao đến gần hơn
với đọc giả Trung Quốc cũng như giúp độc giả Việt Nam có có thể biết thêm nhiều
hơn nữa về nhà văn bậc thầy Lỗ Tấn của Trung Quốc. Đây cũng là việc làm thiết
thực để chúng tôi có thể giảng dạy tốt hơn văn học Việt Nam, góp phần giữ gìn và
phát triển tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt Nam và Trung Quốc.
1. Lịch sử vấn đề
Vấn đề nghiên cứu Lỗ Tấn và Nam Cao đã được các nhà nghiên cứu Trung
Quốc và Việt Nam nghiên cứu tương đối hệ thống qua hàng trăm, hàng ngàn công
trình có uy tín. Tuy nhiên, theo tài liệu mà chúng tôi có được, việc so sánh Lỗ Tấn
và Nam Cao chỉ xuất hiện qua một vài bài báo có tính chất đơn lẻ hoặc một vài luận
văn tốt nghiệp đại học, thạc sỹ ở Việt Nam. Ơ Trung Quốc chưa có công trình
3
nghiên cứu so sánh nào về hai nhà văn này. Có thể kể ra đây công trình của Phạm
Tú Châu với bài viết Đôi điều so sánh giữa Chí Phèo và AQ đăng trên Tạp chí văn
học số 1 năm 1992. Trong bài viết này, nhà nghiên cứu đã chỉ ra một vài điểm
tương đồng và khác biệt ở hai nhân vật bất hủ của hai nền văn học. Qua việc phân
tích hai nhân vật AQ và Chí Phèo, Phạm Tú Châu đi đến nhận định: “Lỗ Tấn và
Nam Cao cùng cho thấy hành động phản kháng của cả hai nhân vật đều chưa được
ánh sáng của trí tuệ, của lý tính soi rọi, chỉ là những cơn cảm tính bốc hoả lên đầu,
những xung động thần kinh, cho nên không nhằm một mục đích nào lớn hơn là
miếng ăn, rượu uống hàng ngày cho riêng mình”[18; 46]. Nhà nghiên cứu cũng lí
giải về sự xuất hiện của hai nhân vật này là mang tính tất yếu: “Trong một xã hội
nào cũng vậy, hễ có AQ ắt có Chí Phèo và ngược lại. Hai tính cách tưởng như đối
lập này lại thống nhất với nhau, bổ sung cho nhau khiến cho bức tranh về xã hội
nông thôn sản xuất nhỏ và thành thị nông thôn cũng dạng như thế thêm sinh động,
phong phú”[18; 47]. Bài nghiên cứu nhìn chung đã chỉ ra được những nét cơ bản
nhất về hai nhân vật bất hủ AQ và Chí Phèo. Chúng tôi sẽ trở lại bài viết này trong
quá trình triển khai luận án. Trong chuyên luận Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, Trần
Đăng Suyền viết: “Vẫn còn tồn tại ý kiến cho rằng Chí Phèo được viết dưới ảnh
hưởng của A.Q.chính truyện. Song, trong thực tế, khi Nam Cao viết Chí Phèo
(1941) thì thiên truyện vừa nổi tiếng của Lỗ Tấn chưa được dịch ra tiếng Việt. Và
Nam Cao, theo sự làm chứng của Tô Hoài – người bạn thân thiết, gần gũi của ông –
còn chưa biết tới tác phẩm đó. Nhưng sự gần gũi giống nhau về loại hình của hai tác
phẩm được nảy sinh từ những hoàn cảnh lịch sử xã hội giống nhau, từ những xung
đột cuộc sống có phần tương tự như nhau là không thể nghi ngờ. Trong những tác
phẩm viết về nông dân,Chí Phèo là một hiện tượng nổi bật, kết tinh tư tưởng và tài
năng nghệ thuật của Nam cao, xứng đáng là một kiệt tác trong nền văn xuôi hiện đại
Việt Nam”[83,153-154]. Luận văn thạc sỹ của Trần Lê Hoa Tranh với đề tài Tìm
hiểu những điểm tương đồng và dị biệt về mặt thi pháp nhân vật phụ nữ trong
truyện Lỗ Tấn và Nam Cao (Đại học KHXH và Nhân văn Tp Hồ Chí Minh năm
1998) là một công trình nghiên cứu dày dặn nhưng cũng chỉ dừng lại ở việc so sánh
thi pháp nhân vật phụ nữ. Nhìn chung, giới nghiên cứu Việt Nam thừa nhận truyện
ngắn của Lỗ Tấn và Nam Cao có sự tương đồng rất lớn nhưng chưa có công trình
nào nghiên cứu một cách hệ thống. Đó chính là không gian của Luận án của chúng
tôi.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Bản luận án của chúng tôi đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
- Nêu những nét khái quát về bối cảnh của nền văn học hiện đại Trung Quốc và
4
Việt Nam để làm rõ cơ sở xuất hiện các nhà văn Lỗ Tấn (Trung Quốc) và Nam Cao
(Việt Nam); chỉ ra sự tương đồng và cả sự khác biệt về vị trí, tầm vóc của từng nhà
văn đối với nền văn học hiện đại của mỗi dân tộc.
- Trên cơ sở phân tích các sáng tác cụ thể, luận án tập trung vào việc chỉ ra các
điểm giống và khác nhau trong sáng tác của Lỗ Tấn và Nam Cao về phương diện
nội dung và phương diện nghệ thuật; đồng thời, lý giải vì sao lại có sự giống nhau
và khác nhau như vậy.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Do mục tiêu của luận án, ở công trình này, chúng tôi chỉ tập trung vào việc so
sánh sáng tác của Lỗ Tấn và Nam Cao qua truyện ngắn và truyện vừa. Cụ thể là,
qua các tập Gào thét, Bàng hoàng của Lỗ Tấn với tổng cộng 25 truyện và toàn bộ
truyện ngắn của Nam Cao trước cách mạng tháng Tám năm 1945.
Ngoài ra, để có được cái nhìn toàn diện về sự nghiệp sáng tác của Lỗ Tấn và
Nam Cao cũng như thấy rõ được tính đa dạng, phong phú của các trào lưu văn học
hiện thực Trung Quốc và Việt Nam, luận án cũng tiến hành so sánh, đối chiếu với
một số tác phẩm cùng thời của những nhà văn Trung Quốc và Việt Nam khác.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được hiệu quả cao trong triển khai đề tài, luận án của chúng tôi sử dụng
phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp so sánh lịch sử - loại hình: Đây là phương pháp sử dụng nhiều
nhất và phù hợp nhất trong việc so sánh Lỗ Tấn và Nam Cao. Vận dụng phương
pháp nghiên cứu này, chúng tôi sẽ đặt sáng tác của hai nhà văn trong bối cảnh lịch
sử xã hội hai nhà văn sinh sống, vào sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa hiện
thực trong tiến trình văn học Trung Quốc và văn học Việt Nam. Từ đó giúp người
viết có thể tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt trong sáng tác của hai nhà
văn này.
- Phương pháp phân tích – tổng hợp: Phương pháp này được dùng để phân tích
các dẫn chứng, từ đó, tổng hợp, khái quát thành các luận điểm, luận cứ. Việc so
sánh sáng tác của Lỗ Tấn và Nam Cao được nghiên cứu trên nhiều phương diện, từ
nội dung đến hình thức. Vì vậy, cần đi sâu phân tích từng phương diện đó, đồng
thời, cũng cần phải có sự tổng hợp khái quát hóa để có nhận xét tổng quát về nó, để
chỉ ra những vấn đề tương đồng và dị biệt về mặt thi pháp sáng tác của hai nhà văn.
- Phương pháp hệ thống: Sáng tác của Lỗ Tấn và Nam Cao, được nhìn nhận
như những hệ thống, được cấu trúc bởi nhiều yếu tố có mối quan hệ chặt chẽ, tương
hỗ lẫn nhau. Vì vậy, so sánh sáng tác của hai nhà văn này không thể không vận
dụng phương pháp hệ thống. Những vấn đề cụ thể trong sang tác của hai nhà văn
5
này được triển khai trong luận án vì vậy luôn được đặt trong mối quan hệ hệ thống.
6. Đóng góp mới của luận án
Luận án chính là công trình đầu tiên đặt ra vấn đề so sánh một cách hệ thống về
sáng tác của hai nhà văn: Lỗ Tấn và Nam Cao. Trên cơ sở bối cảnh của hai nền văn
học hiện đại Trung Quốc và Việt Nam, thông qua việc phân tích các sáng tác cụ thể
của hai nhà văn, bản luận án đã chỉ ra, đồng thời có những kiến giải về sự giống và
khác nhau ở các phương diện nội dung và nghệ thuật trong sáng tác của hai nhà văn.
Luận án cũng góp phần làm phong phú thêm lịch sử nghiên cứu Lỗ Tấn và Nam
Cao, đặc biệt ở lĩnh vực văn học so sánh, có ý nghĩa quan trọng đối với việc giao
lưu văn học, văn hóa giữa hai quốc gia. Qua đó, luận án cũng góp phần thiết thực
vào việc tìm hiểu nền văn học hiện đại của Trung Quốc và Việt Nam, vun đắp và
củng cố tình hữu nghị giữa hai dân tộc.
7. Cấu trúc của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo, Luận án của chúng tôi
gồm 3 chương:
Chương 1: Sáng tác của Lỗ Tấn và Nam Cao trong bối cảnh nền văn học hiện
đại Trung Quốc và Việt Nam
Chương 2: Nội dung tư tưởng của văn xuôi tự sự Lỗ Tấn và Nam Cao
Chương 3: Hình thức nghệ thuật của văn xuôi tự sự Lỗ Tấn và Nam Cao
6
Chương 1
SÁNG TÁC CỦA LỖ TẤN VÀ NAM CAO
TRONG BỐI CẢNH NỀN VĂN HỌC HIỆN ĐẠI
TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM
1.1. Khái quát tình hình văn học hiện đại Trung Quốc từ 1919 đến 1949 và văn
học hiện đại Việt Nam từ 1900 đến 1945
1.1.1 .Bối cảnh chung
Có thể nói, trước thế kỉ XX, chưa từng có một nền văn học nào như văn học
phương Tây đã va đập vào văn học của Trung Quốc mạnh như vậy, và có sự ảnh
hưởng tới mức không có chỗ nào là không len lỏi vào. Cho đến nay, văn học của
các nước thế giới vẫn đang chịu sự ảnh hưởng của văn học Âu Mỹ. Nhà văn Trung
Quốc vẫn tự giác hoặc không tự giác, trực tiếp và gián tiếp tiếp nhận văn học
phương Tây.
Khi đại bác của các cường quốc mở ra cánh cửa Trung Quốc, văn học không thể
không chịu sự ảnh hưởng của văn học phương Tây, nhất là cánh cửa rộng mở như
văn học cách mạng “Ngũ Tứ”, văn học phương Tây đã như những trận hồng thủy
tràn vào văn học truyền thống Trung Quốc. Văn học cách mạng “Ngũ Tứ” mạnh
dạn tiếp thu văn học phương Tây, lấy tiếng nói không ôn hòa của văn học phương
Tây đối lập, phủ nhận tiếng nói ôn hòa của truyền thống Trung Quốc (Lỗ Tấn).
Dưới ảnh hưởng của văn học nước ngoài, văn học hiện đại Trung Quốc phát
triển mạnh mẽ. Sự ảnh hưởng này to lớn và sâu sắc từ lý luận đến sáng tác và khắp
các lĩnh vực như: thơ ca, tiểu thuyết, kịch, tản văn và phong trào văn học, đến cả
tuyệt đại đa số tác gia, thậm chí mấy thế hệ tác gia và hơn nữa, xuyên suốt các thời
kỳ của lịch sử văn học hiện đại Trung Quốc.
Mác có nói: “Trình độ thực hiện của lí luận ở một quốc gia, quyết định vào lí
luận đã thỏa mãn trình độ nhu cầu của quốc gia này” . Khi phong trào văn học hiện
đại Trung Quốc bùng nổ, Trung Quốc đã rơi vào một xã hội nửa phong kiến nửa
thuộc địa, cách mạng Tân Hợi đã tuyên cáo thất bại, xã hội sa đọa thối nát, cần tiến
hành sự cải tạo triệt để. Trung Quốc đang nằm trong cái nôi lịch sử của cách mạng
chủ nghĩa dân chủ mới và cũ. Trào lưu tư tưởng và văn học của nó lấy hạt nhân là tự
do dân chủ của giai cấp tư sản phương Tây đang trong thời kỳ phát triển. Chủ nghĩa
Mác Lê-nin mang thế giới quan và văn học của giai cấp vô sản quốc tế đều thích
hợp với nhu cầu cách mạng chủ nghĩa dân chủ mới của Trung Quốc chống đế quốc
và chống phong kiến một cách triệt để ở các mức độ khác nhau, thích hợp cho nhu
cầu của văn học cách mạng và cách mạng văn học. Vì vậy, những trào lưu văn học
đó đã được giới thiệu rất nhanh chóng đến Trung Quốc, ảnh hưởng đến cách mạng
Trung Quốc và tác gia hiện đại Trung Quốc. Về mặt khách quan, việc cải tạo Trung
7
Quốc cũ cũng cần tư tưởng lý luận và văn học mới; về mặt chủ quan, nhà văn hiện
đại Trung Quốc cũng khát khao thử vận dụng các lý luận mới, văn học mới của
nước ngoài để đạt được thành công mới trong sáng tạo nghệ thuật.
Có thể nói, nhà văn hiện đại Trung Quốc tiếp thu sự ảnh hưởng của văn học
nước ngoài một cách phức tạp đa nguyên, hầu như tiếp thu tất cả các nhà văn nổi
tiếng của nước ngoài. Nhìn từ sáng tác, bất kể là đề tài, chủ đề, tình tiết nhân vật,
hay là hình thức nghệ thuật, phương pháp sáng tác, thủ pháp biểu hiện, ngôn ngữ,
phong cách v.v... đều đã chịu ảnh hưởng rất sâu sắc.
Những nội dung quan trọng của tinh thần thời kỳ “Ngũ Tứ” như: chủ nghĩa
nhân đạo, giải phóng cá tính, bình đẳng nam nữ, tự do luyến ái, phê phán chủ nghĩa
phong kiến đều nêu ra dưới sự ảnh hưởng của những trào lưu mới nước ngoài; việc
đề xướng “văn học cách mạng” càng chỉ rõ sự chỉ đạo của chủ nghĩa Mác Lê-nin.
Văn học nước ngoài đã đẩy mạnh việc hiện đại hóa của văn học Trung Quốc.
Ơ phương diện nhân vật, văn học truyền thống cổ đại Trung Quốc trên cơ bản là
viết những câu chuyện vui buồn tan hợp của đế vương tướng lĩnh, tài tử giai nhân.
Và mô típ của nó thường là: công tử rơi vào cảnh khó, gặp gỡ tình cờ với giai nhân,
thề ước trăm năm, trải qua nhiều giày vò, thi cử đỗ đạt, đại đoàn viên. Văn học hiện
đại Trung Quốc khác xa với nền văn học này, lấy công nhân, nông dân, trí thức và
phụ nữ bình thường làm nhân vật chính, đã triệt để phá vỡ mô típ tình tiết của “đại
đoàn viên”. Không thể phủ nhận, tiếp nhận sự ảnh hưởng của văn học nước ngoài là
nhân tố quan trọng thực hiện sự đột phá này.
Về phương pháp sáng tác, văn học hiện đại Trung Quốc đã chịu ảnh hưởng của
các trào lưu văn học nước ngoài khác nhau, bao gồm ba phương pháp sáng tác như:
chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện đại. Ba phương pháp đó
xuất hiện ở Trung Quốc gần như đồng thời, nhưng đã hình thành cao trào trong thời
kỳ khác nhau. Lỗ Tấn đã từng tôn sùng và giới thiệu những nhà văn chủ nghĩa lãng
mạn và chủ nghĩa hiện thực như: Goethe, Byron, Shelley, Pushkin, Lermontov
MikhailIurievich, Nikolai Vasilievich Gogol, Henrik Johan Ibsen v.v... trong Văn
hóa thiên chí luận và Thuyết về thơ Mara vào năm 1907 của ông. Ngày vùng dậy
của văn học hiện đại Trung Quốc cũng trong thời gian văn học hiện đại chủ nghĩa
phương Tây xuất hiện với số lượng lớn tại Trung Quốc. Nhật ký người điên của Lỗ
Tấn là một hình ảnh thu nhỏ trong tình hình này, có thể thuyết minh tốt nhất tình
hình này: Nhật ký người điên đã xuất phát từ lịch sử và hiện thực, vạch trần bản chất
tệ nạn ăn thịt người của chế độ và lễ giáo phong kiến, trên cơ bản là chủ nghĩa hiện
thực, nhưng lại mơ ước một xã hội lí tưởng “ở tương lai không tha thứ những người
ăn thịt người”, lại có nhân tố chủ nghĩa lãng mạn; áp dụng thủ pháp chủ nghĩa tượng
trưng, đồng thời lại mang một chút dư âm của chủ nghĩa hiện đại. Do vậy, chúng tôi
có thể nhìn ra một điều quan trọng: ở phương Tây, hiện đại chủ nghĩa chống truyền
thống, đối lập với những phương pháp sáng tác truyền thống. Khi nhà văn hiện đại
Trung Quốc tiếp nhận nó, đã hòa hợp và bổ sung cho những phương pháp sáng tác
truyền thống của mình để càng tốt càng hay. Văn học cổ Trung Quốc có truyền
thống tốt về khuynh hướng hiện thực và khuynh hướng lãng mạn lâu dài, như Kinh
8
thi, khuynh hướng hiện thực của Đỗ Phủ, Khuất Nguyên; khuynh hướng lãng mạn
của Lý Bạch v.v...; Song, về bản chất chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn
của phương Tây lại có đặc điểm không giống với khuynh hướng hiện thực và lãng
mạn của truyền thống cổ Trung Quốc: nó có ý thức hiện đại rõ ràng như: tự do dân
chủ, giải phóng cá tính v.v... và tinh thần chống chủ nghĩa phong kiến, vạch trần
những mặt trái, bất công của xã hội tư bản cùng với những kỹ xảo mới hiện đại,
muôn hình muôn vẻ. Các nhà văn hiện đại Trung Quốc tiếp nhận những phương
pháp sáng tác này. Hiện đại chủ nghĩa không có trong văn học truyền thống Trung
Quốc, nhà văn hiện đại Trung Quốc đã tiếp nhận phương pháp sáng tác này, khiến
cho sáng tác của họ càng có ý thức hiện đại rõ ràng, hơn nữa đã mở rộng tầm nhìn
sáng tác, khiến cho tác phẩm của họ càng có sự cuốn hút về nghệ thuật. Trước văn
học cách mạng1, ngoài Lỗ Tấn, năm 1915, Trần Độc Tú đã từng đề xướng “sau này
nên hướng về chủ nghĩa tả thật”. Sau này, hiện thực chủ nghĩa đã được nhiều nhà
văn tiếp nhận, xuất hiện một loạt nhà văn phái nhân sinh và tác phẩm chủ nghĩa
hiện thực như: “vị nhân sinh”, “biểu hiện nhân sinh”, “cải lương nhân sinh”. Chủ
nghĩa hiện thực mau chóng hình thành cao trào trong thời kỳ “Ngũ Tứ”. Chủ nghĩa
lãng mạn trở thành trào lưu từ năm 1919, với Nữ thần của Quách Mạt Nhược. Chủ
nghĩa lãng mạn hình thành một cao trào trong thời kỳ này, không thể tách rời với
những tinh thần tiến lên như bão táp, phá vỡ tất cả cái cũ. Chủ nghĩa hiện thực,
những đề xướng lý luận thật sự và hình thành cao trào trong sáng tác là vào sau giữa
thập niên 20 đến đầu giữa thập niên 30, bắt đầu từ năm 1924, Lỗ Tấn đã áp dụng
nhiều hơn phương pháp sáng tác của chủ nghĩa hiện thực trong tiểu thuyết của
mình, như Miếng xà phòng, Cao lão phu tử, Tiếc thương những ngày đã mất, v.v...
là những kiệt tác của chủ nghĩa hiện thực. Cuối thập niên 20 đến đầu giữa thập niên
30, nhà văn Trung Quốc như Thi Trập Tồn, Mộ Thì Anh, Lưu Niệt Âu v. v... đã
chịu sự ảnh hưởng của văn học hiện đại chủ nghĩa của nước ngoài như Nhật Bản và
Mỹ, dịch rất nhiều tiểu thuyết hiện đại chủ nghĩa. Những nhà thơ phái hiện đại như:
Đái Vọng Thư, Hà Kỳ Phương, Từ Chí Ma, Vương Độc Thanh v.v… đã sáng tác
theo khuynh hướng chủ nghĩa hiện đại. Tào Vũ cũng chịu sự ảnh hưởng của Eugene
O’Neill - nhà văn sáng tác kịch chủ nghĩa hiện đại, sáng tác kịch Nguyên Dã nổi
tiếng, đã hình thành một cao trào văn học chủ nghĩa hiện đại của Trung Quốc.
Về thủ pháp biểu hiện, sự tiếp nhận văn học nước ngoài đã đem lại cho văn học
Trung Quốc nhiểu kỹ xảo mới mẻ. Người kể chuyện của tiểu thuyết chương hồi
truyền thống Trung Quốc chịu ảnh hưởng của người bình truyện, người kể truyện cơ
bản đều là những người toàn trí toàn năng (không có gì không biết, không có gì
không làm được), vượt qua tất cả nhân vật trong truyện, biết nhiều hơn tất cả nhân
vật trong truyện. Sự tiếp nhận của văn học nước ngoài đã đột phá mô típ trần thuật
đơn nhất này, khiến cho tiểu thuyết của Trung Quốc có nhiều mô típ người kể
Tháng 1 năm 1917, tháng 4 năm 1918, Hồ Thích viết Văn học cải lương và xây dựng văn học
cách mạng luận, đề xướng văn bạch thoại, đã mở đầu cho văn học cách mạng. Rồi sau hơn 30 năm,
văn học Trung Quốc không những khai thác cho mình một con đường riêng, mà còn thâu tóm tất cả
thành tựu của văn học Trung Quốc trong thế kỷ 20, là một đỉnh cao rất khó vượt qua cho tới nay.
1
9
truyện. Miêu tả cảnh vật và tâm lý càng tinh tế, tỉ mỉ và rõ mồn một, có dung lượng
nhiều hơn, nhất là thêm vào thủ pháp miêu tả tiềm thức nhân vật. Còn mượn thủ
pháp Montage (tiếng Pháp có nghĩa là lắp ghép cắt nối biên tập lại) trong phim ảnh
nước ngoài; tiếp nhận thủ pháp nhìn lại, phát hiện, thay đổi đột ngột v.v... của kịch
nói nước ngoài; từ văn học chủ nghĩa hiện đại tiếp nhận những thủ pháp như: thay
đổi cảm giác, giao thoa thời gian, thay đổi không gian v.v...để tăng cường và thể
hiện khả năng về nhịp sống với tốc độ nhanh, phương pháp thể hiện càng đa dạng
hóa.
Về ngôn ngữ, văn học hiện đại Trung Quốc đã học hỏi ngôn ngữ văn học nước
ngoài, nâng cao tính chuẩn xác, thể hiện sự vật phức tạp với những ý tưởng giàu sức
thể hiện. Thí dụ Tiền Chung Thư đã áp dụng tài tình ý tưởng “Vi thành” (thành bao
quanh) của ngạn ngữ tiếng Pháp, làm tên cuốn sách để nổi bật chủ đề.
Về phong cách sáng tác, các tác giả nước ngoài thường cũng có sự ảnh hưởng
rõ rệt đối với nhà văn hiện đại Trung Quốc. Như văn đoàn Trầm Chung đã chịu sự
ảnh hưởng nhà văn chủ nghĩa lãng mạn Hope Deman của Đức, tên văn đoàn đặt
theo tên kịch bản Trầm Chung của Hope Deman, những tác phẩm của họ đã thể
hiện phong cách chủ nghĩa lãng mạn đậm đặc. Nhà văn phái Tân cảm giác Nhật Bản
đã ảnh hưởng trực tiếp đến nhà văn phái Tân cảm giác của Trung Quốc. Lỗ Tấn đã
chịu sự ảnh hưởng của nhà văn Nga Nikolai Vasilievich Gogol, phong cách tiểu
thuyết của ông súc tích kín đáo, hài hước mỉa mai. Quách Mạc Nhược chịu sự ảnh
hưởng của những nhà thơ của nước Anh như: Shelley, Byron v.v... phong cách thơ
của ông khoáng đạt hào phóng.
Văn hóa Việt Nam tiếp xúc với văn hóa phương Tây từ rất sớm, vào khoảng
thế kỷ XVI, khi các giáo sĩ Kitô đi truyền đạo, khi các thuyền buôn phương Tây đi
tìm thị trường. Đây cũng là thời gian ra đời chữ quốc ngữ, thứ chữ mượn chữ cái
Latinh để ghi âm tiếng Việt.
Nhưng văn hóa phương Tây chỉ thực sự ảnh hưởng đến văn hóa Việt Nam từ
đầu thế kỷ XX, sau những đợt khai thác thuộc địa. Lớp văn hóa phương Tây tuy
mỏng, nhưng sức tác động của nó là rất lớn. Đây là sự gặp gỡ của nông thôn và
thành thị, của nông nghiệp và công nghiệp, của phương Đông và phương Tây, của
Việt Nam và thế giới. Kết quả của sự gặp gỡ này là văn hóa Việt Nam rời quỹ đạo
khu vực, chuyển sang quỹ đạo văn hóa thế giới. Con tàu văn hóa Việt Nam bắt đầu
rời vùng biển nhà để ra khơi.
Cùng với sự khai thác thuộc địa, thực dân Pháp đã tiến hành xây dựng hạ tầng
cơ sở, như hệ thống đường bộ xuyên Việt, đường sắt, cầu cống v.v... Ngoài ra, họ
cũng khởi động các ngành công nghiệp chế biến và tiêu dùng. Một số đô thị cũng
được xây dựng theo kiến trúc của các thành phố hiện đại với sự phát triển công
thương nghiệp. Ơ các thành phố này, dần dần hình thành một tầng lớp thị dân hiện
đại. Họ sẽ là chủ - khách thể của nền văn hóa đô thị đang dần dà bỏ lại sau các định
danh phương Đông và trung đại. Tuy nhiên, cơ sở công thương nghiệp còn kém
phát triển đã làm cho tầng lớp thị dân này chưa có một nhu cầu văn hóa cao, có tính
chất hiện đại. Và, để bù lại điều đó, lớp trí thức - những phần tử ưu tú nhất của tầng
10
lớp thị dân - đã phải vay mượn, học tập, tiếp nhận ở văn hóa phương Tây tiến bộ.
Về giáo dục, ban đầu người Pháp bảo lưu chế độ giáo dục và thi cử theo Nho
giáo vì nghĩ rằng, với mục đích trị bình, Nho giáo sẽ giúp xã hội Việt Nam ổn định
trở lại. Nhưng chẳng bao lâu sau, trước nhu cầu cần viên chức hành chính, thông
ngôn, thư ký cho các cơ quan, xí nghiệp, công ty..., họ đã bãi bỏ chế độ khoa cử và
xây dựng hệ thống giáo dục theo kiểu phương Tây: từ tiểu học, trung học tới đại
học. Ngoài ra, người Pháp còn mở một số cơ sở nghiên cứu khoa học như Viện
Pasteur ở Sài Gòn (1891), Viện Hải Dương học (tục gọi là Nhà Cá) ở Nha Trang
(1896), Trường Viễn Đông Bác Cổ ở Hà Nội (1898)...
Chữ quốc ngữ tuy xuất hiện đã lâu, nhưng chỉ tồn tại trong một phạm vi hẹp là
cộng đồng Kitô giáo. Mãi đến giữa thế kỷ XIX, (ở Nam Bộ) và đầu XX (ở Bắc Bộ),
chữ quốc ngữ mới có cơ hội phát triển tăng tốc. Điều tưởng như nghịch lý là bấy
giờ người hô hào học chữ quốc ngữ lại chính là những nhà nho, những người trước
đây ghét cay ghét đắng thứ chữ không phải của thánh hiền này. Có điều họ là những
nhà nho duy tân, thấy quốc ngữ dễ học, dễ truyền bá tư tưởng canh tân đất nước,
nên họ nhảy qua được bóng của mình, dẹp được thành kiến cố hữu của mình. Mặt
khác, người Pháp cũng thấy sự tiện lợi này trong việc truyền bá tư tưởng của họ.
Thế là, các trường dạy tiếng quốc ngữ bắt đầu được thành lập, và chữ quốc ngữ
được dùng trong văn bản giấy tờ chính thức, được sử dụng trên báo chí ấn phẩm.
Chữ quốc ngữ, vì thế, đã trở thành phổ thông, một phương tiện hữu hiệu để lưu trữ và
phát triển tiếng Việt hiện đại.
Chữ quốc ngữ ra đời cũng thúc đẩy sự phát triển của báo chí. Đầu tiên chỉ là
những tờ công báo in bằng chữ Pháp và chữ Hán, sau đó xuất hiện các tờ bằng chữ
quốc ngữ ở Nam Kỳ như Gia định báo (1865), Phan Yên báo, Nông cổ mín đàm
(1901), Lục tỉnh tân văn (1907)... Rồi báo chí phát triển ở tất cả các địa phương, các
ngành nghề, các giới. Trong đó những tờ báo có đóng góp lớn vào xây dựng văn
hóa dân tộc như Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí, Phụ Nữ tân văn, Hữu
Thanh, Thực nghiệp dân báo, Phong Hóa, Ngày Nay v.v... Sự phát triển của báo chí
đã thúc đẩy sự phát triển của tiếng Việt, khiến nó trở nên hoàn thiện hơn về ngữ
pháp, được bổ sung thêm những từ mới, nhất là những thuật ngữ khoa học, biến
tiếng Việt thành một ngôn ngữ hiện đại vừa mềm dẻo, tinh tế để có thể diễn tả được
mọi sắc thái tình cảm tinh vi của nội tâm con người, vừa đủ sáng sủa, khúc chiết để
diễn đạt một cách logic những vấn đề khoa học, triết học. Tiếng Việt, nhờ thế, sau
cách mạng tháng Tám năm 1945 đã có thể được dùng để giảng dạy ở cấp đại học.
Đây là một điều hết sức kỳ lạ so với các nước ở Châu Phi sau khi giành độc lập mà
vẫn phải dùng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp để viết văn, làm thơ và dạy học.
Cuối cùng, sự phát triển của báo chí và tiếng Việt đã thúc đẩy sự phát triển của
văn học nghệ thuật. Văn học nghệ thuật giai đoạn này ra đời như là kết quả của sự
giao thoa văn hóa Đông và Tây, Việt Nam và Pháp. Nó đã tiến một bước dài trên
con đường hiện đại hóa, thế giới hóa. Tất nhiên, đây chỉ là bước khởi đầu cho một
cuộc "hành quân xa" của văn học nghệ thuật Việt Nam. Nhưng thế nào là hiện đại
hóa ? Từ đầu thế kỷ XX, văn học Việt Nam vận động mạnh mẽ theo hướng đại hóa,
11
tức là khẳng định nền văn học này thoát khỏi những đặc trưng của văn học trung
đại, tạo nên được những đặc điểm, tính chất của một nền văn học hiện đại, theo mô
hình của văn học phương Tây. Nói một cách thô thiển thì thế giới hóa, hiện đại hóa
là người ta có gì thì mình có nấy. Người có tiểu thuyết thì ta cũng có tiểu thuyết,
người có kịch nói thì ta cũng có kịch nói, người có điện ảnh thì ta cũng có điện ảnh.
Rồi thì tân nhạc, vẽ sơn dầu, sơn mài, thể thao, thời trang v.v... Tuy nhiên, một điều
quan trọng khác là chất lượng thẩm mỹ. Có thể nói, văn hóa nghệ thuật giai đoạn
này đạt đến một chất lượng thẩm mỹ rất cao. Nhiều tác phẩm văn học, hội họa, âm
nhạc sẽ sống mãi với thời gian, nhiều tên tuổi nhà văn, nhạc sĩ, họa sĩ sẽ lưu danh
trong lịch sử văn hóa Việt Nam như những nhà cách tân tiên phong.
Tóm lại, lớp văn hóa phương Tây đã có những đóng góp to lớn cho văn hóa
Việt Nam. Trước hết, nó mang đến cho văn hóa Việt Nam những giá trị mới như tự
do, bình đẳng, dân chủ... là những giá trị nhân văn thuộc về con người phổ quát mà
tư tưởng Ánh sáng nêu ra. Sau đó, nó giúp người Việt phát triển được ý thức cá
nhân, coi cá nhân như một giá trị. Sự phát triển của cá nhân không đối lập mà hỗ trợ
cho sự phát triển của xã hội. Chính sự thức tỉnh của ý thức cá nhân đã là một trong
những động lực phát triển của văn hóa giai đoạn này. Cuối cùng, lớp văn hóa
phương Tây góp phần đưa văn hóa Việt Nam chuyển từ quỹ đạo văn hóa khu vực
sang quỹ đạo văn hóa thế giới. Từ đây, văn hóa Việt Nam bắt đầu tham gia vào quá
trình hội nhập thế giới.
Lớp văn hóa phương Tây từ sau năm 1945, khi Việt Nam giành được độc lập,
không phải đã chấm dứt, mà vẫn tiếp tục được bổ sung và làm dày thêm. Tuy nhiên,
lúc này sự phương Tây hóa không còn đơn tuyến nữa, mà là đa tuyến, không chỉ
qua một ngả Pháp, mà còn qua các ngả như Liên Xô, Đông Âu, Nhật Bản, ASEAN,
Mỹ v.v... Bởi vậy, thuật ngữ hiện đại hóa, thế giới hóa không còn trùng khít với
thuật ngữ "phương Tây hóa" nữa. Lớp văn hóa phương Tây sau năm 1945 có thể
phong phú và đa dạng hơn, sẽ bổ trợ tốt hơn cho văn hóa Việt Nam.
Sau khi tiếp xúc, văn hoá Việt Nam như nhào nặn lại, làm lại hoàn toàn. Theo
các nhà lịch sử văn hoá, hoà nhập, vừa là đặc trưng, là tính nội tại, vừa là điều kiện
sống còn của văn hoá. Lịch sử mỗi nền văn hoá không chỉ là sự phát triển tự thân
của nó, mà còn là lịch sử của mối quan hệ giữa nó với các nền văn hoá khác. Riêng
ở Việt Nam lịch sử đã hai lần biết tới một sự cấy ghép văn hoá ngoại lai như vậy,
nhưng cả hai lần, văn hoá Việt Nam đều không mất đi, không bị đồng hoá, trong khi
cải biến vẫn giữ được sắc thái của riêng mình. Nếu sau khi tiếp xúc với văn hoá
Trung Hoa, Việt Nam vẫn có những thời kỳ phát triển độc đáo, như văn hoá LýTrần, văn hoá cuối Lê đầu Nguyễn, thì sau khi làm một cuộc thay máu hoàn toàn
dưới ảnh hưởng văn hoá Pháp, nền văn hoá Việt Nam nửa đầu thế kỷ vẫn đẻ ra
được những đứa con bụ bẫm, như nền tiểu thuyết hiện đại, phong trào Thơ Mới v.v.
Theo nhà sử học Nhật Tsubôi thì một trong những đòi hỏi cấp bách nhất đặt ra
với nhiều nước ở phương Ðông hồi cuối thế kỷ XIX là phải “tạo điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển một kiểu tư duy khả dĩ thức tỉnh ý thức dân tộc trước sự bành
trướng của phương Tây”. Và để đáp ứng đòi hỏi đó, ở Nhật Bản đã đưa ra khẩu
12
hiệu “Hoà hồn dương tài”, ở Triều Tiên có “Ðông đạo tây khí”, ở Trung Quốc có
“Trung thể tây dụng”. Bằng cách diễn tả khác nhau, các khẩu hiệu đó có phần cốt
lõi giống nhau: đó là những cố gắng của trí thức mỗi nước nhằm tìm cách hoà hợp
văn hoá Ðông -Tây và tạo cho đất nước một sự thích ứng với hoàn cảnh [107; 184185]. Việt Nam tuy không có những khẩu hiệu rõ ràng tức là không được đưa lên
phương diện ý thức, song sự tiếp nhận văn minh phương Tây vẫn cứ ngấm ngầm
xảy ra, dần dà tự phát mà xảy ra, cái tinh thần thấy ở các khẩu hiệu nói trên ở Nhật
Bản, ở Trung Hoa, vẫn là điều được thực hiện ở Việt Nam. Những nỗ lực “tuỳ tâm
Âu hoá” khởi đi từ các nhà nho trong Ðông Kinh Nghĩa Thục và Phan Chu Trinh,
đến những năm sau, càng được nhiều người thấy là phải và thành tâm tin theo. Nói
như Trần Văn Giàu “Tư tưởng về sự điều hoà đạo đức phương Ðông với khoa học
phương Tây để tạo cho Việt Nam một lớp thượng lưu mới, tạo cho Việt Nam điều kiện đi tới
phú cường – tư tưởng đó trong những năm 20 và 30 khá là phổ biến trong các báo chí chứ
không riêng gì trên Nam Phong”[45; 526].
1.1.2. Văn học hiện đại Trung Quốc từ 1919 đến 1949
Nền văn học Trung Quốc có lịch sử từ rất lâu đời với nhiều tên tuổi, nhiều kiệt
tác đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo giới nghiên cứu trên phạm vi toàn thế
giới. Bước sang thế kỷ XX, văn học từ hình thức đến nội dung đều có sự thay đổi và
cách tân vĩ đại, tuyên cáo sự chấm dứt của nền văn học cổ đại và đánh dấu sự ra đời
của nền văn học hiện đại Trung Quốc. Ngay từ năm 1915, tạp chí Tân thanh niên 1
đã cho đăng tải các bài viết phê phán chế độ phong kiến cổ hủ. Năm 1917 cũng trên
tờ Tân thanh niên có ý kiến kêu gọi "cách mạng văn học". Năm 1918, cũng tờ Tân
thanh niên cho đăng tải truyện ngắn bạch thoại đầu tiên Nhật ký người điên của Lỗ
Tấn. Theo cuốn Lịch sử văn học hiện đại Trung Quốc do nhóm tác giả của Đại học
sư phạm Bắc Kinh và Đại học Nhân dân Trung Quốc biên tập và là giáo trình được
dùng chính thức trong chương trình đào tạo sinh viên chuyên ngành Văn học thì, "từ
khi Nhật ký người điên của Lỗ Tấn xuất bản năm 1918 - tác phẩm đầu tiên viết bằng
bạch thoại của Trung Quốc, văn học Trung Quốc đã chính thức bước vào phạm trù
văn học hiện đại"[149; 59].
Tuy nhiên, theo các giáo trình văn học sử, và cũng là cách phân kỳ được đa số
các nhà nghiên cứu văn học hiện đại Trung Quốc chấp nhận, văn học hiện đại Trung
Quốc bắt đầu từ phong trào Ngũ tứ năm 1919. Phong trào Ngũ tứ làm ranh giới cho
hai cuộc cách mạng, đó là thời kì kết thúc cách mạng dân chủ cũ do giai cấp tư sản
lãnh đạo và mở đầu cuộc cách mạng dân chủ mới do giai cấp vô sản lãnh đạo. Văn
Tạp chí Tân thanh niên ( 《《《《《《《《: do Trần Độc Tú làm chủ biên. Được thành lập trong bối
cảnh lịch sử: sau cách mạng Tân hợi, giai cấp phong kiến có ý đồ khôi phục lại ngai vàng, nhà
nước cộng hòa của giai cấp dân chủ tư sản chưa thể ra đời. Tư tưởng khi thành lập tạp chí Tân
thanh niên là: tuyên truyền chủ nghĩa dân chủ, phản đối tư tưởng và hoạt động khai sáng của chủ
nghĩa phong kiến. Tạp chí Tân thanh niên đề cao ngọn cờ dân chủ và khoa học, đề xướng văn học
mới, phản đối văn học cũ, đề xướng văn học bạch thoại, phản đối văn ngôn, đối với tư tưởng phong
kiến mê tín kịch liệt phản đối và phê phán. Đây chính là nội dung chủ yếu trong hoạt động tuyên
truyền đương thời của Tân thanh niên, cũng là hoạt động chủ yếu của hoạt động văn hóa mới. Chủ
biên của tạp chí Tân thanh niên là Trần Độc Tú, Lỗ Tấn làm đại biểu của chủ nghĩa dân chủ.
1
13
học hiện đại là bộ phận hữu cơ trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng vô sản. Vận
mệnh của nó gắn liền chặt chẽ với vận mệnh của dân tộc Trung Hoa.
Có thể khẳng định rằng, với sự nỗ lực của các nhà văn, từ khi ra đời cho đến
năm 1949, văn học hiện đại Trung Quốc đã trải qua nhiều chặng đường lịch sử gay
go phức tạp, vừa xây dựng vừa đấu tranh, vừa củng cố vừa phát triển và trong mỗi
một giai đọan lịch sử, nền văn học đó đều ghi lại những thành tựu rực rỡ, thể hiện
những bước tiến nhanh và mạnh của một nền văn học vừa thoát khỏi những đêm dài
của nền văn học viết bằng văn ngôn.
Ơ đây, chúng tôi chia quá trình phát triển của lịch sử văn học hiện đại Trung
Quốc ra làm 3 thời kỳ như sau:
Thời kỳ Ngũ tứ từ 1919 đến 1927
Về mặt tổ chức, thời kỳ này đã hình thành mặt trận văn hóa thống nhất. Mặt
trận này bao gồm trí thức cộng sản như Lý Đại Chiêu, Trần Độc Tú, Đặng Trung
Hạ... và các trí thức dân chủ khác như Hồ Thích, Lỗ Tấn.
Đến năm 1921, sau khi Đảng cộng sản Trung Quốc ra đời, dưới sự lãnh đạo
trực tiếp của Đảng Cộng sản, có hơn 100 đoàn thể văn học lớn nhỏ được thành lập
khắp nơi trên toàn quốc, trong đó đáng chú ý hơn cả là sự xuất hiện của Hội nghiên cứu
văn học1 và Sáng tạo xã2. Hai tổ chức này đại diện cho hai dòng văn học đương thời:
hiện thực chủ nghĩa và lãng mạn chủ nghĩa. "Hội nghiên cứu văn học" có tôn chỉ là
"xây dựng nền văn học vị dân sinh", đề xướng phương pháp sáng tác chủ nghĩa hiện
thực. Hội nhằm vào đối tượng đại chúng lao khổ với những đề tài có ý nghĩa xã hội.
"Sáng tạo xã" ngược lại, đề xướng chủ nghĩa lãng mạn với khẩu hiệu "Văn học cách
mạng", yêu cầu văn học phản ánh đời sống công nông binh, sáng tác theo tinh thần của
chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Về phương diện sáng tác, thời kỳ này thu được nhiều thành tựu có ý nghĩa.
Ơ thể loại tiểu thuyết, các tác phẩm của Lỗ Tấn như Nhật ký người điên,
Khổng Ất Kỷ, AQ chính truyện, Lễ cầu phúc... đã gây được những tiếng vang lớn
trên văn đàn. Các tác phẩm của ông đã phơi bày bộ mặt xấu xa của xã hội phong
kiến, mổ xẻ bản chất người bóc lột người của xã hội Trung Quốc thời kỳ đó. Ngoài
ra, các tiểu thuyết của Diệp Thánh Đào, Tưởng Quang Từ cũng thể hiện được
những vấn đề mà xã hội hiện đại quan tâm, đặc biệt là vấn đề giải phóng con người
rất được các nhà văn quan tâm khai thác.
Về thơ, thành tựu của thời kỳ này tiêu biểu là tập thơ Nữ thần của Quách Mạt
Nhược - một tập thơ thể hiện triệt để tinh thần phủ nhận xã hội cũ, kêu gọi sáng tạo
Hội nghiên cứu văn học(《《《《《): thành lập năm 1921 tại Bắc Kinh, do Thẩm Nhạn Băng, Trịnh
Chấn Đạc, Diệp Thiệu Quân sáng lập.
2
Sáng tạo xã(《《《): Thành lập năm 1921, do Quách Mạt Nhược, Úc Đạt Phu... sáng lập.
1
14
một xã hội mới thời đại Ngũ tứ, mở đầu cho dòng thơ lãng mạn cách mạng Trung
Quốc. Ngoài ra, tác phẩm của Tưởng Quang Từ, Lưu Đại Bách, Lưu Bán Nông,
Văn Nhất Đa, Tạ Băng Tâm... sáng tác về đề tài ca ngợi nhân dân lao động, chống
đế quốc xâm lược cũng chiếm được sự quan tâm rất lớn của độc giả.
Các thể loại như kịch nói, tản văn, tạp văn cũng là những thể loại quan trọng đang
được phát triển ở thời kỳ này với các tên tuổi lớn. Về kịch có: Hồng Trâm (vở Triệu
Diêm Vương), Điền Hán (vở Nửa đêm trong tiệm cà phê, Đêm bắt hổ), Quách Mạt
Nhược (vở Trác Văn Quân, Vương Chiêu Quân). Về tạp văn, tiêu biểu là sáng tác của
Lỗ Tấn với các tập: Nấm mồ, Gió nóng, Hoa cái; Cù Thu Bạch với Hành trình qua xứ
đói và Lịch sử tâm hồn ở Thủ đô đã đem lại cho thể tạp văn những thành tựu mới.
Nhìn chung, có thể khẳng định rằng, văn học thời kỳ này đã có những đổi mới
trong quá trình phát triển của nó. Nội dung đều đã thể hiện tinh thần triệt để chống
phong kiến, đế quốc, ca ngợi và mơ ước một xã hội mới không có giai cấp, không
áp bức bóc lột ra đời, tập trung phản ánh đời sống nhân dân lao động. Về mặt hình
thức, văn bạch thoại - tiếng nói hàng ngày của đại chúng chiếm ưu thế, thay thế cơ
bản cho văn ngôn.
Thời kỳ 1927-1937
Đây là thời kỳ văn học trong hoàn cảnh nội chiến cách mạng lần thứ hai ở
Trung Quốc. Sau khi nội chiến thứ nhất thất bại, bọn Tưởng Giới Thạch càng ra sức
cấu kết với bọn đế quốc để xây dựng nền thống trị phát xít của chúng. Trung Quốc
thời kỳ này hình thành hai khu vực: khu vực do Quốc dân Đảng thống trị và khu căn
cứ địa do Đảng cộng sản nắm quyền. Tình hình này đã tạo cho văn học hai khu vực
hoạt động dưới nhiều hình thức.
Trong khu Quốc dân Đảng, phong trào văn học cách mạng ngày càng lớn
mạnh trong sự khủng bố, đàn áp. Đội ngũ văn nghệ sĩ cảm thấy cần thiết phải đoàn
kết tất cả các lực lượng văn nghệ lại thành một mặt trận thống nhất. Do đó, với sự
nỗ lực của các nhà văn đi đầu, tháng 3/1930, Hội liên minh các nhà văn cánh tả 1
được thành lập ở Thượng Hải. Hội có 50 nhà văn, trong đó có các nhà văn lớn như
Lỗ Tấn, Mao Thuẫn, Điền Hán, Hạ Diễn... Đảng cộng sản thông qua Cù Thu Bạch
và Lỗ Tấn để lãnh đạo Hội. Dưới lãnh đạo của Tả liên, phong trào văn nghệ phát
triển mạnh mẽ.
Về sáng tác, nhiều tác phẩm có giá trị xuất hiện do các nhà văn đã hoàn thành
Gọi tắt là "Tả liên": Liên minh các nhà văn cánh tả của Trung Quốc, là một trong những tổ chức
do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo, thành lập tại Thượng Hải vào thập niên 30 của thế kỷ
XX, mục đích là đấu tranh để giành lấy mặt trận tuyên truyền với Quốc dân Đản g, thu hút được sự
ủng hộ của quảng đại dân chúng. Lãnh đạo Tả liên là Lỗ Tấn.
1
15
quá trình cải tạo tư tưởng, vững bước đi theo cách mạng. Tiểu thuyết có: Chuyện cũ
viết lại của Lỗ Tấn, tập truyện đánh dấu bước phát triển của chủ nghĩa hiện thực
cách mạng của Lỗ Tấn. Mao Thuẫn cũng góp tiểu thuyết Nửa đêm, đánh dấu thành
tựu mới của văn học vô sản. Ba Kim cũng góp mặt với bộ ba tiểu thuyết: Gia,
Xuân, Thu. Lão Xá có Lạc đã tường tử. Về thơ cũng đã xuất hiện nhiều nhà thơ trẻ
tuổi, nội dung ca ngợi cách mạng vô sản, triệt để chống phong kiến, với các tập
như: Hài nhi tháp của Ân Phu, các tập Cuộc sống, Lời ca gang thép, Bài ca ru em...
của Bồ Phong. Kịch cũng phát triển và có nhiều thành tựu như Lôi vũ, Nhật xuất
của Tào Ngu; Khúc nhạc xuân của Điền Hán, Truyện Thu Cận của Hạ Diễn...
Nhìn chung, thời kỳ này là thời kỳ trưởng thành của nền văn học cách mạng.
Nội dung các tác phẩm này đã thể hiện rõ khuynh hướng xã hội chủ nghĩa. Một số
tác phẩm hiện thực xuất sắc đã xuất hiện. Đề tài được mở rộng, từ chỗ bị bó hẹp
trong đời sống cá nhân thời Ngũ tứ đã phát triển đến chỗ miêu tả cuộc đấu tranh giải
phóng rộng lớn ở nông thôn và thành thị như tác phẩm Được mùa của Diệp Tử,
Nhật xuất của Tào Ngu... Nhân dân lao động xuất hiện ngày càng nhiều trong các
tác phẩm văn học nghệ thuật và đó là những nhân tố mới đặt cơ sở cho nền văn học
cách mạng sau này.
Thời kỳ 1937 - 1949
Ngày 7 tháng 7 năm 1937, quân xâm lược Nhật Bản tấn công Lư Câu Kiều,
mở đầu cuộc tấn công toàn diện vào Trung Quốc.
Trước áp lực của nhân dân, Quốc dân Đảng một lần nữa lại buộc phải hợp tác
với Đảng cộng sản, công nhận quyền hợp pháp của Đảng, hai bên phối hợp quân
đội thành lập Mặt trận thống nhất chống Nhật. Nhưng chẳng bao lâu, bọn Quốc dân
Đảng phản động, ra sức thi hành chính sách tiêu diệt cộng sản và đầu hàng Nhật.
Tuy nhiên, Đảng cộng sản Trung Quốc vẫn kiên trì lãnh đạo nhân dân Trung Quốc
tiếp tục đấu tranh chống Nhật và bọn phản động quốc dân Đảng cho đến khi Nhật
đầu hàng Đồng minh, đại chiến lần thứ hai kết thúc. Ngày 1 tháng 10 năm 1949,
nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời.
Để lãnh đạo phong trào văn học trong thời kỳ này, năm 1938, Đảng đã thành
lập Hội văn nghệ chống địch toàn quốc do Quách Mạt Nhược, Mao Thuẫn, Ba Kim
phụ trách, là một mặt trận thống nhất rộng rãi của giới văn nghệ.
Thành tựu trong thời kỳ này cũng đáng được chú ý. Thành tựu về thơ có:
Tiếng chiến đấu của Quách Mạt Nhược, các bài thơ ngắn của Quang Vị Nhiên,
Tang Khắc Gia, tập thơ Gửi người chiến đấu của Điền Gian cùng các sáng tác của
Vương Quý và Lý Quý. Về kịch có vở Khuất Nguyên, Hổ Phù, Đường đệ chi hoa
của Quách Mạt Nhược; vở Vi trùng phát xít của Hạ Diễn; vở Bạch Mao Nữ của Hạ
16
Kính Chi và Đinh Nghị. Tiểu thuyết tuy không phát triển mạnh như thơ và kịch
nhưng cũng có những thành tựu đáng kể với các tác giả: Trương Thiên Dực với tiểu
thuyết Ông Hoách, Triệu Thụ Lý với các tác phẩm: Chú Hai Đen lấy vợ, Lý Hữu
Tài làm vè, Sự biến đổi ở Lý Gia Trang; Chu Lập Ba với Mưa to gió lớn; Mao
Thuẫn với Sa đọa... Đáng chú ý hơn cả là Bài nói chuyện tại cuộc tọa đàm văn nghệ
ở Diên An của Mao Trạch Đông được xem như là một tác phẩm lý luận văn nghệ
của chủ nghĩa Mác Lê nin. Từ đây, quan niệm văn nghệ phục vụ công nông binh đã
trở thành phương hướng sáng tác chung của các văn nghệ sỹ.
Trong 30 năm đó, nhờ có sự thâm nhập đời sống của nhân dân lao động cùng
khổ, hòa mình với cách mạng mà đội ngũ văn nghệ ngày càng đông đảo. Nhiều văn
nghệ sỹ cũng đã hy sinh nơi chiến trường, thể hiện khí phách người chiến sỹ như Cù
Thu Bạch, Ân Phu... Văn học hiện đại Trung Quốc đã gặt hái được nhiều thành
công với nhiều nhà văn gây được dấu ấn mạnh mẽ trên văn đàn, trở thành đối tượng
được nghiên cứu rộng rãi tại nhiều nước trên thế giới như Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ,
Anh, Pháp, Nga, và Việt Nam.
Tại Việt Nam, văn học hiện đại Trung Quốc cũng chiếm được sự quan tâm lớn
của một lớp độc giả và các nhà nghiên cứu. Theo chúng tôi được biết, văn học hiện
đại Trung Quốc được chính thức giới thiệu tại Việt Nam vào năm 1944 với chuyên
luận: Lỗ Tấn, thân thế, sự nghiệp của giáo sư Đặng Thai Mai. Là người đầu tiên đặt
nền móng cho sự nghiệp nghiên cứu Lỗ Tấn nói riêng và văn học hiện đại Trung
Quốc tại Việt Nam, ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, Đặng Thai Mai đã giới
thiệu cho văn đàn một tên tuổi lớn của văn học hiện đại Trung Quốc - đại văn hào
Lỗ Tấn. Từ đó đến nay, văn đàn Việt Nam liên tục xuất hiện các công trình nghiên
cứu, các bài viết về Lỗ Tấn, Tào Ngu, Quách Mạt Nhược, Ba Kim, thể hiện sự yêu
mến của giới nghiên cứu Việt Nam đối với nền văn học này. Ơ Việt Nam, Lỗ Tấn
còn được so sánh với các nhà văn đỉnh cao của dòng văn học hiện thực phê phán
1930-1945 như Nam Cao, Ngô Tất Tố. Điều này một mặt nào đó khẳng định vị trí
của ông trong trái tim của người dân Việt Nam.
Như vậy, có thể thấy rằng văn học hiện đại Trung Quốc là văn học của thời đại
“Lỗ Tấn”. Sự khởi đầu của văn học hiện đại Trung Quốc đã gắn chặt với tên tuổi
của Lỗ Tấn. Sự thống nhất giữa nhà văn vĩ đại và nhà tư tưởng vĩ đại của Lỗ Tấn đã
thể hiện đặc điểm không thể tách rời giữa văn học hiện đại và tư tưởng cách mạng.
Lỗ Tấn tiêu biểu cho linh hồn Trung Quốc - linh hồn dân tộc hiện đại Trung Quốc.
Không thể phủ nhận được, ông cũng chính là một trong những người dựng lên linh
hồn dân tộc Trung Quốc hiện đại. Với những đóng góp đó, cần khẳng định rằng, Lỗ
Tấn đã đặt nền móng cho sự phát triển của văn học hiện đại Trung Quốc. Các nhà
17
văn kể cả cùng thời và đến sau của nền văn học hiện đại Trung Quốc tiếp nối tư
tưởng nghệ thuật của Lỗ Tấn, hình thành các trào lưu nghệ thuật khác nhau. Chẳng
hạn như văn học chủ nghĩa hiện thực cách mạng mà ông khai sáng đã trở thành trào
lưu chính của văn học hiện đại Trung Quốc. Lỗ Tấn là trọng tâm của nghiên cứu
văn học hiện đại Trung Quốc, là đề tài không bao giờ cũ. Nói cách khác, Lỗ Tấn
chính là mê lực cuốn hút của văn học Trung Quốc. Không thể phủ nhận, trên thực
tế, Lỗ Tấn đã trở thành biểu tượng cho văn hóa dân tộc hiện đại Trung Quốc, là
niềm tự hào của người dân Trung Quốc trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
1.1.3. Văn học hiện đại Việt Nam từ 1900 đến 1945
Có thể thấy rằng, những năm “bản lề” giữa thế kỷ XIX và thế kỷ XX cũng là
những năm “bản lề” giữa hai thời kỳ văn học. Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX
đã chính thức bước vào công cuộc hiện đại hóa. Chúng tôi tạm chia thành hai giai
đoạn:
Thời kì 1900- 1930: giai đoạn giao thời.
Từ đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp ra sức củng cố địa vị thống trị và khai thác
kinh tế trên các thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Mâu thuẫn giữa nhân dân Việt
Nam và thực dân Pháp, giữa nông dân với địa chủ phong kiến ngày càng sâu sắc.
Nhân dân Việt Nam khổ nhục vì tình trạng mất nước, khắp nơi nổi dậy đấu tranh,
giành độc lập dân tộc. Về văn học, với sự phức tạp của lịch sử, có thể có nhiều cách
để nhìn nhận, phân loại các sáng tác mà tập thể tác giả trong Văn học Việt Nam
1900-1945 gọi tên là: văn học yêu nước và văn học nô dịch; văn học công khai hợp
pháp và văn học bí mật; văn học tư sản và văn học phong kiến. Nhóm tác giả này
gọi văn học giai đoạn này là văn học giao thời.
Tính chất giao thời “không chỉ là sự tồn tại song song của hai thứ văn học cũ
và mới lưu hành ở hai địa bàn văn học khác nhau, do hai lực lượng sáng tác đáp ứng
nhu cầu của hai loại công chúng khác nhau, mà còn là sự hiện diện của hai bên
trong chủ đề, trong hình tượng nghệ thuật, trong ngôn ngữ, phản ảnh sự chuyển biến
từ nền văn học cổ truyền có tính chất của một vùng ở Đông phương sang nền văn
học cận hiện đại có tính chất phổ biến cho cả thế giới”[58; 287]. Như vậy, giai đoạn
này có thể nói là giai đoạn bản lề rất quan trọng đối với sự phát triển của lịch sử văn
học Việt Nam, là giai đoạn văn học cận đại chuẩn bị các điều kiện cho sự ra đời của nền
văn học hiện đại.
Các nhà văn như Phan Bội Châu, Nguyễn Ái Quốc, Tản Đà, Trần Tuấn Khải,
Hồ Biểu Chánh... là những gương mặt quan trọng làm nên diện mạo của văn học
thời kỳ này.
Giai đoạn thứ hai: 1930 - 1945
18
Ơ giai đoạn này, những mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam và thực dân Pháp,
giữa nông dân và địa chủ phong kiến trở nên gay gắt hơn bao giờ hết, phơi bày rõ
hơn hết bộ mặt tàn bạo của giai cấp thống trị và tình trạng khốn cùng của nhân dân
lao động. Sau hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam có
những biến đổi sâu sắc. Đô thị mở rộng, các thị trấn mọc lên ở nhiều nơi, quan hệ tư
sản được hình thành và cá nhân trở thành một thực thể. Việt Nam lúc này đã có đủ
cơ sở xã hội, văn hóa, tư tưởng cho nền văn học hiện đại ra đời. Cũng từ đây, nền
văn xuôi quốc ngữ mới phát triển, đạt đến độ trưởng thành nhất định. Các thể văn
phóng sự và tiểu thuyết hiện đại mới có cơ hội được ra đời nhờ ảnh hưởng của văn
học phương Tây qua một lớp nhà văn Tây học đầu tiên là Hồ Biểu Chánh, Trọng
Khiêm, Phạm Duy Tốn...
Có thể nói, chặng đường 1930-1945 là bước nhảy vọt cơ bản cả về lượng và về
chất của mọi trào lưu, mọi thể loại, từ tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch nói, kịch thơ
đến lý luận phê bình; là sự nở rộ của khuynh hướng sáng tác thuộc phạm trù chủ
nghĩa hiện thực đến chủ nghĩa lãng mạn. Đó cũng là sự xuất hiện các dấu hiệu đầu
tiên của nghệ thuật tượng trưng siêu thực. Thời kỳ này có thể phân thành 3 chặng
như sau:
Chặng đường 1930-1935
Trong bộ phận văn học công khai, đây là khoảng thời gian mà văn học lãng
mạn với thơ mới và văn chương Tự lực văn đoàn chiếm ưu thế. Văn đàn xuất hiện
một số cây bút hiện thực như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Tam Lang, Tú
Mỡ... bước đầu thu hút và chiếm được cảm tình của độc giả. Nguyễn Công Hoan
bắt đầu cầm bút sáng tác từ trước năm 1930. Ông sáng tác cả truyện ngắn và truyện
dài, nhưng có sở trường đặc biệt ở thể loại truyện ngắn trào phúng. Có thể thấy,
Nguyễn Công Hoan là đại diện tiêu biểu cho dòng văn học hiện thực phê phán Việt
Nam chặng 1930-1935. Năm 1935 ông cho xuất bản tập truyện Kép Tư Bền, gây
được một tiếng vang lớn trên văn đàn, làm nổ ra cuộc tranh luận giữa hai phái “nghệ
thuật vị nghệ thuật” và “nghệ thuật vị nhân sinh”, đứng đầu là Hoài Thanh và Hải
Triều. Vũ Trọng Phụng cũng có truyện ngắn đăng báo từ năm 1930. Ngoài tập kịch
Không một tiếng vang, hai thiên phóng sự Kỹ nghệ lấy Tây và Cạm bẫy người đã
gây một tiếng vang lớn, làm cho Vũ Trọng Phụng trở nên nổi tiếng và được phong
cho danh hiệu “ông vua phóng sự đất Bắc” (Mai Xuân Nhân).
Tam Lang là nhà văn đầu tiên viết phóng sự và trở nên nổi tiếng với tập Tôi
kéo xe năm 1932.
Tú Mỡ là nhà thơ trào phúng. Với tác phẩm Dòng nước ngược, ông đã phê
phán những thối nát, những tập tục hủ lậu trong xã hội thực dân phong kiến.
19
Tuy nhiên, có thể thấy rằng, ở giai đoạn này, các nhà văn đều tập trung vào phê
phán bất công trong xã hội nhưng tính chiến đấu chưa cao, nền tảng nhân đạo chủ
nghĩa chưa vững. Đây cũng là thời kỳ khẳng định vị trí của văn học hiện thực đã
được manh nha từ mười mấy năm đầu thế kỷ với các thể loại chủ yếu như tiểu thuyết,
truyện ngắn, kịch. Thể loại phóng sự cũng đã xuất hiện và gặt hái được những thành
công nhất định.
Chặng đường 1936 -1939
Đây là thời kỳ tình hình chính trị xã hội rất thuận lợi cho sự phát triển của văn
học Việt Nam. Dưới sự chỉ đạo thống nhất của Quốc tế cộng sản, phong trào dân
chủ phát triển mạnh mẽ trên toàn cầu, các dân tộc đoàn kết lại nhằm cô lập bọn phát
xít đang ráo riết chuẩn bị cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Đảng Cộng sản được
hoạt động công khai. Nhiều cuộc bãi công biểu tình đã nổ ra trong các thành phố
lớn và các khu công nghiệp mà không bị đàn áp trắng trợn như trước nữa. Chế độ
kiểm duyệt sách báo cũng đã bị bãi bỏ. Những sách báo tiến bộ và cách mạng đã
phát triển khắp Bắc Trung Nam Việt Nam, có sức ảnh hưởng rất lớn.
Văn học hiện thực phê phán đến chặng đường này đã vượt lên, phát triển rầm rộ
và có phần lấn át văn học lãng mạn. Tài năng của Vũ Trọng Phụng và Nguyễn Công
Hoan thực sự đã vươn tới đỉnh cao. Cũng cần phải kể đến các cây bút như Lan Khai,
Vi Huyền Đắc, Trọng Lang... đã góp phần làm nên thành tựu rực rỡ của văn học
chặng đường này. Các tác giả thời kỳ này chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng văn
hóa phương Tây, đặc biệt là văn hóa văn học Pháp nên sáng tác của họ không những
thể hiện những đặc điểm của chủ nghĩa hiện thực mà còn mang đậm tính chất hiện
đại từ tư tưởng, quan niệm nghệ thuật đến nội dung và hình thức biểu hiện.
Những tác phẩm thời kỳ này có tính chiến đấu cao, nhiều cây bút đã đưa hẳn
các sự kiện chính trị, có tính thời sự nóng hổi vào sáng tác của mình như Vũ Trọng
Phụng với Giông tố, Số đỏ; Ngô Tất Tố với Tắt đèn, Nguyễn Công Hoan với Bước
đường cùng...
Văn học Việt Nam từ 1936 đến 1939 phát triển mạnh mẽ, phong phú trên nhiều
thể loại. Tiêu biểu nhất là tiểu thuyết, truyện ngắn và phóng sự. Các tác giả Ngô Tất
Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng đã có công lao rất lớn
trong việc cách tân văn học hiện thực phê phán. Tác phẩm của họ có dấu ấn đậm nét
của cá tính sáng tạo, phong phú, mới mẻ về nhiểu mặt.
Chặng đường 1940-1945
Tháng 9 năm 1939, Đại chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ, chấm dứt thời kỳ
Mặt trận dân chủ. Thực dân Pháp cùng với phát xít Nhật tiếp tục tiến hành các chính
sách phát xít hóa, kiểm soát nghiêm ngặt, gắt gao các nhà xuất bản, sách báo tiến bộ
20
và cách mạng bị cấm đoán. Tuy nhiên, Mặt trận Việt minh được thành lập, phong
trào cách mạng vẫn âm ỉ, thỉnh thoảng lại bùng lên, ngày càng phát triển mạnh mẽ,
tiến tới cuộc khởi nghĩa cách mạng tháng 8 năm 1945.
Ơ giai đoạn này, bên cạnh các nhà văn đã xuất hiện ở giai đoạn trước xuất hiện
thêm nhiều cây bút trẻ như Tô Hoài, Nam Cao, Kim Lân, Bùi Hiển. Rất nhiều
truyện ngắn mô tả con người và cuộc sống ở nông thôn. Bùi Hiển cũng được chú ý
khi xuất bản tập truyện Nằm vạ (1941). Kim Lân cũng là cây bút truyện ngắn, có
những trang viết đặc sắc về đời sống làng quê.
Tác giả được đặc biệt chú ý ở giai đoạn này là Nam Cao. Ông đã sáng tác
nhiều truyện ngắn hay về đề tài người nông dân và người trí thức. Những tác phẩm
xuất sắc của ông có: Chí Phèo (1941), Đời thừa (1943), Lão Hạc (1943), Một đám
cưới (1944), trong đó, truyện ngắn Chí Phèo xứng đáng là một kiệt tác.
Phải thấy rằng, đóng góp lớn nhất của văn học hiện thực phê phán thời kỳ
1940-1945 là thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Đến thời kỳ này, văn học đã có
những bước tiến dài trên con đường hiện đại hóa, với những gương mặt tiêu biểu và
những áng văn kiệt xuất. Nam Cao là cây bút tiêu biểu nhất trong chặng đường cuối
cùng từ 1940-1945. Sáng tác của ông đã làm phong phú thêm nền văn xuôi hiện đại
Việt Nam, hoàn tất quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc.
Như vậy, việc khái quát về đời sống văn học Việt Nam trong tiến trình hiện đại
hóa giúp chúng ta thấy được Nam Cao xuất hiện ở chặng cuối của tiến trình hiện đại
hóa. Sự xuất hiện của Nam Cao đã khẳng định văn học Việt Nam đạt đến đỉnh cao
của hiện đại hóa, đặc biệt ở kĩ thuật sáng tác. Đúng như nhà nghiên cứu Đỗ Đức
Hiểu trong bài viết về Sống mòn đã liên tục khẳng định về đóng góp của Nam Cao
đối với nền văn học hiện đại Việt Nam: "Truyện không có kết thúc: đời sống con
người không bao giờ kết thúc, nó mở. Đó là một đóng góp mới của Nam Cao lúc
đương thời về cấu trúc tiểu thuyết" [52; 341]. Qua nhân vật Thứ, nhà nghiên cứu
cũng đã đi đến khẳng định kĩ thuật xây dựng nhân vật - một trong những thành công
lớn của Nam Cao: "Như vậy, Thứ được soi rọi từ nhiều điểm nhìn: Thứ đối thoại
với số phận, với bản thân, với xã hội để nhận thức bản thân mình. Đó là một đóng
góp của Nam Cao với tiểu thuyết hiện đại Việt Nam" [52; 342].
Ơ bản luận án này, người viết so sánh sáng tác của Lỗ Tấn và Nam Cao ở thể
loại văn xuôi tự sự. Vì thế, việc tìm hiểu cuộc đời và tư tưởng của hai nhà văn là hết
sức cần thiết trong việc luận giải sự giống và khác nhau trong sáng tác của họ.
1.2. Khái quát về sự nghiệp sáng tác văn học của Lỗ Tấn và Nam Cao
Lỗ Tấn và Nam Cao đều sinh ra trong thời kỳ hai nước Trung Việt dưới chế độ
phong kiến chuyên chế suy tàn nhưng cực kỳ tàn bạo. Cả cuộc đời của Lỗ Tấn khao
- Xem thêm -