Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ So sánh sự khác biệt giữa những từ hán việt tự tạo với các từ hán tương đương...

Tài liệu So sánh sự khác biệt giữa những từ hán việt tự tạo với các từ hán tương đương

.PDF
120
1661
101

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ============================ ĐẶNG NGỌC XUÂN (DENG YUCHUN) SO SÁNH SỰ KHÁC BIỆT GIỮA NHỮNG TỪ HÁN VIỆT TỰ TẠO VỚI CÁC TỪ HÁN TƯƠNG ĐƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Hà Nội, 2011 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ============================ ĐẶNG NGỌC XUÂN (DENG YUCHUN) SO SÁNH SỰ KHÁC BIỆT GIỮA NHỮNG TỪ HÁN VIỆT TỰ TẠO VỚI CÁC TỪ HÁN TƯƠNG ĐƯƠNG Chuyên ngành: Lí luận ngôn ngữ MÃ SỐ: 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Người hướng dẫn khoa học:GS.TS.Trần Trí Dõi Hà Nội, 2011 Mục lục. Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn Quy định viết tắt Mục lục..............................................................................................................1 Phần I : Mở đầu................................................................................................3 1. Lí do chọn đề tài...........................................................................................3 2. Mục đích, đối tượng và phương pháp nghiên cứu của luận văn..................4 3. Ý nghĩa của đề tài.........................................................................................5 4. Bố cục của luận văn.....................................................................................5 Phần II : Nội dung............................................................................................6 Chương I : Nhận diện từ Hán - Việt tự tạo trong lớp từ gốc Hán....................6 1.1. Từ gốc Hán...............................................................................................6 1.1.1 Sơ lược về quá trình tiếp xúc giữa tiếng Việt và tiếng Hán trong lịch sử.. ........................................................................................................................6 1.1.2. Một số quan niệm liên quan đến từ gốc Hán.......................................8 1.2. Từ Hán Việt...........................................................................................17 1.2.1. Phân biệt từ , Hán - Việt cổ và gốc Hán địa phương.........................17 1.2.2. Từ đơn và từ ghép........................................................................... ..23 1.3. Từ Hán - Việt tự tạo................................................................................26 1.3.1. Yếu tố..................................................................................................26 1.3.2. Từ Hán - Việt tự tạo trong tiếng Việt..................................................27. 1.4. Tiểu kết...................................................................................................30 Chương II : Xác lập danh sách từ Hán - Việt tự tạo trong vốn từ tiếng Việt..... ........................................................................................................................31 1 2.1. Tiêu chí và cách thức khảo sát.................................................................31 2.1.1. Tiêu chí khảo sát..................................................................................31 2.1.2. Phương thức khảo sát..........................................................................32 2. 2. Nhận xét về các từ tự tạo.......................................................................33 2.2.1. Nhận xét 1: Về mô hình cấu tạo...........................................................34 2.2.2. Nhận xét 2: Đặc điểm về ngữ âm.........................................................36 2.2.3. Nhận xét 3: Đặc điểm về ngữ nghĩa....................................................37 2.2.4. Nhận xét 4: Đặc điểm về hoạt động ngữ pháp....................................38 2.3. Tiểu kết...................................................................................................40 Chương III : Ứng dụng trong việc giảng dạy tiếng Việt...............................41 3.1. Sự phức tạp của từ Hán - Việt tự tạo khi người Trung Quốc dạy và học tiếng Việt.......................................................................................................41 3.1.1. Nhận xét chung....................................................................................41 3.1.2. Những dạng thường gặp của từ Hán - Việt tự tạo................................42 3.1.3. Những dạng Hán - Việt tự tạo theo phương thức tắt từ vựng.............58 3.2 Tiểu kết....................................................................................................58 Phần III : Kết luận.........................................................................................61 Tài liệu tham khảo.........................................................................................63 Phụ lục...........................................................................................................67 2 MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài. Trong quá trình phát triển lịch sử, tiếng Việt đã có những vay mượn quan trong khác nhau làm phong phú thêm vốn từ vựng của mình. Trong số những vay mượn góp phần hoàn thiện tiếng Việt như thế, việc vay mượn từ gốc Hán làm thành lớp từ Hán - Việt tự tạo chiếm một vị trí khá đặc biệt. Do tiếng Việt và tiếng Hán đều là ngôn ngữ âm tiết tính, nên những vay mượn này thường có tình trạng hiện nay vỏ ngữ âm gần nhau hoặc tương ứng với nhau. Nhưng nghĩa của những đơn vị ngữ âm tương đương ấy không phải bao giờ cũng có sự tương ứng trong sử dụng. Vì thế, những từ Hán - Việt tự tạo ấy ở tiếng Việt, khi so sánh với từ tiếng Hán hiện đại có dạng thức ngữ âm tương tự, nghĩa của có sự tương ứng khá phức tạp, đa dạng và phong phú. Chính vì thế với tư cách là một người Trung Quốc học và dạy tiếng Việt cho sinh viên Trung Quốc, chúng tôi nhận thấy tình trạng thục tế nói trên một mặt vừa tạo ra những thuận lợi, một mặt vừa gây ra những khó khăn riêng khi sinh viên Trung Quốc tiếp nhận lớp từ vựng này. Trong đó khó khăn rõ nhất là có những từ, về hình thức ngữ âm thì tương ứng với từ Hán hiện nay, nhưng về nghĩa thì những đơn vị ấy không tương ứng với nhau. Chính sự tương tự nhau hay gần nhau về hình thức ngữ âm nhưng lại khác biệt về nghĩa trong sử dụng hiện nay làm cho người Trung Quốc học tiếng Việt, do thói quen của tiếng mẹ đẻ chi phôi, nắm bắt không chính xác nghia của từ tiếng Việt. Từ đó dẫn đến việc sử dụng không chính xác nghĩa của từ tiếng Việt. Trong một thực tế như thế, tôi chọn đề tài “ So sánh sự khác biệt giữa những từ Hán - Việt tự tạo và các từ Hán tương ứng ” để làm rõ những từ tiếng Việt gốc Hán có sự tương đương về ngữ âm nhưng lại khác biệt về nghĩa nhằm giúp cho người Trung Quốc học và dạy tiếng Việt đúng với nghĩa được 3 dùng trong tiếng Việt. 2. Mục đích và đối tượng và phương pháp nghiên cứu của đề tài. a. Mục đích và đối tượng nghiên cứu. Từ trước đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về từ Hán - Việt. Những công trình nghiên cứu này chủ yếu xoay quanh một số vấn đề như truy tìm nguồn gốc của các từ Hán - Việt, cách đọc từ Hán - Việt, phân loại từ Hán - Việt, giải nghĩa từ Hán - Việt .v.v. Tuy nhiên, trong thực tế có những từ Hán - Việt mà nghĩa của nó có khác biệt so với nghĩa của từ Hán hiện đại có ngữ âm tương đương. Điều này dễ khiến cho người Trung Quốc học tiếng Việt bị nhầm lẫn, dẫn tới việc sử dụng sai. Vì vậy, mục đích của đề tài này là khảo sát những từ Hán - Việt đó rồi lập ra một danh sách khả dĩ so sánh chúng với các từ Hán có vỏ ngữ âm tương đương để giúp cho người Trung Quốc học tiếng Việt có phương tiện đối chiếu, giúp cho việc học và dạy tiếng Việt được thuận lợi hơn. Như vậy, đối tượng của luận văn là những từ Hán - Việt tự tạo trong tiếng Việt. Những từ này thường có vỏ ngữ âm tương ứng với từ tiếng Hán hiện nay. Đồng thời, giữa từ Hán - Việt và từ tiếng Hán hiện nay ấy có sự khác biệt về ý nghĩa trong sử dụng. b, Phương pháp nghiên cứu. Khi thực hiện nhiệm vụ này, chúng tôi sử dụng phương pháp truyền thống của ngôn ngữ học là phương pháp miêu tả. Thông qua miêu tả những từ Hán Việt tự tạo trong tiếng Việt, trên cơ sở phân tích và lý giải, chúng tôi sẽ nêu lên những nhận xét của mình về đối tượng này. Đây là cách làm việc xuyên suốt các tiểu mục của luận văn. Để hỗ trợ cho phương pháp nghiên cứu chính nói trên, trong luận văn chúng tôi cũng sử dụng thêm một vài thao tác nghiên cứu. Thao tác phụ trợ thứ nhất là thao tác thống kê nhằm tập hợp danh sách những từ Hán - Việt tự 4 tạo trong tiếng Việt. Thao tác phụ trợ thứ hai là thao tác đối chiếu nhằm so sánh những đơn vị gốc Hán trong tiếng Việt với những đơn vị tương đương trong tiếng Hán, qua đó nhận diện sự khác nhau và giống nhau giữa chúng. 3. Ý nghĩa của đề tài. Giúp cho người Trung Quốc dạy và học tiếng Việt có một cơ sở nhất định để sử dụng các từ Hán - Việt tự tạo được chuẩn xác hơn, tránh sự nhầm lẫn do thói quen sử dụng tiếng Hán. 4. Bố cục của luận văn. Bố cục của luận văn gồm những phần sau: - Phần Mở đầu : Trình bày lí do chọn đề tài, mục đích, đối tương khảo sát, ý nghĩa nghiên cứu của đề tài và bố cục của luận văn. - Chương I : Nhận diện từ Hán - Việt tự tạo trong lớp từ gốc Hán. - Chương II : Xác lập danh sách từ Hán - Việt tự tạo trong vốn từ tiếng Việt. - Chương III : Ứng dụng trong việc giảng dạy tiếng Việt. - Phần Kết luận. - Phần Tài liệu tham khảo - Phần Phụ lục 5 NỘI DUNG Chương I Nhận diện từ tự tạo trong lớp từ gốc Hán. 1.1 Từ gốc Hán trong tiếng Việt. “Theo thống kê, trên thế giới hiện nay có khoảng 6800 ngôn ngữ và dường như không có ngôn ngữ nào mà trong hệ thống từ vựng lại không có hiện tượng vay mượn. Nói cách khác, vay mượn từ vựng là hiện tượng phổ biến của mọi ngôn ngữ … Theo Ed.Sapir thì “ nhu cầu giao lưu đã khiến cho những người nói một ngôn ngữ nào đó tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp với những người nói những ngôn ngữ lân cận hay có ưu thế về mặt văn hóa. Sự giao lưu có thể có tính chất hữu nghị hay thù địch. Nó có thể diễn ra trên bình diện bình thường của những quan hệ kinh doanh hay buôn bán, hoặc có thể là một sự vay mượn hay trao đổi những giá trị tinh thần, nghệ thuật, khoa học, tôn giáo. Như vậy, sự xuất hiện của từ nước ngoài trong một ngôn ngữ có thể được xem là hiện tượng tất nhiên, khó tránh khỏi, dù muốn hay không“ [21,9]. Tiếng Việt , vì thế, cũng không phải là một trường hợp ngoại lệ. Điều đó có nghĩa là, ngoài những từ có nguồn gốc khác, từ gốc Hán trong tiếng Việt là một bộ phận góp phần làm phong phú thêm vốn từ của tiếng Việt. Chính vì thế, hiểu rõ thêm về lớp từ này trong vốn từ tiếng Việt sẽ giúp ích cho việc học và sử dụng chúng. 1.1.1. Sơ lược về quá trình tiếp xúc giữa tiếng Việt và tiếng Hán trong lịch sử. Tiếng Việt và tiếng Hán đều là những ngôn ngữ có lịch sử lâu đời. Sự tiếp xúc giữa hai ngôn ngữ này bắt đầu khi phong kiến Trung Hoa bắt đầu thời kì đô hộ ở phương Nam, trong đó có phần lãnh thổ mà người Việt cư trú và xây 6 dựng nhà nước của mình. Trong quá trình tiếp xúc giữa hai ngôn ngữ, tiếng Việt đã tiếp nhận một khối lượng từ ngữ rất lớn của tiếng Hán để làm giàu thêm kho từ ngữ của mình. Hiện tượng này diễn ra không giống nhau trong các thời kì lịch sử. Nếu như trong giai đoạn đầu Công nguyên, hiện tượng tiếp nhận từ ngữ Hán của tiếng Việt chỉ có tính chất rời rạc, lẻ tẻ và chủ yếu bằng con đường khẩu ngữ qua sự tiếp xúc trực tiếp với người Việt với người Hán thì đến đời Đường, tiếng Việt đã tiếp nhận các từ ngữ Hán một cách có hệ thống bằng con đường sách vở và chính thức. Thời nhà Đường, các trường lớp dạy chữ ở Việt Nam được mở ra ở nhiều nơi. Vì vậy mà tiếng Hán đời Đường đã du nhập vào Việt Nam một cách có hệ thống: các từ Hán đã nhập vào Việt Nam từ trước dưới dạng ngữ âm cổ thì nay lại được nhập lại một lần nữa nhưng dưới dạng ngữ âm Hán đời Đường. Thời kì sau đó, Việt Nam giành được quyền độc lập, thoát khỏi sự đô hộ của phong kiến phương bắc. Các triều đại phong kiến Việt Nam mặc dù vẫn lấy chữ Hán làm ngôn ngữ chính thức của Nhà nước, vẫn phát triển học hành, thi cử bằng chữ Hán, song vì không quan hệ trực tiếp với tiếng Hán như trước nữa cho nên trong khi bản thân tiếng Hán, trải qua các triều đại Tống, Nguyên, Minh, Thanh đã biến đổi rất nhiều, nhưng ở Việt Nam chữ Hán vẫn được đọc như dạng ngữ âm của tiếng Hán đời nhà Đường. Cách đọc này vẫn tồn tại cho đến nay và được người ta gọi là cách đọc Hán - Việt. Do đó, có thể hiểu cách đọc Hán - Việt là cách đọc chữ Hán ở Việt Nam của người Việt Nam dựa theo cách đọc tiếng Hán đời Đường Từ khi xuất hiện cách đọc Hán - Việt thì tất cả các từ Hán được tiếng Việt tiếp nhận bằng con đường sách vở đều có thể đọc theo âm Hán - Việt. Do người Việt có thể đọc tất cả các chữ Hán (cổ đại cũng như hiện đại) theo cách đọc Hán - Việt nên cần phân biệt trong số những từ gốc Hán của tiếng Việt 7 đâu là những từ vừa có thể đọc theo âm Hán - Việt, vừa có thể đọc theo cách khác. Sự phân biệt này là rất quan trọng. Mặt khác, không phải tất cả các chữ Hán tiếng Việt mượn ở thời nhà Đường được đọc theo âm Hán - Việt. Vì được dạy ở Việt Nam thời Đường cũng như vào thời các triều đại phong kiến ở Trung Hoa sau đấy nên nhiều từ gốc Hán lại bị ngữ âm của tiếng Việt làm cho biến đổi khác đi. Các nhà nghiên cứu cho những từ này là những từ Việt hóa. Như vậy, chỉ được phép coi là từ Việt hóa những từ gốc Hán nào thực sự nhập vào hệ thống từ vựng tiếng Việt, chịu sự chi phối của quy luật ngữ âm tiếng Việt, tham gia vào hệ thống ngữ nghĩa và ngữ pháp của tiếng Việt. Sau khi Việt Nam giành được độc lập, do là những quốc gia bên cạnh nhau, nhà nước Việt Nam vẫn tiếp tục quan hệ giao lưu với Trung Quốc. Việc giao lưu này cũng dẫn đến sự tiếp xúc và vay mượn ngôn ngữ. 1.1.2. Một số quan niệm liên quan đến từ gốc Hán Về mặt lý thuyết người ta có thể phân chia vốn từ tiếng Việt theo nguồn gốc thành một bên là các từ ngữ Việt ( hay còn quen gọi là thuần Việt ) và một bên là các từ gốc ngoại. Các từ ngữ gốc Hán thuộc các từ ngữ gốc ngoại được tiếng Việt vay mượn từ tiếng Hán. Trước hết, để hiểu đầy đủ về khái niệm từ gốc Hán trong tiếng Việt, chúng ta không thể không nhắc tới một loạt các khái niệm quan trọng trong tiếp xúc ngôn ngữ Việt – Hán. Những khái niệm này cần được phân biệt rõ ràng vì nó giúp chúng ta hiểu đúng bản chất của từ . Những khái niệm đó là cách đọc Hán - Việt, yếu tố gốc Hán, âm Hán - Việt, âm Hán - Việt cổ, âm Hán - Việt Việt hoá, từ Hán - Việt 1.1.2.1. Quan niệm của Nguyễn Tài Cẩn. Theo quan niệm của Nguyễn Tài Cẩn trong công trình nghiên cứu 8 “Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán - Việt” thì dường như " nói đến cách đọc Hán - Việt là nói đến cái vỏ ngữ âm mà người Việt gán cho hệ thống văn tự Hán, bất luận những chữ được đọc đó là những chữ như thế nào: những chữ ghi những tiếng đã được du nhập vào trong tiếng Việt như : tuyết (雪), học(学), cao(高), tuy(虽), hay những chữ không liên quan gì với tiếng Việt như : chẩm(怎), giá(架) [7, 20]. Từ quan niệm về cách đọc Hán - Việt như trên cũng có thể hiểu, cách đọc Hán - Việt là cách xử lý về ngữ âm mà người Việt dùng để đọc mọi chữ Hán, bất kể là những chữ gì, có nghĩa hay không có nghĩa trong tiếng Việt. Phần ngữ âm cụ thể của cách đọc Hán - Việt đó được gọi là âm Hán - Việt. Tuy nhiên, cũng theo Nguyễn Tài Cẩn, quan niệm về cách đọc như thế là một quan niệm không đầy đủ. Về bản chất nó phức tạp hơn nhiều và liên qua đến những khái niệm khác, trong đó có khái niệm yếu tố gốc Hán [7, 20] . Khái niệm yếu tố gốc Hán trong tiếng Việt dùng để chỉ những yếu tố có nguồn gốc từ tiếng Hán. Mỗi yếu tố này, trong tiếng Hán là một tự vuông, trong tiếng Việt là một chữ ( một âm tiết ). Đây là một số lượng hữu hạn chứ không phải toàn bộ hệ thống những chữ Hán được sử dụng trong tiếng Việt. Như vậy, khi nói về cách đọc Hán - Việt là nói về ngữ âm, còn khi nói về yếu tố gốc Hán là nói về từ vựng. Cũng theo Nguyễn Tài Cẩn, khi đối chiếu hai khái niệm cách đọc Hán Việt và yếu tố gốc Hán, hai khái niệm này được chia làm ba khu vực [7, 20]: a/ Khu vực I : là những chữ có thể đọc theo cách đọc Hán - Việt nhưng không liên quan gì đến tiếng Việt như : chẩm(怎), giá(架), ma (吗)…. Cách nói không liên quan gì đến tiếng Việt của Nguyễn Tài Cẩn có thể hiểu là những yếu tố này không tham gia vào vốn từ của tiếng Việt. Nói một cách 9 khác, nếu những yếu tố này xuất hiện thì người Việt có thể đọc nhưng không sử dụng như một yếu tố từ vựng. b/ Khu vực II : là những yếu tố người Việt mượn từ tiếng Hán, nhưng không trực tiếp liên quan đến cách đọc Hán - Việt. Có thể có ba loại khác nhau: - Loại mượn trước cách đọc Hán - Việt như : mùa ( 务 ), mùi(味), buồng(房), buồm(帆)… - Loại mượn từ đời Đường cùng với cách đọc Hán - Việt, nhưng sau có cách đọc khác với cách đọc Hán - Việt như : gan ( 肝 ), gần ( 近 ), vốn ( 本 ), vẽ ( 画 )… - Loại mượn thông qua một phương ngữ tiếng Hán như : mì chính (味 精), ca la thầu(卡啦头), vằn thắn(云吞), xá xíu(叉烧)… c/ Khu vực III : là những yếu tố mượn từ tiếng Hán thông qua cách đọc Hán - Việt. Khu vực này gồm hai loại: loại chỉ là tiếng (tức chỉ tương đương với một âm tiết), nhưng không là từ, không dùng độc lập như : quốc(国), gia(家), sơn(山), thuỷ(水)… và loại vừa là tiếng vừa là từ, có thể dùng độc lập như : cao(高), thành(成), học(学), xã(社)… Căn cứ vào cách phân chia và giải thích nói trên của Nguyễn Tài Cẩn, chỉ những yếu tố gốc Hán thuộc khu vực thứ ba này mới thuộc vào lớp từ . Như vậy, qua cách giải thích này có thể hiểu từ Hán - Việt là những từ gốc Hán có cách đọc . Những từ này có thể do ghép hai yếu tố gốc Hán có cách 10 đọc mà mỗi yếu tố trong đó không được dùng “độc lập” trong tiếng Việt; những từ này cũng có thể chỉ là một yếu tố gốc Hán có cách đọc và yếu tố đó được dùng “độc lập” trong tiếng Việt. Có thể nói qua cách giải thích như trên, Nguyễn Tài Cẩn đã giúp chúng ta hiểu rõ các khái niệm cách đọc Hán Việt, yếu tố gốc Hán, âm Hán - Việt, từ Hán - Việt mà chúng ta đang quan tâm. 1.1.2.2. Quan niệm của những nhà nghiên cứu khác ở Việt Nam. Theo quan điểm của Nguyễn Văn Thạc trong “ “Về vấn đề lạm dụng từ Hán - Việt ”, Vấn đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt ” [30] thì có thể chia lớp từ mượn tiếng Hán trong tiếng thành ba nhóm: nhóm Hán- Việt cổ, nhóm Hán - Việt và nhóm từ mượn qua tiếng địa phương. Các tác giả Hoàng Văn Hành và Hồ Lê trong “Bàn về cách dùng thuật ngữ thuần Việt thay từ ngữ Hán - Việt”, Vấn đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt “ [17] lại cho rằng theo cách hiểu thông thường từ ngữ Hán - Việt là những từ ngữ gốc Hán đọc theo âm Hán - Việt. Cũng theo cách hiểu của các tác giả này, trong thực tế hầu như tất cả các từ Hán - Việt một âm tiết đều đã được Việt hoá hoàn toàn và được coi như từ thuần Việt. Nguyễn Văn Tu trong “Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại” [34] thì xem xét các đơn vị từ vựng Hán du nhập vào tiếng Việt tương ứng với các thời kì lịch sử, và có thể chia làm những loại như sau : - Từ Hán cổ là những từ vào tiếng Việt trước đời Đường như : buồng(房), buồm(帆), chén (杯), ngựa(mã chữ Hán?), xe(车), vua(王)… đó là những từ đã ăn sâu vào khẩu ngữ tiếng Việt, không thể thiếu trong tiếng nói hàng ngày, đến mức đôi khi người Việt đã quên mất gốc gác của chúng. 11 - Từ gốc Hán mượn của đời Đường là những từ thường được gọi là từ như : án ngữ (chữ hán), chế độ (chữ hán), thương khách (chữ hán)… đây là những từ cần cho việc giao tế lúc đó, nhất là trong ngôn ngữ viết. Bàn về hệ thống , Đỗ Hữu Châu trong cuốn “Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt” [8] cũng phân các từ Hán du nhập vào tiếng Việt theo hai thời kì : - Thời kì trước cuộc đô hộ của nhà Đường : các từ Hán được phát âm theo hệ thống ngữ âm Hán cổ. Những từ này đã hoà lẫn vào các từ thuần Việt. Ví dụ: cải( 界 ), cá( 个 ), chén(杯), chúa( 主 ), buồm( 帆 ) - Thời kì sau cuộc đô hộ của nhà Đường: các từ Hán được phát âm căn bản như âm Hán - Việt hiện nay. Trong số này có một bộ phận đã bị Việt Hoá về ngữ âm, ngữ nghĩa như : gương (kính), vạch (hoạch), sức (lực)…còn đại bộ phận các yếu tố gốc Hán khác chưa được Việt hoá : vẫn giữ cách phát âm cũ, ý nghĩa cũ (tuy đã bị thu hẹp trong tiếng Việt). đây mới thực sự là yếu tố Hán - Việt. Ví dụ : ái(爱) - yêu, ấu(幼) - nhỏ, sơn(山) – núi … Theo Phan Văn Các trong “Từ ngữ gốc Hán với việc giữ gìn tính trong sáng của tiếng Việt”, Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ” [2] thì cần phân biệt rõ khái niệm từ gốc Hán và từ mượn Hán và chỉ nên coi là đơn vị gốc Hán những yếu tố đã thực sự đi vào tiếng Việt. Theo tác giả, từ mượn Hán là những đơn vị từ vựng còn mang cái vỏ " âm Hán bác học ". Ví dụ : âm vị, từ vị, khoái chá … Còn từ gốc Hán là những từ đã có sự biến đổi ở hai phương diện sau đây : a/ biến đổi ở ngữ âm. Ví dụ : gan < can; bằng < bình … b/ biến đổi ở ngữ pháp. Ví dụ : - Những từ đơn tiết và đơn tiết hoá như : áo, quần, bảng ( đơn tiết ) và 12 trạng trong ( trạng lợn, trạng Quỳnh ) ( đơn tiết hoá ). - Những đơn vị có thể kết hợp với những đơn vị thuần Việt hoặc có dấu hiệu hoá về ngữ âm như : áo ( áo xống), bạc (bạc bẽo) … Nguyễn Thiện Giáp trong “Từ vựng học tiếng Việt” [15] cho rằng: cần phân biệt từ gốc Hán trong tiếng Việt và các từ Hán đọc theo âm Hán - Việt. Từ gốc Hán trong tiếng Việt gồm hai bộ phận chính sau đây: a/ Các từ ngữ gốc Hán đọc theo âm Hán - Việt ( các từ Hán - Việt ) gồm: - Những từ ngữ Hán - Việt được tiếp nhận từ đời Đường đến nay ( gồm một loại là những từ tiếng Việt trực tiếp tiếp nhận từ tiếng Hán (chiếm đa số). Ví dụ: anh hùng(英雄), cáo trạng(告状), công nghiệp(工业), văn chương(文章) … và một loại khác là những từ tiếng Việt tiếp nhận của các ngôn ngữ khác, thông qua tiếng Hán. Ví dụ : câu lạc bộ ( tiếp nhận từ tiếng Anh ) - Những từ ngữ Hán - Việt được cấu tạo ở Việt Nam - những từ ngữ do người Việt sử dụng các yếu tố gốc Hán để tạo ra các từ mới không có trong tiếng Hán, gồm có hai loại: * Những đơn vị được tạo ra do kết hợp với các yếu tố gốc Hán. So sánh: an trí(安知), náo động(闹动), tiểu đoàn(小团), đại đội(大队) … . Tuy nhiên, trong số các ví dụ nêu trên có trường hợp không phản ánh đúng với quan niệm của tác giả. Chẳng hạn hai từ : an trí(安知), đại đội(大 队) đều có trong tiếng Hán, tức chúng thuộc loại " những từ tiếng Việt tiếp nhận trực tiếp từ tiếng Hán “ như các từ : anh hùng(英雄), công nghiệp 13 (工业), văn chương(文章) … mà tác giả đã nêu * Những đơn vị được tạo ra do một yếu tố gốc Hán + một yếu tố thuần Việt. Ví dụ: binh (兵)lính, cướp đoạt(夺), đói khổ(苦), súng trường (长) … b/ Các từ ngữ gốc Hán không đọc theo âm Hán - Việt. Bao gồm ba loại: - Những từ Hán - Việt vào Việt Nam trước đời Đường, gọi là từ Hán cổ. Những từ Hán này, đến đời Đường lại nhập vào Việt Nam lần nữa và được đọc theo âm Hán - Việt, nên tạo thành những cặp từ gốc Hán đồng nghĩa, cùng gốc nhưng có cách đọc khác nhau. Ví dụ: cả (giá)(嫁), chén (trản) (盏), buồng (phòng)(房), xe (xa)(车) … - Những từ Hán - Việt được Việt hoá: là những từ Hán - Việt sau khi vào tiếng Việt, đã có những biến đổi do quy luật ngữ âm tiếng Việt chi phối nên không còn giống dạng ngữ âm ban đầu. Ví dụ: (can) gan(干); (bổn) vốn(本); ( đao ) dao ( 刀 )… - Những từ gốc Hán tiếp nhận bằng con đường khẩu ngữ, qua cách phát âm địa phương. Trương Chính lại quan niệm từ Hán - Việt là những từ Hán được dùng trong tiếng Việt, đọc theo âm Hán - Việt, và theo nghĩa người Việt dùng. Trong [ 9 ] tác giả cho rằng, cần phân biệt tám loại từ Việt gốc Hán như sau : 1, Những từ mượn tiếng Hán từ thời thượng cổ (thời Hán). Đây là những từ đọc theo âm Hán cổ và đã được Việt hoá hoàn toàn như : cải (giới) 14 (界), chén ( trản)(盏) … 2, Những từ mượn tiếng Hán qua con đường bình dân, hoàn toàn mô phỏng âm Hán (âm Quảng Đông, Phúc Kiến, tuỳ nguồn gốc). Loại này không gây một sự lẫn lộn nào vì hình thức ngoại lai rất rõ. Ví dụ: tạp pí lu(打边 炉), mì chính(味精), vằn thắn(云吞) … 3, Những từ mượn tiếng Hán, đọc theo âm Hán - Việt khác với âm của nó trong tiếng Hán là "âm bạch thoại". Đây là những từ nhập theo con đường bác học, được đọc theo âm đời Đường. 4, Những từ nêu trên khi vào tiếng Việt lại đổi âm lần nữa, do người dân không biết chữ Hán nên đọc trại/chệch đi. Ví dụ: cảm ân(感恩) > cảm ơn, phù trì(扶持) > bù trì, phản ánh(反映) > phản ảnh. 5, Những từ được người Việt ghép bằng hai yếu tố Hán, thoáng qua có thể nhầm với từ Hán, nhưng không phải mượn từ tiếng Hán. Ví dụ : hoạ sĩ, báo thù (Việt) tương đương với hoạ sư(画师), báo cừu (报仇)(Hán) … 6, Những từ Hán sau khi nhập vào tiếng Việt vẫn giữ nguyên ý nghĩa như trong tiếng Hán. Đó là những từ thuộc lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục. Theo Nguyễn Văn Khang trong “Từ Hán - Việt và vấn đề dạy – học từ Hán - Việt trong nhà trường phổ thông” [20] thì từ Hán - Việt " Trước hết những từ Hán được đồng hoá về mặt ngữ âm - chúng là những từ Hán có cách đọc Hán - Việt được nhập vào tiếng Việt và trở thành yếu tố của hệ thống từ vựng tiếng Việt". Tác giả đã nhận diện từ Hán - Việt qua ba bước sau: 15 - Tất cả từ Hán có cách đọc Hán - Việt được nhập vào tiếng Việt trở thành yếu tố của hệ thông từ vựng Hán - Việt thì đều là từ Hán - Việt. - Những truờng hợp mà một từ Hán nhập vào và hoạt động trong tiếng Việt còn có cách đọc khác, ngoài cách đọc phiên thiết thì phải được xem xét từng trường hợp cụ thể. Sẽ chấp nhận là từ Hán - Việt nếu nó tồn tại ít nhất trong một tổ hợp Hán - Việt ( với một yếu tố kia là Hán - Việt ). Ví dụ như : ảo(幻), chánh(正) … - Tuỳ mục đích mà quy định đối tượng, nghĩa là tuỳ theo mục đích nghiên cứu và sử dụng cụ thể để giới hạn phạm vi từ Hán - Việt. Dựa vào đặc điểm cấu tạo âm thanh của đối tượng, Nguyễn Đức Tồn trong “Cách nhận diện và phân biệt từ thuần Việt với từ Hán - Việt” [31] đã nhận diện từ Hán - Việt qua ba loại như sau: Loại 1/ Các cấu tạo âm thanh chỉ có ở tiếng Hán - Việt. Ví dụ : Uyên (ngọai lệ, trừ : chuyền, nguyền, chuyện), duyên(缘), truyện (传) … Uyết: quyết(决), thuyết(说), tuyệt(绝), tuyết(雪)… Loại 2/ Các cấu tạo âm thanh có ở cả tiếng Hán - Việt lẫn thuần Việt. Gần đây nhất, La Văn Thanh [31] trong luận án Tiến sỹ của mình cũng đã bàn những vấn đề liên quan đến những khái niệm nói trên. Trong chương 2 của luận án, khi bàn về “bức tranh tổng quát về tổ hợp song tiết ”, tác giả này cũng đã bàn về từ Hán Việt, các yếu tố Hán Việt. Đặc biệt, tác giả đã đưa ra những khái niệm bổ sung như “tổ hợp gốc thuần Hán”, khái niệm “tổ hợp gốc không thuần Hán”. Trong tổ hợp loại thứ hai, La Văn Thanh đã nói đến khái 16 niệm “tổ hợp song tiết Việt tạo” và lập nên một danh sách của mình. Qua ý kiến của các tác giả nêu trên, có thể rút ra ba điểm tương đối thống nhất về vấn đề từ ngữ gốc Hán như sau: a/ Coi những đơn vị có nguồn gốc từ tiếng Hán đang hoạt động trong tiếng Việt là từ gốc Hán. b/ Coi những từ gốc Hán có cách đọc Hán - Việt là từ Hán - Việt c/ Những từ gốc Hán không có cách đọc Hán - Việt đều không được gọi là từ Hán - Việt. Từ những phân tích các ý kiến của các học giả nói trên, chúng tôi cho rằng họ vừa có những điểm riêng, vừa có những điểm chung nhau khi thảo luận về từ gốc Hán. Với mục đích là tìm hiểu về từ (mà cụ thể là từ tự tạo) chúng tôi nhận thấy các học giả nói trên đã có điểm chúng là các từ gốc Hán có thể chia ra thành các nhóm sau: - Từ Hán - Việt. - Từ Hán - Việt cổ. - Từ gốc Hán tiếng Việt vay mượn từ địa phương. Việc phân biệt rõ những khái niệm có liên quan đến gốc Hán như đã nói ở trên là rất quan trọng trong nghiên cứu yếu tố gốc Hán nói chung, cũng như nghiên cứu những đơn vị gốc Hán khác trong tiếng Việt nói riêng như thành ngữ, từ tự tạo. Và đây chính là nhiệm vụ của những phần tiếp theo dưới đây của luận văn. 1.2. Từ Hán Việt. Để góp phần hiểu đúng từ, chúng ta phân biệt rõ những khái niệm có liên quan đến nó như sau. 1.2.1. Phân biệt từ , Hán - Việt cổ và gốc Hán địa phương. 17 1.2.1.1. Từ Hán - Việt Như cách giải thích của Nguyễn Tài Cẩn đã được nói ở trên, tất cả các từ Hán Việt đều là những từ gốc Hán về mặt ngữ âm được đọc theo cách đọc . Đây là cách đọc được biến đổi hàng loạt theo một quy luật ngữ âm thống nhất. Quy luật này được thể hiện qua khả năng đọc tất cả các từ mượn Hán bằng cách đọc Hán Việt, dù cho chúng có nguồn gốc như thế nào. Theo Nguyễn Tài Cẩn, cách đọc Hán - Việt “là một cách đọc bắt nguồn từ tiếng Hán đời Đường và cụ thể là Đường âm dạy học ở Giao Châu vào giai đoạn thế kỉ VIII, IX nhưng … đã bị biến dạng đi dưới tác động của quy luật ngữ âm và ngữ âm lịch sử tiếng Việt, tách xa hẳn cách đọc của người Hán để trở thành một cách đọc riêng biệt của người Việt và những người thuộc khu vực văn hóa Việt “ [7,19] Cách đọc Hán - Việt là một sản phẩm của sự tiếp xúc giữa tiếng Việt và tiếng Hán, là một sáng tạo của người VIệt trong cách thức tác động làm biến đổi hàng loạt các từ mượn Hán về mặt ngữ âm. Về cơ bản, hệ thống ngữ âm Hán - Việt vẫn mang những nét chung của hệ thống ngữ âm tiếng Hán đời Đường nhưng những bộ phận không phù hợp với ngữ âm tiếng Việt đã bị biến đổi. Sự biến đổi này diễn ra ở hệ thống phụ âm, hệ thống vần và thanh điệu Hán. Đặc điểm nổi bật nhất về ngữ âm của các từ Hán - Việt là chúng biến đổi một cách có hệ thống và nhất quán. Các từ ngữ tiếp nhận của tiếng Hán đọc theo âm Hán - Việt là bộ phận chủ yếu trong các từ ngoại lai của tiếng Việt. Nó được chia ra : a. Những từ Hán - Việt được tiếp nhận từ đời Đường và các triều đại tiếp theo cho đến ngày nay. Do có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp một cách lâu dài với tiếng Hán nên tiếng Việt đã tiếp nhận có hệ thống một khối lượng to lớn các từ ngữ của 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan