Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học Skkn vận dụng một số phương pháp tích cực trong dạy học văn bản chiếc thuyền ngo...

Tài liệu Skkn vận dụng một số phương pháp tích cực trong dạy học văn bản chiếc thuyền ngoài xa

.PDF
23
1156
92

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI Đơn vị: Trường THCS&THPT Bàu Hàm Mã số:……. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP TÍCH CỰC TRONG DẠY HỌC VĂN BẢN CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA Người thực hiện: Cao Thị Hoàng Hà Lĩnh vực nghiên cứu: - Quản lý giáo dục:  - Phương pháp dạy học bộ môn: Ngữ văn  - Lĩnh vực khác:  Có đính kèm:  Mô hình  Phần mềm  Phim ảnh  Hiện vật khác Năm học : 2012 - 2013 1 SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 1. Họ và tên: Cao Thị Hoàng Hà 2. Ngày tháng năm sinh: 29/01/1985 3. Nam, nữ: Nữ 4. Địa chỉ: Ấp Tân Hợp, Xã Bàu Hàm, Huyện Trảng Bom, Tỉnh Đồng Nai 5. Điện thoại: 01686643043 6. Fax: E-mail: [email protected] 7. Chức vụ: Giáo viên 8. Đơn vị công tác: Trường THCS&THPT Bàu Hàm II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO: - Học vị (hoặc trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao nhất): Cử nhân Sư phạm chính quy - Năm nhận bằng: 2007 - Chuyên ngành đào tạo: Sư phạm Ngữ văn III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC - Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: giảng dạy môn Ngữ văn - Số năm có kinh nghiệm: 4 năm - Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây: 2 VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP TÍCH CỰC TRONG DẠY HỌC VĂN BẢN CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Xã hội luôn vận động và phát triển. Trong quy luật ấy, đòi hỏi mỗi hoạt động phải được đổi mới không ngừng để thích ứng với cuộc sống mới. Giáo dục và Đào tạo là quốc sách hàng đầu, do vậy cần phải được đổi mới đầu tiên cho phù hợp với xu thế phát triển của thời đại hiện nay. Nhận thức được tầm quan trọng đó, trong những năm học gần đây, Bộ GD&ĐT luôn quán triệt thúc đẩy tinh thần đổi mới phương pháp trong dạy và học, hạn chế tình trạng dạy học một chiều, nhằm phát huy tính tích cực chủ động của học sinh. Cũng cần nhận thức rằng, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học không thể chỉ nói chung chung mà cần phải áp dụng vào từng môn học, từng bài dạy, tiết dạy cụ thể. Mỗi một phân môn, một nội dung kiến thức có những điểm khác biệt mà giáo viên cần phải linh động trong quá trình giảng dạy, từ đó để áp dụng một cách có hiệu quả việc kết hợp các phương pháp mới vào trong quá trình dạy học. Trong chương trình Ngữ văn 12, tập 2, tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu được xem là một trong những đơn vị kiến thức trọng tâm, là một tác phẩm mới được đưa vào chương trình, thuộc về giai đoạn văn học sau năm 1975, được viết theo hướng đổi mới, đi sâu khai thác số phận con người. Đây cũng là một tác phẩm mà trong đó tác giả gửi gắm nhiều quan niệm về cuộc sống, về nghệ thuật. Việc dạy học bài này nhằm để giúp cho học sinh cảm nhận được số phận, vẻ đẹp con người trong cuộc sống; đồng thời hình thành, định hướng về cách nhìn cuộc đời xung quanh mình là một yêu cầu quan trọng. Không chỉ vậy, để giảng dạy tốt một tác phẩm được viết sau thời kì đổi mới, với quan niệm nghệ thuật khác hẳn những tác phẩm văn học khác trong chương trình là một điều không dễ với rất nhiều giáo viên. Làm thế nào để đưa ra những kiến thức nền cơ bản nhất để học sinh có thể tiếp thu và cảm nhận tác phẩm một cách hiệu quả là điều mà mỗi giáo viên đứng trên bục giảng luôn trăn trở và suy nghĩ. Chính vì những lí do đó, tôi đã chọn đề tài này. Trong quá trình giảng dạy tôi gặp phải một số thuận lợi và khó khăn như sau: 1.1. Thuận lợi: Đổi mới phương pháp, ứng dụng có hiệu quả Công nghệ thông tin trong dạy học Ngữ văn là vấn đề cấp thiết mà Bộ GD & ĐT đặt ra, đây cũng là vấn đề được toàn thể giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn hưởng ứng nhiệt tình. Trong những năm gần đây, Sở GD & ĐT đã tiến hành nhiều cuộc hội thảo, hội nghị, nhiều lớp bồi dưỡng để các giáo viên có thể học hỏi, trao đổi kinh nghiệm trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy môn Ngữ văn. Và thực tế trong các trường phổ thông, hầu hết các giáo viên cũng đã thực hiện vấn đề đổi mới phương pháp, ứng dụng công nghệ thông tin vào trong các tiết dạy. Do vậy cả giáo viên và học sinh đã không còn bỡ ngỡ, đã bắt đầu làm quen và nắm bắt được cách thức dạy và học bằng phương pháp mới. 3 Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu được xem là một tác phẩm hay trong số những tác phẩm văn học của thời kì đổi mới, cũng là tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nguyễn Minh Châu, do vậy rất được giáo viên và học sinh yêu thích, quan tâm tìm hiểu. 1.2. Khó khăn: Thế giới văn học vô cùng phong phú, rộng lớn. Mỗi tác phẩm, đoạn trích tự bản thân nó bao hàm nhiều ý nghĩa mà trong quá trình giảng dạy, tìm hiểu chúng ta chưa thể khám phá hết được. Việc cảm nhận một tác phẩm văn học, đặc biệt là tác phẩm viết theo hướng đổi mới luôn là một vấn đề khó khăn. Hơn nữa, tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa lại chứa đựng những vấn đề triết lí, nhân sinh sâu sắc. Tiếp cận, nắm bắt và thấu hiểu những điều đó đối với học sinh không phải là dễ. Điều này cũng gây nhiều khó khăn cho giáo viên trong quá trình giảng dạy tác phẩm. Muốn có một giờ dạy học Ngữ văn tốt phải có những đối tượng học trò thực sự yêu thích và say mê học văn. Nhưng xu thế chung của học sinh trong những năm gần đây có ý coi nhẹ việc học môn văn, chỉ học mang tính đối phó, ít có học sinh dành thời gian nhiều cho môn học này. Thực trạng này gây khó khăn không nhỏ trong quá trình giảng dạy của người thầy. Học sinh trong trường đa phần là người Việt gốc Hoa, chất lượng đầu vào thấp, trình độ chủ yếu là trung bình, yếu và kém; khả năng cảm thụ văn học còn hạn chế. Đây là vấn đề khó khăn nhất đối với giáo viên của nhà trường trong việc hướng dẫn các em cảm thụ và chiếm lĩnh tri thức tác phẩm, đoạn trích văn học. II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lý luận: 1.1. Phương pháp dạy học tích cực là gì? Theo PGS.TS Vũ Hồng Tiến, phương pháp dạy học tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Phương pháp dạy học tích cực hướng tới việc tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động. Luật Giáo dục, điều 24.2, cũng đã ghi: "Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh". Như vậy, có thể nói cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. Trong quá trình đó, giáo viên không chỉ đơn giản là người truyền thụ tri thức nữa mà là người hướng dẫn, chỉ đạo, tổ chức để học sinh tự chiếm lĩnh tri thức, học sinh tự đánh giá chính mình và đánh giá lẫn nhau thông qua các hoạt động học tập sôi nổi. 4 1.2. Đặc trưng cơ bản của phương pháp dạy học tích cực: * Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh. Trong phương pháp dạy học tích cực, người học được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp đặt. Do vậy phương pháp dạy học tích cực giúp học sinh vừa nắm được kiến thức, kĩ năng mới, vừa nắm được phương pháp làm ra kiến thức, kĩ năng đó, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo. * Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học. Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Do vậy, điều quan trọng là phải nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong trường phổ thông, không chỉ tự học ở nhà sau bài lên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của giáo viên. * Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác. Trong một lớp học, bao giờ cũng có sự phân hóa về trình độ kiến thức, tư duy do vậy sẽ có sự phân hóa về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập. Việc sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin trong nhà trường sẽ đáp ứng yêu cầu cá thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi học sinh. Tuy nhiên, bên cạnh việc học tập cá nhân, cần phải tạo mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh tri thức. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới. * Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò. Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy. Trước đây giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh. Trong phương pháp tích cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học, tạo điều kiện thuận lợi để học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau. 2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài Có rất nhiều phương pháp dạy học được sử dụng trong quá trình lên lớp như: thuyết trình, giảng giải, phát vấn, nêu vấn đề, thảo luận nhóm, giảng bình, phân tích, sơ đồ hóa… Trong quá trình lên lớp, tùy thuộc vào từng bài dạy cụ thể, từng đối tượng học sinh cụ thể mà người dạy cần phải linh hoạt phối hợp, sử dụng các phương pháp một cách phù hợp và đạt hiệu quả cao nhất. Trong các phương pháp được đề cập ở trên, trong chuyên đề này, chúng tôi chỉ đề cập đến bốn phương pháp mà theo chúng tôi có khả năng phát huy tính tích cực, chủ động của người học trong quá trình tiếp nhận văn bản, tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học văn đối với tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa: phương pháp dạy học nêu vấn đề lấy học sinh làm trung tâm, 5 phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp giảng bình, phương pháp sử dụng sơ đồ hóa. 2.1. Phương pháp dạy học nêu vấn đề 2.1.1 Lý thuyết về phương pháp dạy học nêu vấn đề GS Phan Trọng Luận trong cuốn giáo trình Phương pháp dạy học văn (1998) có nêu “Tác phẩm nào cũng có vấn đề cả nhưng không phải bất cứ vấn đề nào trong tác phẩm cũng tự nhiên trở thành tình huống có vấn đề đối với chủ thể người học”. Vậy vấn đề là gì? Tình huống có vấn đề là gì? Vấn đề được định nghĩa như là mâu thuẫn giữa sự hiểu biết và không hiểu biết, nó chỉ được giải quyết bằng con đường tìm kiếm lời giải đáp cho những câu hỏi đã nảy sinh ra. Còn tình huống có vấn đề là tình huống trong đó chủ thể có mâu thuẫn nhận thức giữa cái đã biết và cái chưa biết, đồng thời có mong muốn giải quyết mâu thuẫn bằng cách huy động những cái đã biết tạo ra phương thức hành động mới để đạt được hiểu biết mới. Để tạo ra những tình huống có vấn đề phải xây dựng hệ thống những câu hỏi nêu vấn đề. Câu hỏi nêu vấn đề phải làm rõ được các vấn đề tiềm ẩn trong tác phẩm, gây hứng thú cho học sinh, động viên khuyến khích học sinh giải quyết vấn đề đã nêu. Câu hỏi nêu vấn đề phải vừa sức với học sinh, nếu quá khó hoặc quá dễ thì việc sử dụng phương pháp sẽ không đạt được hiệu quả. 2.1.2. Vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong tiết dạy Chiếc thuyền ngoài xa Vận dụng phương pháp nêu vấn đề vào tiết dạy Chiếc thuyền ngoài xa, chúng tôi đề xuất một số câu hỏi tình huống như sau: * Tình huống mâu thuẫn: (1) Chiếc thuyền khi ở xa là một vẻ đẹp toàn bích nhưng khi tiến vào gần bờ, vẻ đẹp ấy còn tồn tại nữa không? Thay vào đó là cảnh tượng gì? Học sinh suy nghĩ, giải quyết, kết luận: Chiếc thuyền khi ngoài khơi xa là một vẻ đẹp toàn bích nhưng khi tiến vào gần bờ thì vẻ đẹp toàn thiện, toàn mỹ đó biến mất. Thay vào đó là cảnh tượng phi nhân tính, phi đạo đức mà chứng kiến nó, Phùng không tin nổi vào mắt mình. Đó là cảnh một người đàn ông cầm thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà, vừa đánh vừa nguyền rủa “Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”, là cảnh đứa con đánh lại bố để cứu mẹ, là người đàn bà nhẫn nhục van xin chồng đem lên bờ hãy đánh vì sợ con trông thấy… (2) Trong hoàn cảnh người đàn bà hàng chài, lời khuyên của chánh án Đẩu “chị không sống nổi với lão đàn ông vũ phu ấy đâu” có vẻ là một lời khuyên đúng đắn, nhưng người đàn bà nhất quyết không nghe theo, thậm chí còn van xin “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Em hãy lý giải thông qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài? Học sinh suy nghĩ, giải quyết, kết luận: Người đàn bà nhất quyết không chịu bỏ chồng dù bị đánh đập một cách dã man, tàn ác. Điều đó được lý giải bằng chính tấm lòng vị tha, sự thấu hiểu cảm thông sâu sắc của bà đối với chồng mình “lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”, “bất kể lúc nào khổ quá là lão 6 lại lôi tôi ra đánh”; là tấm lòng thương con vô bờ bến của một người đàn bà thất học “đám đàn bà ….nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa… Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như trên đất được…”;… * Tình huống bất ngờ (1) Tại sao khi thuyền tiến vào gần bờ, người nghệ sĩ Phùng lại kinh ngạc đến mức trong mấy phút cứ đứng há hốc mồm ra mà nhìn? Điều bất ngờ với học sinh ở đây là hình ảnh chiếc thuyền lại chứa đựng trong nó những nghịch lý mâu thuẫn mà nếu chỉ nhìn ở ngoài khơi xa thì không thể nào nhận ra được. Nghịch lý đó chính là sự éo le, trớ trêu trong gia đình thuyền chài (…). (2) Tại sao trong bức ảnh được chọn, dù là tấm ảnh đen trắng nhưng khi nhìn vào, Phùng lại thấy “màu hồng hồng của ánh sương mai” và hình ảnh “người đàn bà” hòa lẫn vào đám đông? Phải chăng đây là một kết thúc có dụng ý của nhà văn? Em hãy chỉ ra dụng ý đó? Bức ảnh được chọn trong bộ lịch năm ấy trở thành một tác phẩm nghệ thuật, nhưng trong bức ảnh ấy không chỉ là vẻ đẹp, là chất thơ của cuộc sống “màu hồng hồng của ánh sương mai” mà còn chứa đựng sự thật, uẩn khúc của cuộc đời con người. Bởi vậy, ẩn đằng sau cái kết thúc tưởng như bình thường ấy lại là một thông điệp sâu sắc về mối quan hệ gắn bó giữa nghệ thuật và cuộc sống. * Tình huống phản bác, tranh luận (1) Có người cho rằng, người đàn bà hàng chài là một phụ nữ yếu đuối, nhu nhược, không dám đấu tranh, không dám giải thoát chính mình. Suy nghĩ của em như thế nào? Học sinh trình bày lí do để phản bác: Người đàn bà cam chịu nhẫn nhục, không chịu bỏ chồng không phải vì yếu đuối, nhu nhược mà xuất phát từ tấm lòng vị tha cao thượng, từ đức hi sinh, giàu lòng thương con của người phụ nữ Việt Nam, từ sự thấu hiểu và cảm thông cho người chồng của mình (…). 2.2. Phương pháp thảo luận nhóm 2.2.1.Lý thuyết về phương pháp thảo luận nhóm Theo tác giả Phan Trọng Ngọ:“Thảo luận nhóm là phương pháp trong đó nhóm lớn (lớp học) được chia thành những nhóm nhỏ để tất cả các thành viên trong lớp đều được làm việc và thảo luận về một chủ đề cụ thể và đưa ra ý kiến chung của nhóm mình về vấn đề đó”. Dạy học theo nhóm, học sinh học tập thông qua giao tiếp, trao đổi, tranh luận với nhau, chia sẻ và có cơ hội để diễn đạt ý nghĩ của mình, tìm tòi và mở rộng suy nghĩ. Còn giáo viên là người tổ chức các hoạt động gợi mở, hướng dẫn, kích thích và hỗ trợ học sinh bằng kinh nghiệm giáo dục của mình. Thảo luận nhóm là một phương pháp dạy học có nhiều ưu điểm: tạo cơ hội tối đa cho mọi thành viên trong nhóm được bộc lộ sự hiểu biết của mình, giúp học sinh phát triển khả năng tư duy và diễn đạt; tạo cơ hội cho mọi thành viên trong nhóm học hỏi lẫn nhau, tập lắng nghe ý kiến của người khác một cách kiên nhẫn, lịch sự, tập đánh giá ý kiến người khác một cách độc lập; kích thích thi đua giữa các thành viên 7 trong nhóm; cải thiện mối quan hệ thầy- trò, trò- trò, khiến cho giờ học trở nên sinh động, hấp dẫn hơn. Để thực hiện phương pháp thảo luận nhóm một cách hiệu quả, đòi hỏi người dạy lẫn người học phải có sự chuẩn bị công phu, kĩ lưỡng. Đối với người dạy phải lựa chọn những vấn đề thảo luận hấp dẫn, không quá khó, không quá dễ, kích thích sự hứng thú tìm hiểu của học sinh; phải chia nhóm một cách hợp lý, giao nhiệm vụ cho các nhóm một cách rõ ràng, cụ thể… Đối với người học, sự chuẩn bị kĩ nội dung thảo luận ở nhà là rất quan trọng, bên cạnh đó, trong quá trình thảo luận phải thực sự nghiêm túc, tranh luận sôi nổi và dám bộc lộ ý kiến cá nhân của mình. Như vậy, thì việc thảo luận nhóm mới tránh được tính hình thức, có hiệu quả thiết thực trong quá trình tìm hiểu tri thức. 2.2.2. Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong tiết dạy Chiếc thuyền ngoài xa Ứng dụng vào việc dạy văn bản Chiếc thuyền ngoài xa, chúng tôi giới thiệu một số đơn vị kiến thức có thể sử dụng phương pháp thảo luận nhóm như sau: (1) Với đơn vị kiến thức: hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh, giáo viên có thể tạo hoạt động nhóm như sau: - Nhóm 1: Tìm hiểu phát hiện thứ nhất của người nghệ sĩ. + Khi chiếc thuyền ở ngoài khơi xa, người nghệ sĩ phát hiện được điều gì? + Cảm giác của anh như thế nào trước phát hiện đó? - Nhóm 2: Tìm hiểu phát hiện thứ hai của người nghệ sĩ. + Khi chiếc thuyền lại gần, anh phát hiện thêm điều gì? (Đặt trong sự tương quan với phát hiện thứ nhất) + Thái độ của Phùng trước phát hiện thứ hai này như thế nào? - Nhóm 3, 4: Nhận xét về hai phát hiện của người nghệ sĩ? Từ hai phát hiện của người nghệ sĩ, em rút ra được cách nhìn nhận cuộc sống như thế nào? Học sinh hoạt động nhóm, tranh luận, thu được kết quả: - Phát hiện thứ nhất là một “cảnh đắt trời cho”, một vẻ đẹp “thực đơn giản và toàn bích”: Đó là cảnh chiếc thuyền lưới vó ẩn hiện trong biển sớm mờ sương “có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào”, vài cái bóng người “ngồi im phăng phắc như tượng”… Trước cảnh tượng ấy, người nghệ sĩ trở nên “bối rối”, “trái tim như có cái gì đó bóp thắt vào”, cảm thấy mình như “khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”… - Phát hiện thứ hai là một cảnh tượng phi thẩm mỹ (một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi; gã đàn ông to lớn, dữ dằn) và một cảnh tượng phi nhân tính (người chồng đánh vợ một cách thô bạo, đứa con thương mẹ đánh lại cha). Trước cảnh tượng đó, Phùng ngơ ngác không tin nổi vào mắt mình, anh vứt máy ảnh chạy xuống… - Qua hai phát hiện của người nghệ sĩ, nhà văn chỉ ra: cuộc đời chứa đựng nhiều nghịch lý, mâu thuẫn; không thể đánh giá con người, cuộc sống ở dáng vẻ bề ngoài mà phải đi sâu tìm hiểu, phát hiện bản chất bên trong. 8 (2) Với đơn vị kiến thức hình tượng người đàn bà hàng chài, giáo viên có thể giao vấn đề thảo luận cho các nhóm như sau: Ấn tượng, suy nghĩ, cảm nhận, đánh giá của em về người đàn bà hàng chài? Từ việc tìm hiểu cuộc đời, phẩm chất của người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu muốn nói lên điều gì? Học sinh hoạt động nhóm, tranh luận, rút ra kết luận: Người đàn bà hàng chài xuất hiện với vẻ bề ngoài xấu xí, mệt mỏi, lam lũ rách rưới (…); với số phận đáng thương cam chịu (…). Nhưng đằng sau vẻ ngoài và số phận đó là những phẩm chất đáng quý của người phụ nữ Việt Nam: vị tha, giàu đức hi sinh (…); biết chắt chiu hạnh phúc (…); sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời (…). Từ hình tượng người đàn bà hàng chài, người đọc thấu hiểu cuộc đời và con người đầy những nghịch lý, không xuôi chiều. Do vậy, không nên nhìn nhận cuộc đời và con người một cách phiến diện chủ quan mà cần phải có một cái nhìn toàn diện, sâu sắc, trong từng hoàn cảnh cụ thể. Trên đây là hai đơn vị kiến thức của bài học mà theo chúng tôi có thể sử dụng một cách hiệu quả phương pháp thảo luận nhóm. Làm việc nhóm, phát hiện ra những chi tiết cụ thể trong tác phẩm, ý nghĩa của sự xuất hiện những chi tiết đó sẽ giúp các em nắm vững kiến thức và hiểu sâu vấn đề bài học hơn. 2. 3. Phương pháp giảng bình 2.3.1. Lý thuyết về phương pháp giảng bình Không giống những bộ môn khác được đưa vào trong chương trình THPT, ngữ văn là một bộ môn có tính chất đặc thù, vừa mang tính khoa học, lại vừa mang tính nghệ thuật. Thông qua các tác phẩm văn học, những hình tượng nghệ thuật, những hình ảnh, ngôn từ có tính chất thẩm mỹ, học sinh cảm nhận được cái hay cái đẹp của tác phẩm, của cuộc sống, từ đó bồi dưỡng cho các em những rung cảm thẩm mỹ và tâm hồn trong sáng, biết hướng thiện. Tuy nhiên để giúp học sinh cảm nhận được cái hay của một tác phẩm văn chương không phải là điều dễ dàng. Để cảm thụ sâu sắc một tác phẩm văn chương, để cái hay cái đẹp của hình tượng nghệ thuật thấm sâu vào tâm hồn người học thì giáo viên không chỉ nêu câu hỏi, không chỉ đàm thoại, mở vấn đề mà còn phải hướng dẫn học sinh biết cách nhận xét, đánh giá bình phẩm tác phẩm văn học. Có nghĩa là giáo viên phải chú ý tới phương pháp giảng bình trong giờ văn. Giảng bình nhằm bồi dưỡng, vun đắp năng lực diễn đạt bằng lời của học sinh, đồng thời cũng muốn nghiên cứu cặn kẽ chu đáo năng lực diễn đạt giàu tính nghệ thuật, giàu tính văn chương của người thầy. Phương pháp giảng bình có thể xem là phương pháp “gây mê”. Khi đó người bình phải làm sao truyền cảm xúc của mình về tác phẩm văn chương đến được người nghe, làm cho người nghe cùng suy nghĩ như mình phù hợp với “ý định và nghệ thuật” của nhà văn . Muốn đạt hiệu quả như vậy đòi hỏi người dạy phải hiểu sâu sắc, tinh tế về đơn vị kiến thức giảng bình, phải sử dụng ngôn từ trong sáng, có sự chọn lọc cao, và đặc biệt là phải có một chất giọng truyền cảm lôi cuốn. Giảng bình tốt sẽ giúp học sinh yêu thích học văn, cảm nhận được cái hay cái đẹp của bộ môn nghệ thuật ngôn từ này. Có nhiều cách thức giảng bình : bình bằng hồi ức, bình bằng một lời khen, bình bằng một kỉ niệm riêng có liên quan đến một yếu tố được bình làm cho yếu tố sống 9 dậy, bình bằng cách so sánh với những kiến thức văn học khác, cũng có khi bình bằng lời đọc diễn cảm đoạn thơ, câu thơ,… 2.3.2. Vận dụng phương pháp giảng bình trong tiết dạy Chiếc thuyền ngoài xa. Văn bản Chiếc thuyền ngoài xa là một địa hạt phong phú để người dạy có thể vận dụng phương pháp giảng bình một cách hiệu quả. Ở đây, chúng tôi đưa ra một số chi tiết, nội dung có thể giảng bình sau: * Với chi tiết phát hiện thứ nhất của người nghệ sĩ, sau khi cho học sinh phát hiện những chi tiết miêu tả bức tranh chiếc thuyền lưới vó trong biển mờ sương, giáo viên có thể dùng lời bình giảng để học sinh cảm nhận được sâu sắc hơn vẻ đẹp của bức tranh đó: Dường như trong hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giữa biển sớm mù sương, người nghệ sĩ đã bắt gặp cái tận thiện, tận mỹ, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, thanh lọc trở nên trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hòa, lãng mạn của cuộc đời. Ở đây chân lý nghệ thuật đã được khẳng định: nghệ thuật giúp thanh lọc tâm hồn, giúp cho người nghệ sĩ được sống thực sự trong những giây phút thật nhất, trong sáng nhất của lòng mình. * Với chi tiết phát hiện thứ hai của người nghệ sĩ, sau khi người học chỉ ra hiện thực trớ trêu tồn tại ngay trên chiếc thuyền khi nó tiến vào gần bờ, giáo viên sử dụng lời bình nhằm tạo cảm xúc và thu hút sự chú ý của học sinh: Bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ là một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi; một gã đàn ông to lớn, dữ dằn; một cảnh tượng tàn nhẫn: gã đàn ông đánh đập vợ một cách thô bạo… Đứa con vì thương mẹ đã đánh lại cha để rồi nhận lấy hai cái bạt tai của bố ngã dúi xuống cát… Chứng kiến những cảnh tượng đó, nghệ sĩ Phùng “kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu , cứ há hốc mồm ra mà nhìn”. Sở dĩ nghệ sĩ Phùng trở nên như vậy là vì anh không thể ngờ rằng đằng sau cái vẻ đẹp diệu kì của tạo hóa lại là bi kịch của cuộc đời, là biểu hiện của cái ác, cái xấu. Vừa mới lúc trước, anh còn cảm thấy “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”, thấy “chân lí của sự toàn thiện”, thế mà chỉ ngay sau đó chẳng còn cái gì là “đạo đức”, là cái Chân, cái Thiện của cuộc đời. * Khi hoàn thành bài dạy, giáo viên có thể chốt lại nội dung kiến thức bằng việc kết hợp phương pháp giảng bình so sánh: Trước Nguyễn Minh Châu, nhà văn Nam Cao từng quan niệm "Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối... Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia toát ra từ những kiếp lầm than"(Trăng sáng). Là người đi sau, Nguyễn Minh Châu không lặp lại quan niệm đó, vì hình ảnh "chiếc thuyền ngoài xa" mang vẻ đẹp nghệ thuật thực sự chứ không hề là "ánh trăng lừa dối". Điều mà nhà văn muốn người đọc lưu tâm là cần phải có cái nhìn đa chiều, phổ quát mới có thể cảm nhận hết cái gai góc, phức tạp của cuộc đời này, bởi như ông đã nói "con người thì đa đoan, cuộc đời thì đa sự". Sử dụng phương pháp giảng bình có ưu thế rõ rệt trong việc truyền tải cảm xúc tác phẩm, giúp người học thực sự sống với hình tượng, với nhân vật, cuộc đời trong tác phẩm. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, giáo viên không nên quá lạm dụng 10 phương pháp này để tránh tình trạng tiết học đi vào lối mòn truyền thống, dạy học một chiều. 2.4. Phương pháp sơ đồ hóa 2.4.1. Lý thuyết về phương pháp sơ đồ hóa Sơ đồ hóa là phương pháp diễn đạt nội dung dạy học bằng ngôn ngữ sơ đồ. ngôn ngữ sơ đồ được thể hiện bằng các ký hiệu khác nhau như hình vẽ, lược đồ, đồ thị, bảng biểu,… Phương pháp sơ đồ hóa là phương pháp khoa học sử dụng sơ đồ để mô tả sự vật, hoạt động, cho phép hình dung một cách trực quan các mối liên hệ giữa các yếu tố trong cấu trúc của sự vật, cấu trúc logic của qui trình triển khai hoạt động (Tức là con đường từ lúc bắt đầu đến lúc kết thúc hoạt động) giúp con người qui hoạch tối ưu, điều khiển tối ưu các hoạt động. Phương pháp sơ đồ hóa giúp phát triển năng lực nhận thức, tư duy của học sinh (năng lực phân tích, tổng hợp, so sánh, trừ tượng hóa, hệ thống hóa…), đồng thời thông qua sơ đồ, giúp học sinh có một cái nhìn trực quan về nội dung kiến thức bài học, có khả năng khắc sâu kiến thức vào trí nhớ của người học. Việc sử dụng phương pháp sơ đồ hóa có các mức độ khác nhau. Ở mức độ thấp nhất sơ đồ xuất hiện đầy đủ chỉ được sử dụng như một phương tiện truyền đạt thông tin của giáo viên: giáo viên xây dựng sơ đồ rồi giới thiệu cho học sinh bằng phương pháp giải thích minh họa. Ở mức độ cao hơn sơ đồ được sử dụng như một phương tiện tổ chức hoạt động tự học của học sinh. Giáo viên tổ chức cho học sinh tự lực nghiên cứu đơn vị kiến thức rồi yêu cầu học sinh: - Sử dụng sơ đồ để diễn đạt nội dung đọc được - Điền tiếp sơ đồ khuyết thiếu, sơ đồ câm - Tìm những bất hợp lý trong sơ đồ, sửa lại những bất hợp lý đó. Ở mức độ cao nhất, sơ đồ hóa là sản phẩm quá trình hoạt động của học sinh, tiến hành sơ đồ hóa chính là tiến hành nhận thức sự vật hiện tượng theo phương pháp tổng - phân - hợp, thông qua việc sơ đồ hóa nội dung tri thức, học sinh sẽ tự hình thành cho mình phương pháp nhận thức sự vật. 2.4.2. Vận dụng phương pháp sơ đồ hóa vào tiết dạy Chiếc thuyền ngoài xa Ứng dụng vào văn bản Chiếc thuyền ngoài xa, chúng tôi giới thiệu một số đơn vị kiến thức có thể sử dụng phương pháp sơ đồ hóa như sau: * Ở mức độ thấp nhất, sơ đồ chỉ được sử dụng như một phương tiện truyền đạt thông tin của giáo viên, chúng tôi lựa chọn đơn vị kiến thức: cách nhìn nhận của những nhân vật khác (Đẩu, Phùng, Phác) về người đàn ông thuyền chài (sơ đồ đầy đủ). Giáo viên cung cấp sơ đồ rồi giảng giải, minh họa: 11 Đẩu Phùng Người đàn ông vũ phu Thủ phạm gây đau khổ Lên án đấu tranh Phác Giáo viên giảng giải minh họa thông qua việc phát vấn học sinh bằng một hệ thống câu hỏi nhỏ: (1) Người đàn ông thuyền chài được nhìn nhận như thế nào trong suy nghĩ của các nhân vật Đẩu, Phùng và Phác? (Giáo viên đưa dẫn chứng để minh họa: “Cả nước không có một người chồng nào như hắn… Chị không sống nổi với cái lão chồng vũ phu ấy đâu!” (2)Thái độ của ba nhân vật này trước “người đàn ông vũ phu”, “thủ phạm gây đau khổ” cho người đàn bà, cho gia đình thuyền chài? (Giáo viên đưa dẫn chứng để minh họa: Đẩu ngăn cản người đàn ông đánh vợ, Phác đánh lại bố mình, Phùng đại diện cho công lý khuyên người đàn bà bỏ chồng) * Ở mức độ cao hơn, chúng tôi giới thiệu hai đơn vị kiến thức với hai dạng sơ đồ: Sơ đồ khuyết thiếu và sơ đồ câm. Sơ đồ khuyết thiếu: Chúng tôi lựa chọn đơn vị kiến thức cách nhìn nhận, thái độ của người đàn bà hàng chài đối với chồng mình. Người đàn ông vũ phu Người đàn bà ? (2) ? (1) Ở dạng sơ đồ này, giáo viên bằng năng lực sư phạm của mình, nêu vấn đề để học sinh tìm hiểu, phát hiện ra nội dung trong phần thiếu của sơ đồ. Với đơn vị kiến thức và dạng sơ đồ như trên, chúng tôi giả thiết một số câu hỏi phát vấn như sau: (1) Tại sao khi bị chồng đánh đập một cách dã man “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, người đàn bà lại không hề chống trả, không hề kêu van hay chạy trốn? Trong cách nhìn của người đàn bà đáng thương đó, chồng mình trở nên vũ phu như vậy là vì lí do gì? Từ đó, em hãy điền nội dung phù hợp vào dấu ? (1). (nạn nhân của hoàn cảnh) (2) Nếu trong thái độ của Đẩu, Phùng, Phác, người đàn ông rất đáng lên án, thì trong suy nghĩ của người đàn bà hàng chài, người đàn ông hiện lên như thế nào? 12 Từ đó em hãy điền nội dung phù hợp vào dấu ? (2) (Đáng cảm thông, chia sẻ hơn là lên án) Qua những câu hỏi phát vấn và trả lời của học sinh (dưới sự dẫn dắt của giáo viên), chúng ta sẽ có một sơ đồ hoàn chỉnh như sau: Người đàn ông vũ phu Đáng cảm thông hơn là lên án Người đàn bà Nạn nhân của hoàn cảnh Sơ đồ câm: Chúng tôi lựa chọn đơn vị kiến thức: hai phát hiện của người nghệ sĩ Phùng. (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) Ở dạng sơ đồ này, dưới sự phát vấn của giáo viên và thông qua việc tìm hiểu sâu tác phẩm, học sinh phải tự tìm ra nội dung cho mỗi vị trí của sơ đồ. Chúng tôi giả thiết một số câu hỏi như sau: 13 (1) Hình ảnh sự vật xuất hiện trong ống kính của người nghệ sĩ Phùng sau nhiều ngày phục kích là gì? (Chiếc thuyền lưới vó) (2) (3) Chiếc thuyền được Phùng phát hiện, nhìn nhận ở những vị trí nào? (Chiếc thuyền lúc ở ngoài khơi xa và chiếc thuyền khi tiến vào gần bờ “đâm thẳng vào chỗ tôi đứng”). (4) Chiếc thuyền khi ở ngoài khơi xa hiện lên trong ống kính máy ảnh của Phùng như thế nào? (Chiếc thuyền với cảnh tượng buổi bình minh hiện lên như một “cảnh đắt trời cho”, “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một vẻ đẹp toàn bích…) (5) Khi chiếc thuyền tiến vào gần bờ, chuyện gì đã xảy ra? (Một cảnh tượng phi thẩm mỹ (người đàn bà xấu xí, mệt mỏi, người đàn ông dữ dằn) và một cảnh tượng phi nhân tính (người chồng đánh vợ một cách thô bạo, đứa con thương mẹ đánh lại cha)) (6) Hình ảnh chiếc thuyền với vẻ đẹp ngoài khơi xa trái ngược hẳn với hiện thực đau xót khi chiếc thuyền tiến lại gần bờ cho chúng ta cảm nhận về cuộc sống như thế nào? (Cuộc đời chứa đựng nhiều nghịch lý mâu thuẫn, không xuôi chiều). (7) Từ đó, em hãy rút ra cách nhìn nhận đời sống? ( Không thể đánh giá con người, cuộc sống ở dáng vẻ bề ngoài mà phải đi sâu tìm hiểu, phát hiện bản chất bên trong). Sau quá trình phát vấn bằng hệ thống câu hỏi, giáo viên và học sinh sẽ hoàn thiện được sơ đồ cho đơn vị kiến thức như sau: Chiếc thuyền Xa bờ Gần bờ Cảnh đắt trời cho Cảnh phi nhân đạo Cuộc đời nhiều nghịch lý Không thể chỉ đánh giá bề ngoài mà phải khám phá bản chất bên trong sự vật 14 * Ở mức độ cao nhất, sơ đồ hóa là sản phẩm của quá trình hoạt động của học sinh. Chúng tôi chọn đơn vị kiến thức kết thúc tác phẩm: Tấm ảnh được chọn trong bộ lịch năm ấy. Để có thể thực hiện việc xây dựng sơ đồ, đòi hỏi học sinh phải đọc kĩ văn bản, hiểu sâu và phải có năng lực phân tích, tổng hợp, khái quát hóa vấn đề. Học sinh hoạt động lập sơ đồ dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Ở đơn vị kiến thức này, chúng tôi đưa ra hệ thống câu hỏi như sau: (1) Trong đoạn kết thúc tác phẩm, hình ảnh, sự vật nào được nhắc đến? (Tấm ảnh đen trắng) (2) Mỗi lần nhìn vào tấm ảnh đó, người nghệ sĩ Phùng lại trông thấy điều gì? (màu hồng hồng của ánh sương mai) Và nếu nhìn lâu hơn, hình ảnh nào xuất hiện trong tấm ảnh? (người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch…) (3) Theo em, “màu hồng hồng của ánh sương mai” là biểu tượng cho điều gì? (nghệ thuật). Hình ảnh “người đàn bà” bước ra từ bức tranh là biểu tượng cho điều gì? (Cuộc sống). (4) Từ đó, em hãy phát biểu thông điệp của Nguyễn Minh Châu về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống? (Nghệ thuật chân chính không thể tách rời, thoát ly cuộc sống, nghệ thuật chính là cuộc đời và phải vì cuộc đời). Học sinh sắp xếp các nội dung kiến thức vừa tìm được theo một hệ thống logic hợp lý để tạo thành sơ đồ, giáo viên chỉnh sửa, hoàn thiện sẽ cho ta mô hình sau: Ảnh đen trắng Màu hồng của ánh sương mai Người đàn bà rách rưới Nghệ thuật Cuộc đời Có thể nói, việc dạy học bằng cách mô hình hóa kiến thức cơ bản thành các dạng sơ đồ có thể giúp cho học sinh có một cái nhìn trực quan sinh động đối với nội dung bài học; kích thích sự chủ động, sáng tạo, tìm tòi; tạo hứng thú học tập cho học sinh. Tuy vậy, trong quá trình vận dụng, để tránh tình trạng nhàm chán, kiến thức xô bồ, người dạy không nên quá lạm dụng phương pháp này mà chỉ nên lựa chọn một vài đơn vị kiến thức tiêu biểu để thực hiện, nhằm đạt hiệu quả cao nhất. IV. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI 15 Với việc sử dụng kết hợp các phương pháp: nêu vấn đề, giảng bình, thảo luận nhóm, sơ đồ hóa trong việc dạy học bài Chiếc thuyền ngoài xa đã thực sự tạo được hứng thú cho học sinh, kích thích học sinh yêu thích, tìm tòi để cảm nhận tác phẩm, giúp học sinh hiểu và nhớ bài lâu hơn. Đặc biệt là đối với đối tượng học trò học yếu, khả năng cảm thụ văn chương hạn chế, có ý coi nhẹ việc học môn văn như hiện nay. Số liệu thống kê: Sau khi thực hiện tiết dạy, chúng tôi đã khảo sát học sinh bằng một bài kiểm tra, kết quả thu được như sau: - Lớp 12A2: Không áp dụng SKKN: Lớp Số lượng Giỏi Khá Trung bình Yếu HS + % + % + % + % 12A2 40 0 0.0 2 5.0 15 37.5 23 57.5 - Lớp 12A3: Có áp dụng SKKN: Lớp Số lượng Giỏi Khá Trung bình Yếu HS + % + % + % + % 12A3 40 0 0.0 4 10.0 25 62.5 11 27.5 IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG: Việc vận dụng các phương pháp tích cực là yêu cầu cấp thiết trong dạy học Ngữ văn ở trường THPT, đặc biệt là với đối tượng học sinh không thực sự chú trọng học môn văn như hiện nay Vận dụng phương pháp mới sẽ tạo môi trường học tập sôi nổi, kích thích sự khám phá, tìm hiểu của học sinh; thúc đẩy học sinh có ý thức thâm nhập vào tác phẩm văn chương để cảm nhận, chia sẻ. Vận dụng phương pháp mới đòi hỏi người giáo viên cần phải đầu tư soạn kĩ giáo án, chuẩn bị, dự kiến trước các tình huống của tiết dạy để bài học đạt hiệu quả cao nhất. Không chỉ vậy, người học cũng cần phải chuẩn bị kĩ càng các nội dung để có thể hoạt động một cách tích cực. Có thể nói với đối tượng học sinh Trường THCS&THPT Bàu Hàm đa phần là trung bình, yếu, kém; chưa thực sự có ý thức trong vấn đề học tập thì việc vận dụng những phương pháp tích cực để lôi kéo, thu hút sự chú ý, tìm hiểu của các em là vấn đề quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến chất lượng dạy học. V. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. SGK Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục, 2008. 2. Chuẩn KT – KN 12, NXB Giáo dục, 2010. 3. Tập san đổi mới giáo dục trung học, Sở GD-ĐT Đồng Nai, 2007. 4. Dạy học giảng văn ở trường PTTH, Nguyễn Đức Ân, 1997. 16 Thiết kế giáo án tham khảo: CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA Nguyễn Minh Châu A. MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT. - Hiểu được quan niệm của nhà văn về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật, về cách nhìn đời và nhìn người trong cuộc sống. - Thấy được những nét đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm và bước đầu nhận diện được một số đặc trưng cơ bản của văn xuôi Việt Nam sau năm 1975. B TRỌNG TÂM KIẾN THỨC, KĨ NĂNG. 1. Kiến thức: - Những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà văn về cuộc đời và nghệ thuật: phải nhìn nhận con người và cuộc sống một cách đa diện; nghệ thuật chân chính luôn gắn bó với cuộc đời, vì cuộc đời. - Tình huống truyện độc đáo mang, mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống. Điểm nhìn nghệ thuật đa chiều. Lời văn giản dị và sâu sắc, dư ba. 2. Kỹ năng: - Đọc – hiểu truyện ngắn hiện đại. - Phân tích tâm lí nhân vật. C. NỘI DUNG LÊN LỚP 1. Ổn định lớp, kiểm tra sĩ số: 2. Kiểm tra bài cũ: - Em hãy nhắc lại đặc điểm của văn học Việt Nam giai đoạn 1975 đến hết thế kỉ XX? 3. Bài mới: Lời vào bài: Hoạt động của GV - HS HĐ 1: Tạo tâm thế khi bước vào bài học: Giáo viên nhắc lại đặc điểm giai đoạn văn học 1975 đến hết thế kỉ XX; từ đó liên hệ đến Nguyễn Minh Châu với tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa. HĐ 2: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu phần Tiểu dẫn. - Bằng hiểu biết của mình, em hãy trình bày những nét chính về tiểu sử, cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nguyễn Minh Châu? Giáo viên chốt lại các ý chính và yêu cầu học sinh gạch trong SGK. Nội dung cần đạt I. TIỂU DẪN. 1. Tác giả: - Nguyễn Minh Châu: 1930-1989. - Quê quán: làng Thơi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. - Cuộc đời: Đầu năm 1950: ông gia nhập quân đội; từ 1952 đến 1958, ông công tác và chiến đấu tại sư đoàn 320; năm 1962, ông về phòng Văn nghệ quân đội, tạp chí Văn nghệ quân đội. - Sự nghiệp sáng tác: + Trước năm 1975 là ngòi bút sử thi có thiên hướng trữ tình lãng mạn; + Từ đầu thập kỉ 80 của thế kỉ XX chuyển hẳn sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh; ông được xem là cây bút mở đường tinh anh của văn học thời kì đổi mới. 2. Tác phẩm: 17 Giáo viên cung cấp thêm: - Sáng tác tháng 8/ 1983, lúc đầu in trong tập Bến quê, sau đó lấy làm tên chung cho một tập truyện ngắn. - Chiếc thuyền ngoài xa tiêu biểu cho xu hướng chung của VHVN thời kì đổi mới: hướng nội, khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người trong cuộc sống đời thường. HĐ 3: Hướng dẫn học sinh đọc – hiểu văn bản. II. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN 1. Nội dung: * Tóm tắt tác phẩm. - Học sinh tóm tắt những nét chính của tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa? - Giáo viên nhận xét và chốt lại những ý chính. - Theo em có thể chia văn bản thành mấy đoạn, nội dung của mỗi đoạn là gì? Truyện chia làm 3 đoạn: + Đoạn 1: (Từ đầu đến “chiếc thuyền lới vó đã biến mất"). Hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh. + Đoạn 2: (Từ “Ngay lúc ấy … với sóng gió giữa phá”): Câu chuyện của người đàn bà làng chài. + Đoạn 3: Còn lại: Tấm ảnh trong bộ lịch năm ấy. - Em hãy xác định tình huống truyện trong tác phẩm? Em có nhận xét gì về cách xây dựng tình huống truyện của Nguyễn Minh Châu? Học sinh thảo luận theo bàn và trả lời. - Giáo viên nhận xét chốt ý. * Bố cục * Tình huống truyện. - Tình huống 1: Phùng chụp được bức ảnh toàn bích về chiếc thuyền chài trong sương sớm nhưng khi chính chiếc thuyền đó tiến thẳng vào chỗ anh thì cuộc sống lam lũ hiện ra. - Tình huống 2: Đẩu mời người đàn bà đến tòa án khuyên bà bỏ người chồng vũ phu thì được nghe câu chuyện của người đàn bà hàng chài. Từ đó, Đẩu và Phùng “vỡ ra thêm nhiều điều mới mẻ”.  Đây là tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn, mang ý nghĩa phát hiện, khám phá về sự thật đời sống, một tình huống nhận thức. Dường như Nguyễn Minh Châu muốn kéo hiện thực cuộc sống từ xa lại thật gần để nhìn nhận cuộc sống một cách rõ nét hơn, từ đó mà khám phá ra những bất ngờ thú vị. Đó là những hạt ngọc ẩn khuất sau vẻ đẹp lam lũ, khổ đau khó nhọc của con người. a) Hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh. - Học sinh chia nhóm thảo luận: + Nhóm 1: Tìm hiểu phát hiện thứ nhất của người nghệ sĩ. Người nghệ sĩ phát hiện được điều gì? Cảm giác của anh như thế nào? + Nhóm 2: Tìm hiểu phát hiện thứ 2 của người nghệ sĩ. Khi chiếc thuyền lại gần, anh phát hiện thêm điều gì? Phát hiện đó có gì khác so với phát hiện thứ nhất? + Nhóm 3, 4: Nhận xét về hai phát hiện của người nghệ sĩ? Từ hai phát hiện của người nghệ sĩ em rút ra 18 được điều gì? - Đại diện các nhóm trình bày, bổ sung. - GV gợi thêm: cảnh được miêu tả thế nào? +“Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù màu trắng sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào” +“Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. +“toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp”, “một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. - Vì sao Phùng gọi đây là một “cảnh đắt trời cho”? - GV gợi: vì sao trong lúc cảm nhận vẻ đẹp của bức tranh, anh lại nghĩ đến câu nói: “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”? Dường như trong hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giữa biển sớm mù sương, người nghệ sĩ đã bắt gặp cái tận thiện, tận mĩ, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, thanh lọc trở nên trong trẻo tinh khôi bởi cái đẹp hài hòa, lãng mạn của cuộc đời. Ở đây chân lí nghệ thuật đã được khẳng định: nghệ thuật giúp thanh lọc tâm hồn, làm cho người nghệ sĩ được sống thực sự trong những giây phút thật nhất, trong sáng nhất của lòng mình. * Phát hiện thứ nhất: - Một cảnh đắt trời cho, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích: Cảnh chiếc thuyền lưới vó ẩn hiện trong biển sớm mờ sương có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào… - Cảm giác của người nghệ sĩ: người nghệ sĩ trở nên bối rối, trái tim như có cái gì đó bóp thắt vào  thấy mình như “khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn…”,  Bản thân cái đẹp chính là đạo đức. * Phát hiện thứ 2: - Chiếc thuyền khi ở xa là một vẻ đẹp toàn bích nhưng - Một cảnh tượng phi thẩm mĩ: một người đàn khi tiến vào gần bờ, vẻ đẹp ấy còn tồn tại nữa không? bà xấu xí, mệt mỏi; gã đàn ông to lớn, dữ dằn. Thay vào đó là cảnh tượng gì? - Một cảnh tượng phi nhân tính: người chồng Bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ đánh vợ một cách thô bạo, đứa con thương mẹ là một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi; một gã đàn ông đã đánh lại cha,… to lớn, dữ dằn; một cảnh tượng tàn nhẫn: gã đàn ông -> phát hiện bất ngờ, trớ trêu như trò đùa quái đánh đập vợ một cách thô bạo… Đứa con vì thương ác của số phận làm Phùng ngơ ngác không tin mẹ đã đánh lại cha để rồi nhận lấy hai cái bạt tai của vào mắt mình. bố ngã dúi xuống cát… Chứng kiến những cảnh tượng đó, nghệ sĩ Phùng “kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu , cứ há hốc mồm ra mà nhìn”. Sở dĩ nghệ sĩ Phùng trở nên như vậy là vì anh không thể ngờ rằng đằng sau cái vẻ đẹp diệu kì của tạo hóa lại là bi kịch của cuộc đời, là biểu hiện của cái ác, cái xấu. Vừa mới lúc trước, anh còn cảm thấy “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”, thấy “chân lí của sự toàn thiện”, thế mà chỉ ngay sau đó chẳng còn cái gì là “đạo => Qua hai phát hiện của người nghệ sĩ, nhà văn chỉ ra: cuộc đời chứa đựng nhiều nghịch lí, đức”, là cái Chân, cái Thiện của cuộc đời. mâu thuẫn; không thể đánh giá con người, cuộc sống ở dáng vẻ bên ngoài mà phải đi sâu tìm hiểu, phát hiện bản chất bên trong. 19 b) Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện: * Nội dung câu chuyện. - Hoàn cảnh của người đàn bà hàng chài? (Bị chồng đánh đập một cách vũ phu, tàn ác: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng nhưng vẫn cam chịu “không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn”). - Trước hoàn cảnh của người đàn bà hàng chài, Đẩu – chánh án tòa án huyện đã đưa ra giải pháp gì? (Đẩu khuyên người đàn bà bỏ chồng vì anh tin giải pháp của mình là đúng.) - Giải pháp mà Đẩu đưa ra có được người đàn bà chấp nhận không? (Người đàn bà từ chối thiện ý của Đẩu) - Trong hoàn cảnh người đàn bà hàng chài, lời khuyên của chánh án Đẩu có vẻ là một lời khuyên đúng đắn, nhưng người đàn bà nhất quyết không nghe theo, thậm chí còn van xin “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Em hãy lý giải thông qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài? Giáo viên cho học sinh phát hiện các dẫn chứng và phân tích. “Đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần có người đàn ông để chèo chống lúc phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa … Đàn bà chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”. “Các chú đâu có phải là người làm ăn … cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc …”. - Nhận xét về câu chuyện cuộc đời của người đàn bà Một câu chuyện cuộc đời nhiều bí ẩn và éo le hàng chài? của người đàn bà hàng chài nghèo khổ, lam lũ… - Thái độ của Phùng và Đẩu trước và sau khi nghe câu chuyện của người đàn bà có sự thay đổi như thế nào? + Trước: Đẩu nói với giọng đầy giận dữ: “…tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: Chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu!”; Đẩu nói với vẻ đầy hào hứng của một con người bảo vệ công lý “chủ trương nguyên tắc của chúng tôi là kêu gọi hòa thuận”. + Sau: “Không thể nào hiểu được!” “Phải, bây giờ thì tôi đã hiểu” rồi “Một cái gì vừa mới vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển”. * Thông điệp nghệ thuật. - Từ câu chuyện của người đàn bà hàng chài và thái Đừng nhìn cuộc đời, con người một cách đơn độ của Phùng và Đẩu, nhà văn Nguyễn Minh Châu giản, phiến diện; phải đánh giá sự việc, hiện muốn gửi đến người đọc thông điệp gì? tượng trong các mối quan hệ đa diện, nhiều 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan