ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ THỊ NHƯ HẰNG
SO S¸NH PH¸P LUËT vÒ CHèNG B¸N PH¸ GI¸ HµNG HãA
GI÷A VIÖT NAM Vµ HOA Kú
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TIẾN VINH
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Vũ Thị Như Hằng
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
Danh mục sơ đồ
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ HOA KỲ VỀ KHÁI NIỆM
BÁN PHÁ GIÁ VÀ CÁC BIỆN PHÁP CHỐNG BÁN PHÁ
GIÁ HÀNG HÓA ........................................................................... 6
1.1.
Khái niệm bán phá giá ................................................................... 6
1.1.1. Bán phá giá dưới góc độ kinh tế ......................................................... 6
1.1.2. Bán phá giá dưới góc độ pháp lý ........................................................ 9
1.1.3. Khái niệm bán phá giá trong thương mại quốc tế ............................. 15
1.2.
Các biện pháp chống bán phá giá ................................................. 19
1.2.1.
Các biện pháp cam kết .................................................................... 21
1.2.2.
Áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời ....................................... 23
1.2.3.
Áp dụng thuế chống bán phá giá chính thức ................................... 24
Tiểu kết chương 1 ....................................................................................... 30
Chương 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ HOA KỲ VỀ ĐIỀU TRA
XỬ LÝ HÀNH VI BÁN PHÁ GIÁ HÀNG HÓA ........................ 31
2.1.
Mô hình tổ chức điều tra và trình tự, thủ tục điều tra xử lý
hành vi bán phá giá hàng hóa ...................................................... 31
2.1.1. Mô hình tổ chức điều tra hành vi bán phá giá hàng hóa.................... 31
2.1.2.
Trình tự, thủ tục điều tra và xử lý hành vi chống bán phá giá
hàng hóa ......................................................................................... 36
2.2.
Thực tiễn thực hiện pháp luật chống bán phá giá của Việt
Nam và Hoa Kỳ............................................................................. 59
2.2.1.
Vụ kiện chống bán phá giá cá da trơn từ Việt nam........................... 59
2.2.2.
Vụ kiện tôm của Việt Nam tại Hoa Kỳ ............................................ 61
2.2.3.
Vụ kiện tháp điện gió do Hoa Kỳ khởi xướng.................................. 64
2.2.4.
Vụ kiện thép không gỉ cán nguội do Việt Nam khởi xướng ............ 66
Tiểu kết chương 2 ....................................................................................... 70
Chương 3: NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ VIỆC SO
SÁNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ HOA KỲ VỀ CHỐNG
BÁN PHÁ GIÁ ............................................................................. 71
3.1.
Đánh giá chung ............................................................................. 71
3.2.
Hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập
khẩu vào Việt Nam ....................................................................... 74
3.2.1.
Hoàn thiện khái niệm bán phá giá trong pháp luật hiện hành .......... 74
3.2.2.
Sửa đổi, bổ sung các quy định về thủ tục điều tra, xử lý vụ việc
chống bán phá giá ........................................................................... 75
3.2.3.
Hoàn thiện bộ máy thực thi chống bán phá giá cho phù hợp với
điều kiện hiện nay của Việt Nam .................................................... 78
3.3.
Những bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam để
phòng tránh và xử lý các vụ việc chống bán phá giá .................. 79
3.3.1.
Chủ động phòng chống các vụ kiện bán phá giá của nước ngoài ... 79
3.3.2.
Nâng cao nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội
ngành hàng, các cơ quan hữu quan ................................................. 82
3.3.3.
Rõ ràng, minh bạch trong các chi phí, nguyên liệu và lao động
để sản xuất hàng xuất khẩu ............................................................. 84
Tiểu kết chương 3 ....................................................................................... 86
KẾT LUẬN ................................................................................................. 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 90
BẢNG CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Giải nghĩa
AD
: Chống bán phá giá
ADA
: Hiệp định chống bán phá giá của WTO
CITT
: Toà Thương mại quốc tế Canada
DOC
: Bộ Thương mại Hoa Kỳ
EU
: Liên minh Châu Âu
GATT
: Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại
ITC
: Ủy ban thương mại Quốc tế Hoa Kỳ
USITC
: Hội đồng Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ
VCAD
: Cục quản lý cạnh tranh
VCCI
: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
WTO
: Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1: Mức thuế chống bán phá giá tạm thời áp dụng
cho các doanh nghiệp sản xuất/xuất khẩu vào
Việt Nam
67
Bảng 2.2: Mức thuế chống bán phá giá tạm thời áp dụng
cho các doanh nghiệp sản xuất/xuất khẩu vào
Việt Nam
68
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Số hiệu sơ đồ
Tên sơ đồ
Trang
Sơ đồ 2.1: Trình tự các sự kiện trong điều tra chống bán
phá giá
39
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, tự do thương mại và liên kết
kinh tế thương mại đang là trào lưu nổi bật thì hội nhập kinh tế quốc tế không
những ngày càng trở thành một xu thế khách quan mà còn đóng vai trò là một
công cụ hữu hiệu để phát triển nhanh và bền vững nếu được nắm bắt và vận
dụng một cách tích cực.
Với việc thực hiện đường lối chủ động hội nhập kinh tế, Việt Nam đã
thực hiện và đạt được những thành tựu to lớn trong việc đẩy mạnh xuất khẩu
hàng hóa. Tuy nhiên, hiện nay, các quan hệ ngoại thương ngày càng đa dạng
và mang tính cạnh tranh gay gắt, các chiến lược xuất khẩu của ta thường bị
các rào cản thương mại đặc biệt là các vụ kiện bán phá giá ngày càng tăng đã
gây ra không ít những thiệt hại vô cùng to lớn cho nền kinh tế đất nước. Các
cơ chế giải quyết lại không hữu hiệu chủ yếu là bằng thủ tục tư pháp và phía
thiệt hại luôn là chúng ta, các cơ chế song phương chưa phát triển trong khi
đó việc đàm phán gia nhập các cơ chế đa phương thì lại chậm chạp. Điều này
gây rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào thị
trường thế giới.
Hoa Kỳ là một thị trường rộng lớn và khó tính, có tiềm năng lớn vào
loại bậc nhất trên thế giới. Hơn thế nữa, hiện nay những thị trường truyền
thống của Việt Nam như châu Á, châu Âu, Nga,… đã có xu hướng bão hòa
với các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam nên đây là thị trường mới
mẻ, tiềm năng mà và tương đối ổn định ở châu Mỹ mà các doanh nghiệp Việt
Nam muốn hợp tác, đồng thời là đối tác quan trọng giúp Việt Nam đạt được
mục tiêu hội nhập kinh tế thế giới. Thương trường Hoa Kỳ mở ra những cơ
hội đầy triển vọng nhưng nó lại được điều chỉnh bằng một hệ thống pháp luật
1
và các rào cản thương mại cực kỳ phức tạp và chặt chẽ. Luật thuế chống bán
phá giá hiện nay đang là một công cụ hữu hiệu trên thị trường này nhằm bảo
hộ nền công nghiệp trong nước trước cơn lũ hàng nhập khẩu từ các nước đang
phát triển trong đó có Việt Nam.
Với mong muốn tìm hiểu một cách sâu sắc pháp luật chống bán phá giá
của Hoa Kỳ và Việt Nam để có cái nhìn tổng quan hơn và cũng để đưa ra giải
pháp khắc phục cũng như hướng hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá của
Việt Nam, tác giả đã chọn đề tài: “So sánh pháp luật về chống bán phá giá
hàng hóa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận, các quy định pháp
luật về chống bán phá giá của Việt Nam và Hoa Kỳ để làm rõ các vấn đề pháp
lý liên quan. Từ sự so sánh với pháp luật của Hoa Kỳ rút ra bài học kinh
nghiệm trong việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam nói chung và cho các doanh
nghiệp Việt Nam nói riêng trong việc phòng tránh, giải quyết các biện pháp
chống bán phá giá tại Hoa Kỳ, giúp đẩy mạnh và thâm nhập vào thị trường
xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu lịch sử phát triển, các cơ sở kinh tế - pháp lý về chống
bán phá giá hàng hóa của Việt nam và Hoa Kỳ.
- Làm rõ các khái niệm bán phá giá và chống bán phá giá hàng hóa theo
pháp luật Việt Nam và Hoa Kỳ.
- Tìm hiểu, so sánh mô hình tổ chức điều tra và xử lý các hành vi bán
phá giá theo pháp luật Việt Nam và Hoa Kỳ.
- Đưa ra nhưng giải pháp, kiến nghị nhằm giải quyết những khó khăn
mà doanh nghiệp Việt Nam gặp phải khi tham gia giao kết thương mại trong
và ngoài nước.
2
3. Tình hình nghiên cứu
Pháp luật chống bán phá giá hàng hóa là đề tài không mới nhưng cũng
chưa bao giờ là cũ đối với những nhà nghiên cứu khoa học pháp lý, đã có rất
nhiều các đề tài nghiên cứu và bài viết về vấn đề này như “ Pháp luật chống
bán phá giá hàng hóa nhập khẩu và cơ chế thực thi tại Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Ngọc Sơn, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố
Hồ Chí Minh năm 2005; “ Các vụ kiện chống bán phá giá và cơ chế giải
quyết tranh chấp của WTO” của tác giả Bùi Anh Thủy trong Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật số 2, năm 2007…
Ngoài các bài viết và đề tài nghiên cứu còn có một số hội thảo về vấn
đề này như: cuộc hội thảo về pháp luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ và EU
vào cuối năm 2003; hội thảo về nâng cao năng lực chống bán phá giá cho
Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới do Quỹ xây dựng năng lực
quản lý quốc gia có hiệu quả Việt Nam – Australia năm 2005….
Bên cạnh đó pháp luật chống bán phá giá còn được đề cập đến trong
nhiều sách chuyên khảo như “Bán phá giá và biện pháp bán phá giá hàng
nhập khẩu” của tác giả Đoàn Văn Trường do Nhà xuất bản thống kê xuất bản
năm 1998,… Ngoài ra vấn đề này còn được tiếp cận qua những bản tin của
các cơ quản có thẩm quyền của Nhà nước như: Bộ Công Thương, Cục Quản
lý cạnh tranh,…
Vấn đề bán phá giá và pháp luật chống bán phá giá còn được còn được
nghiên cứu tương đối sâu và rộng trong các tác phẩm của các tác giả nước
ngoài như: Inge Nore Neufeld (2001), “Anti-dumping and countervailing
procedures- use or abuse? Implication for developing countries”, Policy
issues in international trade and commodities, Study Series no.9, United
Nation; Michael S.Knoll (2002), “Dump Our Anti-dumping law”, Cato
Institutes, Washington D.C….
3
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến vấn đề bán phá giá và
pháp luật chống bán phá giá ở nhiều góc độ khác nhau và là những nguồn tài
nguyên vô cùng quý báu và phong phú. Tuy nhiên trong đề tài nghiên cứu này
tôi chỉ tập trung nghiên cứu qua việc so sánh pháp luật chống bán phá giá
hàng hóa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ để từ đó đưa ra một số bài học kinh
nghiệm và giải pháp cho doanh nghiệp Việt Nam trước những khó khăn kiện
bán phá giá đang ngày càng tăng.
4.Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên có tính hệ thống các vấn đề
liên quan đến pháp luật chống bán phá giá tại Việt Nam, thể hiện ở những nội
dung sau:
- Hoàn thiện khái niệm về bán phá giá và chống bán phá giá;
- Làm rõ đặc điểm, ý nghĩa và vai trò của chống bán phá giá;
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật chống
bán phá giá và thực tiễn thực hiện;
- Đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và thực hiện những
quy định của pháp luật chống bán phá giá tại Việt Nam.
- Kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá, đồng thời
giúp doanh nghiệp Việt Nam phòng và xử lý các vụ kiện chống bán phá giá ở
nước ngoài, đặc biệt là ở Hoa Kỳ.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
5.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về bán phá giá
và biện pháp chống bán phá giá, là các quy định của pháp luật về biện pháp
chống bán phá giá của Việt Nam và Hoa Kỳ.
5.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Do mức độ rộng lớn của vấn đề đòi hỏi phải có sự nghiên cứu của
4
nhiều ngành, nhiều cấp nên trong đề tài này chỉ đề cập đến một số nét tiêu
biểu về bán phá giá và chống bán phá giá, quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành về chống bán phá giá từ đó chỉ ra nguyên nhân, thực trạng và giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá tại Việt Nam.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, thư mục tài liệu tham khảo và mục lục,
nội dung của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Pháp luật Việt Nam và Hoa Kỳ về khái niệm bán phá giá và
các biện pháp chống bán phá giá
Chương 2: Pháp luật Việt Nam và Hoa Kỳ về xử lý hành vi bán phá giá
hàng hóa
Chương 3: Những bài học kinh nghiệm từ việc so sánh pháp luật Việt
Nam và Hoa Kỳ về chống bán phá giá hàng hóa
5
Chương 1
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ HOA KỲ VỀ KHÁI NIỆM BÁN
PHÁ GIÁ VÀ CÁC BIỆN PHÁP CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ HÀNG HÓA
1.1. Khái niệm bán phá giá
1.1.1. Bán phá giá dưới góc độ kinh tế
Bán phá giá luôn đi liền với cạnh tranh và là một trong những hình thức
cạnh tranh bất chính. Việc cạnh tranh dựa trên cơ sở chất lượng và giá thành
là hình thức cạnh tranh lành mạnh, trong đó yếu tố giá được chú trọng hơn cả.
Tuy nhiên, thay vì nghiên cứu nhằm đưa ra được các chiến lược hạ giá thành
sản phẩm để cạnh tranh lành mạnh thì có những doanh nghiệp lại dùng chiêu
bài bán phá giá để hạ bệ đối thủ. Những năm gần đây, khi hoạt động kinh
doanh toàn cầu lớn mạnh, mọi khía cạnh của vấn đề giao thương quốc tế phải
được giải quyết trong khuôn phép của luật lệ, người ta mới bàn đến tính công
bằng và trung thực trong cạnh tranh. Cạnh tranh cũng phải tuân thủ những
nguyên tắc ấy, cụ thể là cạnh tranh phải trung thực và lành mạnh (fair
competition) trong một nền thương mại đa phương, phải tạo ra sân chơi bình
đẳng (level playing field) đối với mọi thành viên, trong đó, sự cố ý làm sai
lệch mối tương quan cạnh tranh để giành lợi thế không công bằng (unfair
advantage) đều đáng lên án và có thể bị trừng phạt. Dưới góc độ kinh tế, việc
bán phá giá đem lại những lợi ích nhất định sau:
Thứ nhất, dưới góc độ của nước xuất khẩu, bán phá giá tạo điều kiện
cho nhà sản xuất có điều kiện phát huy tối đa năng lực sản xuất, khả năng
tăng lợi nhuận và thâm nhập thị trường mới;
Thứ hai, khi bán phá giá, các doanh nghiệp thực hiện bán phá giá có
khả năng đánh bại đối thủ, loại bỏ dần các đối thủ cạnh tranh và chiếm lĩnh thị
trường nước ngoài. Và tùy thuộc vào khả năng cạnh tranh và mức độ phá giá,
6
có thể trở thành doanh nghiệp độc quyền, độc quyền nhóm, qua đó tận dụng
lợi thế của doanh nghiệp độc quyền để tăng lợi nhuận. Bán phá giá nhằm mục
tiêu chính trị thao túng các nước khác [31]. Chẳng hạn như, Chính phủ Hoa
Kỳ đặc biệt quan tâm đến xuất khẩu gạo bởi vì cạnh tranh giá gạo bây giờ ảnh
hưởng lớn đến việc đạt các mục tiêu quan trọng khác. Hoa Kỳ sẵn sàng bỏ
ngân sách mua phần lớn số gạo trên thị trường thế giới rồi bán phá giá. Điều
này làm cho nhiều nước xuất khẩu gạo phải lao đao và sẽ phải chịu vòng
phong toả của Hoa Kỳ. Chẳng hạn, giá xuất khẩu gạo của Hoa Kỳ khoảng
400USD/ tấn, nhưng các nhà xuất khẩu gạo Hoa Kỳ sẵn sàng mua với giá
500USD/ tấn, thậm chí cao hơn đến 800USD/tấn, và họ cũng sẵn sàng bán ra
thị trường thế giới chỉ bằng 60 - 70%, thậm chí đến 40% giá mua. Mức giá
này thấp hơn nhiều so với giá thành của chính nông dân Mỹ sản xuất ra. Như
vậy, Hoa Kỳ có thể sẵn sàng bỏ ra 700 - 800 triệu USD/ năm để tài trợ giá
xuất khẩu gạo nhằm thực hiện mục tiêu của mình. Chính vì điều này mà mặc
dù sản lượng gạo của Mỹ hàng năm thấp nhưng Hoa Kỳ lại thao túng giá gạo
trên thị trường thế giới [12].
Thứ ba, trong một số trường hợp, doanh nghiệp có mức tồn kho lớn, để
giải phóng hàng tồn kho, doanh nghiệp có thể bán phá giá để giải phóng hàng
tồn kho hoặc trong trường hợp khan hiếm ngoại tệ hoặc tìm kiếm ngoại tệ
trong trường hợp khẩn cấp, doanh nghiệp có thể thực hiện bán phá giá.
Như vậy, việc bán phá giá hàng hóa mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho
doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp đạt được những mục đích kinh tế nhất đinh.
Những hành động bán phá giá không nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh thì
không bị coi là bán phá giá (ví dụ: bán hàng tươi sống, bán hàng thanh lý, bán
hàng hạ giá theo mùa, bán hàng tồn kho đã lỗi thời về kiểu dáng và công nghệ
nhưng vẫn còn thời hạn sử dụng; bán hàng sắp hết hạn sử dụng...).
Bán phá giá bị coi là hành vi thương mại quốc tế không lành mạnh của
7
doanh nghiệp. Để tạo dựng lại thế cạnh tranh cân bằng giữa sản phẩm trong
nước và sản phẩm nhập khẩu, bảo vệ thị trường nội địa chống lại các hành vi
cạnh tranh quốc tế không lành mạnh, các quốc gia có quyền áp dụng các biện
pháp chống bán phá giá. Do đó mục tiêu của các biện pháp chống bán phá giá
là để bù đắp lại những thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa phải gánh chịu do
hành vi bán phá giá gây ra.
Mặc dù, bản chất của các biện pháp chống bán phá giá được cho là để
đảm bảo sự công bằng trong thương mại quốc tế nhưng trên thực tế không đơn
giản như vậy. Đối với các nước đang phát triển như Ấn Độ, Brazil, Achentina…
sử dụng các biện pháp chống bán phá giá để bảo vệ nền sản xuất còn non trẻ của
chính mình. Đối với các quốc gia phát triển, các biện pháp chống bán phá giá
vừa là công cụ để hạn chế mở cửa thị trường, hạn chế sự thâm nhập thị trường từ
các quốc gia đang phát triển và vừa là cái van an toàn cần thiết cho chính họ.
Như trên đã nêu, các quốc gia có quyền tự do trong việc xây dựng các
thủ tục để xác định hiện tượng bán phá giá và áp dụng biện pháp chống bán
phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu vào nước mình. Dẫn đến, nhiều quốc gia
đã lạm dụng các biện pháp chống bán phá giá một cách tùy tiện để hạn chế
nhập khẩu, hơn là để đạt được các mục tiêu khắc phục có tính hạn chế mà
Hiệp định chống bán phá giá của WTO cho phép.
Theo đánh giá của các chuyên gia trong lĩnh vực này thì chống bán phá giá
không phải là chính sách công mà là chính sách tư. Đó là một phương tiện mà một
đối thủ cạnh tranh có thể sử dụng quyền lực của Nhà nước để giành lợi thế cạnh
tranh trước các đối thủ khác. Xét từ góc độ bảo hộ sản xuất trong nước, bên hưởng
lợi là ngành công nghiệp nội địa và nạn nhân của biện pháp này là các nhà sản
xuất, xuất khẩu nước ngoài. Chúng ta có thể nhận thấy rõ hơn bản chất và mục
đích này thông qua một bản báo cáo của Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ:
8
… mục đích của pháp luật chống bán phá giá và chống trợ cấp
không phải là bảo vệ người tiêu dùng mà là bảo vệ các nhà sản xuất…
Thực chất, chức năng của pháp luật chống bán phá giá là để bảo vệ cho
các công ty và những người lao động tham gia vào các hoạt động sản
xuất ở Hoa Kỳ. Vì vậy, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi người hưởng
lợi từ các lợi ích kinh tế này là các nhà sản xuất, ngược lại các chi phí
kinh tế sẽ do người tiêu dùng gánh chịu [12].
Hơn nữa, các quy định chống bán phá giá là một biện pháp khắc phục
thương mại mà các thành viên của WTO đã đồng ý rằng là cần thiết để duy trì
hệ thống thương mại đa phương. Động cơ kinh tế để sử dụng biện pháp chống
bán phá giá là nhằm để duy trì thương mại công bằng. Tuy nhiên, theo một
nghiên cứu gần đây cho thấy có tới 90% các biện pháp này không nhằm bảo
vệ cạnh tranh lành mạnh hoặc thương mại công bằng. Nói cách khác, biện
pháp được coi là hợp pháp của WTO, đến lượt nó, quay lại bóp méo dòng
chảy thương mại quốc tế và hạn chế sự phát triển nội tại khách quan của hoạt
động này, đi ngược lại mục đích của WTO.
Trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, với những ưu thế về
lực lượng lao động trẻ, đông về số lượng, rẻ về giá thành, trong bối cảnh thực
hiện chính sách tăng cường xuất khẩu. Việc hàng hóa Việt Nam là đối tượng
chịu sự áp đặt các biện pháp chống bán phá giá của nhiều thị trường khác là
điều không thể tránh khỏi. Do đó các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động
tìm hiểu đầy đủ các quy định về bán phá giá, chống bán phá giá của WTO,
cũng của như các quốc gia nhập khẩu, để từ đó xây dựng các biện pháp đối
phó một cách hữu hiệu và hiệu quả hơn.
1.1.2. Bán phá giá dưới góc độ pháp lý
Khái niệm pháp lý về bán phá giá lần đầu tiên được ghi nhận trong đạo
luật thuế hải quan Canađa được thông qua ngày 10 tháng 8 năm 1904. Sau khi
9
được ban hành, pháp luật chống bán phá giá của Canada đã tỏ ra có tác dụng
của nó trong việc bảo hộ các nhà sản xuất nội địa trước luồng hàng hóa rất rẻ
từ nước ngoài tràn vào. Vì vậy, pháp luật chống bán phá giá của nước này đã
nhanh chóng trở thành hình mẫu để các nước khác noi theo. Cho đến năm
1921, mô hình pháp luật chống bán phá giá của Canada đã được du nhập vào
nhiều nước như Nam Phi (1914), Mỹ (1916), Astralia (1921), Vương quốc
Anh (1921), New Zealand (1921). Tuy nhiên, các nước này cũng không hoàn
toàn du nhập một cách nguyên vẹn mô hình của Canada mà có sự sửa đổi và
phát triển cho phù hợp [31]. Khi chống bán phá giá đã trở thành một nội dung
quan trọng trong pháp luật thương mại quốc tế thì khái niệm bán phá giá cũng
được ghi nhận tại Điều VI Hiệp định chung về thuế quan và thương mại năm
1947 (gọi tắt là GATT) và trong Hiệp định thực thi Điều VI của GATT 1994
của Tổ chức thương mại thế giới (ADA). Điều 2.1 của ADA quy định:
Trong phạm vi Hiệp định này, một sản phẩm bị coi là bán phá
giá (tức là được đưa vào lưu thông thương mại của một nước khác
với giá thấp hơn trị giá thông thường của sản phẩm đó) nếu như giá
xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một
nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm
tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo các điều kiện
thương mại thông thường [47].
Hai khái niệm quan trọng này là giá trị thông thường và thiệt hại về vật
chất. Một doanh nghiệp bị cho là đã bán sản phẩm của mình ở một quốc gia
khác tại mức thấp hơn giá trị thông thường nếu:
1) Giá đó thấp hơn mức giá tương đối trong điều kiện thương mại
thông thường đối với sản phẩm tương tự tại nước xuất khẩu.
2) Nếu không thể xác định mức giá nội địa đó thì:
- Mức giá đó thấp hơn mức giá tương đối cao nhất được xuất khẩu tới
một nước thứ ba trong điều kiện thương mại thông thường.
10
- Mức giá đó thấp hơn chi phí sản xuất tại nước xuất khẩu cộng với một
tỷ lệ hợp lý chi phí và lợi nhuận bán hàng.
Ở Hoa Kỳ, theo quy định tại khoản 800-801, chương 463 bộ Luật
Doanh thu năm 1916 (Revenue Act of 1916), hành vi bán phá giá là hành vi
nhập khẩu, hỗ trợ việc nhập khẩu, bán hàng hóa nhập khẩu vào thị trường
Hoa Kỳ tại mức giá thấp hơn đáng kể so với giá trị thực hoặc giá bán buôn
của hàng hóa tính tại thời điểm xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ hoặc tại thị
trường chính của nước sản xuất hoặc tại một nước thứ 3 cũng nhập hàng hóa
đó (giá trị thực hoặc giá bán buôn nói trên là giá không bao gồm cước vận
chuyển, thuế và các khoản phí khác cần thiết cho việc nhập khẩu và bán tại
thị trường Hoa Kỳ) với điều kiện hành vi nói trên được thực hiện nhằm phá
hủy hoặc phương hại một ngành sản xuất ở Hoa Kỳ hoặc ngăn cản việc
thành lập một ngành sản xuất ở Hoa Kỳ, giành vị trí độc quyền buôn bán
hàng hóa đó ở Hoa Kỳ [31].
Như vậy, theo khái niệm trên hành vi được coi là bán phá giá ở Hoa Kỳ
nếu thỏa mãn 2 điều kiện sau:
Thứ nhất, hàng hóa đó được bán tại mức giá thấp hơn giá trị thông thường;
Thứ hai, hàng hóa đó tại mức giá đó gây thiệt hại tới ngành sản xuất
của Hoa Kỳ.
Tại Việt Nam, các nhà làm luật có những quan điểm khác nhau về bán
phá giá. Sự khác nhau này được thể hiện qua hai văn bản pháp luật là Pháp
lệnh giá năm 2002 (gọi tắt là Pháp lệnh giá) và Pháp lệnh chống bán phá giá
hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004 (gọi tắt là Pháp lệnh chống bán
phá giá hàng hóa nhập khẩu).
Trong Pháp lệnh giá năm 2002, bán phá giá được hiểu là hành vi bán
hàng hóa, dịch vụ với giá quá thấp so với giá thông thường trên thị trường
Việt Nam để chiếm lĩnh thị trường, hạn chế cạnh tranh đúng pháp luật, gây
11
thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh khác
và lợi ích của Nhà nước.
Với khái niệm trên hành vi bán phá giá được xác định bởi hai dấu hiệu:
- Doanh nghiệp đã bán hàng hóa, dịch vụ với giá quá thấp so với giá
thông thường của nó trên thị trường Việt Nam. Phương thức để xác định bán
phá giá theo Pháp lệnh giá là so sánh hai chỉ số: giá bán thực tế và giá thông
thường của sản phẩm bị điều tra. Tuy nhiên, hai chỉ số này đều được xác định
từ thị trường Việt Nam. Do đó, hành vi bán phá giá trong pháp lệnh giá không
phải là hiện tượng phân biệt giá mà chỉ là việc bán hàng hóa, dịch vụ với mức
giá không theo đúng giá trị thông thường của sản phẩm.
- Mục tiêu của hành vi là chiếm lĩnh thị trường, hạn chế cạnh tranh
đúng pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân kinh
doanh khác, lợi ích của Nhà nước. Do đó, nếu chưa xác định được mục đích
của hành vi thì chưa kết luận được doanh nghiệp đã bán phá giá hàng hóa,
dịch vụ.
Khoản 1 và 2 Điều 1 Pháp lệnh giá năm 2002 quy định:
1. Pháp lệnh này quy định quản lý nhà nước về giá và hoạt
động về giá của tổ chức, cá nhân sản xuất,kinh doanh; 2. Pháp lệnh
này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài hoạt
động sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam [40, Điều 1, Khoản 2].
Văn bản này chỉ giới hạn đối tượng áp dụng là tổ chức, cá nhân hoạt
động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam mà không phân biệt về nguồn gốc của
hàng hóa, dịch vụ nên quy định về bán phá giá có thể áp dụng đối với các tổ
chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh chung tại Việt Nam đã có hành vi bán
hàng với mức giá quá thấp so với giá thông thường. Do đó, việc bán phá giá
hàng hóa vào Việt Nam của các doanh nghiệp nước ngoài sẽ không chịu sự
điều chỉnh của Pháp lệnh giá năm 2002. Chỉ khi hàng hóa được lưu thông trên
12
thị trường Việt Nam và người kinh doanh chúng có hành vi bán hàng hóa quá
thấp so với giá thông thường thì các quy định về bán phá giá được áp dụng để
xử lý người thực hiện hành vi. Theo Pháp lệnh giá, việc chống bán phá giá là
một trong những nội dung của hoạt động quản lý nhà nước về giá, tuy nhiên,
có thể thấy rằng các quy định về chống bán phá giá trong văn bản này chủ yếu
nhằm thực hiện chức năn quản lý cạnh tranh bằng cách ngăn chặn và xử lý
hành vi hạn chế cạnh tranh giá trên thị trường. Hành vi bán phá giá được Pháp
lệnh giá mô tả dưới góc nhìn của quan hệ cạnh tranh trên thị trường (hành vi
có mục đích chiếm lĩnh thì trường, hạn chế cạnh tranh đúng pháp luật, gây
thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh khác
và lợi ích của Nhà nước) [31].
Mặc dù Pháp lệnh giá năm 2002 có giới hạn điều chỉnh như trên, song
đây là văn bản pháp luật đầu tiên đưa ra khái niệm bán phá giá hàng hóa, dịch
vụ. Mặt khác, do văn bản này áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu khi được
lưu thông trên thị trường Việt Nam nên việc áp dụng các quy định về bán phá
giá có những ảnh hưởng nhất định đến quan hệ thương mại quốc tế.
Theo Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam
năm 2004 thì bán phá giá được quy định là:
1. Hàng hóa có xuất xứ từ nước hoặc vùng lãnh thổ bị coi là
bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam (sau đây gọi là hàng hoá
bán phá giá vào Việt Nam) nếu hàng hoá đó được bán với giá
thấp hơn giá thông thường…2. Giá thông thường của hàng hóa
nhập khẩu vào Việt Nam là giá có thể so sánh được của hàng hoá
tương tự đang được bán trên thị trường nội địa của nước hoặc
vùng lãnh thổ xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông
thường [41, Điều 3, Khoản 1, 2].
So với Pháp lệnh giá năm 2002 thì Pháp lệnh chống bán phá giá hàng
13
- Xem thêm -