Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ So sánh truyện thơ dân tộc thái và truyện thơ dân tộc h'mông (trên cứ liệu hai t...

Tài liệu So sánh truyện thơ dân tộc thái và truyện thơ dân tộc h'mông (trên cứ liệu hai tác phẩm tiễn dặn người yêu và tiếng hát làm dâu)

.PDF
105
633
89

Mô tả:

Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Tr-êng ®¹i häc s- ph¹m hµ néi 2 BÙI QUANG VINH SO SÁNH TRUYỆN THƠ DÂN TỘC THÁI VÀ TRUYỆN THƠ DÂN TỘC H’MÔNG (TRÊN CỨ LIỆU HAI TÁC PHẨM TIỄN DẶN NGƯỜI YÊU VÀ TIẾNG HÁT LÀM DÂU) Chuyên ngành: Lý luận văn học Mã số: 60 22 01 20 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN THANH TÚ Hµ Néi, 2013 LỜI CẢM ƠN Tôi xin trân trọng cảm ơn ban Giám hiệu, phòng Sau đại học, ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện cho tôi được học tập, nghiên cứu và bảo vệ luận văn Thạc sỹ tại trường. Tôi xin trân trọng cảm ơn tập thể Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sỹ, giảng viên viện Văn học, khoa Ngữ văn trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 đã nhiệt tình giảng dạy và định hướng trong quá trình học tập cũng như nghiên cứu của tôi. Tôi xin trân trọng cảm ơn Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Thanh Tú và gia đình đã tạo điều kiện và tận tình hướng dẫn để tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin trân trọng cảm ơn ban Giám hiệu trường Trung cấp Văn hóa, Nghệ thuật và Du lịch tỉnh Lào Cai; ban Giám đốc Trung tâm Thực nghiệm và Biểu diễn đã động viên, tạo điều kiện giúp đỡ trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và bảo vệ luận văn của tôi. Tôi xin trân trọng cảm ơn gia đình, bạn bè đã tạo nhiều điều kiện cho tôi hoàn thành quá trình học tập và nghiên cứu. Xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, tháng 7 năm 2013 Tác giả luận văn Bùi Quang Vinh LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan và chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học: Luận văn này là kết quả nghiên cứu trung thực của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Thanh Tú. Luận văn không sao chép kết quả của bất kỳ công trình khoa học nào dưới bất kỳ hình thức nào. Mọi trích dẫn làm căn cứ khoa học đều đã được ghi chú đầy đủ, trung thực. Hà Nội, tháng 7 năm 2013 Tác giả luận văn Bùi Quang Vinh LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan và chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học: Luận văn này là kết quả nghiên cứu trung thực của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Thanh Tú. Luận văn không sao chép kết quả của bất kỳ công trình khoa học nào dưới bất kỳ hình thức nào. Mọi trích dẫn làm căn cứ khoa học đều đã được ghi chú đầy đủ, trung thực. Hà Nội, tháng 7 năm 2013 Tác giả luận văn Bùi Quang Vinh MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề............................................................................................. 2 2.1. Về truyện thơ Thái .................................................................................. 2 2.2. Về truyện thơ H’Mông ............................................................................ 5 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................. 7 3.1. Mục đích nghiên cứu ........................................................................ 7 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 7 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 8 4.1. Đối tượng nghiên cứu ....................................................................... 8 4.2. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 8 5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 8 6. Dự kiến đóng góp ....................................................................................... 9 PHẦN NỘI DUNG......................................................................................... 10 Chương 1: Môi trường văn hóa ...................................................................... 10 1.1. Dân tộc Thái ............................................................................................ 10 1.1.1. Môi trường tự nhiên ...................................................................... 10 1.1.2. Cơ sở xã hội ................................................................................... 10 1.1.3. Về văn nghệ dân gian .................................................................... 15 1.2. Dân tộc H’Mông ...................................................................................... 18 1.2.1. Môi trường tự nhiên ...................................................................... 18 1.2.2. Cơ sở xã hội ................................................................................... 18 1.2.3. Về văn nghệ dân gian .................................................................... 24 Chương 2: Những điểm tương đồng giữa Tiễn dặn người yêu và Tiếng hát làm dâu ........................................................................................................... 26 2.1. Về nội dung ............................................................................................. 26 2.1.1. Tình yêu dung dị thiết tha.............................................................. 26 2.1.2. Cuộc đấu tranh quyết liệt để bảo vệ tình yêu ................................ 28 2.1.3. Tình yêu thủy chung trong những hoàn cảnh mang tính bi kịch... 33 2.2. Về nhân vật .............................................................................................. 37 2.2.1. Con người tình yêu ........................................................................ 37 2.2.1.1. Con người tình yêu biểu hiện qua cốt truyện ....................... 37 2.2.1.2. Con người tình yêu biểu hiện qua nhân vật chính ............... 39 2.2.2. Con người bi kịch .......................................................................... 40 2.2.2.1. Bi kịch về cuộc đời cô gái ................................................... 40 2.2.2.2. Bi kịch tình yêu tan vỡ ......................................................... 43 2.3. Về nghệ thuật ........................................................................................... 48 2.3.1. Không gian tình yêu ...................................................................... 48 2.3.1.1. Không gian đẹp gắn với hạnh phúc lứa đôi ......................... 48 2.3.1.2. Không gian lưu lạc đọa đày ................................................. 50 2.3.2. Lời thơ nghệ thuật ......................................................................... 54 2.3.3. Một số biện pháp nghệ thuật ......................................................... 61 2.3.3.1. Một số biện pháp tu từ từ vựng ............................................ 61 2.3.3.2. Một số biện pháp từ cú pháp ................................................ 63 2.4. Nguyên nhân của sự tương đồng ............................................................. 66 2.4.1. Nguyên nhân về thể loại ................................................................ 66 2.4.2. Nguyên nhân lịch sử văn hóa ........................................................ 67 Chương 3: Những điểm khác biệt giữa Tiễn dặn người yêu và Tiếng hát làm dâu ........................................................................................................... 69 3.1. Về nội dung ............................................................................................. 69 3.1.1. Cốt truyện ...................................................................................... 69 3.1.2. Mức độ trong đấu tranh để bảo vệ tình yêu .................................. 71 3.2. Về nhân vật .............................................................................................. 72 3.2.1. Mức độ hấp thu dân ca .................................................................. 72 3.2.2. Tính chất tự sự của nhân vật.......................................................... 74 3.2.3. Số phận nhân vật ........................................................................... 78 3.3. Về nghệ thuật ........................................................................................... 80 3.3.1. Không gian mang tính biểu tượng (Tiễn dặn người yêu) .............. 80 3.3.2. Miêu tả nhân vật ............................................................................ 83 3.4. Nguyên nhân sự khác biệt ....................................................................... 87 3.4.1. Nền tảng văn hóa, phong tục, tập quán, tín ngưỡng ...................... 87 3.4.2. Nhóm ngôn ngữ khác nhau ........................................................... 87 PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 93 Danh mục tài liệu tham khảo .......................................................................... 95 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, văn hoá Việt Nam cũng là nền văn hoá đa dân tộc. Bởi vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng của đường lối chiến lược văn hoá – văn nghệ hiện nay là: “Khai thác và phát triển mọi sắc thái và giá trị văn hoá, nghệ thuật của các dân tộc trên đất nước ta, tạo ra sự thống nhất trong tính đa dạng và phong phú của nền văn hoá Việt Nam” [5:111]. Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, đã xác định rõ định hướng xây dựng nền văn hoá Việt Nam như sau: “Mọi hoạt động văn hoá văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” [5:110]. 1.2. Trong những sắc thái và giá trị văn hoá, nghệ thuật của các dân tộc trên đất nước ta, trước hết phải kể đến vốn văn học dân gian mà truyện thơ là một thể loại độc đáo, tiêu biểu. Truyện thơ không những là một thể loại văn học mà còn là một hình thức sinh hoạt văn hoá – văn nghệ vừa truyền thống vừa hiện đại, được nhân dân các dân tộc, cả xưa và nay đều yêu thích. Nghiên cứu thể loại truyện thơ nói chung và so sánh truyện thơ dân tộc Thái và dân tộc H’Mông, theo chúng tôi là một việc làm cần thiết. Nó cho chúng ta nhận thức rõ hơn nhiều vấn đề xoay quanh những nét tương đồng - thống nhất của văn học đa dân tộc Việt Nam vừa cho ta thấy cụ thể hơn những gì là nét độc đáo của văn học dân tộc Thái và dân tộc H’Mông. Qua đó sẽ hiểu thấu đáo hơn thế nào là tính dân tộc của một nền văn hoá – văn học đa dân tộc - một khía cạnh hết sức lý thú của vấn đề mới chỉ được lưu ý đến gần đây. 1.3. Bản thân là người sinh ra và lớn lên, làm việc ở vùng đồng bào Thái và đồng bào H’Mông sinh sống nên công việc tìm hiểu về truyện thơ dân tộc Thái và truyện thơ dân tộc H’Mông đã giúp tôi hiểu thêm về văn hóa, văn học dân tộc Thái và dân tộc H’Mông nói chung và thể loại truyện thơ của hai dân tộc này nói riêng. Điều đó có ý nghĩa thiết thực cho công tác của tôi khi sinh sống và làm việc cùng 2 với đồng bào, và cũng hy vọng qua luận văn, chúng tôi làm sáng tỏ một vấn đề lý luận văn học hiện đại là lý thuyết văn học so sánh. Đồng thời cũng góp phần làm rõ hơn những bản sắc độc đáo của hai dân tộc Thái và H’Mông từ góc nhìn văn học. 2. Lịch sử vấn đề Việc nghiên cứu truyện thơ của dân tộc Thái và dân tộc H’Mông xưa nay đã được nhiều nhà nghiên cứu văn học sưu tầm, tìm hiểu. Chúng tôi xin điểm lại một số công trình cơ bản sau đây: 2.1. Về truyện thơ Thái Năm 1957, nhà nghiên cứu văn học Điêu Chính Ngâu – Dịch và giới thiệu truyện thơ Tiễn dặn người yêu lần đầu tiên ra tiếng Việt từ nguyên bản chữ Thái. Trong lời giới thiệu, Điêu Chính Ngâu đã nhận định sơ lược về giá trị phản ánh xã hội của tác phẩm. Ông có đề cập tới giá trị nghệ thuật của tác phẩm nhưng không đi sâu mà chủ yếu bàn về ảnh hưởng của ca dao dân ca Thái trong tác phẩm. Năm 1958, Điêu Chính Ngâu, Hà Lem, Cầm Biêu - Dịch và giới thiệu truyện thơ Tiễn dặn người yêu lần thứ 2. Năm 1977, nhà nghiên cứu, nhà văn Mạc Phi đã chỉnh lí nội dung và dịch một cách đầy đủ tác phẩm Tiễn dặn người yêu sang tiếng Việt. Trong lời giới thiệu, Mạc Phi đã đề cập đến nội dung tác phẩm khá sâu sắc, thể hiện ở những mặt sau: Tác phẩm ngợi ca mối tình đầu trong trắng thủy chung; Tác phẩm mang giá trị nhân đạo sâu sắc và có ranh giới “…ta cũng phải thừa nhận rằng lòng yêu thương của họ thực đã có ranh giới. Tuy không thể như tinh thần nhân đạo sáng suốt, trọn vẹn của chúng ta ngày nay nhưng tinh thần nhân đạo trong Tiễn dặn người yêu cũng đã khác lắm với cái “lòng nhân” mơ hồ, chung chung”. [31:30]; Tác phẩm là tiếng hát đấu tranh. Về phương diện giá trị hình thức, nhà nghiên cứu nêu ra “vài đặc điểm về nghệ thuật”: “Tiễn dặn người yêu là một truyện thơ nhưng đặc biệt chú ý đến sự miêu tả nội tâm nhân vật, có trạng thái tâm hồn phức tạp, có khi mâu thuẫn”[31:39]; “Về miêu tả, “Tiễn dặn người yêu”sở trường trong việc miêu tả tính cách nhân vật qua lời nói nhân vật”[31:39]; “Chúng ta gặp hầu hết các thể thơ thông dụng, từ thể khắp bắc câu dài 11, 12 chữ đến thể khống khái câu ngắn 5, 6 chữ. Những thể thơ 3 này được xen kẽ nhau một cách điêu luyện tài tình”[31:40]; “Ngôn ngữ Tiễn dặn người yêu là ngôn ngữ hằng ngày của nhân dân được nâng cao lên và chau chuốt thêm”[39:41]. Lời nhận định của nhà nghiên cứu nằm trong khuôn khổ lời giới thiệu cuốn sách nên chúng ta thấy không thể tránh khỏi sự sơ lược. Trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam tác giả Đỗ Bình Trị cũng chỉ rõ giá trị nội dung của Tiễn dặn người yêu “Tuy chỉ đề cập đến đề tài tình yêu nhưng tác phẩm hầu như đụng đến tất cả, dính dáng đến số phận tất cả mọi người trong xã hội cũ” [44:288]. Tác giả đã coi giá trị nội dung đó là tiếng hát “khi âm thầm câm lặng, khi vút lên như tiếng thét gào, khi chua chát, đắng cay, khi tủi hờn, uất ức…cứ thế quanh quẩn suốt 2000 câu thơ”[44:232]. Nhà nghiên cứu cũng chỉ ra các nhân vật đã có ý thức đấu tranh giành lại quyền sống, “chữa lại số phận”. Anh yêu đã sẵn sàng “làm giặc giữa phủ, làm loạn giữa mường” để lấy được Em yêu. Em yêu lại phản ứng theo kiểu phụ nữ “giã gạo quăng chày, phơi thóc chửi sàn”. Cả Anh yêu và Em yêu đều quyết liệt vì tình yêu”. Về giá trị hình thức, tác giả Đỗ Bình Trị rất chú trọng nghệ thuật tả tình “đạt đến mức điêu luyện” và nghệ thuật miêu tả thiên nhiên vừa có tính ước lệ vừa có tính tả thực. Nhà nghiên cứu cũng cho rằng “thưởng thức bất cứ đoạn thơ nào người ta cũng liên tưởng đến những điệu Xòe Thái quen thuộc”[44: 241]. Tác giả Vũ Anh Tuấn trong Giảng văn chọn lọc văn học Việt Nam [44: 59] tuy chỉ phân tích đoạn trích Thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa được trích giảng trong chương trình lớp 10 cũng đã chỉ ra giá trị nội dung mang tính tiêu biểu cho cả tác phẩm là tình cảm phũ phàng và những tiếng yêu thương. Về phương diện giá trị hình thức, tác giả lại chú ý đến tính kịch trong kết cấu và thủ pháp miêu tả, trong tâm trạng nhân vật và trong nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ truyện thơ. Công phu và sâu sắc nhất phải kể đến luận án Phó tiến sỹ của tác giả Lê Trường Phát: Đặc điểm kết cấu truyện thơ các dân tộc ít người Việt Nam [29]. Công trình khoa học này đã bàn tới thi pháp của tác phẩm, nhưng do mục đích nghiên cứu nên chỉ đi sâu vào vấn đề kết cấu. Trang 95 của luận án, tác giả tóm tắt khái quát nội dung tác phẩm (11 dòng) và lập sơ đồ gồm 6 biến cố - sự kiện: Anh chị quen 4 nhau, lớn lên, yêu nhau; Bị cha mẹ Chị từ chối, Anh bỏ đi buôn để khi về có tiền sẽ cưới Chị; Ở nhà, Chị bị ép gả, Chị cố trì hoãn nhưng đám cưới vẫn diễn ra; Anh trở về đúng lễ cưới, Anh tiễn Chị cách để được đoàn tụ; Chị bị gả bán nhiều lần; Cuối cùng họ được gặp lại nhau và sống hạnh phúc. Ở phần so sánh cốt truyện, tác giả nhận định: “Tiễn dặn người yêu đã hút vào lòng mình cả dân ca Tản chụ xống xương, cả dân ca Xắng chụ. Nhưng không sử dụng nguyên xi mà có cải tiến cho phù hợp với chủ đề của cốt truyện mới”[29: 99]. Tiếp đó, tác giả so sánh cốt truyện Tiễn dặn người yêu với cốt truyện và Tản chụ xống xương để thấy sự kế thừa và phát triển của Tiễn dặn người yêu. Tác giả cũng tìm hiểu dấu vết của dân ca trong Tiễn dặn người yêu ở các phương diện: nhân vật không có tên, sự vay mượn chi tiết tiết từ dân ca. Về ngôn ngữ thơ, Lê Trường Phát đã chỉ ra sự sai lệch của việc dịch thơ đồng thời chỉ ra sự thay đổi phong cách học giữa lời dịch thơ của Mạc Phi và nguyên tác. Cũng về vấn đề ngôn ngữ truyện thơ, tác giả tìm hiểu cách mở đầu làm cho người kể chuyện chính là một nhân vật của truyện. Về vấn đề truyện thơ và việc sử dụng dân ca, tác giả tìm hiểu trước hết là vấn đề môi trường diễn xướng và chỉ ra: Truyện thơ và dân ca có sự tương đồng trong cách tư duy nghệ thuật. Công trình Nghiên cứu thi pháp truyện thơ Tiễn dặn người yêu – luận văn thạc sỹ của tác giả Ngô Thanh Quý [35], luận văn gồm 5 chương: Chương I: Truyện thơ Tiễn dặn người yêu trong hoàn cảnh môi trường địa lí tự nhiên – lịch sử tộc người Tây Bắc. Ở chương này, tác giả tập trung vào việc xem xét hoàn cảnh của môi trường sống của người Thái và sơ lược về lịch sử tộc Thái. Chương II: Thi pháp kết cấu cốt truyện. Tác giả tập trung phân tích kết cấu trên các phương diện: Kết cấu của tác phẩm; nhóm thể loại của tác phẩm; phương thức kết cấu của tác phẩm; ảnh hưởng của ca dao, dân ca; Chương III: Thi pháp nhân vật truyện thơ Tiễn dặn người yêu Tác giả tập trung vào hai nội dung: nhân vật trữ tình trong tác phẩm và phương thức xây dựng nhân vật. 5 Chương IV: Thi pháp không gian – thời gian. Ở phần thi pháp không gian, tác giả tìm hiểu thi pháp không gian vũ trụ, không gian gia đình, không gian thiên nhiên. Nội dung thứ hai là tìm hiểu kiểu thời gian hiện thực và thời gian tâm trạng của tác phẩm. Chương V: Thi pháp lời văn nghệ thuật Tác giả tập trung phân tích: lời văn đa giọng điệu, lời văn nhiều điển tích, nhiều hình thức ngôn ngữ. Như vậy, tác giả Ngô Thị Thanh Quý tập trung mối quan tâm vào phạm trù hình thức: kết cấu, cốt truyện, nhân vật, không gian thời gian. Thi pháp ở đây được tác giả hiểu là các nguyên tắc, phương thức biểu hiện bên ngoài tức là các hình thức quy phạm của thể loại. 2.2. Về truyện thơ H’Mông Sau chiến thắng chống Pháp, miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, công tác sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian các dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía Bắc được quan tâm đẩy mạnh. Cùng với văn học dân gian các dân tộc khác, văn học dân gian H’Mông được nhiều người chú tâm sưu tầm và nghiên cứu. Vào những năm 60 của thế kỷ XX, nhà sưu tầm Doãn Thanh (một cán bộ sở Giáo dục Lào Cai) đã tiến hành sưu tầm dân ca H’Mông, năm 1967 ra mắt bạn đọc cuốn “Dân ca H’Mông”, đây là cuốn sách giới thiệu khá đầy đủ diện mạo dân ca H’Mông với năm loại chính: Tiếng hát tình yêu, Tiếng hát mồ côi, Tiếng hát làm dâu, Tiếng hát cúng ma và Tiếng hát cưới xin”. Cùng thời gian này hai tác giả Bùi Lạc và Mạc Phi cũng công bố truyện thơ “Tiếng hát làm dâu Tây Bắc” (in trên tạp chí văn học 3/1964) và một số bài dân ca H’Mông ở vùng Sơn La, Lai Châu. Ngay sau khi có những tác phẩm dân ca H’Mông đầu tiên được công bố, tác giả Tô Hoài đã có bài “Tiếng hát làm dâu, tiếng hát đau thương, tiếng hát căm hờn ngàn đời của người phụ nữ H’Mông” in trên tạp chí văn học số 2/1965. Ngoài việc 6 phân tích nội dung, tác giả lưu ý một số vấn đề về dịch thuật sao cho đúng với bản chất của dân ca H’Mông đầu tiên và truyền thống văn hóa, tâm lý người H’Mông. Năm 1974, Doãn Thanh tiếp tục cho ra đời cuốn Dân ca H’Mông Lào Cai. Gồm 45 bài, in song ngữ Việt – H’Mông. Năm 1984, các tác giả Doãn Thanh, Hoàng Thao tiến hành tuyển chọn, chỉnh lý và bổ sung một số bài dân ca H’Mông đã công bố trên các sách báo, tạp chí và cho ra mắt bạn đọc cuốn Dân ca H’Mông với lời giới thiệu của Chế Lan Viên do nhà xuất bản văn học phát hành. Cuốn sách tuyển đủ năm loại hát của dân ca H’Mông với lời dịch chau chuốt hơn. “Trong đó Tiếng hát làm dâu (Gầu ua nhéng) chiếm một số lượng khá lớn. “Loại này gồm nhiều bài lẻ, nhưng có những bài “hát kể chuyện” dài tới vài ba trăm câu – rất gần với truyện thơ vì đã thành truyện với một vài nhân vật, mà nhân vật chính là người phụ nữ bị ép duyên, bị gia đình nhà chồng đày đọa” [37: 10]. Đây chính là gợi ý thú vị để người viết thực hiện đề tài nghiên cứu. Mười năm sau, tác giả người dân tộc H’Mông Hùng Đình Quý cho ra đời cuốn Dân ca H’Mông Hà Giang gồm hai tập, chủ yếu thuộc hai loại: Tiếng hát tình yêu và Tiếng hát làm dâu do ông sưu tầm tại tình Hà Giang. Ngoài ra, từ năm 1990 trở lại đây, ở một số tỉnh có người H’Mông cư trú như Yên Bái, Lai Châu, Lào Cai… người ta tiến hành sưu tầm nghiên cứu dân ca H’Mông in rải rác trên các báo trung ương và địa phương. Năm 1995, tác giả Phạm Thu Yến cho in trên tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 2/1995 bài “Đặc điểm kết cấu dân ca H’Mông”. Đây là bài đầu tiên đi sâu nghiên cứu một phương diện nghệ thuật của dân ca H’Mông, bài viết đã chỉ ra đặc điểm và giá trị cơ bản nhất của kết cấu dân ca H’Mông gắn với đặc trưng thể loại trên quan điểm của thi pháp học hiện đại và đã đặt ra những gợi ý có tính chất nền tảng giúp chúng tôi thực hiện đề tài này. Năm 1997, tác giả Lê Trường Phát với luận án Tiến sỹ “Thi pháp truyện thơ các dân tộc thiểu số”, luận án đặt thể loại truyện thơ dân tộc trong bối cảnh truyện thơ khu vực Đông Nam Á và đối sánh để chỉ ra sự ảnh hưởng, sự độc lập tương đối 7 của thể loại. Luận án lựa chọn một số truyện thơ H’Mông để đối chiếu với dân ca H’Mông và truyện thơ một số dân tộc khác. Luận án chỉ rõ truyện thơ “Tiếng hát làm dâu đã thu hút vào cốt truyện của mình các mảnh nội dung dần dần đã mang yếu tố cốt truyện của 6 kiểu bài dân ca Tiếng hát làm dâu”.[29: 56]; tác giả còn chứng minh được rằng truyện thơ Tiếng hát làm dâu hình thành là “trữ tình đã tự sự hóa và một cốt truyện với những chuỗi sự kiện, tình tiết nối nhau hình thành”[29: 56]; tác giả còn chỉ ra truyện thơ Tiếng hát làm dâu lấy mô típ có sẵn trước từ dân ca H’Mông. Các công trình nghiên cứu trên mới chủ yếu tập trung vào công tác sưu tầm, có một vài bài viết chỉ ra giá trị nội dung nghệ thuật của các tác phẩm. Đặc biệt chú ý hơn cả là công trình nghiên cứu của tác giả Lê Trường Phát, tác giả bước đầu đã ít nhiều có sự so sánh truyện thơ với dân ca và truyện thơ giữa các nhóm dân tộc với nhau. Tuy nhiên công trình dựa trên lý thuyết Thi pháp học và mới chỉ ra sự tương đồng và khác biệt của truyện thơ các dân tộc về mặt kết cấu. Chúng tôi nhận thấy việc so sánh truyện thơ dân tộc Thái và truyện thơ dân tộc H’Mông một cách toàn diện là hết sức cần thiết. Lần đầu tiên chúng tôi mạnh dạn vận dụng lý thuyết văn học so sánh vào nghiên cứu truyện thơ dân tộc Thái và truyện thơ dân tộc H’Mông trên cứ liệu hai tác phẩm Tiễn dặn người yêu và Tiếng hát làm dâu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu: Triển khai đề tài này, chúng tôi cố gắng vận dụng lí thuyết văn học so sánh (trường phái Pháp) để chỉ ra được những điểm tương đồng và những điểm khác biệt giữa thể loại truyện thơ của hai dân tộc mà tiêu biểu là hai tác phẩm Tiễn dặn người yêu và Tiếng hát làm dâu. Tìm ra nguyên nhân và lý giải vì sao có sự tương đồng, ảnh hưởng, đặc sắc riêng của truyện thơ dân tộc Thái và truyện thơ dân tộc H’Mông. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nghiên cứu đã nêu, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ sau: - Tìm hiểu môi trường tự nhiên và cơ sở xã hội của dân tộc Thái và dân tộc H’Mông. 8 - So sánh để chỉ ra sự tương đồng của truyện thơ dân tộc Thái và dân tộc H’Mông trên cứ liệu hai tác phẩm tiêu biểu Tiễn dặn người yêu và Tiếng hát làm dâu. Lý giải nguyên nhân. - So sánh để chỉ ra sự khác biệt của truyện thơ dân tộc Thái và dân tộc H’Mông trên cứ liệu hai tác phẩm tiêu biểu Tiễn dặn người yêu và Tiếng hát làm dâu. Lý giải nguyên nhân. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Truyện thơ dân tộc Thái và truyện thơ dân tộc H’Mông với hai tác phẩm tiêu biểu Tiễn dặn người yêu và Tiếng hát làm dâu. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Kho tàng truyện thơ dân tộc Thái và dân tộc H’Mông còn đang trên con đường khám phá, tìm hiểu, hiện nay việc sưu tầm và dịch thuật còn chưa khai thác hết, mặt khác truyện thơ Tiễn dặn người yêu và truyện thơ Tiếng hát làm dâu là những tác phẩm lớn và tiêu biểu cho truyện thơ hai dân tộc. Do trình độ và khả năng bản thân có hạn, chúng tôi giới hạn khảo sát trên hai truyện thơ Tiễn dặn người yêu và truyện thơ Tiếng hát làm dâu là chính. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có so sánh với một số truyện thơ khác của hai dân tộc này hoặc dân tộc khác. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện được nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra, ngoài những phương pháp nghiên cứu văn học nói chung và phương pháp nghiên cứu văn học dân gian nói riêng, đặc biệt ưu tiên và vận dụng triệt để lý thuyết văn học so sánh, chúng tôi còn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp hệ thống. - Phương pháp so sánh. Dựa trên phương pháp so sánh đồng đại và lịch đại để chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt của truyện thơ hai dân tộc. - Vận dụng và kết hợp các hướng nghiên cứu: Thi pháp học, Ngôn ngữ học, Phong cách học, Xã hội học, dân tộc học. 9 6. Dự kiến đóng góp: Chọn đề tài So sánh truyện thơ dân tộc Thái và truyện thơ dân tộc H’Mông (trên cứ liệu hai tác phẩm Tiễn dặn người yêu và Tiếng hát làm dâu), chúng tôi muốn góp một phần nhỏ trong việc: - Phát hiện và chỉ rõ những điểm tương đồng và khác biệt của cùng một thể loại văn học dân tộc khác nhau. Lý giải sự giống và khác nhau ấy. - Chỉ ra sự ảnh hưởng và tồn tại độc lập của truyện thơ dân tộc Thái và truyện thơ dân tộc H’Mông. - Từ đó nhận biết một cách cụ thể hơn về tâm tư tình cảm của đồng bào dân tộc Thái và đồng bào dân tộc H’Mông, sự giao lưu của hai tộc người về mặt văn hóa, văn học. 10 PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 MÔI TRƯỜNG VĂN HÓA 1.1. Dân tộc Thái 1. 1.1. Môi trường tự nhiên Người Thái ở Việt Nam là một dân tộc khá đông và sống chủ yếu tập trung ở khu vực Tây Bắc – Bắc Bộ. Đây là địa bàn khá rộng khoảng 30.000 km2 và vô cùng hiểm trở [45: 87]. Dưới chân những đỉnh núi cao, những dãy núi hùng vĩ là hàng chục con sông lớn chia cắt địa bàn như sông Đà, sông Mã, sông Nậm Na… Trước đây, cứ vào mùa mưa là Tây Bắc bị cắt vụn do nước ở những con khe, con suối dâng rất cao. Vì vậy mà cuộc sống hầu như trở về chế độ tự cấp, tự túc. Núi rừng hiểm trở là lí do chính tạo nên sự đi lại khó khăn nên việc giao lưu rất hạn chế, dẫn tới nhu cầu giao lưu luôn luôn chất chứa trong mỗi con người. Người Thái là dân tộc sớm sống theo nghề trồng lúa nước nên họ chọn các thung lũng làm địa bàn cư trú. Nguồn lương thực chủ yếu là từ ruộng vì họ có làm nương nhưng ít hơn các dân tộc khác, vì vậy họ rất ít phải lưu lại lâu ngày trên lán nương. Chính điều này tạo ra đặc điểm nền văn hóa thung lũng. Đó là điểm đặc trưng của nền văn hóa người Thái cổ. Một mặt do giao thông khó khăn, mặt khác do điều kiện địa lý và đất đai phì nhiêu nên nguồn lương thực rất dồi dào, thực phẩm thì tự chăn nuôi săn bắn mà có, vì thế họ rất ít rời khu vực sinh sống. Cuộc sống bó hẹp trong thung lũng làm cho con người càng có khát vọng giao lưu hơn, vì thế người Thái có rất nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian cộng đồng như ca – múa, trò chơi dân gian,… 1.1.2. Cơ sở xã hội Vấn đề lịch sử người Thái ở Việt Nam là một vấn đề quan trọng liên quan mật thiết đến việc tìm hiểu sự hình thành văn hóa tộc người Thái ở việt Nam nói chung và văn học dân gian Thái nói riêng. Tộc Thái cổ có mặt ở Việt Nam từ rất lâu nhưng tổ tiên của họ không hình thành trên đất nước Việt Nam [46: 87]. Hiểu được 11 điều này rất có ý nghĩa khi ta cắt nghĩa tại sao tuy người Thái cổ có đời sống sinh hoạt bó hẹp trong một thung lũng nhưng lại có những phong tục tập quán giống các dân tộc khác. Theo các nhà Dân tộc học và Sử học [46: 46] thì tộc người Thái cổ đại thuộc một trong số các tộc người thuộc thành phần Mônggôlôít phương Nam, hình thành và sinh sống ở Nam Trung Quốc và Bắc Đông Dương. Trong quá trình sinh sống, một mặt do điều kiện sinh hoạt, mặt khác do hoàn cảnh lịch sử nên tộc người này đã có những cuộc thiên di tới các địa bàn khác trong đó có Việt Nam. Về sự có mặt của tộc người Thái ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu [45; 46] đều thống nhất với quan điểm cho rằng đó là kết quả của cuộc thiên di diễn ra vào cuối thế kỉ XI – đầu thế kỉ XII. (Kết quả nghiên cứu khoa học khá trùng khớp với các truyền thuyết còn lưu truyền trong dân gian đến tận ngày nay). Vào thời điểm đó có hai anh em họ Tạo là Tạo Xuông và Tạo Ngơn đã thám hiểm và dẫn theo một bộ phận người dân tộc mình xuôi theo sông Hồng để thâm nhập vào Việt Nam. Họ đã chọn thung lũng rộng lớn Mường Lò làm nơi dừng chân. Thấy điều kiện tự nhiện thuận lợi, bộ phận tộc Thái này đã lấy Mường Lò làm nơi định cư. Như vậy, bộ phận tộc người này vào Việt Nam từ phía Nam Trung Quốc, có lẽ là vì thế mà họ đã mang theo những nét văn hóa, phong tục, tập quán của người Trung Quốc cổ (?) bởi bóng dáng của nét văn hóa này khá rõ trong truyện thơ dân tộc Thái mà tiêu biểu là Tiễn dặn người yêu. Sau khi ổn định cuộc sống ở Mường Lò (Văn Chấn – Yên Bái), bộ phận người Thái này nhanh chóng lớn mạnh và họ tiếp tục cuộc trường chinh đi tìm đất mới. Hậu duệ của họ Tạo là Lạn Chượng tiến quân qua Sơn La rồi lên tới Điện Biên. Họ lại khai bản lập mường ở đó. Một bộ phận người Thái cổ khác do Nhọt Cằm lãnh đạo cũng bắt đầu cuộc thiên di sang phía Nam của Tây Bắc Việt Nam. Đó là tộc người Thái thuộc dòng Thái trắng. Bắt đầu từ giai đoạn này người Thái gần như đã làm chủ khu vực Tây Bắc. Lịch sử hình thành tộc người Thái đã trải qua những cuộc thiên di khá vất vả qua nhiều vùng đất, những cuộc hành trình ấy đã tạo cho người Thái ở Tây Bắc một 12 sự hỗn nhập văn hóa. Họ vừa để lại những nét văn hóa của họ trên đường đi, vừa tiếp nhận những nét văn hóa khác. Do đó, nền văn hóa của người Thái cổ ở Tây Bắc khá phong phú nhưng vẫn mang những nét thống nhất chung rất đặc trưng của dân tộc Thái. Tuy nhiên, những kiểu thiên di ấy vẫn chưa đủ để phủ kín dân cư trên khắp một vùng lãnh thổ rộng lớn và vô cùng hiểm trở của vùng đất Tây Bắc, mà nó phụ thuộc rất lớn vào tốc độ của kiểu thiên di thứ hai. Nếu coi những cuộc thiên di thứ nhất là những cuộc di dân theo “chiều thẳng” thì hình thức di dân thứ hai phổ biến nhất ở thời kì sau này là những cuộc di dân theo “tuyến sóng”[46: 87]: đầu tiên, một bộ phận thế hệ thứ nhất của người Thái đến sinh sống ở thung lũng nào đó theo phương thức di dân chiều thẳng. Một thời ông các thế hệ tiếp theo phát triển thành nhiều bản mới bên cạnh bản cũ lập thành các mường. Nhưng một mặt, các thung lũng có địa bàn không rộng nên nhanh chóng trở nên chật chội, mặt khác là do truyền thống canh tác thô sơ nên đất đai không còn mầu mỡ nữa, một bộ phận các gia đình tự giác di cư đến một thung lũng khác để canh tác và sinh sống, lập nên thế hệ đầu tiên của mường mới. Họ sinh sống ở đó đến khi hội đủ các điều kiện thì con cháu họ tiếp tục di cư đến các thung lũng lân cận. Cứ thế hết đời này sang đời khác, người Thái mở rộng dần dần địa bàn sinh sống để gần như phủ kín địa bàn Tây Bắc. Trong quá trình di dịch, người Thái đã có một quá trình tiếp nhận các nét văn hóa khác, nhưng những sự tiếp nhận ấy không làm mất đi bản sắc dân tộc. “Khi đi xa họ mang theo mình ngoài đồ dùng sinh hoạt là phong tục, tập quán. Họ cũng không quên mang theo hai vật quý giá là “quyển sách và khẩu súng” [44: 288]”. Điều này đã lý giải vì sao những tác phẩm văn học đồ sộ như Tản chụ xiết xương, Tản chụ xống xương, Xống chụ xôn xao…có thể lưu truyền rộng rãi trên một địa bàn rộng lớn và hiểm trở như khu vực Tây Bắc Việt Nam. Truyện thơ Thái tiêu biểu là Tiễn dặn người yêu ra đời và lưu truyền trong một môi trường tự nhiên và đặc điểm xã hội như vậy nên tác phẩm mang khá đậm nét những đặc điểm của cuộc sống rất đặc biệt ấy. 13 Vấn đề tín ngưỡng có ảnh hưởng rất lớn trong đời sống tinh thần các tộc người, đời sống tinh thần dân tộc Thái cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng ấy. Truyện thơ dân tộc Thái là văn học dân gian nên chắc chắn nó chứa đựng những vấn đề có chiều sâu tâm linh. Khảo sát truyện thơ dân tộc Thái tiêu biểu là Tiễn dặn người yêu không thể bỏ qua việc khảo sát về tôn giáo, tín ngưỡng của người Thái. Nhưng mục đích của đề tài không nằm ở việc tìm hiểu sâu thế giới tâm linh của người Thái, mà chỉ xem đó là một cách để góp phần lý giải những hiện tượng nghệ thuật của tác phẩm. Vì vậy, chúng tôi chỉ tập trung khái quát những nét quan trọng và có biểu hiện rõ nét trong một số tác phẩm. Trước hết, người Thái là một dân tộc mà phần đông dân số (ở Việt Nam) không theo một tôn giáo ngoại lai nào. Ngay cả Phật giáo là một tôn giáo rộng rãi nhất cũng chỉ phát triển đến Nghĩa Lộ (Thung lũng Mường Lò), mà không sang được Sơn La, Lai Châu. Vì thế, nhiều nhà nghiên cứu gọi tín ngưỡng của người Thái là “Tôn giáo bản địa” hoặc “Tôn giáo đa thần”. Màu sắc tôn giáo người Thái thực chất là những cách giải thích các hiện tượng khách quan trong cuộc sống. Vì vậy, tôn giáo của người Thái mang tín ngưỡng rõ rệt hơn. Theo tín ngưỡng này, người Thái cho rằng có sự tồn tại hai thế giới song song nhau là thế giới của thực tại và thế giới tâm linh còn gọi là thế giới các phi (nghĩa là thế giới các ma). Trong ý niệm của người Thái, ma là một thế lực siêu nhiên nhưng không hoàn toàn đồng nghĩa với cái ác. Ma là một đối tượng mà nếu con người luôn thờ cúng thì sẽ phù hộ những điều tốt lành, nếu con người không thường xuyên thờ cúng thì sẽ gây những tai họa, nên việc thờ cúng không hướng tới các đối tượng siêu phàm mà chỉ mang tính chất cầu an, cầu phúc. Về thế giới của Phi, người Thái cho rằng cao nhất và có quyền lực tối cao là Phi Then (ma ở trên trời) tập trung ở Mường Then (mường của người trời) và đứng đầu Then (ông trời). Dưới ông Trời là các Phi Then chịu trách nhiệm cai quản tất cả mọi lĩnh vực khác trong xã hội, đời sống, và với mọi sự vật cỏ cây, sông, núi… Điều này được phản ánh trong nhiều truyện thơ đặc biệt là Tiễn dặn người yêu với sự xuất hiện của ông Trời, các biến thể của ông Trời và các quan niệm có liên quan tới ông Trời như mệnh, số, bói…
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan