ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
\[
LIÊU NHỮ UY
SO SÁNH CẤU TRÚC VÀ NGỮ NGHĨA TRẠNG NGỮ
TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC SO SÁNH
Mã số
: 602201
Người hướng dẫn khoa học:
TS. Nguyễn Đình Phức
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2009
LÔØI CAÛM ÔN
Chúng tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu
sắc đến với Tiến sĩ Nguyễn Đình Phức, người thầy đã tận tình và kỹ
lưỡng chỉ dạy tôi từ những bước đầu tiên đến khi hoàn thành luận văn
này.
Chúng tôi cũng xin trân trọng cảm ơn tất cả các Quý thầy cô
trong hội đồng bảo vệ luận văn, các thầy cô đã đóng góp thêm nhiều ý
kiến quý báu cho luận văn, cũng như bổ sung rất nhiều kiến thức cho
bản thân tôi.
Nhân đây chúng tôi cũng xin gởi lời cảm ơn đến phòng Sau đại
học, Khoa Văn học và Ngôn ngữ, trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
tôi học tập và hoàn thành luận văn này.
Đồng Nai, tháng 02 năm 2009
Tác giả luận văn
Liêu Nhữ Uy
2
QUY ƯỚC TRÌNH BÀY LUẬN VĂN
Trong luận văn này chúng tôi có sử dụng một số ký hiệu, chữ viết tắt như
sau:
Trạng ngữ, được viết tắt là: TrN
Tất cả trạng ngữ trong tiếng Việt và tiếng Hán đều dùng hình thức bôi
đen, in đậm.
3
MỤC LỤC
Dẫn luận
Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................... 7
Lịch sử vấn đề ...................................................................................................... 8
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 11
Phương pháp nghiên cứu và tư liệu nghiên cứu ........................................ 12
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài .................................................... 13
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
I. Khái niệm trạng ngữ trong ngôn ngữ học ......................................... 15
II. Sự cần thiết phải so sánh trạng ngữ trong tiếng Việt
và tiếng Hán hiện đại ..................................................................................... 21
CHƯƠNG II
ĐẶC ĐIỂM CỦA TRẠNG NGỮ TRONG TIẾNG VIỆT
I. Thuật ngữ “trạng ngữ” trong tiếng Việt ............................................ 27
II. Đặc điểm của trạng ngữ trong tiếng Việt ......................................... 33
1. Ở vị trí đầu câu.............................................................................................. 35
2. Ở vị trí cuối câu ............................................................................................ 35
3. Ở vị trí chen giữa chủ ngữ và vị ngữ ....................................................... 33
III. Vấn đề phân loại trạng ngữ trong tiếng Việt ................................ 37
1. Phân loại trạng ngữ theo đặc điểm cấu tạo ............................................ 37
2. Phân loại trạng ngữ theo nội dung
(trạng ngữ xét trên bình diện nghĩa học) .................................................... 38
a. Trạng ngữ chỉ thời gian ............................................................................. 39
4
b. Trạng ngữ chỉ không gian – nơi chốn .................................................... 40
c. Trạng ngữ chỉ tình huống.......................................................................... 41
d. Trạng ngữ chỉ cách thức – phương tiện ................................................. 41
e. Trạng ngữ chỉ nguyên nhân ...................................................................... 41
f. Trạng ngữ chỉ mục đích............................................................................. 42
g. Trạng ngữ chỉ điều kiện/ giả thiết ........................................................... 42
h. Trạng ngữ chỉ ý nhượng bộ ...................................................................... 43
i. Trạng ngữ bổ sung ý nghĩa so sánh ........................................................ 43
CHƯƠNG III
ĐẶC ĐIỂM CỦA TRẠNG NGỮ TRONG TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI
I. Thuật ngữ “trạng ngữ” trong tiếng Hán hiện đại ......................... 44
II. Đặc điểm của trạng ngữ trong tiếng Hán hiện đại ....................... 49
1. Ở vị trí trước chủ ngữ .................................................................................. 53
2. Ở vị trí chen giữa chủ ngữ và vị ngữ ..................................................... 54
III. Vấn đề phân loại trạng ngữ trong tiếng Hán hiện đại ............... 57
1. Trạng ngữ có tính chất hạn chế (限制性状语) ................................... 57
a. Trạng ngữ chỉ thời gian (时间状语) ..................................................... 58
b. Trạng ngữ chỉ nơi chốn (处所状语) ..................................................... 58
c. Trạng ngữ chỉ trình độ (程度状语) ....................................................... 58
d. Trạng ngữ chỉ đối tượng (对象状语) .................................................... 59
e. Trạng ngữ chỉ mục đích (目的状语) ................................................... 59
f. Trạng ngữ chỉ phạm vi (范围状语) ....................................................... 60
2. Trạng ngữ có tính chất miêu tả (描写性状语) ................................... 60
a. Trạng ngữ miêu tả người thực hiện động tác
(描写动作者的状语) ...................................................................................... 60
b. Trạng ngữ miêu tả động tác (描写动作的状语) ................................ 61
5
CHUƠNG IV
ĐỒNG DỊ CỦA TRẠNG NGỮ TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG
HÁN HIỆN ĐẠI
I. Bổ sung và tu sức (bao hàm vấn đề vị trí của trạng ngữ) .......... 63
II. Nhìn từ góc độ phân loại
(bao hàm vấn đề phạm vi của trạng ngữ) .............................................. 71
III. Nhìn từ góc độ cấu trúc ........................................................................ 77
IV. Nhìn từ góc độ trật tự sắp xếp ............................................................. 81
V. Nhìn từ góc độ ngữ nghĩa ....................................................................... 84
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 89
NGUỒN NGỮ LIỆU VĂN HỌC .............................................................. 93
A - Nguồn ngữ liệu tiếng Việt ....................................................................... 93
B - Nguồn ngữ liệu tiếng Hán ........................................................................ 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 96
A - Tài liệu tiếng Việt ..................................................................................... 96
B - Tài liệu tiếng Hán ...................................................................................... 99
C - Tài liệu tiếng Anh .................................................................................... 103
6
DẪN LUẬN
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Ngày nay do sự phát triển của nền kinh tế thế giới với tốc độ phát triển
khá nhanh, nên việc giao lưu, thông tin liên lạc với nhau cũng trở nên đa dạng
và phức tạp. Một trong các phương tiện quan trọng dùng để giao tiếp với nhau
đó là ngôn ngữ của con người. Ngôn ngữ là một trong những công cụ quan
trọng nhất trong cuộc sống của con người, con người có thể tiến bộ được
chính nhờ vào sự phát triển và tồn tại của ngôn ngữ. Nếu loài người không có
ngôn ngữ thì không thể xuất hiện sự giao tiếp với nhau giữa người với người
và sự giao thoa với nhau về văn hoá, cũng như những kiến thức của nhân loại.
Chính ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng như vậy, nên ngày nay việc
học ngoại ngữ trở thành một nhu cầu cấp thiết và bức bách đối với mọi người
thuộc thế hệ chúng ta.
Hiên nay đã có nhiều sinh viên Việt Nam theo học tiếng Hán hiện đại
tại các trường Đại học, một số lượng lớn nhân sự cũng như cán bộ công nhân
viên theo học tiếng Hán hiện đại tại các trung tâm ngoại ngữ. Trong quá trình
học tập, bên cạnh những mặt thuận lợi, học viên cũng gặp phải không ít khó
khăn về nhiều mặt, trong đó có vấn đề về mặt ngữ pháp. Chúng ta đều biết, tổ
chức cú pháp của một câu tiếng Hán ngoài ba thành phần chủ ngữ, vị ngữ, tân
ngữ, còn có hai thành phần khác hết sức quan trọng, đó là thành phần tu sức
(修饰语) và bổ sung (补充语). Thành thành tu sức bao gồm trạng ngữ và định
ngữ, thành thành bổ sung bao gồm các loại bổ ngữ; như bổ ngữ chỉ khả năng,
bổ ngữ chỉ trình độ, bổ ngữ chỉ xu hướng, bổ ngữ chỉ kết quả, bổ ngữ chỉ số
lượng,….Trong các thành phần nêu trên, thành phần trạng ngữ có vai trò
không kém phần quan trọng trong việc tổ chức cấu trúc câu. Bản thân tôi
7
trong suốt quá trình học tập ở bậc Đại học cũng đã từng luôn lẫn lộn giữa
trạng ngữ và định ngữ, luôn lờ mờ về cấu trúc cũng như ngữ nghĩa của trạng
ngữ và bổ ngữ trong câu, đặc biệt đối với thành phần trạng ngữ, không thể
phân biệt một cách lý tính đâu là trạng ngữ miêu tả phương thức tiến hành của
động tác, đâu là trạng ngữ miêu tả trạng thái tâm lý của người thực hiện động
tác.
Theo thống kê của hai học giả Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn
Hiệp trong Thành phần câu tiếng Việt, truyện ngắn Hết một buổi chiều (in
trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 30A, Hà Nội, 1981), có lượng câu
mang trạng ngữ chiếm 30% tổng số câu có trong tác phẩm①. Tác phẩm Bối
ảnh《背影》của nhà văn Trung Quốc hiện đại Chu Tự Thanh 朱自清, qua
khảo sát và thống kê, chúng tôi phát hiện, có tới 94,2% trên tổng số câu văn
thuộc tác phẩm có sử dụng trạng ngữ②. Từ đây chúng tôi có thể thấy được vai
trò quan trọng của trạng ngữ trong việc biểu đạt ngôn ngữ trong tiếng Hán
hiện đại cũng như tiếng Việt. Cũng chính bởi nguyên nhân nói trên, chúng tôi
đã mạnh dạn chọn đề tài “ So sánh cấu trúc và ngữ nghĩa trạng ngữ trong
tiếng Việt và tiếng Hán hiện đại” làm đề tài cho luận văn mình.
II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
1. Lịch sử nghiên cứu trạng ngữ trong tiếng Việt
Trạng ngữ là một vấn đề từ lâu đã được nhiều nhà Việt ngữ học quan tâm
nghiên cứu. Kể từ khi hai chữ “trạng ngữ” được chính thức ra đời và đưa vào
①
Theo thống kê của Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp trong Thành phần câu tiếng Việt,
truyện ngắn Hết một buổi chiều (in trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 30A, Hà Nội, 1981), có
lượng câu mang trạng ngữ chiếm 30% tổng số câu. (Xem Thành phần câu tiếng Việt, Nguyễn Minh
Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999, tr.321.
②
Hán ngữ cao cấp giáo trình《汉语高级教程》, tập 1, Tập thể tác giả Đại học Bắc Kinh, Bắc
Kinh đại học xuất bản xã, 2002, tr. 1-3.
8
sử dụng, cho đến nay hầu như không một bộ giáo trình ngữ pháp tiếng Việt
nào không đề cập đến thành phần này. Mặc dù quan niệm về thành phần trạng
ngữ trong tiếng Việt, giữa các học giả, đôi khi còn nảy sinh những bất đồng
nhất định, nhưng chung quy đều thống nhất coi nó là thành phần phụ quan
trọng, bổ sung ý nghĩa cho sự tình được biểu đạt trong câu. Thành tựu nghiên
cứu về trạng ngữ phần lớn được trình bày trong các công trình sau:
Khái niệm ngôn ngữ học, Nguyễn Văn Tu, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1960.
Giáo trình Việt ngữ, Hoàng Tuệ, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1962.
Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, Nguyễn Kim Thản, Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội, 1964.
Ngữ pháp tiếng Việt, Hoàng Trọng Phiến, Nxb. Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội, 1980.
Ngữ pháp tiếng Việt - từ loại, Đinh Văn Đức, Nxb. Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội, 1986.
Ngữ pháp tiếng Việt, Diệp Quang Ban, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2004.
Ngữ pháp tiếng Việt, Nguyễn Hữu Quỳnh, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà
Nội, 2002.
Thành phần câu tiếng Việt, Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp,
Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 1998.
Ngữ pháp chức năng tiếng Việt, quyển 1, Câu trong tiếng Việt (cấu trúc
– nghĩa – công dụng), Cao Xuân Hạo (chủ biên), Nxb. Giáo dục, 2007.
2. Lịch sử nghiên cứu trạng ngữ trong tiếng Hán
Thuật ngữ “状语 zhuàng yŭ” (phiên âm Hán Việt của hai chữ này là:
trạng ngữ) trong tiếng Hán được các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc sử dụng
tương đối muộn. Phải mãi đến cuối thế kỷ 19, khi Mã Kiến Trung, một trí
thức Tây học, từng có thời gian dài du học tại Pháp, thông hiểu nhiều thứ
9
tiếng như Pháp, Anh, Hy Lạp, La Tinh,… đã đem hệ thống ngữ pháp Tây
phương áp dụng vào nghiên cứu ngữ pháp tiếng Hán, và cho ra đời Mã thị văn
thông《马氏文通》, bộ ngữ pháp đầu tiên, xuất bản năm 1898 tại Trung
Quốc, thì thuật ngữ “trạng ngữ” mới chính thức được sử dụng. Từ những năm
50 của thế kỷ 20, thuật ngữ “trạng ngữ” bắt đầu được sử dụng phổ biến và
ngày càng nhận được sự chú ý nghiên cứu từ nhiều nhà Hán ngữ học, đặc biệt
là từ sau Đại cách mạng văn hoá kết thúc đến nay. Thành tựu nghiên cứu về
trạng ngữ trong câu tiếng Hán hiện đại của các nhà Hán ngữ ngữ pháp học
nhìn chung được thể hiện trong một số công trình sau đây:
《对外汉语教学使用语法》,卢福波著,北京,北京语言文化大学
出版社 1997 年版。
《古汉语语法》,张贻惠编著,湖北人民出版社 1957 年版。
《古今汉语比较语法》,张静、张桁著,郑州,河南人民出版社
1979 年版。
《汉语口语语法》,赵元任著,北京,商务印书馆 2005 年版。
《现代汉语》,胡裕树主编,上海,教育出版社 1979 年版。
《汉语语法论》,高名凯著,北京,商务印书馆 1982 年版。
《语法讲义》,朱德熙著,北京,商务印书馆 1982 年版。
《中国文法要略》,吕叔湘著,北京,商务印书馆 1982 年版。
《状语的分类和多项状语的顺序》,刘月华著,载于《语法研究和
探索》,北京大学出版社 1983 年版。
《实用现代汉语语法》,刘月华等著,外语教学与研究出版社 1983
年版。
《汉语语法史》,王力著,山东,教育出版社 1988 年版。
Có thể nói, thành tựu nghiên cứu về trạng ngữ trong tiếng Việt và tiếng
10
Hán đều hết sức to lớn, vừa theo chiều rộng lẫn chiều sâu. Nhưng với hai hệ
thống ngôn ngữ có lịch sử giao lưu lâu đời như tiếng Việt và tiếng Hán, cho
đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu so sánh một cách hệ thống,
điều này không chỉ gây bất lợi cho việc dạy và học ngoại ngữ, cho việc
nghiên cứu, thậm chí còn gây trở ngại đến quá trình tiếp xúc và giao lưu văn
hoá của cả hai quốc gia, hai dân tộc.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Về phạm vi nghiên cứu của luận văn, như chúng ta thấy, tuy tên đề tài
này chỉ nhắc đến hai khía cạnh cấu trúc và ngữ nghĩa của trạng ngữ trong
tiếng Việt và tiếng Hán hiện đại, nhưng trên thực tế, có thể nói, đề tài này
đồng thời có thể hiểu là nghiên cứu so sánh về tất cả mọi mặt của trạng ngữ
trong tiếng Việt và tiếng Hán hiện đại. Bởi vì xét mặt “cấu trúc” chính là xét
mặt hình thức của trạng ngữ, mà mặt hình thức thì không chỉ giới hạn ở khía
cạnh nó (trạng ngữ) được tổ hợp bởi những thành tố nào, mà phải xét luôn nó
có vị trí ra sao trong câu, nó có phạm vi sử dụng trong câu ra sao, nó được sắp
xếp theo trật tự ra sao, phân loại ra sao….Một sự vật hiện tượng bất kỳ nói
cho cùng không ngoài hai mặt nội dung (nghĩa) và hình thức, thế nên việc mở
rộng phạm vi nghiên cứu như chúng tôi đã đề cập là hoàn toàn hợp lý, không
vi phạm bất cứ một quy chuẩn nào.
Với đối tượng và phạm vi nghiên cứu như đã nêu, luận văn của chúng tôi
ngoài phần trình bày cơ sở lý thuyết, trình bày những kiến thức làm cơ sở cho
việc nghiên cứu so sánh. Ở chương so sánh, chúng tôi tập trung xoáy sâu vào
những điểm tương đồng và khu biệt giữa trạng ngữ trong tiếng Việt và tiếng
Hán hiện đại ở một số khía cạnh sau:
So sánh đặc trưng về chức năng của trạng ngữ trong tiếng Việt và tiếng
Hán hiện đại.
So sánh vị trí của trạng ngữ trong tiếng Việt và tiếng Hán hiện đại.
11
So sánh phạm vi sử dụng của trạng ngữ trong tiếng Việt và tiếng Hán
hiện đại.
So sánh vấn đề phân loại trạng ngữ trong tiếng Việt và tiếng Hán hiện
đại.
So sánh kết cấu của trạng ngữ trong tiếng Việt và tiếng Hán hiện đại.
So sánh trật tự sắp xếp của trạng ngữ trong tiếng Việt và tiếng Hán hiện
đại.
So sánh đặc trưng ngữ nghĩa của trạng ngữ trong tiếng Việt và tiếng Hán
hiện đại.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ TƯ LIỆU NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng một số phương pháp sau:
Tổng hợp những đặc trưng cơ bản nhất của trạng ngữ trong tiếng Việt và
tiếng Hán, làm cơ sở để so sánh.
Thống kê nguồn ngữ liệu liên quan đến trạng ngữ thuộc hai hệ thống
tiếng Việt và tiếng Hán hiện đại.
Trên cơ sở nguồn ngữ liệu đã thống kê, tiến hành phân tích, so sánh.
Luận văn được trình bày theo cả hai hướng diễn dịch và quy nạp.
2. Tư liệu nghiên cứu
Hệ thống tư liệu mà luận văn sử dụng, chủ yếu đến từ các nguồn sau:
Các sách, báo, tạp chí, luận văn có nội dung liên quan đến đối tượng
nghiên cứu của đề tài.
Các tác phẩm văn học thuộc hai hệ thống ngôn ngữ Việt – Hán được xuất
bản chính thức.
Những quan sát của cá nhân về những điểm tương đồng và dị biệt của
trạng ngữ trong tiếng Việt và tiếng Hán hiện đại.
12
V. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. Ý nghĩa khoa học
Với đối tượng cũng như phạm vi nghiên cứu đã được xác định ở trên,
có thể nói, đây là đề tài đầu tiên đem trạng ngữ thuộc hai hệ thống ngôn ngữ
tiếng Việt và tiếng Hán hiện đại so sánh với nhau. Luận văn này được trình
bày một cách chuẩn mực, tỉ mỉ và rõ ràng. Những kết quả mà luận văn này đạt
được, có thể coi là những thành quả bước đầu trong công tác nghiên cứu so
sánh tiếng Việt và tiếng Hán hiện đại, đồng thời đây cũng sẽ là một tài liệu
tham khảo hữu ích cho ngành ngữ học so sánh, đặc biệt là so sánh tiếng Việt
và tiếng Hán hiện đại.
2. Ý nghĩa thực tiễn
Cung cấp những hiểu biết cụ thể cũng như những điểm tương đồng và
khác biệt của trạng ngữ trong tiếng Việt và tiếng Hán hiện đại, không chỉ giúp
ích cho quá trình giao tiếp hàng ngày, xây dựng chiến lược dạy và học tiếng
(bao hàm cả tiếng Việt và tiếng Hán hiện đại) một cách hiệu quả và tiết kiệm
hơn. Ngoài ra, công trình này ở phạm vi xa hơn, còn thúc đẩy tiến trình tiếp
xúc ngôn ngữ và giao lưu văn hoá giữa Việt Nam và Trung Quốc.
VI. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Luận văn này được trình bày theo bố cục như sau:
Dẫn luận
Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử vấn đề
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu và tư liệu nghiên cứu
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
13
Phần nội dung chính của luận văn bao gồm có 4 chương:
Chương một: Cơ sở lý thuyết
I. Khái niệm trạng ngữ trong ngôn ngữ học
II. Sự cần thiết phải so sánh trạng ngữ trong tiếng Việt và tiếng Hán
hiện đại
Chương hai: Đặc điểm của trạng ngữ trong tiếng Việt.
I. Thuật ngữ “trạng ngữ” trong tiếng Việt
II. Đặc điểm của trạng ngữ trong tiếng Việt
III. Vấn đề phân loại trạng ngữ trong tiếng Việt
Chương ba : Đặc điểm của trạng ngữ trong tiếng Hán hiện đại.
I. Thuật ngữ “trạng ngữ” trong tiếng Hán hiện đại.
II. Đặc điểm của trạng ngữ trong tiếng Hán hiện đại.
III. Vấn đề phân loại trạng ngữ trong tiếng Hán hiện đại.
Chương bốn: Đồng dị của trạng ngữ trong tiếng Việt và tiếng Hán
hiện đại.
I. Bổ sung và tu sức (bao hàm vấn đề vị trí của trạng ngữ)
II. Nhìn từ góc độ phân loại (bao hàm vấn đề phạm vi sử dụng của
trạng ngữ)
III. Nhìn từ góc độ cấu trúc
IV. Nhìn từ góc độ trật tự sắp xếp
V. Nhìn từ góc độ ngữ nghĩa
Kết luận
Nguồn ngữ liệu văn học
Tài liệu tham khảo
14
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
I. KHÁI NIỆM TRẠNG NGỮ TRONG NGÔN NGỮ HỌC
Thuật ngữ “trạng ngữ” từ lâu đã hết sức quen thuộc đối với các nhà ngôn
ngữ học, đặc biệt là các học giả nghiên cứu ngữ pháp thuộc hệ thống các ngôn
ngữ cụ thể. Trong tiếng Anh, “trạng ngữ” được gọi là “adverbials”, “adverbial
modifier” hoặc “adverbial adjunct”; được gọi là “circonstant” hoặc
“complément
circonstanciel”
trong
tiếng
Pháp
và
được
gọi
là
“oбctoЯteπbctbo” trong tiếng Nga①. Học giả Hadumod Bussmann trong cuốn
thuật ngữ từ điển ngôn ngữ học có tên Routledge dictionary of language and
linguistics đã định nghĩa “trạng ngữ” như sau: “Collective term for several
syntactic functions with various semantic realizations; an adverbial
characterizes a verbal action, process, or state of affairs with respect to time,
place, kind, manner, etc. ②” Nghĩa là: “Tập hợp các điều kiện cho tất cả các
chức năng cú pháp với sự nhận thức các nghĩa khác nhau, đặc điểm của trạng
ngữ một hành động nói hoặc phát biểu một vấn đề với các mong muốn thời
gian, nơi chốn, loại, cách thức,…”. Nhóm các nhà ngôn ngữ học trong
Longman grammar of spoken and written English lại đem “trạng ngữ” định
nghĩa như sau: “Adverbials are elements of clauses with three major functions:
to add circumstantial information about the proposition in the clause, to
express speaker/ writer stance towards the clause, or to link the clause (or
Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học Việt – Anh – Pháp – Nga, Vương Toàn (chủ biên), Nxb. Từ
điển Bách khoa, 2003, tr. 400.
②
Routledge dictionary of language and linguistics, Hadumod Bussmann, London and New York,(
prined in Great Britain ), 1995, tr.8-9.
①
15
some part of it) to some other unit of discourse.①” Nghĩa là: “Trạng ngữ là
những cụm từ thuộc cấu trúc câu với ba chức năng chính: bổ sung những
thông tin về tình huống cho sự tình được nêu trong câu; biểu đạt phương thức,
tư thế của người nói/người viết trong câu; hoặc nối kết câu (hoặc một số bộ
phận thuộc câu) với những bộ phận cấu thành khác thuộc văn bản”. Với ba
chức năng chính nêu trên, theo nhóm các tác giả nói trên, trạng ngữ được
phân chia thành ba loại lớn: trạng ngữ tình huống (circumstance adverbials),
trạng ngữ phương thức (stance adverbials) và trạng ngữ liên hệ (linking
adverbials). Ví dụ:
a) On many large farms, farm workers live in tied cottages. (Ở rất
nhiều nông trại lớn, người làm công ở trong những ngôi nhà do
chính các chủ nông trại cung cấp.)
b) You should always speak naturally. (Bạn nên luôn giữ sự tự nhiên
trong khi nói chuyện.)
c) Penrose gambled heavily and, as a result, lost a lot of money. (Penrose
đặt cược quá lớn, kết quả là, (hắn) đã thua mất rất nhiều tiền.)
Những chữ bôi đen thuộc ba ví dụ nêu trên đều làm thành phần trạng ngữ
của câu. Ở ví dụ a, câu xuất hiện hai trạng ngữ chỉ nơi chốn là “on many
large farms” và “in tied cottages” xuất hiện ở đầu và cuối câu; ở ví dụ b,
“naturally” đóng vai trò một trạng ngữ chỉ phương thức của động tác “speak”;
ở ví dụ c, “as a result” là trạng ngữ mang chức năng nối kết nội dung giữa hai
vế câu. Cũng cần nói rằng, tên gọi của ba loại trạng ngữ nói trên chỉ mang
tính khái quát, vì trong mỗi loại lại tiếp tục phân ra nhiều loại nhỏ hơn. Ví dụ,
nội thuộc trạng ngữ tình huống (circumstance adverbials) còn có trạng ngữ chỉ
nơi chốn, trạng ngữ chỉ thời gian, trạng ngữ chỉ tần xuất, trạng ngữ chỉ nguyên
Longman Grammar of Spoken and Written English, Douglas Biber, Stig Johansson, Geoffrey
Leech, Susan Conrad, Edward Finegan, Foreign Language Teaching and Research Press, Peiking,
2000, tr.762.
①
16
nhân, kết quả, điều kiện, trình độ, v.v..
Thuật ngữ “状语 zhuàng yŭ” (phiên âm Hán Việt của hai chữ này là:
trạng ngữ. Để tiện theo dõi, dưới đây chúng tôi chỉ sử dụng hai chữ “trạng
ngữ”) trong tiếng Hán được các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc sử dụng tương
đối muộn. Phải mãi đến cuối thế kỷ 19, khi Mã Kiến Trung, một trí thức Tây
học, từng có thời gian dài du học tại Pháp, thông hiểu nhiều thứ tiếng như
Pháp, Anh, Hy Lạp, La Tinh,… đã đem hệ thống ngữ pháp Tây phương áp
dụng vào nghiên cứu ngữ pháp tiếng Hán, và cho ra đời Mã thị văn thông《马
氏文通》, bộ ngữ pháp đầu tiên, xuất bản năm 1898 tại Trung Quốc, thì thuật
ngữ “trạng ngữ” mới chính thức được sử dụng. Trong Mã thị văn thông《马
氏文通》, liên quan đến hai chữ “trạng ngữ”, Mã Kiến Trung định nghĩa như
sau: “凡状字或名字,集至两字或三四字,以记时记处者,往往自成一
顿,无所名也,名之状语。Phàm trạng tự hoặc danh tự, tập chí lưỡng tự
hoặc tam tứ tự, dĩ ký thời ký xứ giả, vãng vãng tự thành nhất đốn, vô sở danh
dã, danh chi trạng ngữ.” Nghĩa là: “Phàm hai ba hoặc ba bốn trạng tự (chỉ phó
từ đơn âm tiết) hoặc danh tự (chỉ danh từ đơn âm tiết) đứng gần nhau, dùng để
chỉ thời gian, nơi chốn, thường dùng dấu ngắt để tạo thế độc lập với các thành
phần khác, chúng chưa từng có tên gọi, nay ta gọi chúng là trạng ngữ.①” Ở
đây, cũng cần nói rõ rằng, tuy Mã Kiến Trung đã làm công việc gọi tên trạng
ngữ, nhưng xét trên quan điểm ngữ pháp hiện đại, thuật ngữ “trạng ngữ” theo
quan điểm của ông vẫn không khác “trạng tự”, một thuật ngữ mà ông quen
dùng, và nét khu biệt giữa cả hai chỉ là trạng ngữ có sự tăng tiến về số chữ mà
thôi. Trạng tự thì chỉ có duy nhất một chữ, còn trạng ngữ thì có hai chữ (tự)
trở lên, xét những trạng ngữ mà ông nêu ra, như “於是 ư thị”(thế là), “今也
①
Mã thị văn thông độc bản 《马氏文通读本》, Lã Thúc Tương, Vương Hải Phấn biên, Thượng
Hải Giáo dục xuất bản xã, 2000, tr.670 – 671.
17
kim dã” (nay, hiện nay, ngày nay), “虽然 tuy nhiên”, “始也 thuỷ dã” (ban
đầu), “ 久 之 cửu chi” (lâu dần, rất lâu sau), “ 不 然 bất nhiên” (nếu
không),…có thể đem chúng cùng “trạng tự” quy chung vào khái niệm trạng từ
hoặc phó từ. Nhìn từ góc độ ý nghĩa, khái niệm “trạng ngữ” mà Mã Kiến
Trung nêu ra nhìn chung chỉ dừng lại ở hai nét nghĩa thời gian và nơi chốn,
điểm này so sánh với tập hợp đa dạng các nét nghĩa của thuật ngữ trạng ngữ
theo quan niệm của ngữ pháp hiện đại, rõ ràng vẫn còn một khoảng cách khá
xa.
Trương Di Huệ trong Cổ Hán ngữ ngữ pháp xuất bản ở Trung Quốc vào
năm 1957, đem trạng ngữ cùng định ngữ xếp chung vào thành phần tu sức của
câu, đồng thời đưa ra định nghĩa như sau: “副词外,名词、代词、形容词、
动词、数量词、词组都可以作状语,以修饰动词为主,但也修饰形容词
或其他副词。Phó từ ngoại, danh từ, đại từ, hình dung từ, động từ, số lượng
từ, từ tổ đô khả dĩ tác trạng ngữ, dĩ tu sức động từ vi chủ, đãn dã tu sức hình
dung từ hoặc kỳ tha phó từ.” (Ngoài phó từ, danh từ, đại từ, tính từ, động từ,
số lượng từ, từ tổ đều có thể làm trạng ngữ, chủ yếu dùng để tu sức cho động
từ về mặt ý nghĩa, nhưng đồng thời cũng có thể tu sức cho tính từ hoặc một số
phó từ khác①). Như vậy, đặc trưng cơ bản của thành phần trạng ngữ trong câu
tiếng Hán đã được định hình. Nhưng định nghĩa của Trương Di Huệ dù sao
vẫn có xuất phát điểm từ tiếng Hán cổ đại, một đối tượng có khoảng cách nhất
định so với đối tượng mà luận văn này chọn so sánh.
Nhà ngữ pháp học Trung Quốc Lư Phúc Ba trong bộ Đối ngoại Hán ngữ
giáo học thực dụng ngữ pháp《对外汉语教学实用语法》, do nhà xuất bản
Đại học Ngôn ngữ Văn hoá Bắc Kinh xuất bản năm 1997, định nghĩa “trạng
①
Cổ đại Hán ngữ ngữ pháp《古代汉语语法》, Trương Di Huệ , Hồ Bắc Nhân dân xuất bản xã,
Vũ Hán, 1957, tr.118.
18
ngữ” dưới góc nhìn thực dụng như sau: “状语是用来修饰动词、形容词
的,在句中是谓语部分的修饰成分。Trạng ngữ thị dụng lai tu sức động từ,
hình dung từ đích, tại cú trung thị vị ngữ bộ phận đích tu sức thành phần.”
(Trạng ngữ là thành phần chuyên dùng tu sức cho động từ và tính từ, nó là
thành phần tu sức cho vị ngữ trong câu.①) Ở đây, Lư Phúc Ba đồng thời nêu ra
bốn câu mang trạng ngữ như sau:
a) 他始终不放弃自己的信念。Anh ấy không bao giờ từ bỏ niềm tin
của mình.
b) 她耐心地给我解释着。Cô ấy đang nhẫn nại giải thích cho tôi. (Cô
ấy đang giải thích cho tôi một cách hết sức nhẫn nại.)
c) 这里的老百姓特别热情、特别好客。Người dân nơi đây cực kỳ
nhiệt tình, cực kỳ hiếu khách.
d) 每当我遇到困难的时候,他总是热情地帮助我。Mỗi khi tôi gặp
phải khó khăn, anh ấy luôn nhiệt tình giúp đỡ tôi (Câu này cũng có
thể chuyển dịch thành: anh ấy luôn giúp đỡ tôi một cách hết sức nhiệt
tình.)
Những chữ được bôi đen trong bốn ví dụ trên, theo quan điểm của ngữ
pháp học hiện đại tiếng Hán đều thuộc thành phần trạng ngữ. Ví dụ a có “始
终”, ví dụ b có “耐心地” và “给我”, ví dụ c có hai trạng ngữ tương đồng “特
别”, ví dụ d với 03 trạng ngữ “每当我遇到困难的时候”, “总是” và “热情
地”. Như vậy, với 08 tổ hợp trạng ngữ xuất hiện trong 04 câu, có thể thấy rõ
tầm quan trọng của trạng ngữ trong quá trình biểu đạt ngôn ngữ ở tiếng Hán.
Trong tiếng Việt, không rõ thuật ngữ “trạng ngữ” bắt đầu được sử dụng
①
Đối ngoại Hán ngữ giáo học thực dụng ngữ pháp《对外汉语教学实用语法》, Lư Phúc Ba soạn,
Nxb. Đại học Ngôn ngữ Văn hoá Bắc Kinh, 1997, tr.181.
19
khi nào, cũng không rõ mối quan hệ ngữ âm của nó với thuật ngữ “状语
zhuàng yŭ” (phiên âm Hán Việt: trạng ngữ) được sử dụng trong tiếng Hán ra
sao, nhưng xét bộ Việt Nam văn phạm của Trần Trọng Kim, sách do Hội Khai
Trí Tiến Đức xuất bản lần đầu năm 1936, hai chữ “trạng ngữ” vẫn chưa xuất
hiện, nó vẫn được tác giả đặt trong phạm vi của túc từ ① và một bộ phận thuộc
khái niệm “trạng tự”②. Học giả Nguyễn Văn Tu trong Khái niệm ngôn ngữ
học cho rằng: “Trạng ngữ là thành phần phụ của câu có ý nghĩa biểu thị đặc
điểm của hành động, cách thức hành động, chỉ định hành động xảy ra trong
tình huống và điều kiện nào.③” Cố Giáo sư Nguyễn Kim Thản trong Nghiên
cứu về ngữ pháp tiếng Việt, 2 tập, do Nxb. Khoa học Xã hội xuất bản lần đầu
năm 1963 định nghĩa trạng ngữ như sau: “Trạng ngữ là thành phần thứ yếu
của câu, biểu thị các ý nghĩa thời gian, địa điểm, nguyên nhân, mục đích,
phương tiện hay tình thái. Trạng ngữ có khả năng biến đổi về vị trí trong câu
tự do hơn các thành phần khác.④”
Như vậy, dưới bình diện kết học (syntactics) [tức câu được xem xét về
cấu trúc hình thức như các thành phần câu (chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ,…) và
mối quan hệ giữa các thành phần câu] kết hợp với bình diện nghĩa học
(semantics), trong đại đa số các hệ thống ngôn ngữ Á-Âu, trạng ngữ nhìn
chung đều được coi là thành phần phụ của câu, bổ sung hoặc tu sức ý nghĩa về
các mặt địa điểm, thời gian, cách thức, phương tiện, tình hình, nguyên nhân,
mục đích,… cho sự tình được đề cập trong câu.
Dưới bình diện dụng học (pragmatics) (trong ngôn ngữ học được gọi là
①
Việt Nam văn phạm, Trần Trọng Kim, Nxb. Thanh Niên, 2007, tr.28-29.
②
Việt Nam văn phạm, Trần Trọng Kim, Nxb. Thanh niên, 2007, tr.136-147.
③
Khái niệm ngôn ngữ học, Nguyễn Văn Tu, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1960, tr.219.
④
Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt (tập 2), Nguyễn Kim Thản, Nxb. Khoa học Xã hôi, Hà Nội,
1964, tr.212.
20
- Xem thêm -