Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ So sánh hoạt động chức năng của giới từ trong tiếng việt và tiếng pháp...

Tài liệu So sánh hoạt động chức năng của giới từ trong tiếng việt và tiếng pháp

.PDF
116
2168
103

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------    ------ NGUYỄN THỊ HIỀN SO SÁNH HOẠT ĐỘNG CHỨC NĂNG CỦA GIỚI TỪ TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG PHÁP LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÔN NGỮ HỌC Hà Nội – 2009 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------    ------ NGUYỄN THỊ HIỀN SO SÁNH HOẠT ĐỘNG CHỨC NĂNG CỦA GIỚI TỪ TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG PHÁP LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Chuyên ngành: Lý luận ngôn ngữ Mã số: 60 22 01 Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN CHÍNH Hà Nội – 2009 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 3 1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 3 2. Đối tƣợng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ........................................... 4 3. Phạm vi tƣ liệu ......................................................................................... 4 4. Mục đích, ý nghĩa của đề tài ..................................................................... 5 5. Phƣơng pháp nghiên cứu .......................................................................... 6 6. Cấu trúc của luận văn ............................................................................... 6 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ TIỀN ĐỀ LÝ THUYẾT .......................................... 7 1.1. Khái quát chung về hƣ từ ....................................................................... 7 1.2. Khái quát về giới từ ............................................................................. 10 1.2.1. Giới từ trong tiếng Việt hiện đại................................................ 10 1.2.2. Giới từ trong tiếng Pháp hiện đại .............................................. 17 CHƢƠNG 2: ĐỐI CHIẾU GIỚI TỪ TIẾNG VIỆT VÀ GIỚI TỪ TIẾNG PHÁP VỀ ĐẶC ĐIỂM NGỮ PHÁP .......................................................... 23 2.1. Đối chiếu về cấu tạo của giới từ........................................................... 23 2.1.1. Cấu tạo của giới từ trong tiếng Việt .......................................... 23 2.1.2. Cấu tạo của giới từ trong tiếng Pháp ......................................... 36 2.2. Đối chiếu về vị trí của giới từ trong câu ............................................... 44 2.2.1. Những đặc điểm giống nhau ..................................................... 44 2.2.2. Những đặc điểm khác nhau ....................................................... 45 2.3. Đối chiếu về chức năng ngữ pháp ........................................................ 47 2.3.1. Những đặc điểm giống nhau ..................................................... 47 2.3.2. Những đặc điểm khác nhau ....................................................... 48 2.4. Đối chiếu về hoạt động trong lời nói.................................................... 49 1 2.4.1. Những đặc điểm giống nhau ..................................................... 49 2.4.2. Những đặc điểm khác nhau ....................................................... 57 CHƢƠNG 3: ĐỐI CHIẾU GIỚI TỪ TIẾNG VIỆT VÀ GIỚI TỪ TIẾNG PHÁP VỀ ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA ........................................................ 60 3.1. Căn cứ đối chiếu .................................................................................. 60 3.2. Đối chiếu các nhóm giới từ cụ thể ....................................................... 61 3.2.1. Giới từ chỉ địa điểm .................................................................. 61 3.2.2. Giới từ chỉ thời gian .................................................................. 67 3.2.3. Giới từ chỉ nguyên nhân ............................................................ 71 3.2.4. Giới từ chỉ mục đích ................................................................. 74 3.2.5. Giới từ chỉ phƣơng hƣớng ......................................................... 76 3.2.6. Các nhóm nhỏ khác ................................................................... 79 CHƢƠNG 4: ỨNG DỤNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀO VIỆC PHÂN TÍCH KHÓ KHĂN VÀ LỖI CỦA NGƢỜI VIỆT NAM KHI HỌC GIỚI TỪ TIẾNG PHÁP ............................................................................................ 91 4.1. Các lỗi về cấu trúc ............................................................................... 92 4.1.1. Nói, viết thiếu hoặc thừa giới từ ................................................ 92 4.1.2. Lỗi về vị trí của giới từ trong câu .............................................. 93 4.1.3. Lỗi về sử dụng không phân biệt giới từ đơn và giới từ kép........ 94 4.2. Các lỗi về nghĩa ................................................................................... 95 4.2.1. Dùng không đúng giới từ cần dùng ........................................... 95 4.2.2. Dịch sai giới từ.......................................................................... 98 4.3 Các lỗi về tu từ ................................................................................... 101 KẾT LUẬN .............................................................................................. 106 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 110 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hƣ từ trong thế đối lập lƣỡng phân “thực từ - hƣ từ” đƣợc giới Việt ngữ học chú ý tìm hiểu từ rất sớm. Trƣớc nay, trong các công trình nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, vấn đề hƣ từ đều ít nhiều đƣợc nói đến. Tùy theo cách nhìn nhận và mục đích nghiên cứu của mỗi tác giả mà hƣ từ đƣợc khai thác, tìm hiểu ở những khía cạnh khác nhau. Chính vì vậy mà ngày nay, nếu bao quát lại bức tranh nghiên cứu về hƣ từ tiếng Việt thì mọi học giả đều thừa nhận rằng đó là một bức tranh đa màu sắc cả về cách tiếp cận, giải quyết vấn đề cũng nhƣ những thành tựu thu đƣợc qua quá trình nghiên cứu. So sánh đối chiếu giữa các ngôn ngữ vốn là một đề tài hấp dẫn và là một nhiệm vụ thƣờng xuyên của giới ngôn ngữ học. Các công trình so sánh, đối chiếu giữa tiếng Việt với các ngôn ngữ khác (cả các ngôn ngữ cùng loại hình, cả các ngôn ngữ khác loại hình) đã đƣợc nhiều tác giả thực hiện và đạt đƣợc những thành tựu nhất định. Kết quả của việc đối chiếu so sánh tiếng Việt với các ngôn ngữ khác loại hình nhƣ tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nhật, tiếng Hàn… cũng đã có rất nhiều đóng góp cho ngôn ngữ học cả trên phƣơng diện lý thuyết lẫn trên phƣơng diện ứng dụng. Dầu vậy, lĩnh vực này cũng còn những vấn đề đang bỏ ngỏ, chƣa đƣợc quan tâm hoặc quan tâm chƣa thấu đáo. Tiếp tục đi sâu nghiên cứu nội dung này, luận văn đặt vấn đề “So sánh hoạt động, chức năng của giới từ trong tiếng Việt và tiếng Pháp”. Lý do mà chúng tôi chọn đề tài so sánh hoạt động, chức năng của giới từ giữa hai ngôn ngữ này là bởi, thứ nhất, đây là một đề tài phù hợp với khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, thứ nữa là chúng tôi cũng muốn tập làm quen với các thao tác của phƣơng pháp đối chiếu so sánh thông qua một nhóm nhỏ trong nội bộ hƣ từ, nhóm “giới từ”, coi đây nhƣ một hoạt động tiếp nối công 3 việc của những ngƣời đi trƣớc, nhằm nêu bật những đặc điểm tƣơng đồng và khác biệt của công cụ ngữ pháp này trong tiếng Việt cũng nhƣ trong tiếng Pháp; đặc biệt, làm nổi rõ ý nghĩa chức năng của giới từ tiếng Việt nói riêng, hƣ từ tiếng Việt nói chung. Đồng thời, chúng tôi cũng muốn áp dụng những kiến thức ngôn ngữ học mà mình tiếp thu đƣợc trong quá trình học tập vào xử lý một vấn đề cụ thể để trau dồi thêm những kỹ năng nghiên cứu, từ đó xác định cho mình một hƣớng khoa học mà mình có thể sẽ tiếp tục quan tâm trong tƣơng lai. 2. Đối tƣợng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu - Đối tƣợng: Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là các giới từ đang hoạt động trong tiếng Việt và trong tiếng Pháp. - Nhiệm vụ: Thống kê, phân loại các giới từ có trong hai ngôn ngữ khảo sát; tìm hiểu hai hệ thống giới từ về các mặt cấu tạo, ý nghĩa, chức năng mà chúng đảm nhiệm…; so sánh đối chiếu để chỉ ra sự tƣơng đồng và khác biệt có thể có giữa các giới từ trong tiếng Việt và tiếng Pháp. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn sẽ tìm hiểu những vấn đề xoay quanh các giới từ trong hai ngôn ngữ Việt và Pháp. Nhƣng để làm bật một số đặc trƣng nào đó của giới từ, luận văn có thể mở rộng phạm vi xem xét tới địa hạt hƣ từ nói chung hay một số các tiểu loại hƣ từ khác khi cần thiết. 3. Phạm vi tƣ liệu Trong luận văn, chúng tôi sử dụng các nguồn tƣ liệu trích dẫn nguyên bản và bản dịch các tác phẩm văn học, chính trị, báo chí... khác nhau của tiếng Việt và tiếng Pháp xuất bản từ đầu thế kỷ XX đến nay. Chúng tôi cũng sẽ sử dụng một số ví dụ trong ngôn ngữ dùng hàng ngày và trong một số công trình nghiên cứu về giới từ tiếng Việt và tiếng Pháp, một số từ điển Pháp – Việt, Việt – Pháp, Pháp – Pháp, từ điển tiếng Việt, từ điển giải thích hƣ từ tiếng Việt,… Khi phân tích và xử lý tƣ liệu, chúng tôi sẽ áp dụng phƣơng pháp phân tích diễn ngôn xuất phát từ sự hoạt động của các yếu tố ngôn ngữ làm mục 4 tiêu để xem xét. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng linh hoạt các thủ pháp quan sát, thống kê, hệ thống hoá, so sánh tƣơng phản để qua đó thấy đƣợc tần suất và mức độ mà giới từ đƣợc sử dụng trong câu và trong văn bản. Các kết quả phân tích đƣợc chúng tôi xếp theo những nhóm vấn đề nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc miêu tả, so sánh, đối chiếu. 4. Mục đích, ý nghĩa của đề tài Mục đích của đề tài là tiến hành so sánh đối chiếu hai hệ thống giới từ Việt, Pháp nhằm chỉ ra những tƣơng đồng và khác biệt có thể có giữa hai ngôn ngữ khác loại hình. Các kết quả của đề tài này chƣa có đóng góp mới cho lý luận về loại hình ngôn ngữ nhƣng chắc chắn sẽ góp phần khẳng định cho những kết luận khoa học đã đƣợc các công trình nghiên cứu về loại hình ngôn ngữ rút ra trƣớc đây. Đặc biệt, theo chúng tôi, đề tài sẽ có những đóng góp thiết thực cho địa hạt ứng dụng, cụ thể là trong công tác biên, phiên dịch; biên soạn từ điển (đơn ngữ, song ngữ), biên soạn giáo trình dạy ngoại ngữ (tiếng Việt cho ngƣời Pháp và tiếng Pháp cho ngƣời Việt). Các kết quả nghiên cứu chắc chắn cũng giúp ích rất nhiều cho các nhà dạy tiếng, những học giả nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Pháp… Trong luận văn, chúng tôi sẽ cố gắng quan tâm xem xét vấn đề dịch thế nào cho chính xác các giới từ, giới ngữ xuất hiện trong câu, trong văn bản; phân tích những khó khăn mà ngƣời Việt Nam thƣờng gặp và lỗi mắc phải khi học và sử dụng giới từ tiếng Pháp, đề xuất cách khắc phục. Đây sẽ là một ứng dụng thực tiễn giúp cho ngƣời dạy và ngƣời học tiếng Việt có những bài học kinh nghiệm về sử dụng giới từ trong các phát ngôn sao cho đúng và phù hợp với bối cảnh ngôn ngữ. 5 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Phƣơng pháp cơ bản và đƣợc sử dụng xuyên suốt công trình nghiên cứu này là phƣơng pháp so sánh đối chiếu. Bên cạnh đó, chúng tôi sẽ sử dụng phƣơng pháp thống kê, phân loại trong xử lý nguồn tƣ liệu. Đồng thời, để tìm hiểu và phát hiện các đặc trƣng ngữ nghĩa, chức năng của các giới từ trong tiếng Việt, tiếng Pháp, chúng tôi sẽ áp dụng các thủ pháp phân tích của phƣơng pháp cải biến (thay thế, tỉnh lƣợc) khi cần thiết. Chúng tôi sẽ khảo sát, phân tích giới từ dựa trên cả cấu trúc cú pháp cũng nhƣ trong phát ngôn. Đơn vị nhỏ nhất chúng tôi dùng để khảo sát là từ và cụm từ, đơn vị lớn hơn là câu và văn bản. Trong các câu dịch, chúng tôi sẽ cố gắng chuyển tải nghĩa biểu vật hoặc nghĩa ngữ dụng của cả câu, đoạn văn phù hợp với mục đích nghiên cứu hơn là việc cố dịch thật chính xác, thật hay các câu hay đoạn văn đó. Theo chúng tôi, vì đây là một công trình nghiên cứu đầu tiên về việc đối chiếu giới từ trong hai ngôn ngữ Việt và Pháp ở đặc điểm ngữ pháp và chức năng ngữ nghĩa nên luận văn sẽ chỉ tập trung vào nghiên cứu, đối chiếu các đặc điểm cơ bản nhất của giới từ chứ không nghiên cứu, đối chiếu tất cả các đặc điểm ngữ pháp cũng nhƣ ngữ nghĩa của giới từ tiếng Việt và tiếng Pháp. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung luận văn gồm 4 chƣơng sau: Chương một: Một số tiền đề lý thuyết Chương hai: Đối chiếu giới từ tiếng Việt và giới từ tiếng Pháp về đặc điểm ngữ pháp Chương ba: Đối chiếu giới từ tiếng Việt và giới từ tiếng Pháp về đặc điểm ngữ nghĩa Chương bốn: Ứng dụng kết quả nghiên cứu vào việc phân tích khó khăn và lỗi của ngƣời Việt Nam khi học giới từ tiếng Pháp 6 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ TIỀN ĐỀ LÝ THUYẾT 1.1. Khái quát chung về hƣ từ Trƣớc hết, chúng ta thử tìm hiểu một vài định nghĩa hoặc cách xác định mang tính chất định nghĩa hƣ từ của một số tác giả trong và ngoài nƣớc. Nhƣ chúng ta đã biết, khái niệm “hƣ từ”/ “từ trống” cũng thấy xuất hiện trong các ngôn ngữ Ấn - Âu, ví nhƣ cách gọi “mots vides” (Pháp), “empty words” (Anh), “pustoe slovo” (Nga), “leerwort” (Đức). ở các ngôn ngữ này, nhìn chung vấn đề hƣ từ cũng đƣợc đặt trong thế đối lập khái quát với thực từ. Cách nhìn hƣ từ xuất phát từ yêu cầu phân loại phạm trù từ vựng theo hƣớng chung nhất này đƣợc phản ánh khá rõ qua việc định nghĩa nét nghĩa đầu tiên và nét nghĩa thứ hai của “empty words” tại từ điển “A dictionary of Linguistic and Phonetic của David Ctystal” nhƣ sau: 1) “Empty” là một thuật ngữ đƣợc sử dụng trong một số các miêu tả ngữ pháp để chỉ một yếu tố vô nghĩa hiện diện trong cấu trúc nhằm bảo đảm cho tính trọn vẹn ngữ pháp của cấu trúc ấy. 2) “Empty words” là một thuật ngữ, thỉnh thoảng đƣợc dùng trong sự phân loại từ theo đặc trƣng ngữ pháp để chỉ một trong hai lớp từ cơ bản của ngôn ngữ. Nhóm kia đƣợc gọi là từ trọn nghĩa. “Empty words” là để gọi các từ không có ý nghĩa từ vựng mà chức năng của chúng đơn thuần chỉ để thể hiện các mối quan hệ ngữ pháp. [9, tr.108] Hƣ từ trong tiếng Việt là thuật ngữ vay mƣợn từ tiếng Hán, cũng có ngƣời gọi theo kiểu Việt hoá là “từ hƣ”. Từ trƣớc tới nay, trong giới Việt ngữ học, đã có rất nhiều cách cắt nghĩa về hƣ từ nhƣ sau: “Hƣ từ là từ không có khả năng độc lập làm thành phần câu, đƣợc dùng để biểu thị quan hệ ngữ pháp giữa các thực từ”. [32, tr.472] “Hƣ từ là từ không có khả năng một mình tạo thành câu, không có khả năng một mình làm thành phần nêu hoặc phần báo trong thành phần chính của 7 câu; đồng thời không có khả năng gọi tên (hoặc trỏ) sự vật, thuộc tính của sự vật, nhƣng lại có chức năng làm dấu hiệu của một quan hệ ngữ pháp nào đó, một tình cảm hoặc một thái độ nào đó”. [14, tr.23] Về hƣ từ còn có khá nhiều ý kiến tranh luận song nhìn chung, hầu hết các tác giả đều thống nhất ở những điểm sau: (1) Về mặt ý nghĩa: Hƣ từ không phải là một đơn vị định danh, không thể hiện toàn vẹn một ý nghĩa chân thực nào mà chỉ thể hiện một ý nghĩa ngữ pháp nào đó nhƣ thời, thể, giống, số, cách… hay quan hệ liên kết (giới từ, liên từ). (2) Về chức năng: Hƣ từ là những từ không đứng độc lập, không có khả năng làm trung tâm của đoản ngữ, tạo lập thành phần câu mà chỉ có khả năng làm thành tố phụ cho trung tâm đoản ngữ hoặc nối kết các thành phần câu, các đoản ngữ. Trong tiếng Việt, vấn đề hƣ từ đã có khá nhiều nhà ngôn ngữ học đề cập đến hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp trong khi nghiên cứu tiếng Việt nhƣ: Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Anh Quế, Đinh Văn Đức, Đinh Thanh Huệ, Diệp Quang Ban, Đỗ Hữu Châu… Đa số các tác giả cho rằng, hƣ từ đƣợc coi là phạm trù từ loại đối lập với thực từ. Trong đó, thực từ là những từ có ý nghĩa từ vựng chận thực, có thể làm thành phần câu. Hƣ từ thì trái lại, nó không có ý nghĩa từ vựng chân thực, chỉ có tác dụng nối các từ, các mệnh đề, các câu lại với nhau theo một quan hệ nào đó; chúng cũng không thể làm thành phần chính của câu. Trong phần “Trắc nghiệm về giới ngữ” tại công trình mới xuất bản mang tên “Tiếng Việt - mấy vấn đề ngữ âm - ngữ pháp - ngữ nghĩa” của mình, tác giả Cao Xuân Hạo đã trực tiếp trình bày quan điểm về hƣ từ nhƣ sau: “Giới từ là một hƣ từ. Hình nhƣ chƣa ai phủ nhận hay nghi ngờ điều đó. Tuy nhiên, ranh giới giữa thực từ và hƣ từ nhiều khi có phần mơ hồ hay ít nhất cũng không phải là hiển nhiên. Ngƣời ta hay nói rằng, trong khi thực từ chỉ sự 8 vật, thì hƣ từ chỉ mối quan hệ giữa các sự vật. Nhƣng nếu thế thì cũng nên thừa nhận rằng hƣ từ không phải là rỗng nghĩa, vì nó chỉ không có ý nghĩa sự vật mà thôi (hiểu theo một nghĩa rất hẹp và rất ƣớc định nào đó). Nếu nó rỗng nghĩa thật thì chính nó không có lý do tồn tại trong ngôn ngữ vốn là cái công cụ truyền đạt nghĩa. Nhƣng đơn vị ngôn ngữ nhƣ giới từ, liên từ và các thứ chỉ tố này nọ không phải là rỗng nghĩa”. [9, tr.394] Tác giả Nguyễn Anh Quế nhấn mạnh: “Khi xem xét hƣ từ, đặc biệt là hƣ từ trong tiếng Việt, ta không thể không chú ý đến nghĩa từ vựng của chúng” [35, tr.74]. Tƣơng tự, tác giả Diệp Quang Ban – ngƣời chuyên đi sâu nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, trong công trình “Ngữ pháp tiếng Việt phổ thông” của mình, đã trình bày rõ quan điểm nhƣ sau: “Sự phân biệt hƣ từ và thực từ ngày nay, nhìn chung, trong các ngôn ngữ, căn cứ vào “kiểu ý nghĩa” thực chất là kiểu phản ánh cái đƣợc gọi tên vào tên gọi”.[1, tr.80] Các nhà nghiên cứu thƣờng dựa vào cơ sở sau đây để phân định hƣ từ trong tiếng Việt: + Ý nghĩa ngữ pháp + Ý nghĩa từ vựng + Khả năng đảm nhận các chức vụ cú pháp Đứng trên góc độ khái quát về chức năng ngữ pháp – cú pháp, tác giả Nguyễn Minh Thuyết trong bài viết “Thảo luận về vấn đề xác định hư từ trong tiếng Việt” đăng trên tạp chí Ngôn ngữ, số 3 năm 1986 đã viết: “Hƣ từ chân chính thì không thay thế bằng từ khác trong một văn cảnh cụ thể đƣợc. Thuộc vào đây có các chỉ tố về số (những, các), các mạo từ (mọi, mỗi, từng, cái), các chỉ tố thời gian (đã, đang, sẽ, vừa, mới, từng), hệ từ (là), giới từ (bằng, cùng, với…), liên từ (nếu, tuy, nên…), liên-giới từ (vì, bởi…). Trong bài viết của mình, ông đã đƣa ra một số tiêu chí cụ thể về việc xác định hƣ từ nhƣ sau: 1) Không có ý nghĩa chân thực; 2) Không có khả năng làm trung tâm đoản ngữ; 3) 9 Không có khả năng làm thành phần câu; 4) Không có khả năng một mình tạo thành phát ngôn độc lập; 5) Không có khả năng thay thế các từ nghi vấn; 6) Không có khả năng đƣợc thay thế bằng những từ khác trong một văn cảnh cụ thể; 7) Chỉ có một chức năng; 8) Thuộc vào những lớp từ có số lƣợng nhỏ khi phân chia từ loại. Trong tiếng Pháp, hƣ từ thƣờng đƣợc gọi là “mots vides” (từ trống). Ở ngôn ngữ này, nhìn chung vấn đề hƣ từ cũng đƣợc đặt trong thế đối lập khái quát với thực từ. “Mots vides” đƣợc các nhà nghiên cứu dùng để gọi các từ không có ý nghĩa từ vựng, chức năng của chúng đơn thuần chỉ để thể hiện các mối quan hệ ngữ pháp. Grammont không xác định khái niệm “hƣ” hoặc “trống” mà ông gọi hiện tƣợng này là “hao mòn” (usé/ mot usé). Theo Grammont, “từ hao mòn” (mot usé) là những từ đƣợc dùng với nét nghĩa khác với nét nghĩa gốc ban đầu mà nó vốn có”. Trong “Le parler Vietnamien”, Lê Văn Lý đã khẳng định một cách rõ ràng: “Những từ mà Grammont gọi là “từ hao mòn”, chúng tôi gọi là “từ trống” (mot vides) (Les mots usés dont parle Grammont, nous appelons mots vides). (dẫn theo [9]) 1.2. Khái quát về giới từ 1.2.1. Giới từ trong tiếng Việt hiện đại Giới từ là một hƣ từ. Trong tiếng Việt hiện đại, giới từ là loại từ có số lƣợng không lớn nhƣng lại có tần số hoạt động khá cao trong ngôn ngữ và có vai trò đặc biệt quan trọng trong tổ chức thông báo. Giới từ đƣợc sử dụng hết sức đa dạng trong ngôn ngữ, cơ động so với nhiều nhóm từ khác. Ví dụ: - “Mô vẫn kể. Nó kể bằng một giọng ngắc ngứ, lúng túng ấp úng, có khi giọng nghịu vì e thẹn và sung sƣớng. Nhƣng Thứ hiểu chuyện của nó một cách rất rõ ràng. Chỉ vì những lời nói của Mô đƣợc tô điểm thêm bằng những kỷ niệm của y. [NC, SM, tr.41] 10 - Bên ngoài, một cơn gió ù ù thổi tới. Cái trạm này – một ngôi nhà cất then vào giữa một chòm cây giữa khu rừng tràm thƣa, mỗi khi có một cơn gió, sóng nối nhau đập vào tàn cây, nhà lại rung lên và lắc lƣ nhƣ con thuyền đang chơi vơi giữa biển. [XT, TNVNCL, tr.355] Sự phát triển của hệ thống giới từ tiếng Việt đã giúp cho hệ thống ngôn ngữ phát triển hơn, giúp cho hệ thống câu tiếng Việt có khả năng mở rộng cấu trúc cú pháp, không chỉ bó hẹp trong những cấu trúc đơn giản. Vì vậy, việc nghiên cứu giới từ và các đặc trƣng của nó là một việc làm cần thiết và có tác dụng thiết thực. Từ trƣớc tới nay, vấn đề giới từ tiếng Việt chƣa đƣợc nhiều nhà khoa học đi sâu nghiên cứu. Hệ thống từ loại này chủ yếu đƣợc đề cập tới trong một số chƣơng, mục ở các sách ngữ pháp tiếng Việt hoặc các giáo trình tiếng Việt dành cho ngƣời nƣớc ngoài. Ngoài ra, quan điểm về giới từ của các nhà nghiên cứu còn có nhiều khác nhau. Ngay đến cách hiểu nhƣ thế nào là giới từ, tiêu chí xác định giới từ và danh sách các giới từ trong tiếng Việt vẫn còn có những chỗ chƣa thống nhất. Có hai tác giả là M.Grammont và Lê Quang Trinh không thừa nhận việc phân định từ loại trong tiếng Việt. Các tác giả này phủ nhận sự tồn tại của từ loại giới từ trong tiếng Việt khi nhận định rằng: Trong tiếng Việt, không có quán từ, danh từ, cũng không có đại từ, động từ, giới từ, không có giống, không có số mà chỉ có từ không thôi. Những từ đó nhất loạt là đơn âm tiết, nói chung không biến hình và ý nghĩa cơ bản của chúng đƣợc xác định nhờ những từ đứng trƣớc hay đứng sau, nghĩa là nhờ chức năng, vị trí của chúng trong câu. Còn lại, hầu hết các nhà Việt ngữ học đề thừa nhận sự tồn tại của giới từ trong tiếng Việt. Vào đầu thế kỷ XX, trong các công trình nghiên cứu hầu nhƣ chƣa có sự miêu tả khái quát nào đáng kể về đặc điểm ngữ nghĩa và ngữ pháp của giới từ. Tuy nhiên, có thể kể tên một số tác giả tiêu biểu cho thời kỳ 11 này nhƣ Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm, Trƣơng Vĩnh Ký, Lê Văn Lý, Bùi Đức Tịnh, Phan Khôi,… Về sau, nhất là trong khoảng 30 năm trở lại đây, có một số nhà nghiên cứu ngôn ngữ đã bắt đầu lƣu ý đến việc nghiên cứu và miêu tả đặc trƣng khái quát và cách dùng của giới từ, đó là các tác giả: Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Tài Cẩn, Đinh Văn Đức, Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán, Hữu Quỳnh, Nguyễn Anh Quế, Nguyễn Lai, Vũ Văn Thi,… Tác giả Đinh Văn Đức trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt” [19] chia từ của tiếng Việt ra làm 6 loại: danh từ, động từ, tính từ, đại từ, quan hệ từ và tình thái từ. Số lƣợng từ loại trong công trình của Đinh Văn Đức có khác hơn so với các công trình của các tác giả khác (Nguyễn Kim Thản 12 loại [46], Diệp Quang ban 8 loại [1], Nguyễn Anh Quế 10 loại [37], Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến 10 loại [12], …). Giới từ trong công trình của Đinh Văn Đức là một tiểu loại trong quan hệ từ cùng với liên từ và từ chỉ hƣớng. Tác giả cho rằng, cùng với liên từ, giới từ nằm trong số các hƣ từ cú pháp, không đƣợc dùng để diễn đạt ý nghĩa ngữ pháp của thực từ này hay thực từ khác mà dùng để diễn đạt mối quan hệ giữa thực từ với thực từ trong các phát ngôn – nghĩa là diễn đạt mối quan hệ giữa các khái niệm trong tƣ duy trừu tƣợng: “Hƣ từ cú pháp, theo đó, cũng là công cụ diễn đạt các quan hệ lôgic, các quan hệ trong cách thức phản ánh của ngƣời bản ngữ. Các hƣ từ cú pháp không làm trung tâm và cũng không làm thành tố phụ của đoản ngữ, chúng là một thứ phƣơng tiện liên kết “xúc tác” thành tố phụ với trung tâm đoản ngữ, các đoản ngữ, các mệnh đề với nhau trong cấu trúc phát ngôn”. [19, tr.179] Nguyễn Kim Thản thì xếp giới từ trong nhóm quan hệ từ và định nghĩa nhƣ sau: “Giới từ là một loại hƣ từ (trong nhóm quan hệ từ) có tác dụng nối liền từ phụ (hoặc từ tổ phụ) với từ chính (hoặc từ tổ chính) biểu thị quan hệ 12 ngữ pháp giữa hai đơn vị đó. Giới từ bao giờ cũng đứng trƣớc từ phụ hoặc từ tổ phụ”. [46, tr.330] Nguyễn Anh Quế thì cho rằng quan hệ từ không có liên hệ gì tới sự vật, quá trình, hoạt động, tính chất, số lƣợng, chúng cũng không bổ sung cho từ loại khác một ý nghĩa nào mà chỉ biểu thị quan hệ giữa các sự vật, các quá trình hoạt động, trạng thái của sự vật… Căn cứ theo tính chất, quan hệ giữa các thành tố cú pháp với nhau, ông chia quan hệ từ thành hai loại: Loại biểu thị quan hệ chính phụ là giới từ và loại biểu thị quan hệ liên hợp là liên từ. [36, tr.133] Khi bàn về giới từ, tác giả Diệp Quang Ban không dùng thuật ngữ quan hệ từ để chỉ từ loại giới từ mà ông dùng thuật ngữ “kết từ”, rồi sau đó ông phân loại và miêu tả “kết từ” thành hai lớp chính: lớp kết từ chính phụ (giới từ) và lớp kết từ đẳng lập (liên từ). Ông quan niệm về giới từ nhƣ sau: “Kết từ chính phụ dùng để nối kết thành tố phụ vào thành tố chính (nối kết từ phụ với từ chính, thành phần phụ với thành phần chính của câu…). Do đó, kết từ chính phụ thƣờng có xu hƣớng gắn với thành tố phụ (trừ trƣờng hợp kết từ chính phụ là một cặp từ phối hợp thì có yếu tố gắn với thành tố phụ và có yếu tố gắn với thành tố chính) [1, tr.133]. “Kết từ chính phụ” gồm hai nhóm nhỏ: “kết từ hạn định” là kết từ đứng trƣớc thành tố phụ để nối kết thành tố phụ vào thành tố chính, gồm các từ nhƣ: của, bằng, do, vì, tại, bởi, ở, để, mà, ở, với, cùng, về, trong, ngoài, trên, dưới, như; “kết từ phụ thuộc” là kết từ đứng trƣớc thành phần phụ ở bậc câu (trong quan hệ với thành phần chính) gồm các từ: để, vì, do, tại, bởi, đến, từ, trong, ngoài, giữa, trước, dưới… [1, tr.137] Trong luận án tiến sĩ khoa học ngữ văn của mình, tác giả Vũ Văn Thi định nghĩa “Giới từ là một loại hƣ từ thuộc nhóm quan hệ từ, có chức năng thể hiện mối quan hệ cú pháp giữa thành phần chính và thành phần phụ trong câu” [51, tr.25]. Ông cũng nêu lên một số đặc điểm của giới từ tiếng Việt: “1) là một loại hƣ từ thể hiện ý nghĩa quan hệ; 2) hầu nhƣ không có khả năng bổ 13 sung một ý nghĩa nào đó cho trung tâm, do vậy không phải là yếu tố có quan hệ một chiều mà có quan hệ nối kết; 3) thể hiện mối quan hệ cú pháp chính phụ, nối giữa trung tâm với thành phần phụ; 4) có khả năng dạng thức hoá từ, cụm từ tạo nên các giới ngữ để chúng có thể đảm nhiệm chức vụ cú pháp là thành phần phụ; 5) vị trí phổ biến nhất của giới từ là đứng giữa thành phần câu và thành phần phụ. [51, tr.28] Cách nhìn về giới từ ở mỗi tác giả có những nét khác biệt nhất định nhƣng nhìn chung đều thống nhất ở một điểm cho rằng: Đó là những hƣ từ làm công cụ ngữ pháp, nối liền thành phần phụ với thành phần chính trong tổ chức thông báo. * Phân biệt giới từ với liên từ Giới từ và liên từ đều thuộc về lớp hƣ từ khái quát hơn là lớp quan hệ từ. Sở dĩ chúng tôi đề cập tới liên từ ở đây là vì giữa hai từ loại này có khá nhiều đặc điểm tƣơng đồng. Việc phân biệt rõ hai từ loại này sẽ giúp quá trình phân tích giới từ đƣợc thuận lợi và dễ dàng hơn. Việc vạch ra một danh giới rõ ràng giữa giới từ và liên từ không phải là một điều đơn giản. Giới từ và liên từ đều có ý nghĩa chỉ quan hệ, đều thể hiện mối quan hệ nối kết giữa các thành phần theo kiểu: A–q–B A, B: các thành phần q: quan hệ từ Một số tài liệu nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt cho rằng có sự chuyển hoá một số giới từ sang liên từ. Chẳng hạn, theo nhƣ Nguyễn Kim Thản thì các giới từ vì, do, tại đều có thể chuyển thành liên từ. Còn trong tiếng Hán, các nhà nghiên cứu cũng không phân biệt giới từ và liên từ. Về mặt thuật ngữ cũng không thể hiện sự phân biệt rạch ròi giữa hai từ loại này. 14 Trong tiếng Việt gọi chung là quan hệ từ hay kết từ (từ nối), trong tiếng Hán hiện đại gọi là từ liên kết. Tuy nhiên, hai từ loại này cũng có những điểm khác nhau cơ bản mà chúng ta cần nhận diện: (1) Giới từ là từ thể hiện mối quan hệ chính phụ, có chức năng nối thành tố phụ với thành tố chính; còn liên từ thể hiện mối quan hệ liên kết hay quan hệ qua lại có tính chất đẳng lập, có chức năng dùng để nối hai thành tố đẳng lập với nhau. (2) Giới từ có xu hƣớng gắn với thành phần phụ hơn, nhƣ là một yếu tố làm dạng thức hoá thành phần đó để nó có thể giữ đƣợc một chức vụ cú pháp nào đó. Liên từ đứng trung lập, không gắn liền với thành phần nào và không có khả năng quy định chức vụ cú pháp của thành phần. (3) Liên từ có khả năng liên hợp các câu đơn để tạo thành câu ghép. Giới từ có khả năng mở rộng thành phần của cụm từ và câu đơn. (4) Về mặt khả năng kết hợp, liên từ hầu nhƣ chỉ có dạng A – q – B, còn giới từ có dạng A – q – B và q – B. Ví dụ: - Bác đã đi rồi nhưng lý tƣởng của Bác vẫn còn mãi với non sông đất nƣớc ta. - Từ sân bay Vô Tích, máy bay đƣa Bác đến cửa biển Đại Liên. [HTP, TĐGTHTTV, tr.274] * Phân biệt giới từ với nhóm từ chỉ hướng Khi nghiên cứu giới từ, các tác giả có những quan điểm khác nhau về việc phân biệt giới từ với những từ chỉ hƣớng nhƣ: ra, vào, lên, xuống, về… Theo Trƣơng Vĩnh Ký trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt” thì ra, vào, lên, xuống… khi đƣợc dùng sau động từ là giới từ [25, tr.73]. 15 Trong cuốn “Từ điển giải thích hư từ tiếng Việt” của Hoàng Trọng Phiến không thấy xuất hiện các từ chỉ hƣớng này. Và nhƣ vậy, theo tác giả, chúng không phải là giới từ. Nguyễn Kim Thản cũng đồng quan điểm khi xếp các từ chỉ hƣớng vào phạm trù động từ. Ông viết “Trong những động từ thuần, có một nhóm động từ đặc biệt là những động từ vận động có phƣơng hƣớng xác định: ra, vào, lên, xuống, sang, qua, về, lại, tới, đến. Đứng về mặt phân phối của những hƣ từ dùng làm tiêu chí phân loại thì những động từ này quả là rất giống những động từ có ý nghĩa trừu tƣợng. Nhƣng đứng về mặt cấu tạo từ và nhất là về mặt ý nghĩa mà xét thì những động từ này có những đặc điểm khác: Chúng đều là những động từ biểu thị vận động có phƣơng hƣớng xác định, hay nói một cách khác, tự thân nó đã bao hàm ý nghĩa về phƣơng hƣớng rồi” [47, tr.101] Theo Nguyễn Cảnh Hoa [21], các kiểu kết hợp của nhóm từ chỉ hƣớng với động từ có thể chia ra các kiểu nhƣ sau: 1- Từ chỉ hƣớng đứng sau những động từ chỉ sự vận động (đi, chạy, bay, trèo, lao…). Ví dụ: chạy về nhà, bay lên trời, đi ra biển, trèo lên cây, lao xuống dốc… 2- Từ chỉ hƣớng đứng sau những động từ có bổ ngữ trực tiếp (mang, gửi, đặt, đóng, dựng, đem…). Ví dụ: mang củi ra sân, gửi quà vào Sài Gòn, đóng đinh vào tƣờng, đặt lọ hoa lên bàn, dựng xe lên vỉa hè… 3- Từ chỉ hƣớng đứng sau những động từ cảm nghĩ, nói năng (tin, nói, bàn, thú nhận, nghĩ…). Ví dụ: tin vào chính nghĩa, nghĩ về mẹ, nói về việc học, bàn về chính trị… 4- Từ chỉ hƣớng đứng sau những động từ có ý nghĩa phát hiện, sáng tạo (tìm, sáng tạo, phát hiện, nhận thức…). Ví dụ: tìm ra sự thật, sáng tạo ra máy tính, nhận thức ra vấn đề… 16 5- Từ chỉ hƣớng đứng sau những tính từ chỉ màu sắc, xúc cảm, trạng thái… (tƣơi, đẹp, khoẻ, ốm, giàu, nghèo, xanh, đỏ…). Ví dụ: cô ấy béo lên, anh ta khoẻ ra, nó nghèo đi, phố hẹp lại… Để phân biệt trƣờng hợp nào là từ chỉ hƣớng vận động, trƣờng hợp nào là giới từ trong các kết hợp nêu trên, Nguyễn Cảnh Hoa đƣa ra các phép thử để xác định nhƣ sau: (1) Trƣờng hợp đang xét là thực từ hay hƣ từ? Nếu còn kết hợp đƣợc với các phó từ thì đó còn là động từ (thực từ). Ví dụ: chạy đã về đến nhà, lao chƣa xuống đến dốc… Rõ ràng, trong hai ví dụ trên, các từ về, xuống là thực từ. (2) Trƣờng hợp đang xét là quan hệ từ hay là hƣ từ khác (phó từ chẳng hạn). Nếu không có danh từ đi sau thì đó không phải là quan hệ từ. Ví dụ: đẹp lên, xấu đi… Nhƣ vậy, xét trong năm trƣờng hợp trên, chỉ có trƣờng hợp 3 là quan hệ từ (giới từ). 1.2.2. Giới từ trong tiếng Pháp hiện đại Trong cuốn “Dictionnaire de linguistique”, tác giả Jean Dubois đã định nghĩa về giới từ nhƣ sau: “La préposition est un mot invariable qui a pour rôle de relier un constituant de la phrase à une autre constituant ou à la phrase tout entière, en indiquant éventuellement un rapport spatio-temporel, cause-origine, but, manière… En termes de structuration, on distingue les prépositions simples des prépositions complexes ou locutions prépositionnelles. En termes de sémantique, on distingue les prépositions vides, qui sont de simples outils syntaxiques, et des prépositions pleines, qui, outre l’indication des rapport syntaxique, ont un sens propres”. [61, pg.390] 17 (Giới từ là một từ không biến hình, có vai trò nối kết một thành phần của câu với một thành phần khác hoặc toàn bộ câu, đồng thời chỉ ra các mối quan hệ về không gian – thời gian, nguyên nhân – nguồn gốc, mục đích, cách thức... Về mặt cấu tạo, các nhà nghiên cứu phân biệt giới từ đơn và giới từ kép hoặc cụm giới từ (giới ngữ). Về mặt ngữ nghĩa, giới từ được phân biệt thành hai nhóm: những giới từ trống rỗng (không có ý nghĩa từ vựng) chỉ đóng vai trò là một công cụ cú pháp, và những giới từ, bên cạnh việc xác định mối quan hệ cú pháp, chúng còn mang một ý nghĩa cụ thể). Trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Pháp”, Nguyễn Ngọc Cảnh định nghĩa giới từ nhƣ sau: “Préposition là một loại từ không biến đổi, dùng để nối một từ với một từ khác làm bổ ngữ cho nó, và chỉ ra mối quan hệ giữa hai từ đó”. [4, tr.325] Đứng trƣớc giới từ có thể là: a. Một danh từ (nom): l’art d’écrire (nghệ thuật viết văn) b. Một đại từ (pronom): aucune d’eux (không ngƣời nào trong bọn họ) c. Một tính từ (adjective): fidèle à la patrie (trung thành với tổ quốc) d. Một động từ (verbe): Je me lève à cinq heures du matin (Tôi thức dậy vào 5 giờ sáng) e. Một trạng từ (adverbe): Il fait peu de vent aujourd’hui. (Hôm nay ít gió) f. Một giới từ khác (préposition): Je viens de chez mes amis (Tôi từ nhà các bạn tôi đến đây) Đứng sau giới từ có thể là: a. Một danh từ: Une statue en bronze 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan