Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn vận dụng phương pháp sơ đồ tư duy vào dạy học chương iii việt nam từ năm 19...

Tài liệu Skkn vận dụng phương pháp sơ đồ tư duy vào dạy học chương iii việt nam từ năm 1945 đến năm 1954 (lịch sử 12)

.PDF
37
2541
62

Mô tả:

MỤC LỤC Nội dung Trang I. TÓM TẮT ĐỀ TÀI…......................................................................................3 II. GIỚI THIỆU...................................................................................................4 III. PHƯƠNG PHÁP...........................................................................................5 1. Khách thể nghiên cứu...............................................................................5 2. Thiết kế nghiên cứu ...................................................................................6 3. Quy trình nghiên cứu.................................................................................6 4. Đo lường và thu thập dữ liệu.....................................................................7 IV. PHÂN TÍCH DỮ LIỆU VÀ BÀN LUẬN KẾT QUẢ ...............................8 1. Phân tích dữ liệu.........................................................................................8 2. Bàn luận.....................................................................................................10 V. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .............................................................10 1. Kết luận…………………………………………………….……………10 2. Khuyến nghị ………………………………….…………………………11 TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................12 PHỤ LỤC ..........................................................................................................13 1 BẢNG CHỮ VIẾT TẮT DÙNG TRONG ĐỀ TÀI Viết tắt Viết đầy đủ SĐTD Sơ đồ tư duy GV Giáo viên HĐ Hoạt động HS Học sinh DH Dạy học PPDH Phương pháp dạy học SGK Sách giáo khoa THPT Trung học phổ thông THCS Trung học cơ sở 2 I. TÓM TẮT ĐỀ TÀI Qua thực tế năm học (2012 - 2013) với sự hiểu biết về phần mềm vẽ SĐTD và cách thức thiết kế SĐTD qua hai cuốn sách “Tôi tài giỏi bạn cũng thế” của Adam khoo và cuốn “the mind map book” của Tony và Barry buzan. Tôi đã mạnh dạn sử dụng SĐTD trong quá trình dạy học khối lớp 11 và kết quả được nâng cao rõ rệt thông qua các bài kiểm tra đánh giá định kỳ. Đặc điểm cơ bản của phương pháp dạy học bằng SĐTD là: thông qua quá trình gợi ý dẫn dắt, nêu câu hỏi, giả định, GV tạo điều kiện cho HS tranh luận, tìm tòi, phát hiện vấn đề thông qua tình huống gợi vấn đề. Các tình huống này có thể do GV chủ động xây dựng hoặc cũng có thể do lôgic kiến thức bài học tạo nên. Qua đó, GV đảm nhiệm vai trò một người quản trò, chỉ tổ chức - hướng dẫn. HS phải thực sự nhập cuộc vào bài học, chủ động trong suy nghĩ và hình thành ý tưởng. Cần trân trọng, khuyến khích những phát hiện của HS, tạo cơ hội cho HS thảo luận, tranh luận đưa ra ý kiến, nhận định, đánh giá cá nhân (có thể không đúng, không đầy đủ hoặc khác với sự chuẩn bị của GV), giúp HS tự giải quyết vấn đề để chủ động chiếm lĩnh kiến thức. Mục đích của phương pháp này không phải chỉ làm cho HS lĩnh hội được kết quả của quá trình dạy học mà còn ở chỗ làm cho họ phát hiện khả năng tiến hành những quá trình như vậy. Nói cách khác, HS nắm được bản chất của quá trình học tập. Phương pháp sử dụng SĐTD là một trong những PPDH tích cực đã và đang được quan tâm và phát triển ngay ở cấp THCS nhằm đổi mới PPDH. Trường THPT Phan Bội Châu và các trường khác cần quan tâm đến việc vận dụng phương pháp sử dụng SĐTD vào dạy học môn Lịch sử. Trên cơ sở đã đạt được ở khối lớp 11 từ năm học trước và bản thân tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học. Năm học 2013 - 2014, tôi mạnh dạn áp dụng SĐTD cho HS khối 12 để các em không những nắm vững kiến thức bộ môn mà còn hình thành phương pháp học tập hiệu quả, phục vụ đắc lực cho việc ôn tập thi tốt nghiệp THPT cũng như Cao đẳng, Đại học. Thực tiễn giảng dạy bộ môn Lịch sử nói chung và Chương III“Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954” (Lịch sử 12) nói riêng hiện nay còn nhiều vấn đề bất cập trong phương pháp giảng dạy truyền thụ tri thức cho HS. Nhiều GV đã áp dụng các phương pháp dạy học truyền thống cũng như hiện đại vào thực tiễn, song vẫn chưa phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của các em, HS vẫn còn thụ động trong việc lĩnh hội các tri thức khoa học và nhất là chưa phát huy hết đặc điểm nổi bật của Lịch sử trong việc xây dựng và hình thành nhân cách con người Việt Nam. Chương III“Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954” (Lịch sử 12) là một phần rất hay và quan trọng đối với cả GV và HS, vì nó thường xuyên xuất hiện trong các đề thi tốt nghiệp, đề thi tuyển sinh vào các trường Đại học, Cao đẳng. GV phải cân đối hài hòa giữa dung lượng kiến thức với thời gian, giữa trình bày sự kiện, diễn biến với những câu hỏi mang tính tư duy, suy luận. HS vừa phải hứng thú, vừa tiếp nhận dung lượng kiến thức lớn mà không thấy “ngán” khi học bài hoặc kiểm tra đánh giá dẫn tới hiệu quả của việc dạy và học chưa cao. Giải pháp của tôi là vận dụng phương pháp SĐTD vào dạy học chương này sẽ giúp HS vừa nắm được tri thức mới, vừa nắm được phương pháp chiếm lĩnh 3 tri thức đó, vừa phát triển tư duy tích cực sáng tạo, góp phần Nâng cao hứng thú và kết quả học tập của HS. Nghiên cứu được tiến hành trên hai nhóm tương đương: Hai lớp 12 trường THPT Phan Bội Châu, Cam Ranh, Khánh Hoà. Lớp 12A3 là lớp thực nghiệm và 12 A8 là lớp đối chứng. Lớp thực nghiệm được thực hiện giải pháp thay thế khi dạy các bài trong Chương III“Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954” (Lịch sử 12). Kết quả cho thấy tác động đã có ảnh hưởng rõ rệt đến kết quả học tập của HS, lớp thực nghiệm đã đạt kết quả học tập cao hơn so với lớp đối chứng. Điểm bài đầu ra của lớp thực nghiệm có giá trị trung bình là 6,6; điểm bài đầu ra của lớp đối chứng là 5,2. Kết quả kiểm chứng T-Test cho thấy p = 0,00006 < 0,05 có nghĩa là có sự khác biệt lớn giữa điểm trung bình của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng. Điều đó chứng minh rằng vận dụng phương pháp SĐTD vào dạy học Chương III“Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954” (Lịch sử 12) đã làm Nâng cao hứng thú và kết quả học tập của học sinh trường THPT Phan Bội Châu. II. GIỚI THIỆU Dạy học nói chung, dạy học lịch sử ở trường phổ thông nói riêng là một quá trình. Đó là một quá trình nhận thức đặc thù, trong đó GV tổ chức, dẫn dắt HS một cách có mục đích, có kế hoạch để HS nắm vững những tri thức cơ sở về văn hóa, khoa học và kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực nhận thức, dần dần hình thành cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng, nhân cách và đạo đức. Trong thực tế, quá trình dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng rất phức tạp, có nhiều hình thức. Song, phổ biến vẫn là tình trạng “thầy đọc”, “trò chép”. Với lối dạy này đã hạn chế hiệu quả của quá trình dạy học. Nếu HS tự mình tìm hiểu, phát hiện và giải quyết dưới sự hướng dẫn của GV để tìm ra các nguyên nhân, qui luật phát triển, diễn biến, tiến trình, ... thì kiến thức thu được sẽ sâu sắc và được sử dụng hiệu quả hơn rất nhiều cho việc học tập tiếp cũng như ứng dụng vào hoạt động thực tiễn. Qua việc th¨m líp dù giê kh¶o s¸t tr­íc t¸c ®éng, t«i nhận thÊy phần đông GV chỉ tính đến khối lượng kiến thức cần cung cấp trong một thời lượng qui định, chứ không tính đến việc tiếp thu của HS là bao nhiêu ?. Mặt khác, dưới tác động của cơ chế thị trường vào giáo dục - một nghề vốn thanh cao - làm thay đổi bậc thang giá trị của các môn học, sự phân hóa “môn chính”, “môn phụ” ngày thêm sâu sắc. Áp lực điểm số, tâm lí thi cử (tốt nghiệp THPT, Cao đẳng, Đại học...) buộc GV máy móc, rập khuôn nội dung sách giáo khoa (dựa theo chuẩn kiến thức) rồi buộc HS phải học thuộc lòng. HS khi học, tiếp thu thụ động ít có điều kiện thảo luận, tranh luận, đưa ra ý kiến, nhận định, đánh giá cá nhân; không có cơ hội tham gia nhiều vào quá trình học từ đó làm mất khả năng tập trung, tỏ ra chán nản, mệt mỏi. Vì thế các em thường đạt kết quả thấp trong các bài kiểm tra, cuèi cïng lµ mÊt ®i høng thó ®èi víi m«n häc. Năm học 2013 – 2014, căn cứ vào phương án đổi mới kỳ thi tốt nghiệp THPT của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đã tạo điều kiện cho tôi mạnh dạn áp dụng phương pháp sử dụng SĐTD vào dạy học khối lớp 12 nhằm phát huy tính tích cực của HS trong giờ học. Dạy học là một nghệ thuật, bằng tâm hồn, sự hiểu biết và nghệ 4 thuật của người GV, những “phần xác” lịch sử sẽ được “phả hồn” vào một cách sinh động và đẹp đẽ; giúp các em cảm nhận tốt hơn, yêu bộ môn lịch sử hơn đồng thời thấy được vai trò của lịch sử trong cuộc sống. Giải pháp thay thế: Vận dụng phương pháp SĐTD trong thiết kế một số bài soạn của Chương III “Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954” (Lịch sử 12) bao gồm: - Vận dụng phù hợp phương pháp sơ đồ tư duy phối hợp với các phương pháp khác (phát vấn, nêu vấn đề, giải quyết vấn đề, thảo luận nhóm...) - Vận dụng phương pháp sơ đồ tư duy trong kiểm tra bài cũ và khai thác trong từng đơn vị kiến thức trong một tiết học. - Vận dụng phương pháp sơ đồ tư duy trong việc củng cố - đánh giá cuối tiết học. - Vận dụng phương pháp sơ đồ tư duy để ra bài tập về nhà hay kiểm tra 15 phút. - Vận dụng phương pháp sơ đồ tư duy trong việc ôn tập, hệ thống kiến thức cuối bài hoặc cuối chương. Vấn đề đổi mới PPDH trong đó có vận dụng phương pháp SĐTD trong dạy học lịch sử, đã có nhiều bài viết, nhiều đề tài nghiên cứu được trình bày. Ví dụ: - Sử dụng SĐTD trong dạy Văn học sử ở trường THPT Ngọc Hồi – Hà Nội của tác giả Nguyễn Thị Ánh Nguyệt – Giáo viên môn văn. - Sử dụng SĐTD trong việc hệ thống hóa kiến thức môn lịch sử THPT của sinh viên Đặng Thị Tuyết Mai – Người hướng dẫn PGS.TS Trần Khánh Đức. Thông qua các bài viết, đề tài khác nhau, tôi thấy được hiệu quả của SĐTD trong quá trình giảng dạy. Tuy nhiên, các đề tài này còn mang tính khái quát chưa thật cụ thể. Thực hiện đề tài “Nâng cao hứng thú và kết quả học tập trong một số tiết lịch sử cụ thể giai đoạn từ 1945 – 1954 (Lịch sử 12) bằng phương pháp sử dụng SĐTD ”, tôi muốn có một nghiên cứu cụ thể hơn và đánh giá được hiệu quả của việc đổi mới PPDH. Từ đó, truyền cho các em lòng tin vào lịch sử, say mê tìm hiểu lịch sử cùng các ứng dụng của nó trong đời sống. Vấn đề nghiên cứu: Việc vận dụng phương pháp SĐTD vào dạy học Chương III“Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954” (Lịch sử 12) có nâng cao hứng thú và kết quả học tập của học sinh lớp 12 không? Giả thuyết nghiên cứu: Vận dụng phương pháp SĐTD vào dạy học Chương III “Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954” (Lịch sử 12) sẽ nâng cao hứng thú và kết quả học tập của học sinh lớp 12. III. PHƯƠNG PHÁP 1. Khách thể nghiên cứu Chúng tôi lựa chọn trường THPT Phan Bội Châu vì trường có những điều kiện thuận lợi cho việc Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng. * Giáo viên: Cô Bùi Thị Kiều Oanh - Giáo viên dạy lớp 12 A3 (Lớp thực nghiệm) Cô Mai Thị Thiều Tân - Giáo viên dạy lớp 12 A8 (Lớp đối chứng) 5 Hai giáo viên này có tuổi đời và tuổi nghề bằng nhau, đều là hai GV có nhiều kinh nghiệm, có lòng nhiệt tình và trách nhiệm cao trong công tác giảng dạy và giáo dục HS. * Học sinh: Lớp 12A3 và lớp 12 A8. Về ý thức học tập, tất cả các em ở hai lớp này đều tích cực, chủ động. Về thành tích học tập của năm học trước, và nửa học kỳ I năm học 2013-2014 hai lớp tương đương nhau về điểm số của hầu hết các môn học. 2. Thiết kế nghiên cứu Chọn hai lớp nguyên vẹn: lớp 12A3 là lớp thực nghiệm và 12A8 là lớp đối chứng. Chúng tôi dùng bài kiểm tra 1 tiết làm bài kiểm tra trước tác động. Kết quả kiểm tra phải thể hiện rõ điểm trung bình của hai lớp có sự khác nhau do đó tôi dùng phép kiểm chứng T-Test để kiểm chứng sự chênh lệch giữa điểm số trung bình của hai lớp trước khi tác động. Kết quả Bảng 1: Kiểm chứng lớp đối chứng và lớp thực nghiệm trước khi tác động (Xem Phụ lục 5) Đối chứng Thực nghiệm TBC 7.4 6.5 P= 0.004 P = 0.004 < 0.05, từ đó kết luận sự chênh lệch điểm số trung bình của hai lớp thực nghiệm và đối chứng là rất có ý nghĩa, tức là trước khi tác động, chênh lệch kết quả trung bình của lớp đối chứng 12A8 cao hơn lớp thực nghiệm 12A3. Sử dụng thiết kế thứ hai: Kiểm tra trước và sau tác động đối với các lớp đối chứng và thực nghiệm (được mô tả ở bảng 2): Bảng 2: Thiết kế nghiên cứu Kiểm tra trước Kiểm tra sau Nhóm Tác động tác động tác động Dạy học có vận dụng phương Thực nghiệm O1 O3 pháp SĐTD Đối chứng O2 Dạy học không vận dụng phương pháp SĐTD O4 Ở thiết kế này, chúng tôi sử dụng phép kiểm chứng T-Test độc lập. 3. Quy trình nghiên cứu * Chuẩn bị bài của giáo viên - Cô Tân dạy lớp đối chứng: Thiết kế kế hoạch bài học không vận dụng phương pháp SĐTD, quy trình chuẩn bị bài như bình thường. - Cô Oanh dạy lớp thực nghiệm: Thiết kế kế hoạch bài học có vận dụng phương Pháp SĐTD (Phụ lục 1) ; sưu tầm, lựa chọn thông tin tại các website baigiang.violet.vn, tailieu.vn, giaovien.net… Ngoài ra, sau mçi tiết häc GV ghi 6 l¹i quan s¸t cña m×nh về sự hứng thú, về thái độ, hành vi của HS đối với môn học ®Ó t×m c¸ch c¶i thiÖn cho tiết học sau. * Tiến hành thực nghiệm Thời gian tiến hành thực nghiệm vẫn tuân theo kế hoạch dạy học và theo thời khóa biểu của nhà trường để đảm bảo tính khách quan. Quá trình thực nghiệm được thực hiện vào một số tiết thuộc Chương III “Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954” (Lịch sử 12). Cụ thể tiến hành dạy thực nghiệm ở một số tiết của chương như sau: Tiết 28, 29: Bài 17 - NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA TỪ SAU NGÀY 2/9/1945 ĐẾN TRƯỚC NGÀY 19/12/1946 (Phụ lục 1) Tiết 33: Kiểm tra học kì I (Phụ lục 3) Tiết 34, 36: Bài 20 - CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC KẾT THÚC (1953 – 1954) (Phụ lục 1) Nội dung thực nghiệm: Ở mỗi tiết học được soạn thành giáo án lên lớp. Sử dụng hệ thống bài soạn được xây dựng theo định hướng vận dụng phương pháp SĐTD vào dạy học (GV chuẩn bị trước, có thể yêu cầu HS đọc SGK chuẩn bị ở nhà, hoặc làm việc tại lớp theo nhóm hay cá nhân), nhằm mục đích giúp cho các em nắm vững kiến thức cơ bản của chương trình đồng thời tiếp thu kiến thức mới một cách chủ động, sáng tạo, tạo thói quen tìm tòi, khám phá mở rộng các kiến thức, kỹ năng ngoài phạm vi SGK. Đồng thời phát huy tối ưu tính tích cực nhận thức của mọi đối tượng HS. Theo hướng này thì GV đóng vai trò là người tổ chức và điều khiển hành vi thực hiện nội dung thực nghiệm. Bảng 3. Thời gian thực nghiệm Thứ ngày Môn/Lớp Tiết theo PPCT Tên bài dạy Ba 15/10/2013 Sáu 29/11/2013 Lịch sử 12A3 Lịch sử 12A3 15 Kiểm tra 1 tiết 28 Ba 3/12/2013 Lịch sử 12A3 29 Ba 17/12/2013 Sáu 20/12/2013 Lịch sử 12A3 Lịch sử 12A3 33 Nước VNDCCH từ sau ngày 2/9/1945 đến trước ngày 19/12/1946 (t1) Nước VNDCCH từ sau ngày 2/9/1945 đến trước ngày 19/12/1946 (t2) Kiểm tra học kì I Ba 31/12/2013 Lịch sử 12A 3 36 34 Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc (1953 – 1954) (t1) Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc (1953 – 1954) (t3) 4. Đo lường và thu thập dữ liệu Bài kiểm tra trước tác động là bài kiểm tra 1 tiết, ma trận và đề kiểm tra tổ đã thảo luận thống nhất chung. 7 Bài kiểm tra sau tác động là bài kiểm tra học kỳ I, theo ma trận và đề kiểm tra tổ đã thảo luận thống nhất chung. Ngoµi ra, ®Ó nghiªn cøu vÒ sự hứng thú, về thái độ, hành vi của HS đối với môn học t«i cßn x©y dùng b¶ng kiÓm quan s¸t (ở phần phụ lục) ®Ó thu thËp d÷ liÖu; đồng thời tôi tiến hành thu các bài SĐTD mà HS tự thiết kế làm tài liệu minh chứng. * Tiến hành kiểm tra và chấm bài Sau khi dạy xong các bài học trong Chương III “Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954” (Lịch sử 12) theo phân phối chương trình, thực hiện kế hoạch kiểm tra học kì I của nhà trường, tôi tiến hành bài kiểm tra học kì (Phụ lục 3) và cùng cô Tân tiến hành chấm bài theo đáp án của tổ chuyên môn. Đồng thời, dïng b¶ng kiÓm quan s¸t, thang ®o th¸i ®é, hành vi ®Ó lÊy th«ng tin tõ HS (Phụ lục 4). Sau ®ã ph©n tÝch vµ ®¸nh gi¸ vÒ sự hứng thú, về thái độ, hành vi của HS đối với môn Lịch sử. IV. PHÂN TÍCH DỮ LIỆU VÀ BÀN LUẬN KẾT QUẢ 1. Phân tích dữ liệu Bảng 4: So sánh điểm trung bình bài kiểm tra sau tác động (Phụ lục 5) Đối chứng Thực nghiệm Điểm trung bình 5.2 6.6 Độ lệch chuẩn 1.33 1.51 0.00006 Giá trị p của T-Test Chênh lệch giá trị TB chuẩn (SMD) 1.04 B¶ng 5: Th¸i ®é, hµnh vi đối víi m«n Lịch sử của lớp thực nghiệm 12A3 (Xem Phụ lục 4) Lớp 12A3 Trong giờ Lịch sử Tr­íc Sau t¸c ®éng T¸c ®éng T«i lu«n ch¨m chó theo dõi bài học 60,6% 75,2% T«i tích cực phát biểu xây dựng bài 57.8% 77.9% TiÕt häc s«i næi h¬n 62.4% 83.5% Rèn luyện nhiều kỹ năng 42.3% 60.4% Tôi chắc chắn mình có khả năng học lịch sử 50.3% 72.5% Tôi không lãng phí thời gian ngồi chờ GV hướng dẫn hoặc phản hồi 35.7% 65.6% T«i th­êng kh«ng l¬ m¬ hoÆc ngñ gËt 53.4% 94.7% 8 Tôi không ngồi đếm thời gian đến khi kết thúc tiết học 59.8% 78% Lịch sử không quan trọng trong công việc của tôi. 44.3% 27.5% Tôi không tin mình có thể hứng thú, say mê lịch sử 46.5% 28.3% Như trên đã chứng minh rằng trước tác động, lớp đối chứng có kết quả học tập tốt hơn lớp thực nghiệm. Sau tác động, kiểm chứng chênh lệch điểm trung bình bằng T-Test cho kết quả p = 0.00006, cho thấy: sự chênh lệch điểm trung bình giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng rất có ý nghĩa (điểm trung bình lớp thực nghiệm cao hơn lớp đối chứng) là không phải ngẫu nhiên mà do kết quả của tác động. Chênh lệch giá trị trung bình chuẩn SMD  6.6  5.2  1.04 1.33 Theo bảng tiêu chí Cohen, chênh lệch giá trị trung bình chuẩn SMD = 1.04 cho thấy mức độ ảnh hưởng của dạy học có vận dụng phương pháp SĐTD đến kết quả học tập của nhóm thực nghiệm là rất lớn. Giả thiết của đề tài: “Nâng cao hứng thú và kết quả học tập Chương III “Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954” (Lịch sử 12) bằng phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy” đã được kiểm chứng. Qua bảng kiểm quan sát: Nhận thấy việc vận dụng phương pháp SĐTD vào dạy học lịch sử là một cách làm hiệu quả, đảm bảo nâng cao hứng thú và tích cực hóa hoạt động của HS khi tham gia vào nhiệm vụ giờ học. Trong nghiên cứu để đo thái độ và hành vi của HS, chúng tôi có một hệ thống câu hỏi và so sánh kết quả trước và sau tác động bằng tỷ lệ % (số HS lựa chọn câu trả lời đồng ý) (Phụ lục 4) 8 6 Nhóm đối chứng 4 Nhóm thực nghiệm 2 0 Trước tác động Sau tác động 9 2. Bàn luận Kết quả của bài kiểm tra sau tác động của lớp thực nghiệm có điểm trung bình = 6,6; kết quả bài kiểm tra tương ứng của lớp đối chứng có điểm trung bình = 5,2. Độ chênh lệch điểm số giữa hai lớp là 1,04. Điều đó cho thấy điểm trung bình của hai lớp đối chứng và thực nghiệm đã có sự khác biệt rõ rệt, lớp được tác động có điểm trung bình cao hơn lớp đối chứng. Chênh lệch giá trị trung bình chuẩn của hai bài kiểm tra là SMD = 1,04; điều này có nghĩa mức độ ảnh hưởng của tác động là rất lớn. Phép kiểm chứng T-Test điểm trung bình bài kiểm tra sau tác động của hai lớp là p = 0,00006 < 0.001. Kết quả này khẳng định sự chênh lệch điểm trung bình của 2 lớp không phải do ngẫu nhiên mà là do tác động, nghiêng về lớp thực nghiệm. Qua b¶ng th¸i ®é, hµnh vi víi m«n lịch sử cho thÊy, kÕt qu¶ t¸c ®éng ®­îc thÓ hiÖn ë sè % cña c©u tr¶ lêi cña HS. Tr­íc t¸c ®éng sè % thÊp h¬n kÕt qu¶ % sau t¸c ®éng. Sau tác động, nhiÒu HS ®· chó t©m h¬n trong giê häc lịch sử, kĩ n¨ng trình bày bằng SĐTD hay viết; kĩ năng phân tích, đánh giá cũng như khai thác tranh ảnh, lược đồ… cña c¸c em tèt h¬n, HS hoạt động tích cực hơn. Hµnh vi trong líp häc cña c¸c em ®­îc c¶i thiÖn, c¸c em cũng mạnh dạn, tự tin hơn khi thể hiện ý kiến của mình trước tập thể. Qua ®ã kÜ n¨ng sèng cña c¸c em ®­îc h×nh thµnh, c¸c em cã ®­îc kÜ n¨ng diÔn ®¹t tèt, kÜ n¨ng tr×nh bµy, ho¹t ®éng nhãm cã hiÖu qu¶. * Hạn chế Nghiên cứu này vận dụng phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy vào dạy học môn Lịch sử ở bậc THPT là một giải pháp rất tốt nhưng để sử dụng có hiệu quả, người GV cần hiểu rõ và vận dụng linh hoạt phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy. GV phải chuẩn bị hệ thống câu hỏi thật kỹ lưỡng nhằm gợi ý, dẫn dắt, tạo điều kiện cho HS tranh luận, tìm tòi, phát hiện vấn đề thông qua các tình huống có vấn đề và giúp HS tự giải quyết vấn đề để chủ động chiếm lĩnh tri thức. HS phải đọc SGK và vẽ trước SĐTD ở nhà. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là HS khối 12, do áp lực điểm số và phải đảm bảo nội dung cho việc ôn tập thi TN THPT hay Đại học; nhưng SĐTD là những từ khóa, hình ảnh minh họa nên việc diễn đạt thành câu văn là rất khó. V. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận Khai thác SĐTD trong dạy học lịch sử có ý nghĩa giáo dục, giáo dưỡng và phát triển. Đây là hoạt động tương quan giữa thầy - trò - bạn ; nhằm giúp HS phát huy tính tích cực trong học tập, sức sáng tạo, khả năng tập trung, sự hình thành và phát triển các ý tưởng độc đáo để từ đó vận dụng vào cuộc sống. Qua việc vận dụng SĐTD, chất lượng HS được nâng cao, lớp học sinh động, HS nắm vững bài, từ đó bồi dưỡng lòng say mê yêu thích môn lịch sử. Có sự chuẩn bị kĩ của GV và HS, vì vậy giờ học thoải mái, nhẹ nhàng; tránh những thao tác đơn điệu, lặp lại. GV có điều kiện kiểm tra, chỉnh sửa kịp thời những nội dung thiếu, sai sót của nhiều đối tượng HS trong thời gian ngắn nhất. 10 Giúp HS làm việc độc lập hay đa chiều bằng SĐTD. 2. Khuyến nghị §èi víi c¸c cÊp l·nh ®¹o, BGH nhµ tr­êng, Tổ chuyên môn: cÇn n©ng cao chÊt l­îng sinh ho¹t chuyªn m«n, ®æi míi phương pháp và h×nh thøc tæ chøc DH; đồng thời nên có những đầu tư thỏa đáng về cơ sở vật chất ®Ó chÊt l­îng bµi d¹y lịch sử ®¹t hiÖu qu¶ cao. §èi víi GV: ph¶i kh«ng ngõng häc tËp, båi d­ìng chuyªn m«n nghiÖp vô, ®Ó hiÓu biÕt vÒ c¸c PPDH, biÕt khai th¸c th«ng tin trªn m¹ng internet, có kĩ năng sử dụng thành thạo các trang thiết bị dạy học hiện đại, biÕt n¾m b¾t vµ t×m hiÓu ®Æc ®iÓm t©m lý cña tõng em HS. Với kết quả của đề tài này, tôi mong rằng các bạn đồng nghiệp quan tâm, chia sẻ, đóng góp những ý kiến bổ sung cho đề tài tốt hơn và đặc biệt là đối với giáo viên cấp THPT có thể ứng dụng đề tài này vào việc dạy học môn Lịch sử để tạo hứng thú, niềm say mê và nâng cao kết quả học tập cho học sinh. 11 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Sách giáo khoa lịch sử 12. [2] Thiết kế bài giảng lịch sử. [3] Tôi tài giỏi bạn cũng thế của Adam Khoo. [4] The mind map book của Tony và Barry Buzan. [5] Đại cương lịch sử Việt Nam –Tập III do Lê Mậu Hãn (chủ biên) và Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn Thư. [6] Một số chuyên đề phương pháp dạy học lịch sử - Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi và Trần Văn Vĩnh đồng chủ biên. [7] Đổi mới việc dạy, học lịch sử lấy “Học sinh là trung tâm” - Hội giáo dục lịch sử, Đại học quốc gia Hà Nội. - Mạng Internet: tai lieu.vn; bai giang. Violet.vn; giao vien.net;… 12 PHỤ LỤC CỦA ĐỀ TÀI Phụ lục 1. Thiết kế bài dạy Phụ lục 2. Một số SĐTD do giáo viên, học sinh chuẩn bị và thực hiện Phụ lục 3. Đề và đáp án kiểm tra trước và sau tác động Phụ lục 4. Thang đo thái độ, hành vi của học sinh Phụ lục 5. Bảng điểm 13 Phụ lục 1. Thiết kế bài dạy MỘT SỐ LƯU Ý KHI SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Trước khi đi vào Chương III“Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954” (Lịch sử 12) - nội dung tôi chọn làm đề tài nghiên cứu. Tại một số tiết với dung lượng kiến thức ngắn, phù hợp (đã được giảm tải), tôi vận dụng SĐTD. Cụ thể: Bước 1: Để tạo hứng thú cho HS đối với một phương pháp DH mới, tôi nêu khái niệm, nguyên tắc hoạt động sau đó giới thiệu ngay tác dụng nhằm thu hút sự chú ý của các em. Bước 2: Lập SĐTD - Hướng dẫn học sinh vẽ chủ đề chính bằng một hình ảnh bất kì mà các em thích (gợi trí tò mò). - Gọi HS lên bảng phân nhánh sơ đồ hoặc chia thành từng nhóm nhỏ rồi tự vẽ sơ đồ theo cách hiểu riêng của mình, sau đó GV định hướng lại từng nội dung cho HS. - GV dựa vào sơ đồ để soạn ra các tình huống DH cũng như các thao tác, phương pháp dạy; lúc này SĐTD chính là mục đích - phương tiện truyền đạt của GV và lĩnh hội kiến thức của HS. Như vậy, thay vì phải học thuộc lòng các khái niệm, diễn biến hay cả bài giảng như trước, giờ đây HS có thể hiểu và nắm được khái niệm qua hình vẽ. Không những vậy, cách học này còn phát triển năng lực riêng của từng HS về trí tuệ, khả năng diễn đạt trên sơ đồ, hệ thống hóa kiến thức chọn lọc, liên hệ giữa các sự kiện của các bài với nhau cũng như vận dụng vào cuộc sống. Lần đầu thực hiện, tôi chỉ thu hút được sự tập trung của các em tại hình trung tâm, nhánh cấp 1, cấp 2; nhưng đến các nhánh nhỏ, các em bắt đầu thấy khó khăn do: - Trang vở hẹp không đủ diện tích trình bày - Viết theo đường cong từ trong ra ngoài… khó viết - Lúng túng khi lựa chọn từ khóa, hình ảnh thay thế - Không biết cách diễn đạt, liên kết sự kiện - Tâm lí điểm số Các em đưa ra vô số lí do và yêu cầu quay lại lối dạy truyền thống. Tuy nhiên một bộ phận khác tỏ ra hào hứng khi nhìn vào bức tranh sinh động đầy đủ màu sắc và hình vẽ của mình. Năm học 2013 - 2014, tôi được tổ chuyên môn phân công giảng dạy ở hai khối lớp 11 và 12. Tổng số lớp tôi phụ trách là 12 lớp (HK I) và 11 lớp (HKII), giúp tôi có nhiều cơ hội để thực hiện đề tài nghiên cứu. Mặt khác, để khẳng định tính khả thi của đề tài; tôi phối hợp với các giáo viên trong tổ để đối chứng, kiểm tra kết quả của nhóm thực nghiệm. Dạy học lịch sử bằng SĐTD không có gì mới, điều này đã được triển khai từ cấp hai, nhưng lên cấp ba lại không có điều kiện thực hiện và phổ biến, vì: - Nội dung bài học quá dài khó triển khai bằng SĐTD - Kiến thức phải được trình bày rõ ràng, cụ thể đáp ứng mục tiêu thi cử 14 - Áp lực điểm số. Do đó, GV chỉ sử dụng sơ đồ nhánh hoặc lập bảng biểu vào các tiết ôn tập. Đối với HS cấp ba khối lượng kiến thức mà các em tiếp thu hàng ngày là rất lớn, chưa kể việc học thêm và cả áp lực từ việc thi đại học. Vì vậy việc ôn tập và tái hiện kiến thức là điều rất cần thiết nhưng lại vô cùng vất vả. Nhằm giúp các em giảm áp lực thi cử và hứng thú với việc học, tôi đẩy mạnh hơn nữa việc áp dụng SĐTD; ngay cả kiểm tra miệng, 15 phút, ra bài tập về nhà hay làm bài viết tại lớp, tôi buộc các em phải trình bày theo sơ đồ vào bài làm. Kết quả vượt ngoài sự mong đợi của tôi, giờ kiểm tra bài cũ 90% HS xung phong (chưa có trong tiền lệ); bài mới các em giơ tay lên bảng vẽ sơ đồ để được điểm cộng. Tiết học thật sôi nổi hào hứng. SĐTD thực chất là một sơ đồ mở không theo khuôn mẫu hay tỉ lệ nhất định, theo nguyên tắc liên tưởng “ý này gọi ý kia” SĐTD trở thành phương tiện tối ưu trong việc hình thành và phát triển ý tưởng. Mặt khác, nó còn là công cụ để hệ thống kiến thức tạo ra một tiết học sinh động và hiệu quả. Giảng dạy theo SĐTD mang tính khả thi cao vì nó có thể vận dụng được với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của nhà trường, có thể thiết kế trên giấy, bìa hoặc bảng bằng cách sử dụng bút chì màu hay đơn thuần là phấn. GV có thể linh động sử dụng hình vẽ tay với những màu sắc, hình ảnh, từ ngữ diễn đạt khác nhau giúp học sinh có thể nắm bắt tốt “phần lõi” của bài giảng ngay tại lớp. Đối với HS, thường xuyên tạo lập SĐTD sẽ phát triển nhiều năng lực như khả năng thẩm mỹ do việc thiết kế phải có bố cục màu sắc, các đường nét, các nhánh sao cho đẹp; sắp xếp các ý tưởng khoa học súc tích,…và đó chính là để HS “Học cách học” tích lũy kiến thức và sử dụng kiến thức một cách đơn giản mà hiệu quả nhất. Bằng SĐTD GV nêu vấn đề, hướng dẫn cách giải quyết thông qua việc khơi gợi các ý tưởng. HS không thể thụ động tiếp nhận trái lại mặc sức thả trí tưởng tượng vào bài học nhưng vẫn chốt được dàn bài chi tiết. Giờ học sau chỉ cần nhìn vào sơ đồ các kiến thức lại được tái hiện dễ dàng. Sử dụng SĐTD vào DH, bước đầu giúp các em làm quen, dần dần biến thành kĩ năng trong quá trình tạo lập. Điểm đáng mừng là tiết học sôi nổi, kết quả học tập được nâng cao. Qua đó phát huy tính tích cực của HS trong học tập cũng như sự sáng tạo, mạnh dạn thể hiện cái tôi của mình. Sau đây tôi xin trình bày một số dạng bài tôi thường sử dụng và đạt nhiều hiệu quả trong quá trình giảng dạy. 15 Chương III - VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 1954 1. Sử dụng SĐTD phối hợp với phương pháp phát vấn, thảo luận nhóm để khai thác kiến thức mới Vận dụng trong Bài 17- Tiết 28: NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA TỪ SAU NGÀY 2/9/1945 ĐẾN TRƯỚC NGÀY 19/12/1946 (Tiết 1) Bước 1: GV giới thiệu khái quát nội dung chương và bài mới bằng một sơ đồ nhánh (tia, hoặc có thể là một SĐTD) - GV nêu chủ đề chính hoặc từ khóa của giai đoạn này là “Kháng chiến chống Pháp”. - Từ chủ đề chính hình thành các ý cấp 1. - Từ ý cấp 1, thông qua nội dung bài học, sau mỗi tiết HS phải tự hoàn chỉnh phần còn lại của ý cấp 1. Cứ như thế cho đến hết chương và như vậy sau mỗi chương ta có một sơ đồ hoàn chỉnh và đầy đủ. Bước 2: Nêu câu hỏi định hướng nhận thức cho HS nhằm: + Xác định nhiệm vụ nhận thức của người học + Hướng HS vào kiến thức trọng tâm của bài, huy động tối đa các hoạt động của các giác quan trong quá trình học tập. Câu 1: Sau khi thành lập, nước VNDCCH đứng trước những khó khăn và thuận lợi cơ bản nào ? Câu 2: Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh giải quyết ra sao? Tác dụng? Câu 3: Lấy sự kiện chứng tỏ nhà nước VNDCCH là nhà nước “của dân, do dân và vì dân” Bước 3: Lập SĐTD 16 - GV vẽ hình ảnh trung tâm (có thể sử dụng lược đồ Việt Nam để minh họa) - Sau khi tạo xong hình ảnh trung tâm, GV nêu câu hỏi gợi vấn đề: + Bài này có những nội dung chính, cơ bản nào ? (thay cho nhánh) + HS lên bảng vẽ nối tiếp chủ đề chia thành các nhánh lên bảng, có chú thích tên từng nhánh lớn và đánh số thứ tự (phục vụ cho việc ôn bài). * Lưu ý: Khi đặt câu hỏi cho HS trả lời, GV nên đặt những câu hỏi ở mức độ hiểu và vận dụng để phát triển tư duy, nâng cao khả năng phân tích, đánh giá và tổng hợp. - Hoàn thành xong nhánh cấp 1, chuyển sang nhánh cấp 2 I. Tình hình nước ta sau cách mạng tháng Tám năm 1945. II. Bước đầu xây dựng chính quyền cách mạng, giải quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính. - GV gộp hai nội dung của mục I và II thành sáu nội dung nhỏ, tiến hành cho HS thảo luận nhóm. - Câu hỏi thảo luận nhóm được xây dựng trên cơ sở của câu hỏi nhận thức. + Nhóm 1+2: Tình hình nước ta sau cách mạng tháng Tám có những khó khăn và thuận lợi cơ bản nào ? + Nhóm 3+4: Biện pháp xây dựng chính quyền cách mạng và giải quyết nạn đói của chính phủ. + Nhóm 5+6: Giải quyết nạn dốt và khó khăn về tài chính. Giáo viên cho học sinh ngồi theo nhóm, dựa vào sách giáo khoa rút ra nội dung chính, chuyển thành từ khóa và hình ảnh minh họa. Bằng cách dạy truyền thống, khi thảo luận nhóm chỉ một vài em hoạt động hoặc cũng có thể cả nhóm làm việc (thảo luận cặp đôi). Nhưng do chưa xác định được nội dung trọng tâm vì vậy dễ lan man, lạc đề. Với sơ đồ tư duy, bằng việc xây dựng hình ảnh trung tâm, các nhánh chính phụ thông qua màu sắc giúp HS định hướng và cứ thế phát triển ý tưởng ra xung quanh. Cứ làm việc như vậy, HS sẽ biết cách tự vận động tìm tòi kiến thức. SĐTD không chỉ là công cụ ghi chú tối ưu mà còn là công cụ gợi mở, kích thích quá trình học hỏi của trẻ. Trong quá trình hoạt động nhóm, SĐTD trở thành một công cụ thực sự hiệu quả bởi nó tối đa hóa nguồn lực của cá nhân và tập thể. Một nhóm lớn là tập hợp của một tập thể con, các cá nhân có thể đóng góp ý kiến để hoàn thành sơ đồ của nhóm hoặc tự vẽ nhánh riêng của mình (theo sự phân công của trưởng nhóm). Sau đó, trưởng nhóm làm nhiệm vụ tổng hợp tất cả các ý kiến, chỉnh sửa và hoàn tất. Như vậy, sử dụng SĐTD giúp cho các thành viên hiểu được nội dung bài một cách rõ ràng và có hệ thống; việc ghi nhớ cũng như vận dụng sẽ tốt hơn. Chỉ cần nhìn vào SĐTD, bất kì thành viên nào của nhóm cũng có thể thuyết trình nội dung bài học. SĐTD cung cấp cho ta cái nhìn chi tiết và cụ thể. Sau ít phút thảo luận, HS báo cáo, thuyết trình về SĐTD. GV có thể chỉ bất kì hoặc nhóm cử đại diện lên báo cáo. Qua hoạt động này GV vừa biết rõ hiểu biết của các em vừa rèn luyện khả năng thuyết trình trước đám đông, giúp các em tự tin mạnh dạn hơn. Sau khi đại diện của từng nhóm trình bày, GV yêu cầu 17 nhóm khác nhận xét, cá nhân bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện sơ đồ về kiến thức và cấu trúc. Thông thường bằng phương pháp truyền thống, HS rất khó phát hiện bạn thiếu, thừa hoặc đã đầy đủ. Nhiều khi trả lời lại phần bạn đã trình bày, nhưng SĐTD lại tỏ ra rất hữu hiệu trong việc nhận xét: vì, bằng các nhánh lớn, tia nhỏ; các em biết ngay bạn đang ở đâu và thiếu nội dung gì. Như vậy SĐTD không chỉ cung cấp một bức tranh tổng thể, chi tiết mà còn là cơ hội để các thành viên giao lưu học hỏi và hoàn chỉnh bản thân. Mặt khác, đối tượng nghiên cứu của đề tài là HS khối 12, ngoài mục tiêu bài học yêu cầu là biết, khái quát nội dung; còn rèn luyện kĩ năng phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá,… cũng như khai thác tranh ảnh, lược đồ, phim tư liệu để làm rõ nội dung bài học. Cùng với câu hỏi nêu ra trong phần thảo luận nhóm, GV yêu cầu HS quan sát tranh ảnh, lược đồ, phim tư liệu để hoàn thành những câu hỏi tư duy + Hình 1: Lược đồ Việt Nam với sự xuất hiện của quân đội các thế lực đế quốc, thực dân, phản động nước ngoài. Em có nhận xét gì về kẻ thù trên đất nước ta, kẻ thù nào là nguy hiểm nhất? Tại sao? Theo em những thuận lợi của nước ta sau cách mạng tháng Tám, thuận lợi nào là cơ bản nhất? Tại sao? + Phim tư liệu: Nhân dân đi bầu cử Tại sao việc xây dựng chính quyền lại được đặt lên hàng đầu? Vì sao ngày bầu cử Quốc hội là ngày vui sướng của đồng bào ta? Mối quan hệ giữa bầu cử và chống ngoại xâm? Bản chất của nhà nước được thành lập sau ngày cách mạng tháng Tám 1945 là gì? + Hình 2: “Hũ gạo cứu đói” Qua những chủ trương giải quyết nạn đói của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tiếp truyền thống gì của dân tộc. Trách nhiệm của em trong công cuộc xây dựng đất nước. + Hình 3: “Lớp bình dân học vụ” – bức ảnh trên nói lên điều gì? + Hình 4: “Nhân dân quyên góp vàng, bạc giải quyết khó khăn tài chính” Tại sao trong hoàn cảnh cực kì khó khăn, nhân dân ta sẵn sàng đóng góp bất kể là của cải, tính mạng để xây dựng và bảo vệ đất nước. * Qua tiết dạy sử dụng SĐTD phối hợp với phương pháp phát vấn và thảo luận nhóm để khai thác kiến thức mới, bản thân tôi rút ra một số bài học - Tiết học sôi nổi, HS hứng thú khi tranh luận, góp ý xây dựng vấn đề; mạnh dạn đề xuất ý tưởng làm sao đạt được mục đích - hiểu bài và nhóm đạt nhiều điểm cộng. - Các kiến thức trọng tâm được khắc sâu phân tích nhiều lần: từ nhóm được phân công trình bày đến cá nhân, nhóm nhận xét bổ sung thông qua tài liệu SGK, tranh ảnh, phim tư liệu,… và cuối cùng là GV chốt. - Trong quá trình DH, nhận thấy có sự tương tác rất lớn giữa GV- HS, HS HS. Từ đó phát huy vai trò trung tâm của người học, GV chỉ là người quản trò, HS phải thi đấu trực tiếp; từ đó phát huy tối đa tính tích cực của người học. 18 - Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy với phương pháp này, cũng gặp phải một số hạn chế, vì: + Do dung lượng kiến thức lớn, GV muốn bảo đảm cả nội dung và sự hấp dẫn cần phải đầu tư thật kĩ, sử dụng thao tác, phương pháp thực sự linh hoạt. + HS phải chuẩn bị bài thật tốt trước khi đến lớp. + Nhiều hình ảnh, từ khóa HS sử dụng còn đơn điệu, chưa cô đọng, chưa thể hiện được sự sáng tạo của người học. Vậy để đạt được hiệu quả tốt nhất ở dạng bài này, chúng ta cần lưu ý một vài điểm sau: - Chọn những tiết có dung lượng bài học thật ngắn hoặc chỉ khai thác một số nội dung của một tiết. - Yêu cầu HS chuẩn bị trước ở nhà mỗi em một SĐTD (bài tập về nhà để củng cố bài học). 2. Sử dụng SĐTD trong kiểm tra bài cũ và khai thác từng đơn vị kiến thức trong một tiết học Vận dụng trong Bài 17 - Tiết 29: NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA TỪ SAU NGÀY 2/9/1945 ĐẾN TRƯỚC NGÀY 19/12/1946 (Tiết 2) (Trên cơ sở rút kinh nghiệm từ Bài 17 của tiết 1) 19 * Sử dụng SĐTD trong kiểm tra bài cũ Mục đích của kiểm tra bài cũ - Đánh giá lại chất lượng dạy và học của GV và HS - Củng cố và khắc sâu kiến thức - Làm cơ sở, tiền đề cho bài mới Tuy nhiên trên thực tế do đặc thù môn học, trong một số tiết; GV không kiểm tra bài cũ, vì: - Bài dài, nội dung phong phú, không đủ thời gian để lấy điểm miệng. - Ý thức học bài cũ của HS rất thấp (nhiều sự kiện, tâm lí học chỉ đối phó, tâm lí môn chính, môn phụ). - HS nặng về lối học thuộc lòng (học trước quên sau, nhắc từng ý) Vậy để làm tốt phần kiểm tra bài cũ, tôi xin nêu một vài kinh nghiệm của mình thông qua SĐTD. - Kiểm tra vào đầu tiết bằng SĐTD hoặc sơ đồ tia, bảng thống kê (nhiều HS lên bảng trình bày, mỗi em một nội dung hay một nhánh nhỏ). - Kiểm tra trong quá trình dạy (khai thác kiến thức mới trên cơ sở tái hiện kiến thức cũ) - Có thể sử dụng cả câu hỏi củng cố bài mới hoặc câu hỏi tư duy trong giờ học để lấy điểm miệng. - Làm bài tập trắc nghiệm 3 phút (bài tập nhanh). - Triển khai: GV nêu câu hỏi: Bằng kiến thức đã học em hãy hoàn chỉnh sơ đồ sau Thuận lợi Khó khăn Biện pháp của chính quyền cách mạng Ngoại xâm? Kẻ thù? 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng