Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Văn học Skkn vận dụng kết hợp một số phương pháp dạy học tích cực để tiếp cận tác phẩm c...

Tài liệu Skkn vận dụng kết hợp một số phương pháp dạy học tích cực để tiếp cận tác phẩm chiếc thuyền ngoài xa của nguyễn minh châu

.DOC
31
1383
63

Mô tả:

Sáng kiến kinh nghiệm 2013 Ngô Thị Xuyến SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI Đơn vị: Trường THPT Kiệm Tân Tổ: Ngữ Văn Đề tài sáng kiến kinh nghiệm Môn Ngữ Văn VẬN DỤNG KẾT HỢP MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC ĐỂ TIẾP CẬN TÁC PHẨM CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA CỦA NGUYỄN MINH CHÂU Người thực hiện: Ngô Thị Xuyến Lĩnh vực nghiên cứu: Quản lí giáo dục Phương pháp giảng dạy bộ môn x x Phương pháp giáo dục Lĩnh vực khác. Có đính kèm: Mô hình x Phần mềm Phim ảnh Trang 1 Hiện vật khác Sáng kiến kinh nghiệm 2013 Ngô Thị Xuyến Năm học: 2012-2013 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Đơn vị: Trường THPT Kiệm Tân Độc lập- Tự do – Hạnh phúc Tổ : Ngữ Văn Thống Nhất, ngày 20 tháng 02 năm 2013. SỞ GD & ĐT ĐỒNG NAI PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Năm học: 2012 - 2013. Tên sáng kiến kinh nghiệm: VẬN DỤNG KẾT HỢP MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC ĐỂ TIẾP CẬN TÁC PHẨM CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA CỦA NGUYỄN MINH CHÂU Họ và tên tác giả: Ngô Thị Xuyến Tổ Ngữ Văn Lĩnh vực: Quản lí giáo dục Phương pháp giảng dạy bộ môn x Phương pháp giáo dục Lĩnh vực khác. 1. Tính mới - Có giải pháp hoàn toàn mới. - Có giải pháp cải tiến, đổi mới phương pháp đã có. 2. Hiệu quả - Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao. - Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những phương pháp đã có và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả. - Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao. - Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả. 3. Khả năng áp dụng - Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách: Tốt Khá Đạt - Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và dễ đi vào cuộc sống: Tốt Khá Đạt - Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả trong phạm vi rộng: Tốt Khá Đạt Trang 2 Sáng kiến kinh nghiệm 2013 Ngô Thị Xuyến XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN ( Ký tên và ghi rõ họ tên) Trang 3 THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ ( Ký tên và ghi rõ họ tên) Sáng kiến kinh nghiệm 2013 Ngô Thị Xuyến SƠ YẾU LÍ LỊCH KHOA HỌC I THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN - Họ và tên: Ngô Thị Xuyến - Sinh ngày: 20 -12 - 1978 - Địa chỉ: Ấp Suối Rút - Xã Phú Túc - Định Quán - Đồng Nai - Điện thoại: 01672074693 - Chức vụ: Tổ trưởng tổ Ngữ văn - Đơn vị công tác: Trường THPT Kiệm Tân II TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO - Học vị: Cử nhân khoa học - Năm nhận bằng: 2000 - Chuyên ngành đào tạo: Ngữ Văn III KINH NGHIỆM KHOA HỌC - Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Ngữ Văn - Số năm kinh nghiệm : 12 năm - Các sáng kiến kinh nghiệm trong 5 năm gần đây: 04 1. Làm và sử dụng ĐDDH trong văn thuyết minh 2. Lòng nhân đạo của Nguyễn Du qua một số tác phẩm trong trường THPT 3. Mô ôt vài suy nghĩ về phương pháp tiếp câ ôn tác phẩm từ ngôn từ văn học 4. Sơ đồ tư duy- phương pháp giúp học sinh 12 hệ thống kiến thức. Trang 4 Sáng kiến kinh nghiệm 2013 Ngô Thị Xuyến Mục lục Trang A. ĐẶT VẤN ĐỀ .....................................................................................................2 B. NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI..................................................................................2 I. CƠ SỞ KHOA HỌC............................................................................................2 1. Cơ sở lí luận................................................................................................2 2. Cơ sở thực tiễn............................................................................................3 II. NÔÔI DUNG..........................................................................................................3 1. Lí thuyết về phương pháp dạy học tích cực...........................................................4 1.1 Phương pháp dạy học................................................................................4 1.2 Phương pháp dạy học tích cực .................................................................4 1.3 Vai trò của giáo viên và học sinh trong học tích cực ...............................4 2. Một số phương pháp dạy học tích cực ..................................................................6 2.1 Phương pháp nêu vấn đề ....................................................................................6 2.2 Phương pháp thuyết trình .................................................................................7 2.3 Phương pháp dung sơ đồ tư duy ....................................................................... 8 2.3 Phương pháp đóng vai .....................................................................................10 3. Cách thức chung .................................................................................................10 4. Cách thức cụ thể .................................................................................................11 4.1 Tìm hiểu phần tiểu dẫn ....................................................................................11 4.2. Đọc- hiểu .......................................................................................................11 4.2.1 Tóm tắt ..........................................................................................................11 4.2.2 Tìm hiểu tác phẩm ..............................................................................13 4.2.2.1 Hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng ....................................13 4.2.2.2 Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án Huyện ........................13 4.2.2.3 Tấm ảnh được chọn trong “bộ lịch năm ấy” .................................18 5. Thiết kế giáo án cụ thể .......................................................................................20 III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI ............................................................................25 C . ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CỦA ĐỀ TÀI ........26 D . TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 27 Trang 5 Sáng kiến kinh nghiệm 2013 Ngô Thị Xuyến VẬN DỤNG KẾT HỢP MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC ĐỂ TIẾP CẬN TÁC PHẨM CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA CỦA NGUYỄN MINH CHÂU A.ĐẶT VẤN ĐỀ: Đổi mới phương pháp dạy học không còn là vấn đề mới mẻ trong giáo dục hiện nay mà là vấn đề tất yếu, thường trực nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của thời đại. Hàng năm, ngành giáo dục đã tổ chức rất nhiều cuộc thi giành cho giáo viên nhằm tạo điều kiện và thúc đẩy sự đổi mới trong quá trình giảng dạy. Tôi cũng như bao nhiêu giáo viên khác luôn trăn trở, lo lắng, làm thế nào để tìm được phương pháp thích hợp, tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học? Đặc biệt là với môn Ngữ Văn – bộ môn thường xuyên có mặt trong các kì thi Tốt nghiệp, bộ môn có vai trò đặc biệt trong việc giúp con người trả lời những câu hỏi trong nội tâm mình, giúp học sinh hiểu được hương vị của cuộc sống. Với ngôi trường Kiệm Tân xa xôi, đầu vào của học sinh chưa cao, kinh nghiệm của giáo viên còn ít ỏi như chúng tôi; đổi mới phương pháp dạy học còn là vấn đề cấp bách. Một câu hỏi lớn đặt ra cho chúng tôi: Làm thế nào để học sinh hứng thú với môn Ngữ Văn? Phương pháp dạy học đóng vai trò quan trọng và quyết định với hiệu quả của việc dạy hoc. Dạy học có phương pháp và đúng phương pháp sẽ không chỉ truyền đạt được kiến thức một cách đầy đủ mà thêm vào đó, khơi gợi được hứng thú, tinh thần tự giác và chủ động cho học sinh. Trái lại, việc dạy học sai phương pháp dạy học sẽ làm cho việc học trở thành việc nhồi nhét kiến thức, khiến cho học sinh ngày một thụ động, đối phó. Thậm chí ảnh hưởng đến cả lối tư duy và đạo đức của các em. Giáo viên phải luôn cập nhật và đổi mới phương pháp dạy học, tạo hiệu quả trong việc học nói riêng và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo nói chung. Thiết nghĩ, mỗi bộ môn, mỗi giáo viên đều có một cách riêng để giúp học sinh tiếp cận với kiến thức trong bài học. Với tôi, tôi thường vận dụng kết hợp nhiều phương pháp khác nhau trong cùng một bài học, một đơn vị kiến thức; hơn thế nữa, các lớp khác nhau, các đối tượng học sinh khác nhau cũng phải sử dụng những phương pháp khác nhau. Tuy vậy, khi giáo viên kết hợp nhiều phương pháp mà không nắm rõ đặc trưng của các phương pháp đó hoặc thiếu sự linh hoạt thì bài học sẽ rối, học sinh khó tiếp thu bài học. Không những không tạo được hứng thú cho học sinh mà còn gây ra sự chán học cho các em. Trong bài viết này, tôi sẽ đề cập đến vấn đề “Vận dụng kết hợp một số phương pháp dạy học tích cực để tiếp cận tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu”. Trong đó, tôi chú trọng đến phương pháp nêu vấn đề, phương pháp thuyết trình, sơ đồ tư duy và phương pháp đóng vai. B. NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI: I. CƠ SỞ KHOA HỌC: 1. Cơ sở lí luận: - Trong tài liệu tập huấn cán bộ quản lý của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo năm 2012 có viết “Không có một phương pháp dạy học toàn năng phù hợp với mọi mục tiêu Trang 6 Sáng kiến kinh nghiệm 2013 Ngô Thị Xuyến và nội dung dạy học. Mỗi phương pháp và hình thức dạy học có những ưu, nhược điểm và giới hạn sử dụng riêng. Vì vậy, việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình thức dạy học trong toàn bộ quá trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy học”. - Như tôi đã giới thiệu, môn Ngữ Văn là một trong những bộ môn có vai trò quan trọng trong cuộc sống của mỗi con người. Đó không chỉ là bộ môn thường xuyên có mặt trong kì thi Tốt Nghiệp THPT mà đó còn là bộ môn “dạy cho con người biết yêu cuộc sống trong toàn bộ tính hiện thực của nó, biết lấy nó từ nguồn sống cho mình để có thể hạnh phúc hơn. Dạy văn là một việc làm đích thực trần gian, vì cuộc đời thật, không mảy may phù phiếm” (Giáo Sư Hồ Ngọc Đại). 2. Cơ sở thực tế: Học văn giúp chúng ta hiểu được nguồn gốc của lịch sử văn học. Học văn là học tiếng mẹ đẻ, học để làm người, học những nét đẹp cơ bản của bản sắc văn hóa dân tộc. Bởi văn học đem đến giá trị nhận thức, giá trị giáo dục, giá trị thẩm mĩ, làm đẹp nhân cách, tâm hồn, văn hóa của con người. Dù khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ như vũ bão, ngoài kiến thức về khoa học tự nhiên, con người cũng rất cần đến kiến thức khoa học xã hội để từng bước hoàn thiện nhân cách của mình. Bởi vì văn học gắn liền với cuộc sống, thực tiễn của cuộc sống đã được các nhà văn cụ thể hóa qua những tác phẩm văn học ở nhà trường cũng như ở các tác phẩm khác. Học văn sẽ bồi dưỡng cho con người tính nhân văn, nhân ái. Muốn làm được điều này giáo viên phải tạo được hứng thú say mê học tập môn văn đối với các em, giúp các em định hướng đúng để học tập tốt môn văn. Học văn nhằm tạo cho tâm hồn các em hôm nay và mai sau được trong sáng hơn, giúp các em nhận thức đầy đủ góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, đồng thời xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Học văn mà chưa hiểu văn, chưa cảm thụ được văn học là một hiện tượng đáng báo động cho thầy và trò. Hiện nay, một thực trạng đáng buồn vẫn đang diễn ra là học sinh ít chú ý đến môn Văn, hoặc có chú ý chăng cũng chỉ để thi Tốt Nghiệp! Còn định hướng lâu dài thì không nhiều. - Theo suy nghĩ của học sinh, môn văn là môn học thuộc lòng, không cần sáng tạo. Nếu giáo viên dạy theo ý chính của bài thì học sinh không biết triển khai thành đọan văn hoặc bài văn hoàn chỉnh. Thậm chí, khi các em làm bài không theo đáp án thì không đạt điểm cao. - Một thực tế khi lên lớp, tôi vẫn thường gặp là dù giáo viên cố gắng dùng phương pháp gợi để tạo hứng thú cho học sinh thì vẫn còn một số em không chịu suy nghĩ để trả lời câu hỏi. Các em luôn “thủ” sẵn một câu “em không biết” “em không tìm được” “em không làm được”… Khi tôi sử dụng kết hợp nhiều phương pháp dạy học thì những giờ độc thoại giảm dần, thay vào đó là sự hào hứng của học sinh trong giờ học. Đến nay, tôi đã thực hiện thành công việc vận dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực. Tôi đã có thể khơi gợi được cái hồn của tác phẩm đồng thời giúp học sinh nói lên suy nghĩ của mình một cách tích cực. II. NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI: Trang 7 Sáng kiến kinh nghiệm 2013 Ngô Thị Xuyến 1. Lí thuyết về phương pháp dạy học tích cực: Đã có nhiều tài liệu viết về vấn đề này song trong bài viết này, tôi sẽ giới thiệu một cách ngắn gọn về phương pháp dạy học tích cực. 1. 1. Phương pháp dạy học: Phương pháp dạy học là cách thức hành động có trình tự, phối hợp tương tác với nhau của giáo viên và của học sinh nhằm đạt được mục đích dạy học. Nói cách khác, phương pháp dạy học là hệ thống những hành động có chủ đích theo một trình tự nhất định của giáo viên nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và hoạt động thực hành của học sinh nhằm đảm bảo cho họ lĩnh hội nội dung dạy học và chính như vậy mà đạt được mục đích dạy học. 1.2. Phương pháp dạy học tích cực: Phương pháp dạy học tích cực là phương pháp khơi dậy, phát huy tính chủ động, sáng tạo và tích cực của cả người dạy và người học, trong đó lấy người học làm trung tâm trên cơ sở phát huy vai trò định hướng, tổ chức của người thầy, vai trò thực hiện, thi công của trò và sức mạnh của các phương tiện kỹ thuật hiện đại nhằm chinh phục chân lý trên cả ba phương diện: kiến thức, kỹ năng, thái độ. Người học trở thành chủ thể tích cực trong quá trình tiếp nhận và đồng sáng tạo. Người thầy chính là người định hướng, dẫn dắt trong quá trình phát triển tư duy và hoạt động học tập của học sinh. 1.3. Vai trò của giáo viên và học sinh trong học tích cực: So sánh vai trò của giáo viên trong dạy học truyền thống và dạy học tích cực: Từ Giáo viên là trung tâm trong họat động dạy học Tập trung vào sản phẩm học tập Giáo viên là nguồn cung cấp kiến thức Đến Học sinh là trung tâm họat động dạy học Tập trung vào quá trình học tập Giáo viên là người tổ chức việc tiếp nhận các kiến thức Giáo viên như là người “làm hộ” cho Giáo viên là người tạo điều kiện để học học sinh sinh tự học Tập trung vào chủ đề cụ thể Tập trung vào việc học toàn diện + Giáo viên – người dạy – người hướng dẫn: là tác nhân chính trong việc nỗ lực tạo ra các điều kiện tốt nhất giúp học sinh tiếp nhận kiến thức đồng thời phát triển các kĩ năng ngay tại lớp học bằng việc ứng dụng các nghiệp vụ sư phạm chuyên nghiệp của mình trong mối quan hệ trực tiếp với người học. Giáo viên cần khuyến khích và hỗ trợ người học suy nghĩ ở mức tối đa. + Giáo viên còn là người quản lí, điều phối và đánh giá thành tích của học sinh trong giờ học. Ví dụ: khi tiết học bắt đầu, giáo viên hướng dẫn học sinh tham gia các hoạt động, tùy theo nội dung bài học, đối tượng học sinh để quyết định thời gian cho mỗi hoạt động. Ngoài ra, giáo viên cần điều phối nhằm góp phần tăng tính năng động cho các hoạt động trong tiết học. Trang 8 Sáng kiến kinh nghiệm 2013 Ngô Thị Xuyến Có một số học sinh thờ ơ trước câu hỏi của giáo viên hoặc trả lời theo hướng tiêu cực “em không biết” “em không nghĩ ra”…(dù đó là những câu hỏi đơn giản, câu hỏi tái hiên kiến thức). Trong trường hợp học sinh thiếu sự hợp tác, giáo viên cần động viên khuyến khích, động viên bằng những lời lẽ nhẹ nhàng. Học sinh không muốn học mà giáo viên còn phản ứng gay gắt thì không khí sẽ trở nên căng thẳng hơn. Trong cuốn “Tôi tài giỏi, bạn cũng thế” của Adam Khoo có viết: Suy nghĩ làm ảnh hưởng đến cảm xúc của bạn. Nếu bạn học cách điều khiển suy nghĩ, chúng ta có thể làm chủ được cảm xúc. Có thể điều khiển suy nghĩ thông qua từ ngữ. Việc đầu tiên là là phải kiểm soát những từ ngữ dùng để đối thọai với bản thân. Có những từ ngữ tích cực mà khi nói với bản thân sẽ giúp ta có được trạng thái dồi dào năng lực, thúc đẩy hành động của chúng ta và mang lại kết quả tốt đẹp. Đồng thời cũng có những từ ngữ tiêu cực khiến chúng ta cảm thấy tồi tệ và không muốn hành động. + Giáo viên cũng có thể đặt ra quy định, trong một số trường hợp, không được trả lời câu hỏi “có- không”. Ngoài ra, giáo viên cũng cần động viên để học sinh trình bày suy nghĩ của mình (cô nghĩ là em trả lời được, bạn sẽ cho cả lớp nghe về một câu trả lời thú vị, ….). Người dạy cũng hạn chế thái độ bực tức khi học sinh trả lời sai, nếu không khéo léo những học sinh khác sẽ không hứng thú để tìm câu trả lời mà lại hứng thú với thái độ lúc này của giáo viên! + Trong giờ học, giáo viên cũng có thể đánh giá thành tích của người học, hướng dẫn học sinh phát hiện và sửa chữa các điểm yếu phát huy các mặt mạnh của mình trong các tiết học sau. Những lời khen ngợi kịp thời cũng góp phần kích thích sự tích cực của học sinh trong quá trình học tập. - Vai trò của học sinh trong học tích cực Với sự cố gắng của giáo viên trong quá trình giảng dạy, vai trò của người học cũng có sự thay đổi: Trang 9 Sáng kiến kinh nghiệm 2013 Ngô Thị Xuyến Từ Học sinh là người tiếp nhận kiến thức một cách thụ động Học sinh vào việc trả lời những câu hỏi Học “nhồi nhét” Đến Học sinh là người học tích cực và cùng tham gia Học sinh đặt ra những câu hỏi Chịu trách nhiệm cho việc học của mình. Học – phản ánh Học sinh cạnh tranh với nhau trong học Học sinh hợp tác với nhau trong học tập tập Học sinh tự nói lên ý kiến của mình Học sinh lắng nghe ý kiến tích cực của người khác Học sinh tiếp thu các kiến thức riêng rẽ Học sinh kết nối các kiến thức đã học được. Học sinh - người học - người tham gia: là người tiếp nhận các kiến thức và phát triển các kỹ năng trong điều kiện tốt nhất do người dạy và tài liệu học tập tạo ra. Người học chính là chủ thể mọi họat động và là mục đích hướng tới của việc học tập. Như vậy, vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy tác phẩm văn chương trong trường phổ thông mới có khả năng khơi dậy và phát huy những tiềm lực, tiềm tàng vẫn còn ngủ quên trong mỗi học sinh. Phương pháp dạy học tích cực gõ mạnh vào trí thông minh, sở trường ở người học để phát huy tính tự giác. Phương pháp này thể hiện sự vận động và có định hướng cần thiết của họat động trí tuệ trong việc hình thành kiến thức và sẽ làm thay đổi nhiệm vụ của thầy và trò theo hướng tích cực. 2. Một số phương pháp dạy học tích cực: Trong đề tài này, tôi chỉ đề cập đến những phương pháp thường xuyên được vận dụng và tạo hứng thú cho học sinh. 2.1. Phương pháp dạy học nêu vấn đề: Là phương pháp dạy học mà giáo viên đưa ra trước học sinh một hoặc hệ thống các vấn đề học tập chứa đựng mâu thuẫn, đưa học sinh vào tình huống có vấn đề làm nảy sinh nhu cầu nhận thức, hướng dẫn học sinh đề xuất giả thuyết, lập kế hoạch và tự giải quyết vấn đề. Trong quá trình đó, học sinh không những nắm vững kiến thức mà còn phát triển khả năng tư duy, biết cách phát hiện và giải quyết vấn đề, hình thành phương pháp tự học, tự nghiên cứu. Phương pháp này đã tạo điều kiện cho học sinh tiếp thu kiến thức một cách chủ động, tích cực nhất, tạo không khí tự do tư tưởng, tinh thần dân chủ trong giờ học: “không ai có quyền nắm giữ chân lí mà chân lí thuộc về mọi người”. - Thực chất của việc dạy học nêu vấn đề là giáo viên đặt câu hỏi hoặc nêu vấn đề, học sinh phải tự lực suy nghĩ, thảo luận, giải đáp dưới sự định hướng của giáo viên. Quá trình suy nghĩ, thảo luận, giải đáp là điều kiện tốt để kích thích tính năng động sáng tạo, những suy nghĩ độc lập của học sinh, dần dần hình thành phong cách học tập và làm việc tích cực. Muốn làm được điều này, giáo viên phải Trang 10 Sáng kiến kinh nghiệm 2013 Ngô Thị Xuyến biết phát hiện vấn đề. Có thể vấn đề ở đây là những điều mà giáo viên đã biết câu trả lời nhưng hư cấu thành chưa biết để lôi cuốn học sinh vào giải quyết. Cũng có thể đó là vấn đề không có câu trả lời chính xác, tùy vào thời điểm, cách thức, kĩ năng của mỗi người để giải quyết nó trong cuộc sống. Tình huống có vấn đề là tình huống chứa đựng một nội dung cần xác định, một nhiệm vụ cần giải quyết, một vướng mắc cần tháo gỡ, một câu hỏi cần tìm câu trả lời… Trong quá trình tạo những câu hỏi, tình huống có vấn đề, giáo viên khơi gợi cho học sinh suy nghĩ, tìm tòi sáng tạo để đưa ra cách giải quyết mới, ý tưởng mới. Thậm chí, trong các ý tưởng mới đó lại có một vài vấn đề mới được nảy sinh và có thể vấn đề đó giáo viên chưa từng nghĩ đến. Trong trường hợp này, những học sinh khác trong lớp càng có cơ hội để thể hiện suy nghĩ của mình. Phát huy mạnh mẽ tính độc lập trong suy nghĩ của học sinh, giúp học sinh thực sự trở thành chủ thể của họat động học tập. Phương pháp này còn có thề phát triển khả năng diễn đạt bằng lời của học sinh, tăng cường hoạt động, kích thích nỗ lực của học sinh trong việc chiếm lĩnh tác phẩm văn chương. - Đặc trưng của phương pháp dạy học nêu vấn đề: Đây là một phương pháp phức hợp có 3 đặc trưng cơ bản: + Phương pháp này gồm một hoặc một vài vấn đề chứa đựng sự mâu thuẫn hoặc có vấn đề (là những tình huống trái khoáy, ngược đời, con người được đặt trong sự bế tắc, bi kịch..) yêu cầu học sinh phải tìm tòi, phát hiện. + Chính những mâu thuẫn hoặc vấn đề đó được đặt trong sự cấp thiết mà học sinh phải giải quyết bằng được. + Trong quá trình giải quyết vấn đề học sinh phải chiếm lĩnh được kiến thức, kĩ năng, thái độ (niềm vui sướng của sự nhận thức sáng tạo) - Các yếu tố của tình huống có vấn đề: + Có mâu thuẫn nhận thức, có điều chưa biết cần tìm. Có mâu thuẫn nhận thức giữa cái đã biết và cái phải tìm. Điều chưa biết có thể là mối liên hệ giữa cái đã biết và cái phải tìm. Điều chưa biết có thể là mối liên hệ chưa biết, hoặc cách thức hay điều kiện hành động. Đó chính là kiến thức mới sẽ được khám phá ra trong tình huống có vấn đề. + Tạo ra nhu cầu muốn biết kiến thức mới. Thế năng tâm lí của nhu cầu nhận thức là động lực khởi động hoạt động nhận thức của học sinh; nó sẽ góp phần làm cho học sinh đầy hưng phấn tìm tòi phát hiện, sáng tạo giải quyết nhiệm vụ nhận thức đặt ra. + Phù hợp với khả năng của học sinh trong việc phân tích các điều kiện của nhiệm vụ đặt ra và trong việc đi tìm điều chưa biết, nghĩa là trong việc phát hiện kiến thức mới. Tình huống có vấn đề nên bắt đầu từ cái quen thuộc, bình thường, đã biết (từ vốn kiến thức cũ của học sinh, từ những hiện tượng thực tế…) mà đi đến cái bất thường (kiến thức mới) một cách bất ngờ nhưng logic. 2.2. Phương pháp thuyết trình: Là trình bày bằng lời nói trước nhiều người về một vấn đề nào đó nhằm cung cấp thông tin hoặc thuyết phục, gây ảnh hưởng đến người nghe. Đây là một công cụ giao tiếp đóng vai trò to lớn trong sự thành công của cá nhân. Người Trang 11 Sáng kiến kinh nghiệm 2013 Ngô Thị Xuyến thuyết trình sẽ học được cách trình bày vấn đề trước đám đông, học được kĩ năng áp dụng trong hội thoại, phát triển kĩ năng giao tiếp. Đồng thời, phương pháp thuyết trình cũng giúp học sinh có cơ hội thực hành và tích lũy kinh nghiệm, có thêm tự tin. - Áp dụng phương pháp thuyết trình trong giờ học, giáo viên có thể đánh giá được khả năng giao tiếp của học sinh đến mức độ nào. Học sinh có thể thuyết phục người nghe nghe theo mình, chấp nhận quan điểm, cùng suy nghĩ hành động theo ý muốn của mình hay không? Muốn làm được điều này, giáo viên phải có những bước tập dợt cho học sinh. + Thứ nhất, giáo viên phải tập cho học sinh thói quen đứng trước đám đông để trình bày một vấn đề nào đó (nên đặt những câu hỏi “Vì sao” hoặc “trình bày” để học sinh trả lời) + Thứ hai, giáo viên khuyến khích học sinh đứng trên bục giảng (thay vì đứng tại chỗ) để trả lời những câu hỏi có vấn đề phức tạp. Ví dụ: Khi học xong một bài thơ hoặc đọan thơ, giáo viên yêu cầu học sinh: em có thể bình một đọan thơ hoặc em thích đoạn thơ, câu thơ nào nhất? Vì sao?. Với văn xuôi cũng có nhiều cách đặt câu hỏi giúp học sinh tự tin trình bày trước lớp về nội dung bài học. Khi học xong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân, giáo viên có thể dùng câu hỏi đơn giản để học sinh tái hiện kiến thức hoặc đánh giá mức độ hiểu bài của học sinh. Nhà văn Kim Lân kể với chúng ta chuyện gì? Nhân vật nào gây ấn tượng nhất đối với em? Vì sao?... + Thứ ba, giáo viên yêu cầu học sinh làm việc nhóm, cử nhóm trưởng lên thuyết trình nội dung sau đó chỉ định một thành viên bất kì trong nhóm lên trình bày vấn đề nhằm đảm bảo cho các thành viên đều có cơ hội để trình bày. Sau nhiều lần thực hiện, học sinh đã quen với việc trình bày trước lớp, các nhóm sẽ không cần nhóm trưởng mà vai trò của mọi người là như nhau. 2.3. Phương pháp dùng sơ đồ tư duy: - Sơ đồ tư duy còn gọi là Bản đồ tư duy, Lược đồ tư duy…là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức…bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Có thể gọi bản đồ tư duy là công cụ ghi chú tối ưu. (Internet) - Bộ não của con người được coi là một thế giới bí ẩn. Não trái ghi nhớ các thông tin bằng các kí tự, đường thẳng, con số. Não phải giúp ta xử lí các thông tin về nhịp điệu, màu sắc, hình ảnh…Từ trước đến nay, chúng ta thường quen với việc ghi chép thông tin bằng từ ngữ, gạch đầu dòng, tóm ý…Như vậy, chúng ta chỉ sử dụng 50% khả năng của bộ não khi ghi nhận thông tin. Năm 1960, Tony Buzan đã nghiên cứu ra phương pháp Bản đồ tư duy (Mind Map), đã giúp con người tận dụng triệt để khả năng ghi nhận thông tin của bộ não. - Trong chương 8 cuốn sách “Tôi tài giỏi, bạn cũng thế” của Adam Khoo có đề cập đến phương pháp giúp chúng ta có khả năng nhớ tốt hơn hay nói cách khác ghi nhớ tốt không phải là năng khiếu, tài năng. Adam Khoo khẳng định: “Không Trang 12 Sáng kiến kinh nghiệm 2013 Ngô Thị Xuyến hề tồn tại trí nhớ tốt hay trí nhớ kém mà chỉ tồn tại trí nhớ được rèn luyện và trí nhớ không được rèn luyện. Mỗi người trong chúng ta đều sở hữu một trí nhớ phi thường tự nhiên mà chúng ta chỉ cần học cách tận dụng nó”. Trí nhớ bao gồm sự ghi nhớ (lưu trữ thông tin) và sự hồi tưởng (tìm lại thông tin). Sự ghi nhớ liên quan đến việc lưu trữ thông tin chúng ta nhận được vào bộ não. Sự hồi tưởng liên quan đến khả năng tìm lại thông tin đó khi cần thiết. Có nhiều bằng chứng khoa học cho thấy khả năng lưu trữ thông tin của bộ não là hoàn hảo và không bị hao mòn theo thời gian. Điều này có nghĩa là mỗi từ ngữ, hình ảnh, mỗi âm thanh chúng ta lưu vào trí nhớ từ khi sinh ra được lưu giữ hoàn hảo nguyên vẹn ở một nơi nào đó trong trong bộ não. Vấn đề đáng quan tâm là khả năng hồi tưởng của chúng ta không hoàn hảo. Trí nhớ được tạo ra bằng cách liên kết từng mảng thông tin với nhau. Muốn nhớ tốt cần lưu ý đến các nguyên tắc cơ bản: sự hình dung, sự liên tưởng, làm nổi bật sự việc, sự tưởng tượng, màu sắc, âm điệu… Như vậy, theo rất nhiều tài liệu của các nhà nghiên cứu, muốn tận dụng triệt để khả năng ghi nhớ và khả năng hồi tưởng của bộ não chúng ta cần sử dụng cả não trái và não phải. Hiện nay không còn cách dạy đọc – chép, chiếu – chép, nhìn – chép…Vì vậy, giáo viên hướng dẫn cho học sinh cách thực hiện sơ đồ mô phỏng kiến thức bài học. Đồng thời, giúp học sinh tư duy, sáng tạo, tận dụng khả năng ghi nhớ và hồi tưởng những kiến thức đã ghi nhớ. Hay nói cách khác, học sinh có thể thể hiện nội dung bài học theo cách của mình qua các từ khóa, từ chủ đề trung tâm đến các ý lớn đến các ý nhỏ. Khác với cách ghi chép thông thường, ở cách sử dụng màu sắc kích thích trí nhớ và sự hứng thú vì mỗi nhánh có một từ khóa kèm hình ảnh. Với một kĩ thuật hình họa có đường nét, có màu sắc có từ ngữ, hình ảnh được dựa trên sự tưởng tượng và kết nối, bản đồ tư duy giúp chúng ta tự do suy nghĩ và phát huy tiềm năng sáng tạo của bộ não. Học sinh không còn thụ động ngồi nghe giáo viên giảng bài rồi ghi bài một cách máy móc mà trái lại các em sáng tạo ra “tác phẩm” của riêng mình qua sự định hướng, gợi ý của giáo viên. Ngoài việc dùng bản đồ tư duy trong dạy và học, bản đồ tư duy còn giúp học sinh nâng cao năng lực tự học, tự kiểm tra. Quy trình lập Bản đồ tư duy: - Trước hết, chúng ta bắt đầu bằng từ trung tâm với hình ảnh của chủ đề. Sau đó, nối các nhánh chính (cấp một) đến hình ảnh trung tâm, nối các nhánh cấp hai đến các nhánh cấp một…bằng các đường kẻ (luôn sử dụng màu sắc vì màu sắc cũng có tác dụng kích thích não như hình ảnh). Các đường kẻ càng gần hình ảnh trung tâm càng được tô đậm hơn, dày hơn. Khi chúng ta nối các đường với nhau, chúng ta có thể hiểu và nhớ nhiều hơn do bộ não chúng ta làm việc bằng sự liên tưởng. (các đường ở cùng một cấp độ phải có cùng màu sắc). Trang 13 Sáng kiến kinh nghiệm 2013 Ngô Thị Xuyến - Lưu ý: Mỗi từ hoặc ý nên đứng độc lập và được nằm trên một đường kẻ. Nên dùng đường kẻ cong thay vì các đường thẳng vì các đường cong được tổ chức rõ ràng sẽ thu hút được sự chú ý của mắt nhiều hơn. Ngoài ra cần bố trí thông tin đều quanh hình ảnh trung tâm. Hiện nay đã có rất nhiều phần mềm hỗ trợ vẽ bản đồ tư duy trên máy tính. Khi học sinh học trên lớp, chúng ta chỉ cần hướng dẫn cách vẽ sơ đồ. Các em chỉ cần dùng bút màu, giấy A4, …. 2.4. Phương pháp đóng vai: - Là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành “làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là phương pháp giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề nhằm ứng xử tốt hơn khi nó xảy ra trong cuộc sống. Học tập để tham gia là một kĩ năng quan trọng của học sinh. Đóng vai trong lớp học có thể thực hiện bằng nhiều cách nhưng khi sử dụng phương pháp này trong giờ học Ngữ Văn ở trường THPT thì giáo viên chỉ yêu cầu ở mức độ đơn giản. Đóng vai tạo ra một môi trường kích thích, mô phỏng thực tế cho phép học sinh tăng cường sự hiểu biết về tình huống hoặc sự kiện đã được tái hiện. - Ưu điểm của phương pháp đóng vai: học sinh rèn luyện thực hành những kĩ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn. Tạo hứng thú cho học sinh, hình thành kĩ năng giao tiếp và có cơ hội bộc lộ cảm xúc. Đồng thời, phương pháp này cũng tạo điều kiện phát triển sức sáng tạo của học sinh. Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên cũng phải lưu ý đến việc khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo hướng tích cực hóa. 3. Cách thức chung: Khi giáo viên lên lớp với tiết đọc – hiểu thì vai trò của sách giáo khoa là không nhỏ. Áp dụng phương pháp đọc – hiểu ở nhà của học sinh và đặt câu hỏi nêu vấn đề của giáo viên là một việc là rất quan trọng. Muốn sách giáo khoa trở thành phương tiện có hiệu quả giúp phát triển trí tuệ và làm phong phú tinh thần cho học sinh thì phải hướng dẫn cho học sinh biết phương pháp đọc. Một thực trạng đáng lo ngại là một số học sinh không đọc tác phẩm (đoạn trích) trước khi học tiết đọc – hiểu. Giáo viên có thể hạn chế điều này bằng một quy định (thay kiểm tra bài cũ bằng việc kiểm tra phần tóm tắt tác phẩm sẽ học đối với những học sinh lười đọc tác phẩm, giáo viên có thể hỏi một vài chi tiết trong tác phẩm để kiểm tra việc đọc bài của học sinh). Dần dần giáo viên phải hình thành cho học sinh: + Kĩ năng, kĩ xảo đọc + Kĩ năng, kĩ xảo trích dẫn + Kĩ năng, kĩ xảo tóm tắt Những kĩ năng, kĩ xảo này được hình thành và hoàn thiện trong quá trình sử dụng sách giáo khoa và các tài liệu ở lớp và ở nhà. Giáo viên cũng cần đề ra những yêu cầu để học sinh thực hiện nghiêm túc, có sự kiểm tra chặt chẽ với những chỉ dẫn rõ ràng, tỉ tỉ, có hệ thống. Trang 14 Sáng kiến kinh nghiệm 2013 Ngô Thị Xuyến - Một trong những bước lên lớp rất quan trọng của giáo viên đó là bước củng cố- dặn dò. Đây là bước cuối cùng trong tiến trình lên lớp vì vậy có một số giáo viên đã bỏ qua hoặc dặn dò qua loa vì hết giờ. Theo tôi, sau khi củng cố kiến thức bài học, giáo viên cần phải dặn dò học sinh chuẩn bị cho tiết học sau bằng hệ thống câu hỏi rõ ràng. Đó là một trong những cách tạo tâm thế để học sinh tiếp cận bài học tốt hơn, tạo hứng thú tìm tòi các tài liệu có liên quan đến bài học mà đặc biệt là đọc tác phẩm. Ví dụ: Chuẩn bị học tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân, giáo viên không chỉ dặn học sinh đọc và tóm tắt tác phẩm mà đặt ra một số câu hỏi: Nhà văn Kim Lân kể với người đọc câu chuyện gì? Từ câu chuyện ấy em hiểu gì về các nhân vật Tràng, thị, cụ Tứ? Qua những nhân vật đó, nhà văn muốn giửi gắm đến người đọc thông điệp gì?... Với tác phẩm chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, thông thường giáo viên có thể yêu cầu: Tìm những đặc trưng cơ bản của văn học Việt Nam thời kì đổi mới, những sáng tác của Nguyễn Minh Châu, đọc kĩ tác phẩm, nghệ sĩ Phùng đã kể với người đọc chuyện gì? Câu chuyện ở tòa án huyện kể về ai? Nhưng khi đã dùng phương pháp nêu vấn đề, tôi đã đổi mới cách hỏi. Ví dụ: tại sao Nguyễn Minh Châu được đánh giá là thuộc một trong số “những người mở đường tinh anh và tài năng” nhất của văn học Việt Nam thời kì đổi mới? Đọc và tóm tắt tác phẩm tác phẩm bằng sơ đồ tư duy. Nếu em là các nhân vật trong truyện, em sẽ hành xử như thế nào trước sự bế tắc (người đàn bà, người đàn ông…) 4. Cách thức cụ thể: (trong đề tài này, tôi không đề cập đến phần tiểu dẫn, nghệ thuật, luyện tập) Trong quá trình giảng dạy, giáo viên đã sử dụng kết hợp các phương pháp dạy học tích cực như: phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, phương pháp đóng vai, phương pháp thuyết trình thông qua làm việc nhóm, phương pháp dùng sơ đồ tư duy…Khi các em đã quen với những phương pháp này, chúng ta có thể áp dụng vào bất kì bài học nào nếu thấy phù hợp. Sau khi giáo viên đã dặn dò học sinh chuẩn bị bài học chu đáo, giáo viên bắt đầu kiểm tra việc chuẩn bị của học sinh (tôi thường giao trách nhiệm này cho lớp trưởng hoặc lớp phó học tập) 4.1. Tìm hiểu phần tiểu dẫn: Phần này đã có trong sách giáo khoa, tôi chỉ hướng dẫn học sinh tìm các ý liên quan: Nêu những nét chung nhất về tác giả ( phong cách sáng tác, sở trường…) 4.2. Đọc – hiểu tác phẩm 4.2.1 Tóm tắt tác phẩm: - Khi giáo viên đã cho học sinh làm quen với cách sử dụng sơ đồ tư duy để hệ thống hóa kiến thức hoặc tóm tắt tác phẩm, giáo viên có thể gọi bất kì một học sinh nào trong lớp lên bảng để tóm tắt tác phẩm chiếc thuyền ngoài xa theo cách riêng của mình nhưng phải đủ và đúng nội dung. Lúc này học sinh vừa phải thuyết trình vừa dùng sơ đồ tư duy. - Giáo viên gọi học sinh khác nhận xét, bổ sung (nếu cần) Trang 15 Sáng kiến kinh nghiệm 2013 Ngô Thị Xuyến Trang 16 Sáng kiến kinh nghiệm 2013 Ngô Thị Xuyến Qua phần tóm tắt, giáo viên yêu cầu học sinh tìm bố cục (đây là yêu cầu tương đối dễ dàng) 4.2.2 Tìm hiểu tác phẩm: 4.2.2.1 Hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng: Sau khi đọc tác phẩm, em có thể đặt tên cho phát hiện thứ nhất của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng là gì? Em hiểu cảnh đó như thế nào? Vì sao nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng lại gọi đó là “cảnh đắt trời cho”? Tâm trạng của nghệ sĩ trước bức tranh ? Giáo viên có thể tạm gọi đó là vẻ đẹp của thiên nhiên, tạo vật. Đẹp như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào...Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thật đơn giản và toàn bích” Một cảnh tượng tuyệt đẹp, hiếm có, một bức họa diệu kì mà thiên nhiên và cuộc sống ban tặng. Tâm hồn người nghệ sĩ thực sự rung động, thăng hoa.Trái tim anh dâng trào những xúc cảm thẩm mĩ, tâm hồn anh như được gột rữa, thanh lọc. Tương tự như trên, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung của hai phát hiện và hòan thành sơ đồ tư duy về hai phát hiện đó. Khi đã tìm hiểu xong hai phát hiện của nghệ sĩ phiếp ảnh Phùng, giáo viên sử dụng một số câu hỏi gợi nhằm giúp học sinh thể hiện suy nghĩ của mình trước những tình huống có thể gặp trong cuộc sống đồng thời đánh giá kết quả quá trình tiếp thu bài học của các em. Câu hỏi 1: Nếu em là nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, em sẽ làm gì khi chứng kiến cảnh tượng của gia đình hàng chài? Tùy vào câu trả lời của học sinh mà giáo viên có cách đánh giá, định hướng đúng đắn, đồng thời giúp học sinh có cách nghĩ và hành động tích cực trong cuộc sống. Từ những câu hỏi, gợi ý của giáo viên, học sinh đã phần nào chiếm lĩnh được các nội dung cơ bàn của bài học. Trong quá trình đó, các em cũng thể hiện những sáng tạo, chủ động để cải biến chính mình về kiến thức, kĩ năng thái độ và cảm xúc. Câu hỏi 2: Thông qua hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng và thông điệp mà nhà văn giửi gắm đến người đọc, em hãy phát biểu về cách đánh giá nhìn nhận về con người và lấy ví dụ thực tế? (có thể gọi học sinh khá, giỏi) Học sinh hoàn thành sơ đồ tư duy về hai phát hiện vừa tiếp cận. 4.2.2.2 Câu chuyện ở tòa án huyện: Giáo viên có thể gọi đây là phát hiện thứ ba của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Khi tìm hiểu phần này, giáo viên có thể gọi học sinh tóm tắt lại (qua sơ đồ tư duy) Đây là phần tôi sử dụng kết hợp nhiều phương pháp- cũng là cơ hội để học sinh thể hiện rõ nhất những suy nghĩ, kĩ năng của mình. Đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn con người là cảm hứng quen thuộc của Nguyễn Minh Châu nhưng khi tiếp cận tác phẩm chiếc thuyền ngoài xa ta vẫn cảm thấy chạnh lòng, nghẹn ngào khó tả như một sự ám ảnh qua hình tượng người đàn bà hàng chài - một hạt ngọc trong lấp láp bùn đất, lam lũ đời thường. Trang 17 Sáng kiến kinh nghiệm 2013 Ngô Thị Xuyến Đến tòa án Huyện, người đọc như nhìn thấy vẻ mặt lo lắng, bối rối của người đàn bà hàng chài. Bà không hề lên án, kể tội chồng mình như cái lẽ thường người khác vẫn làm. Hay bà bị một sự đe dọa nào đó? Được khuyên bỏ chồng, người đàn bà từ chối bằng một hành động khó hiểu “con lạy quý tòa” “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…”. Chính lúc này, người trực tiếp chứng kiến câu chuyện hay người gián tiếp nghe kể như chúng ta đều cảm thấy khó hiểu, một cảm giác bất ngờ, khó chịu và bức xúc. Từ trong lời kể của bà toát lên một nỗi đau, một sự cam chịu, một sự hi sinh vô bờ bến. Từ việc bị đánh thường xuyên, bà còn nói đến “nguyện vọng” xin với lão đưa tôi lên bờ mà đánh đến việc gửi thằng Phác lên ở với ông ngọai vì “sợ thằng bé có thể làm điều gì dại dột với bố nó”….Cả Phùng, Đẩu và người đọc đều ngỡ ngàng hiểu ra mọi chuyện. Thì ra, bà không cam chịu một cách ngờ nghệch, vô lí. Trái lại, bà rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. Trước hết, giáo viên sẽ đặt ra một số câu hỏi gợi: + Nếu em là người đàn bà hàng chài, em sẽ hành xử như thế nào? + Em có đồng tình với cách hành xử của bà không? Vì sao? (làm việc nhóm) Khi chưa đọc kĩ tác phẩm, học sinh đã đưa ra cách li dị chồng, tìm việc khác để mưu sinh… Khi học sinh đã đọc kĩ và hiểu được vấn đề, các em sẽ đồng tình với cách hành xử của người đàn bà. Học sinh cũng giải thích theo cách mà người đàn bà đã thuyết phục nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu (kết hợp giữa câu hỏi tái hiện kiến thức, câu hỏi gợi, phương pháp là việc nhóm học sinh đã nắm được nội dung của bài học). Trang 18 Sáng kiến kinh nghiệm 2013 Ngô Thị Xuyến Trang 19 Sáng kiến kinh nghiệm 2013 Ngô Thị Xuyến Trang 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan